1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các Thành Trì & Kinh thành ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi kienxanh, 18/08/2006.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. roykienvoc

    roykienvoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/08/2004
    Bài viết:
    336
    Đã được thích:
    0
    [​IMG]
    Ngôi đền chính trong quần thể khu di tích Lam Kinh
    [​IMG]
    [​IMG]
    Một căn nhà nằm ngay bên cạnh quần thể di tích Lam Kinh
    [​IMG]
    Cầu vào giếng cổ Lam Sơn
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Cây Đa ngàn năm bên trong khu lăng mộ điện Lam Kinh
    [​IMG]
    [​IMG]
    2 con ........đá nằm bên cạnh lăng mộ vua Lê Thái Tổ
    [​IMG]
    Con đường vô tận vào-ra quần thể di tích Lam Kinh
    [​IMG]
    Còn đây là các hướng dẫn viên du lịch nhí của quần thể di tích Lam Kinh. Trình độ và phong cách của chúng rất chuyên nghiệp
  2. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Tiếp ảnh nhé''
    Cố đô Hoa Lư
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    (Cái cảnh này là từ trên núi Mã Yên nhìn xuống)
  3. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Thành Nhà Bầu

    1. Đôi nét về lịch sử dòng họ Vũ
    Từ tư liệu trong các sách Phương Đình địa chí của Nguyễn Văn Siêu, Đại Việt sử ký toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí, Việt sử thông giám cương mục, có tham khảo Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang của Nguyễn Văn Bân, ta có thể khôi phục lịch sử dòng họ Vũ, các "Chúa Bầu".
    Thời vua Lê Chiêu Tông (1516 - 1522), làng Ba Đông, huyện Gia Phúc (nay là Gia Lộc, tỉnh Hải Hưng) có một người khỏe mạnh, gan dạ tên là Vũ Văn Uyên. Vì can tội giết người, Uyên trốn lên ngụ ở trấn Đại Đồng, tỉnh Tuyên Quang. Bấy giờ người tù trưởng Đại Đồng bị nhân dân oán ghét. Tình hình Đại Đồng rất lộn xộn. Uyên thấy vậy kết đảng, thừa cơ giết chết người tù trưởng, ổn định tình hình địa phương rồi chiếm luôn đất đó, giữ quyền đứng đầu địa phương. Vua Chiêu Tông phong cho làm Đô thống sứ trấn Tuyên Quang, tước Khánh Dương hầu (sách Lịch triều hiển chương loại chí chép là Khánh Bá Hầu)... Uyên đóng quân tại thành Nghị Lang ở xã Lương Sơn, huyện Lục Yên. Binh sĩ của Uyên có tới mấy vạn.
    Cùng lúc này, trong triều có nhiều phe phái, đưa tới việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua vào năm 1527. Vũ Văn Uyên (Bài ký phong thổ tỉnh Tuyên Quang chép là Vũ Công Uyên) giữ vững cả miền Tuyên Quang, Hưng Hóa, cát cứ một phương, hướng về nhà Lê không chịu theo Mạc.
    Khi nghe tin Nguyễn Kim đưa Lê Trang Tông sang Sầm Châu mưu việc trung hưng thì Uyên sai người dâng biểu xin theo. Khi Trang Tông sai Trịnh Duy Liễn sang nhà Minh tố cáo việc họ Mạc cướp ngôi, vua Minh sai tuần phủ Vân Nam điều tra vào năm 1533, thì chính Uyên đã viết thư tố cáo họ Mạc rồi cầm quân đi tiên phong cùng quân Minh đánh Mạc. Nhưng quân Minh lừa dối, lợi dụng cơ hội tiến quân cướp nước ta. Biết rõ điều này, Uyên kịp thời rút bỏ quân Minh và phái người vào Sầm Châu làm hướng đạo dẫn quân nhà lê theo đường thượng đạo hành quân đánh Mạc. Đánh vài trận không được, Uyên rút quân về Đại Đồng. Mạc Phúc Hải đem đại quân ngược sông Hồng tiến đánh Uyên. Lần thứ nhất Uyên tránh, lần sau thì phục quân đánh tan quân Mạc. Từ đó triều Mạc phải chịu cho họ Vũ cát cứ.
