1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các Thành Trì & Kinh thành ở Việt Nam

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi kienxanh, 18/08/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Kinh thành Huế

    Cướp được quyền thống trị cả nước, Gia Long đóng đô ở Huế với lý do cho rằng dân tình Thăng Long kiêu bạc, ở Phú Xuân nhân số đông đúc, phong thục thuần lương, các thánh (tức chúa Nguyễn) đã đóng đô ở đây; Phú Xuân ở giữa nước, con đường đi về triều cống khắp nước cân nhau; hình thế địa lý phù hợp với quan niệm phong thủy, có núi trước làm án, có sông bao quanh, có đảo ở hai bên tả hữu v.v...; địa thế quân sự vững vàng, có biển trước núi sau, thuận cho cả lúc bình thời cũng như khi hữu sự.
    Kinh thành Huế được Gia Long cho xây đắp từ năm đầu lên ngôi (1802). Năm 1805 cho xây dựng vòng thành lớn ngoài cùng. Công việc xây dựng được tiến hành liên tục suốt mấy đời vua từ Gia Long qua Minh Mạng trong gần 40 năm trời.
    Thành Huế được xây dựng gồm ba vòng thành bao bọc lẫn nhau. Riêng vòng thành ngoài, phần kiến trúc quân sự quan trọng nhất, được xây theo kiểu thành Vôbăng, với một đồ án hình gần vuông, mỗi cạnh chừng 2.235 mét (chu vi gần 9.000 mét).
    Ngoài bốn pháo đài góc ra, mỗi mặt tường thành có xây năm pháo đài nhô ra ngoài. Những pháo đài có lớn, có nhỏ và đều có trổ các pháo nhãn để bắn. Căn cứ tổng số pháo nhãn, ta có thể biết rằng cần phải có 386 khẩu đại bác mới đủ.
    Nếu kể thêm 18 pháo nhãn ở quãng cửa vào và cửa ra của con kênh Ngự Hà chảy qua kinh thành thì số pháo trang bị cho việc phòng thủ tòa thành ngoài này lên tới 404 khẩu.
    Tường thành xây cao 6,60 mét, dày trung bình 21 mét và được xây ốp toàn bộ bằng gạch.
    Thành mở tất cả 13 cửa. Có 10 cửa xây lầu cửa bên trên (4 cửa mặt Tiền, 2 cửa mặt Tả, 2 cửa mặt Hữu và 2 cửa mặt Hậu). Còn có 3 cửa (một cửa thông sang thành Mang Cá bên cạnh, một cửa Đông thành thủy quan và một cửa Tây thành thủy quan, nơi con kênh Ngự Hà chảy vào và chảy ra). Đài Cột Cờ cũng là một công trình rất lớn, cao, đồng thời cũng lại là một đài quan sát, một trận địa pháo gồm 23 khẩu. Công trình này xây ba tầng, cao 17,50 mét. Trên cùng, chính giữa là cột cờ bằng gỗ cao 29,52 mét.
    Phía ngoài tường thành là hệ thống công sự chướng ngại gần sông Hộ Thành, hào ngoài. Sông Hộ Thành là con sông đào bao bọc ba mặt trái, phải và sau thành rồi đổ ra sông Hương rộng tới 400 mét, chảy ngang mặt trước thành. Sông Hộ Thành rộng không đều, nơi hẹp nhất là 13,50 mét, nơi rộng nhất là 66 mét. Sông Hộ Thành rõ ràng là một chướng ngại rất lớn và rất bảo đảm với một chu vi ước chừng 11 km [1].
    Qua sông Hộ Thành, người ta còn phải vượt một đường hào ngoài (glacis, có người gọi là thành giai), rộng không đều nhau (nơi rộng nhất 160 mét, nơi hẹp nhất 100 mét).
    Một bức tường cao khoảng 1,30 mét chạy song song với mép ngoài của hào là một lần lũy vây bọc quanh thành để cho lính có thể đứng bắn chống trả kẻ thù khi đã vượt qua được sông Hộ Thành.
    Hào ngoài là vành đai chướng ngại thứ hai rộng từ 40 đến 60 mét, sâu 4 mét, mực nước sâu trung bình là 1,50 mét. Bờ hào được xây kè đá chống sụt lở.