    Lê Trung Tông lên ngôi (1549 - 1556), Uyên vâng chiếu đem quân xuống phía tây lấy các phủ Tam Đới, Bắc Hà rồi sai người đi phủ dụ dân Thái Nguyên, Lạng Sơn.
    Lê Anh Tông lên ngôi (1557), Trịnh Kiểm cất quân đánh Mạc, theo đường Thiên Quan ra Hưng Hóa, tới Tuyên Quang. Uyên ra đón. Trịnh Kiểm rất mừng, cho Uyên vẫn giữ Đại Đồng. Vì có nhiều công giúp vua Lê, Uyên được ban quyền thế tập trấn giữ Tuyên Quang.
    Vũ Văn Uyên chết, con là Vũ Văn Mật nối quyền, xưng là Gia quốc công (Lịch triều hiến chương loại chí chép: Vũ Văn Uyên được Trang Tông phong Gia quốc công). Mật lấy Đại Đồng làm trung tâm xây thành đắp lũy, chiêu tập những người lưu vong trở về xây dựng Đại Đồng thành một nơi trù mật, đông vui. Tương truyền thành Cát Tường ở xã Vân Khánh, huyện Lục Yên là thành của Mật. Lê Anh Tông từng sai Mật cùng các tướng trấn nơi khác sửa đường sá từ Thiên Quang tới Hưng Hóa, Tuyên Quang để vận tải lương tiến công quân Mạc.
    Vũ Văn Mật chết, Vũ Công Kỷ nối nghiệp cha, được phong Nhân quốc công. Năm 1573, Trịng Tùng lấy Thái phó Nhân quốc công Vũ công Kỷ làm hữu tướng. Cùng năm đó, Kỷ được sai đem quân bản bộ về giữ Đại Đồng để yên dân địa phương. Kỷ đã từng nhiều lần cầm quân đánh Mạc và lập công to. Năm 1578, Mạc Ngọc Liễn xâm lấn các vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa, Kỷ tung quân đánh, quân Mạc lại thua to và phải rút về.
    Vũ Đức Cung, con Vũ Công Kỷ, tước Hòa Thắng hầu, năm 1593, đem 2.000 quân tới kinh đô quy phục, dâng vàng bạc và đồ quý. Trịnh Tùng thăng làm Bắc quân Đô đốc, Thái bảo Hòa quận công (Phương Đình địa chí ghi là Hòa quốc công), được mang quân hiệu là An Bắc doanh. Cũng năm đó Cung lại xin về trấn Đại Đồng.
    Tới Cung thì lòng trung với nhà Lê đã kém sút. Năm 1594, Cung ngầm hai lòng cùng với Mỹ Thọ hầu (không rõ tên) đi lại quấy nhiễu các huyện đầu nguồn trấn Sơn Tây, đánh phá các huyện Thanh Ba, Hạ Hòa, lại dời dân các huyện Đông Lan, Tây Lan vào ở Đại Đồng. Trịnh Tùng sai Thái úy Nguyễn Hữu Liên đi đánh bắt được Mỹ Thọ hầu. Cung phải đem con em chạy đi Nghĩa Đô. Sau đó Cung phải sai người vào kinh dâng vàng bạc quy phục. Năm 1595, Cung tiến xưng Long Bình vương, sai tướng đánh cướp các động ở châu Bạch Thông (Thái Nguyên), hiếp lấy thuế của mỏ bạc. Trịnh Tùng lại phải sai quân đánh.
    Vì dòng họ Vũ có nhiều công lao nên con của Vũ Đức Cung là Vũ Công Ưứng vẫn được tập phong là Thụy quận công (Đại Việt sử ký toàn thư chép là Thuần quận công).
    Vũ Công Ưứng (các sách chép tên có khác nhau: Đức, Sắc, Huệ, Sưa) được tập phong với Thái phó Tống quận công. Nhưng Ưứng cậy sông núi hiểm trở, xa cách, ngầm liên kết với họ Mạc, tự xưng vương. Triều đình nhà Lê vẫn phải bao dung. Sau vì có việc bất bình với thủ hạ là Ma Phúc Trường, đã lo sợ về kinh tự thú. Dọc đường, Ưứng bị giết.
    Vũ Công Tuấn được lập nối nghiệp cha và được cho làm Đô đốc thiêm sự, tước Khoan quận công, ban cho dân lộc để giữ việc thờ cúng. Vào năm 1672, nhân lúc triều đình sơ hở, Tuấn trốn về Tuyên Quang cướp bóc nhân dân. Tuấn câu kết với dòng dõi họ Mạc, tự xưng Tiểu Giao Cương Vương và chạy sang Vân Nam nhờ nhà Thanh giúp sức. Thổ ty phủ Khai Hóa (Vân Nam) nhân dịp này chiếm đất cướp dân của nước ta. Suốt thời Lê, ta không đòi lại được.
    Năm 1699, triều đình đã bắt được Tuấn và giết đi. Từ đó triều đình đặt chức Lưu thủ ở Tuyên Quang. Dòng dõi "Chúa Bầu" cũng kết thúc vai trò lịch sử của mình.
    (Sưu tầm - Còn tiếp)
  4. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    2. Thành Việt Tĩnh
    a) Vị trí địa lý
    Kế tục sự nghiệp của anh là Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật đã từng dâng biểu xin vua Lê cho được quyền phong tước cho các tướng, một mình riêng cõi sơn hà, quyền thế như một ông vua. Mật xây thành đắp lũy trên gò Bầu. Nhân dân thường gọi là "Chúa Bầu" hoặc "Vua Bầu".
    Thiên Nam bảo lục diễn ca có câu: "Lẫy lừng trong chốn hoang vu. Gồm hai văn vũ, riêng gò Biều vương" (Biều nên gọi là Bầu).
    Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn ghi, quân của Vũ Văn Mật đóng làm 11 doanh: "Huyện Phù Yên có doanh Phù Yên, châu Thu Vật có doanh Yên Thắng, châu Lục Yên có doanh An Bắc, châu Vị Xuyên có các doanh Bình Di, Bình Man, Trần Uy, Yên Biên, và Nam Đương, châu Đại Man có doanh Nghi, châu Bảo Lạc có doanh Bắc Kiệm và Trung Mang". Ơở mỗi doanh đều có xây thành lũy hiểm trở. Những di tích thành lũy có quan hệ với các chúa Bầu rất nhiều trong một vùng rộng lớn suốt từ ngã ba Đoan Hùng ngược lên hết địa phận huyện Lục Yên. Ngày nay nhân dân thường gọi chung những di tích này bằng cái tên "Thành nhà Bầu".
    Thành Việt Tĩnh (cũng gọi là Thành nhà Bầu) là một tòa thành lớn của họ Vũ.
    Từ trung tâm Phố Cát xuôi về phía Thác Bà có con đường đất lớn bám sát dòng sông Chảy. Tới địa phận thôn Cẩm La, lại có con đường rẽ ra bờ sông. Đây cũng là con đường đi ra thành Việt Tĩnh.
    Thành xây dựng ngay ven bờ sông Chảy, đối diện với ngọn núi Cao Biền thuộc xã Vũ Linh, châu Thu Vật phía bên kia sông.