    Vượt được hào ngoài rồi, kẻ thù còn phải vượt một đoạn đường chân thành (berme) rộng chừng 8,50 mét mới tới được chân tường thành để tính chuyện trèo qua bức tường rất kiên cố được bố trí tới 404 khẩu đại bác.
    Một điều riêng có ở thành Huế là một thành nhỏ mang tên Trấn Bình đài, tên thường gọi là Mang Cá, được xây ngay ở góc đông bắc của kinh thành, có cửa thông với kinh thành. Thành Mang Cá xây hình lục giác, chu vi gần 1.000 mét, tường cao từ 5 đến 5,80 mét. Cũng có đường chân thành, hào ngoài, đường ngoài hào, sông Hộ Thành v.v..., một hệ thống vành đai chướng ngại bảo vệ như ở kinh thành.
    Mang Cá vốn làm chức năng kiểm soát thương cảng quan trọng Bao Vinh, một khúc ngoặt của sông Hương, thời Gia Long. Thực chất thì Mang Cá chỉ là một pháo đài lớn, bên trong không có đền đài, cung điện hay một công trình văn hóa nào.
    Chúng tôi chỉ chọn lựa vài điểm cốt chứng minh rằng triều Nguyễn đã bỏ công xây dựng cho vương triều mình một kinh thành vững chắc, to lớn vượt tất cả mọi triều đại trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam [2].

    (1) Đức Senhô (Michel Đức Chaigneau) gọi con sông này là Rivière circulaire. Aođăng đuy Pích (Ardant du Picq) gọi là Canal circulaire. Người Pháp còn phân chia gọi từng mặt kênh với những tên Canal de l''Est, Canal de l''Ouest, Canal du Nord-Ouest.
    (2) Không những vậy, cũng cần trích lời bình luận của Lơ Roi (Le Roy), thuyền trưởng tàu Hăng-ri (Henri) đã đến Huế năm 1819: "Kinh thành Huế nhất định là cái pháo đài đẹp nhất và đều đặn ở Âấn Độ - China, kể cả pháo đài Uyliêm (William) ở Calcutta và Xanh Gioócgiơ (Saint Georges) ở Madras, hai pháo đài này do người Anh làm". Trích theo Thái Văn Kiểm: Cố đô Huế, Sài Gòn, 1960, tr. 23.

  2. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    THÀNH ĐẠI LA
    Thành Ðại La là một kiến trúc vĩ đại, có đầu tiên ở trên đất này. La thành không phải là một tên riêng, chỉ có nghĩa là một bức thành lớn bao quanh một bức thành nhỏ ở bên trong. La thành có từ đời nhà Ðường bên Trung Quốc, những căn cứ của những đất đã chiếm được đều đắp hai lần thành, thành ngoài gọi là La thành.
    Suốt cả thời kỳ Bắc thuộc (111 trước Công lịch đến 939 sau Công lịch), bọn vua quan phong kiến Trung Quốc sang xâm lược nước ta, đều đóng căn cứ địa ở mấy nơi bên tả ngạn sông Hồng, như Liên Lâu (Tiên Du, Bắc Ninh), rồi đến Long Biên (phía Bắc sông Ðuống). Ðến đời Ðường, thường có quân Chà Và ở ngoài bể tràn vào và quân Nam Chiếu ở mạn Vân Nam tràn xuống, kéo đến vây đánh phủ Ðô hộ; hơn nữa nhân dân không chịu nổi sự áp bức bóc lột của bọn xâm lược, cũng thường nổi lên chống đánh. Năm 824, Ðô hộ là Lý Nguyên Gia, tin theo thuyết phong thuỷ, cho rằng trước cửa thành Long Biên có dòng nước chảy ngược, nên nhân dân hay nổi lên "làm phản". Lý Nguyên Gia bèn rời phủ trị sang địa phận huyện Tống Bình, gần sông Tô Lịch. Lúc đầu chỉ xây một toà thành nhỏ, sau đó nhận thấy nơi ấy có địa thế hiểm yếu, liền lập phủ trị vĩnh viễn ở đó, đắp rộng cao thêm thành, làm cho dân ta hồi đó phải phục dịch rất khổ sở.