    Một nửa phần thành nằm trên gò núi, nửa phần khác nằm trên vạt đất bằng. Do vậy tường thành phải thuận theo địa hình mà đắp. Thoáng nhìn qua, thành có hình thù lạ, giống như một chiếc vai cày, nhưng nghiên cứu kỹ thì mọi quy luật xây thành đương thời đều đã được áp dụng nghiêm túc.
    b) Cấu trúc
    Tường thành xung quanh còn gần như đủ cả, trừ một chỗ bị bom Mỹ ném trúng, vài chỗ sụt lở và hai chỗ bị cắt đứt để làm đường ôtô đi qua.
    Do phải thuận tho địa hình mà đắp tường, cho nên khó phân biệt được đâu là tường đông, tây, nam hoặc bắc.
    Chu vi toàn bộ tường thành đo được 1.385 mét. Quan sát nơi còn nguyên vẹn, tường thành cao 2,30 mét, mặt tường rộng 3 mét, chân tường rộng 9 mét. Tường đều được đắp bằng đất, trừ những cửa có xây ốp vách bằng gạch hoặc đá tảng. Nếu chỉ căn cứ vào kích thước mà xét thì tường thành Việt Tĩnh không kiên cố lắm.
    Bốn mặt tường đều có hào.
    Phần tường phía tây bắc được đắp lượn trên gò cao. Hào thành được đào ở phía ngoài, sát gần ngay chân thành. Hào rộng chừng 10 mét, có thể dốc để đổ nước ra sông Chảy. Như vậy có thể kết luận được rằng đoạn hào này quanh năm không có nước, kể cả mùa mưa.
    Phần tường phía tây nam, nam và đông nam được đắp trên bãi phẳng. Hào thành ở nơi này lại đào ở phía trong tường thành, và cũng đào sát ngay chân tường thành. Hiện tượng kiến trúc hiếm thấy này thật đáng được suy nghĩ.
    Đào hào phía trong thành liệu phát huy được tác dụng gì cho việc phòng thủ? Hào đào sát ngay chân tường thành liệu có tránh khỏi việc ảnh hưởng tới sự sụt lún của tường?
    Cho tới nay, dù đã tham khảo nhiều tài liệu về thành trong nước cũng như nước ngoài, chúng tôi vẫn chưa tìm được lời giải đáp thỏa đáng cho hiện tượng kiến trúc này.
    Mặt bắc, dòng sông Chảy vừa rộng, vừa sâu, vừa chảy xiết, được lợi dụng làm hào ngoài tự nhiên.
    Cần phải nói thêm rằng, sông Chảy không những chỉ là hào ngoài thiên nhiên của tòa thành mà còn là con đường giao thông quan trọng giữa thành Việt Tĩnh và nhiều tòa thành khác cũng của các chúa Bầu. Theo truyền thuyết địa phương, sông Chảy còn là nơi tập thủy quân của họ Vũ.
    Thành mở bốn cửa Bắc, Nam, Tây và Đông. Cả bốn cửa thành đều không mở ở giữa bất cớ đoạn tường nào. Quãng cách giữa các cửa thành cũng không đều nhau, khiến ta có thể nghĩ tới sự tùy tiện của người xây dựng. Thực ra không phải như vậy. Nếu đặt một địa bàn trên bình đồ của thành, ta sẽ thấy bốn cửa mở rất đúng hướng bắc, nam, tây, đông.
    Cửa Đông là cửa Tiền, mở xuống sông Chảy, cửa này được đắp thành bao vòng lồi ra ngoài để làm tường chắn cửa và mở một cửa nách ở bên cạnh. Muốn ra vào người ta phải đi theo đường chữ chi mà không thể trực tiếp vào thẳng ngay trong thành.
    Cửa Nam mở đúng hướng nam. Phía này hào thành đào phía trong tường thành. Ơở nơi cửa, hào không đào thông mà chừa một lối để ra vào.
    Cửa Nam cũng vậy, hào không đào thông. Ơở cửa này vẫn còn dấu vết những tảng đá đẽo góc cạnh vuông vức lát suốt lối đi. Trên hai vách cửa cũng còn mấy viên đá kè. Chắc xưa kia vách cửa phải được kè tề chỉnh.
    Cửa Bắc mở gần góc đông bắc. Phía cửa này tường thành cao, hào rất sâu, thuận tiện cho việc xuống sông. Cũng có thể coi nó như một cửa nách của mặt Tiền.
    Trên cả bốn cửa thành không có dấu vết gì chứng tỏ xưa kia có làm lầu cửa.
    c) Một vài di tích có liên quan
    Trên mặt tường thành còn di tích của bảy lò nung gạch và gốm, phân bố ở mặt bắc và tây bắc, nói cách khác là phân bố ở phía mà tường thành được đắp trên gò cao.
    Lò nung đều nhỏ, hình tròn, đường kính chừng 1 mét. Riêng lò nung gạch có hình chữ nhật dài hơn 1 mét, rộng 1 mét.
    Trong lòng các lò và xung quanh các lò còn nhiều di tích phế phẩm và cả chính phẩm. Những di vật này cho hay lò gạch chủ yếu nung loại gạch vồ điển hình của thời Lê; lò gốm chủ yếu nung những lon sành nông, sâu các cỡ và cũng kà sản phẩm quen thuộc của thời này.
    Một suy nghĩ thật khéo léo của các tướng lĩnh đương thời rất đáng được dùng đôi dòng để bàn tới. Cho làm lò nung ngay trên mặt tường thành, thậm chí ngay chính giữa mặt tường thành bao nơi cửa Tiền, những người chỉ huy khi đó đã khéo kết hợp việc canh phòng và sản xuất tự cung cấp cho quân đội.
    Chúng ta đã gặp bếp đun và nung những mũi chông củ ấu trên mặt tường thành Luy Lâu (Hà Bắc) chứng minh những công việc nấu nướng, nung vũ khí kết hợp với việc canh gác của người lính ngay trên mặt tường thành [1].
    Lần thứ hai, và cũng chỉ mới lần thứ hai, chúng ta gặp hiện tượng kết hợp việc canh gác với sản xuất trên mặt tường thành tại thành Việt Tĩnh.
    Bằng những chứng tích độc đáo này, những vòng tường thành bình thường bỗng trở nên sống động. Người ta không còn thấy khó hiểu vì sao nước ta có thể dễ dàng xây dựng một đội quân lớn mạnh với một ngân sách ít ỏi.
    Nói chung, hệ thống thành nhà Mạc cũng như nhà Bầu được xây dựng nên chủ yếu là để chống với các lực lượng phong kiến đối lập khác trong nước chứ không phải để chống ngoại xâm.

    (1) Đỗ Văn Ninh: Những mũi chông củ ấu bằng đất nung. Nghiên cứu Lịch sử, số 150, tháng 5 - 6 năm 1973, tr. 61.
    (Sưu tầm)
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 13:48 ngày 14/10/2006
  5. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Có thêm được thông tin này về Thành Nhà Bầu
    Quần thể di tích đền Đại Cại
    Quần thể di tích đền Đại Cại thuộc xã Tân Lĩnh, bao gồm: đền Đại Cại, đình Bến Lăn, chùa Tháp đất nung Hắc Y và thành nhà Bầu. Bên tả là sông Chảy, bên hữu là núi Vua áo đen hùng vĩ.
    Tương truyền rằng vào thời vua Hùng Vương thứ 18 có một vị thần rắn hiện hình người mặc y phục đen giúp nhà vua đánh giặc. Nay, nhân dân lập miếu thờ dưới gốc cây sui cổ thụ trong khu vực đền Đại Cại. Du khách đứng dưới đền, ngước mắt nhìn núi Vua áo đen sừng sững với hình tượng của vị thần linh in trên vách đá lưng chừng núi. Phía sau đó là một thung sâu với nhiều vách đá cao thấp, có bàn cờ tiên, ao trời, nhiều động nhỏ và vườn cây ăn quả? cùng với những loại gỗ quý hiếm như: lý, đinh, sến ?và một số động vật như linh dương, khỉ? Có thể nói đây là một kiệt tác của tạo hoá, một kỳ quan hiếm có của thiên nhiên.