    Ðến năm 866, nhà Ðường đổi An Nam đô hộ phủ làm Tĩnh Hải quân, sai Cao Biền sang làm Tiết độ sứ. Cao Biền là một tướng có nhiều tài lược và mưu trí, đã dùng nhiều thủ đoạn để loè nạt dân chúng, như việc phá những thác ngầm ở dọc sông: đêm đến, hắn cho đục đá đặt thuốc nổ, làm nổ tung những thác ấy, rồi nói phao lên là vì trời giúp vua Ðường sai thiên lôi xuống phá thác, làm cho nhân dân sợ hãi. Muốn củng cố thêm căn cứ thống trị, Cao Biền cho đắp lại thành Ðại La, bốn mặt dài hơn 1.982 trượng linh 5 thước, cao 2 trượng linh 6 thước. Muốn ngăn ngừa không cho nước sông Tô, sông Hồng tràn vào phủ trị, Cao Biền lại cho đắp một đường đê bao bọc ở ngoại thành, dài hơn 2.125 trượng linh 8 thước, cao 1 trượng, dày 2 trượng, trong thành cho nhân dân làm nhà ở hơn bốn chục vạn nóc. Ðường đê bao ngoài thành gọi là Ðại La thành, cũng gọi là Ngoại La thành.
    Với Cao Biền, ngày nay ở dân gian ta vẫn còn những truyền thuyết hoang đường, như nói Cao Biền thấy ở đất Giao Châu ta có nhiều kiểu đất đế vương, nên thường cưỡi diều giấy bay đi xem xét, rồi dùng phép thuật phá những nơi có hình thế sơn thuỷ đẹp, và chặn những đất có long mạch bằng cách đào những giếng khơi rất sâu. Vì vậy, ở nông thôn, làng nào có nhiều giếng khơi, người ta vẫn nói đó là giếng do Cao Biền đào ra. Lại như, mỗi khi thấy người nào yếu sức, tay chân cử động run rẩy, thường vẫn nói câu đã gần thành tục ngữ: "Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non". Người ta giải thích là Cao Biền có phép thuật "tản đậu thành binh" nghĩa là mỗi khi cần có quân lính đi đánh dẹp, không cần mộ người chỉ cần rắc đậu vào một bãi đất, rồi ủ kín, đọc một trăm lần thần chú rồi mở ra, mỗi hạt đậu hoá thành một người lính. Có lần Cao Biền đọc thần chú còn thiếu, khi mở ra những hạt đậu đã thành lính nhưng đều còn non chưa đủ sức, đứng lên không vững. Lại còn chuyện nói Cao Biền đắp La thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở; một đêm Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay, rồi bảo cho Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp thành. Vì vậy, sau khi đắp thành xong, Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Ðền thờ ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm.
    Từ năm 939, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc, nước ta bắt đầu độc lập tự chủ, nhưng đời Ngô Vương Quyền lại đóng đô ở Cổ Loa, hai đời Ðinh, Lê thì đóng đô ở Hoa Lư, thành Ðại La trở nên hoang phế. Mãi đến năm 1010, Lý Thái Tổ mới dời kinh đô đến đó, nhưng lại đắp một thành khác nhỏ hẹp hơn gọi là thành Thăng Long. Nền cũ của thành Ðại La, phần lớn không còn lại dấu vết, chỉ còn nhận thấy những khoảng từ Thanh Nhàn (giáp Thanh Trì) đi lên cửa ô Cầu Dền sang ô Chợ Dưà, rồi thẳng đến ô Cầu Giấy, ngược lên đến làng Bưởi. Năm kia, ta đã cho theo dấu cũ ấy, sửa chữa lại nhiều nơi, đắp cao lên làm thành thân đê, đề phòng nạn lụt. Còn phần đê La Thành về phía sông Hồng, từ đời Lý đã nhập vào với đê Cơ Xá, và từ đời Trần đã nhập vào với đê Quai Vạc, chuyên ngăn nước sông Hồng.
    Ðê Ðại La thành này khi còn độc lực giữ việc chống nước lụt cho nội thành, thường bị sạt lở. Năm 1243, đời vua Thái Tôn nhà Trần, nước sông Hồng lên to quá, phá vỡ một đoạn thân thành, làm cho nội thành bị ngập lụt. Cũng từ đó, các đời vua Trần mới nghĩ đến việc đắp đê quai vạc suốt từ đầu nguồn trở xuống cho đến miền bể, dọc hai bên bờ sông Hồng.