    [​IMG]
    Theo : http://www.stmdlyenbai.gov.vn/danhthang_chitiet.php?id=29
    Thế này thì phải làm tiếp 1 chuyến lên Yên Bái để qua Thành Nhà Bầu, Hồ Thác Bà, Suối Giàng... và nhiều danh lam khác của Yên bái mất rồi!!!
  6. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Và Thành Nhà Bầu ở Lào Cai ???
    Được thành lập vào năm 1965, nhưng từ trong lịch sử xa xưa, Bảo Yên là mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước. Truyền thống đó gắn liền với các địa danh như thành cổ Nghị Lang, đền Bảo Hà, đồn Phố Ràng, trở thành những di tích lịch sử văn hoá, là điểm tham quan du lịch nổi tiếng được cả nước biết đến. Thành cổ Nghị Lang còn được gọi là thành Nhà Bầu, của các chúa Bầu (Vũ Văn Uyên, Vũ Văn Mật và con cháu) được xây dựng từ khoảng thế kỷ 16 ?" 17. Thành cổ Nghị Lang gắn liền với truyền thống giữ nước của cha ông ta xưa chống quân Mạc. Hiện nay khu vực di tích thành Nghị Lang còn phát hiện được nhiều di tích, hiện vật có giá trị.
    Theo : http://www.laocai.gov.vn/home/view.asp?id=102&ID_tin=7364
    Đánh lẻ () một quả lên Lào Cai , đi Phố Ràng thăm thành Nghị Lang này rồi lên Bắc Hà, Simacai và sang Mường Khương nhỉ???

  7. sakura

    sakura Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    11/04/2001
    Bài viết:
    1.660
    Đã được thích:
    0
    hic hic.. đọc mãi chỉ thấy mấy cái thành ở phía Bắc.
    Hồi trước học lớp bồi dưỡng kiến thức HDV: ông Lê Văn Lan có cái bài giảng về: Hành trình kinh đô cổ VN hay lắm.
    Hôm truớc có ghi lại nhưng mà sơ sài quá. Hy vọng có bạn nào cung cấp thêm thông tin về các kinh đô cổ ở phía miền Trung và miền Nam.
    Thống nhất rằng các nền văn hoá phía miền Trung và miền Nam trước kia là các quốc gia riêng rẽ, khác hẳn của người Kinh nhưng bây giờ thuộc về 1 quốc gia, nên công nhận các thủ đô của họ cũng là "kinh đô cổ Việt Nam".
    Ví dụ: thành Phượng Hoàng Trung Đô, Vijaia, thủ đô của Chân Lạp, Thuỷ Chân Lạp, người Chăm, Khơ me.....
  8. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Bình tĩnh đi bạn. Từ từ rồi sẽ đến nơi mà!!!
    Mình mở topic này cũng mong muốn được tìm hiểu thêm về chủ đề này và cũng để chúng ta cùng chia sẻ thông tin. Những thông tin của bạn , dù sơ sài nhưng mình hy vọng là sẽ rất có ích. Ngại ngần gì mà không post lên cho cả nhà cùng được biết? Bạn post lên đi, post những thông tin mà bạn đang có ấy
  9. APACHAI

    APACHAI Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/10/2006
    Bài viết:
    38
    Đã được thích:
    0
    Các bác ơi , em nghe nói có cái thành đá Tà Kơn ở Bình định hay lắm mà chưa có dịp đi .
    Ở đây có ai biết không ạ ???
    Em cần thông tin về nó để làm 1 chuyến .