    Bài thơ "Ðiếu cổ La thành" của nhà thơ Tế Xuyên, đời cuối Lê đã mai mỉa dã tâm xâm lược của Cao Biền, tốn công, nhọc lòng đắp nên thành ấy, kết cục bọn phong kién thống trị Trung Quốc đều phải diệt vong. Sau chiến công trên sông Bạch Ðằng năm 939, nước ta hoàn toàn tự chủ. Bài thơ đại ý như sau:
    "Ðại La thành tốn công xây,
    Cao Biền tưởng chiếm đất này dài lâu.
    Nào ngờ mấy chục năm sau,
    Vùi quân xâm lược dòng sâu Bạch Ðằng"
    Theo Doãn Kế Thiện (Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội)
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 12:54 ngày 20/10/2006
  3. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Thành trấn

    Vào buổi đầu, Gia Long vẫn phải duy trì hai khu vực hành chính lớn là Bắc Thành (Bắc Bộ) và Gia Định Thành (Nam Bộ), đặt chức Tổng trấn, Hiệp Tổng trấn và Phó Tổng trấn để cai quản. Trung tâm hành chính của hai đơn vị này đồng thời cũng là một căn cứ quân sự lớn có xây thành bảo vệ.
    a) Thành Gia Định
    Vào tháng 2 năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu bắt đầu đặt phủ Gia Định.
    Tháng 3 năm Canh Tuất (1790), Gia Long cho đắp một thành đất Gia Định, huy động quân dân khởi đắp, hẹn cho 10 ngày đắp xong.
    Thành đắp trên gò cao ở thôn Tân Nhai, tổng Bình Dương, theo hình bát quái, mở tám cửa, ở giữa là cung điện, bên tả dựng nhà Thái Miếu, phía sau miếu là kho tàng, bên hữu đặt Cục chế tạo, chung quanh là nhà tranh cho quân túc vệ ở. Giữa sân dựng kỳ đài ba tầng, trên làm tòa vọng đẩu bát giác, ban ngày kéo cờ, ban đêm thì kéo đèn làm hiệu lệnh cho các quân. Thành xây xong gọi tên là Kinh thành Gia Định... "Tám cửa thành đều xây bằng đá ong, phía nam là cửa Càn Nguyên và cửa Ly Minh, phía bắc là cửa Khôn Hậu và cửa Khảm Hiểm, phía đông là cửa Chấn Hanh và cửa Cấn Chỉ, phía tây là cửa Tốn Thuận và cửa Đoài Duyệt. Ngang dọc có 8 đường, đông sang tây dài 131 trượng 2 thước (52,80 mét), nam sang bắc cũng thế, cao 13 thước (5,20 mét), chân dày 7 trượng 5 thước (30 mét). Phía ngoài thành là hào, hào rộng 10 trượng 5 thước (42 mét), sâu 14 thước (5,60 mét), có cầu treo bắc ngang. Chu vi ngoài thành là 794 trượng (3.136 mét). Ơở ngoài là đường phố, chợ búa, dọc ngang la liệt đều có thứ tự. Hai bên đường quan đều trồng cây thích nghi, gọi là đường Thiên Lý" [1].
    Thành Gia Định đã đóng vai trò một kinh thành. Việc tu sửa bồi bổ cũng được tiến hành chu đáo. Tháng 12 cùng năm tiến hành sửa đắp, mở đường quan ở bốn mặt thành. Tháng 11 năm Giáp Dần (179) lại sửa đắp quách ngoài bốn mặt thành. Tháng 11 nhuận bắt đầu đặt chức Giám thành sử và Phó Giám thành sử để quản lý các quan tuần thành.
    Tháng 3 năm Gia Long thứ nhất (1802), đổi phủ Gia Định làm trấn Gia Định.
    Tháng Giêng năm Gia Long thứ 7 (1808), đổi trấn Gia Định làm thành Gia Định; tháng 9 năm đó đặt chức Tổng trấn, Hiệp Tổng trấn thành Gia Định, quản lãnh các trấn Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên và ở xa lãnh trấn Bình Thuận.
    Năm Gia Long thứ 8 (1809), Tổng trấn Gia Định còn dựng vọng cung, hành cung, lầu chuông, lầu trống, sông đường, xây nhà quân, sửa tường thành v.v... Thành Gia Định ngày càng đẹp và vững hơn.
    Thời Minh Mạng có đổi tên tám cửa thành.
    Tổng trấn Lê Văn Duyệt xây cao thêm tường thành bằng đá.