    Xin đa tạ !!!
  10. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Có phải là Thành này không bạn nhỉ???
    Thám hiểm thành Tà-Kơn huyền thoại
    Lên Tà-Kơn (xã Vĩnh Sơn, huyện Vĩnh Thạnh) để không chỉ được thấy thành đá Tà-Kơn. Đây: xứ sở của những huyền thoại, của những bản hơmoan hát thâu đêm, nơi ngọn lửa Tà Lốc - Tà Lek vẫn âm ỉ cháy trong mỗi tấm lòng. Và đây nữa: vùng đất của những người vùng cao hồn hậu, chất phác?
    * Lên ngàn

    Làng K8 (tên cũ của Kon-blo) nằm cách trung tâm xã Vĩnh Sơn chừng vài cây số. Ở đây, chúng tôi may mắn tìm được hai người dẫn đường: Đinh Nhíp và Đinh Grao và làm cuộc hành trình xuyên rừng. Đinh Grao sinh năm 1976, lớn hơn Nhíp hai tuổi, nhưng bộ dạng nhỏ thó, lại bị tật một bên chân từ nhỏ. Grao đi bằng một bàn chân, chân kia được thay bằng chiếc gậy chống. Ấy vậy mà anh ta cứ nhoay nhoáy, nhanh như sóc.
    Trời lâm râm mưa. Những con dốc đất bazan trơn như mỡ. Chúng tôi lò dò từng bước một. Băng qua cánh rừng cổ thụ, sương bay lòa xòa trước mặt. Cái thâm u của những gốc cây tầm người ôm, những rễ cây ngoằn ngoèo cuộn ngang lối mòn băng rừng, cái lạnh váng vất theo từng đợt, từng đợt sương mù thổi qua. Giữa trưa mà như trời chiều, làm tôi thấy hơi ớn lạnh. Hành trình ngược dốc đã thấm mệt, chúng tôi chỉ còn biết lầm lũi nối nhau đi, như đếm từng bước chân. Như để động viên, Grao quay lại: "Đã đến làng K4 rồi, chỉ băng qua cánh rừng này nữa thôi".
    Cuối cùng thì thành đá đã sừng sững hiện ra trước mắt chúng tôi. Phải dò dẫm, len lỏi qua từng phiến đá trơn tuột, bám tay vào những dây leo, đứng được dưới chân thành và ngước nhìn lên mới thấy hết sự hùng vĩ. Những phiến đá ngang mặt bàn, hình lục lăng, hình trụ chữ nhật, tưởng như đã được ai đó gia công đẽo gọt, từng phiến đều chằn chặn, màu trắng đã lám xám rêu. Cứ thế, đá xếp thành bức thành cao hơn chục mét, dài hàng trăm mét. Thành nằm ngay trên một bờ vực, có thể tưởng tượng là dấu tích một hào sâu bảo vệ thành? Một số đá đã đổ xuống, len giữa những cây rừng, ngổn ngang trên mặt đất, càng tạo thêm vẻ kỳ bí. Một số khác xếp phía ngoài, thành những cột trụ lớn. Nhiều tảng đá lẻ giống nhau một cách kỳ lạ và khó có thể nói rằng đây là tạo vật thiên nhiên. Một số người cho rằng đây là dấu tích của một nền văn minh cổ nào đó?
    [​IMG]
    * Ẩn chứa những huyền thoại
    Trừ một tiếng đồng hồ chụp ảnh và nghỉ dưới chân thành đá, tính ra, cả đi lẫn về, chúng tôi mất hơn ba tiếng đồng hồ đi bộ. Vắt cắn máu chảy đẫm tất giày. Nhưng câu chuyện về thành Tà-Kơn vẫn neo chúng tôi lại bên bếp lửa của làng Kon-blo. Bok Y Thuế, già làng, vừa kể chuyện, vừa nhẩn nha bập điếu thuốc trên môi, còn anh Nha làm phiên dịch thì cứ toát mồ hôi để tìm cho ra từ mà dịch. Già kể, đại ý: "Xưa, xưa lắm, ở làng Kon-blo này có nàng Hơ-bia. Hẳn trời tạo ra thì nàng mới đẹp được như thế. Một vị thần núi rất muốn lấy nàng. Nhưng thần có vẻ ngoài xấu xí, nàng Hơ-bia muốn thử tài, yêu cầu nếu thần vượt qua được ba cuộc thử tài của nàng thì sẽ chấp nhận lấy thần. Lần thử thứ nhất là lấy nước đổ vào gùi, làm sao cho nước đừng chảy; thứ hai là lấy vỏ chuối đem trồng cho mọc thành cây và thứ ba là lấy con gà chặt đầu rồi làm khô mà gà vẫn sống. Cả ba lần thần núi đều vượt qua được để lấy được nàng Hơ-bia. Và hai người đã cùng nhau xây nên thành Tà-Kơn này. Mà cũng chỉ có cái rựa của hai người yêu nhau mới cắt được những phiến đá như thế". Bàn tay người thiếu nữ Bana đang tiếp từng vùa nước rượu cần thoáng dừng lại. Cũng như cái lặng yên của đám trai tráng trong làng nãy giờ đang rầm rì mời nhau uống rượu cần. Câu chuyện hẳn làm họ để tâm lắng nghe.
    Và sau này, qua nhà sưu tầm văn hóa dân gian Hà Giao, tôi được biết thêm một truyền thuyết khác về thành Tà-Kơn. Khác câu chuyện do Bok Y Thuế kể, câu chuyện này xoay quanh cuộc đấu tranh của anh em Đrum, Đrăm với quân Tà-pông-kang, chỉ giống nhau ở phần thi tài. Hóa ra, thành Tà-Kơn không chỉ ẩn chứa một huyền thoại. Những bí ẩn của thành đá Tà-Kơn đã được người Bana mã hóa như vậy.
    * Đánh thức Tà-Kơn
    Bí thư Huyện ủy Vĩnh Thạnh Nguyễn Thanh Tùng có vẻ tâm đắc với vẻ đẹp và sự quyến rũ của thành Tà-Kơn lạ. Ông kể, rằng ông cũng đã từng lên chiêm ngưỡng Tà-Kơn và mơ được đánh thức thành đá này như một điểm đến hấp dẫn trong tour du lịch thượng nguồn. Để minh chứng cho triển vọng phát triển du lịch của huyện nhà, ông dẫn chúng tôi đi suối nước nóng, rồi men theo con đường mới. Sương mờ trải lưng chừng núi, nhưng từ một điểm cao trên tuyến đường, chúng tôi vẫn có thể chiêm ngưỡng toàn cảnh trung tâm huyện lỵ với dòng sông Kôn uốn khúc, đẹp như một bức tranh lụa.
    Tôi thử hình dung nay mai, lên Vĩnh Thạnh, ghé suối nước nóng, ta lại lên Tà-Kơn bằng con đường mới. Phía dưới là mây trời, gió núi và vẻ đẹp của vùng lòng hồ Định Bình, hồ A Vĩnh Sơn. Không khí thoáng đãng, mát mẻ của Vĩnh Sơn, vẻ đẹp nao lòng của những thác nước, cái hồn hậu của những con người vùng cao, sự ấm nồng của ché rượu cần, cái thấm nghĩa đậm tình của bát cơm lúa rẫy, rồi vườn cam Nguyễn Huệ - di tích cấp quốc gia đang được huyện lập dự án trùng tu lại? bấy nhiêu tưởng cũng đã làm nên một sức hút. Chưa nói đến vẻ hấp dẫn kỳ bí của thành Tà-Kơn cùng một chuyến thám hiểm băng rừng.

    (Báo Bình Định)

Chia sẻ trang này