    Năm Minh Mạng thứ 13 đổi làm thành tỉnh Phiên An; năm thứ 14 Lê Văn Khôi khởi loạn chiếm thành; năm thứ 16 triều đình thu phục lại rồi dời ly sở tỉnh thành đi nơi khác mà bỏ thành này.
    Về thành trấn Gia Định, có thể tóm lại một điều: Vào thời Gia Long, khi còn phải duy trì hai đơn vị hành chính lớn là Bắc Thành và Gia Định Thành thì thành Gia Định là một công trình quân sự cỡ lớn nhất ở miền Nam. Bình đồ "bát quái" của tòa thành xuất hiện đáng được coi như một tòa thành độc đáo và kiên cố đương thời.
    (còn tiếp)
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 19:02 ngày 25/10/2006
  4. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    b) Bắc Thành
    Tháng 6 năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long vào Đông Kinh, tháng 9 Gia Long đặt chức Tổng trấn Bắc Thành quản 11 trấn nội ngoại cả thảy (gồm năm nội trấn là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương và 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên và Quảng Yên).
    Ly sở Bắc Thành lúc đó ở ngay thành Đông Kinh cũ.
    Tháng giêng năm 1803, Gia Long cho xây đắp thành mới theo kiểu Vôbăng.
    Tháng 5 năm 1805, xây 5 cửa thành, mỗi cửa đều dựng bia để ghi.
    Tháng giêng năm 1819, sửa đắp thành này.
    Thời Minh Mạng, tháng 7 năm 1820, xây dựng các hành cung, điện Thị Triều, điện Cần Chánh.
    Tháng 10 năm 1827, xây các xưởng súng trên thành (trước làm tre lá, nay làm bằng ngói gỗ), làm suốt trong ba năm.
    Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), bỏ Tổng trấn Bắc Thành, đặt tỉnh Hà Nội. Do vậy, 4 năm sau Minh Mạng ra lệnh bạt bớt chiều cao của tường thành xuống 1 thước 8 tấc cho phù hợp với quy chế của một thành tỉnh và lấy thành này làm thành của tỉnh Hà Nội.
    Có thể nói, dù qua nhiều lần tu bổ, bạt rở thấp đi, về cơ bản Bắc Thành vẫn là tòa thành Hà Nội sau này mà chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy bản vẽ chính xác vào thời thuộc Pháp.
    Sách Đại Nam nhất thống chí chép rằng: "Thành tỉnh Hà Nội: chu vi 432 trượng linh (1.728 mét), cao 1 trượng 1 thước 2 tắc (4,50 mét), hào rộng trên dưới 4 trượng (16 mét), mở 5 cửa, ở địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Từ đời nhà Lê về trước, kinh đô đều đặt ở đây, lại có tên là thành Phụng Thiên, ở trong thành Đại La. Thành lâu năm sụt đổ, đến đời Tây Sơn, theo nền cũ đắp thành quanh từ cửa Đông Hoa đến cửa Đại Hung. Bản triều đầu đời Gia Long lấy làm lỵ sở của Bắc Thành. Năm thứ 3 triều thần bàn rằng thể chế của Tây Sơn không hợp quy củ, tâu xin sửa đổi. Năm thứ sai quan dốc sức việc xây lắp, trong thành dựng kỳ đài và hành cung với hai điện chính, một tả vu, một hữu vu, sau điện dựng lầu Tĩnh Bắc; quanh nội điện đều xây tường gạch; lại đằng trước chính điện xây một đường ống bằng đá khắc hai chữ "Đoan Môn", đấy là di tích từ đời Lý; ngoài cửa dựng nhà bia, xây kỳ đài, quy mô rộng lớn. Năm Minh Mạng thứ 12, chia tỉnh hạt, lấy thành này làm thành tỉnh Hà Nội; năm thứ 16, cho rằng thân thành quá cao, giảm bớt đi 1 thước 8 tấc. Các đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị dùng thành này làm sở bang giao".
    Thành Hà Nội cũng làm theo đồ án hình vuông. Mỗi mặt tường bố trí hai pháo đài. Mỗi góc đều có pháo đài góc. Thành mở 5 cửa, mỗi mặt bắc, đông và tây mở một cửa ở chính giữa, riêng mặt nam mở hai cửa đông nam và tây nam ở chính giữa đoạn tường thành thẳng (courtine) nối pháo đài góc với một pháo đài bên cạnh. Như vậy mặt phía nam là mặt chính của tòa thành.
    Điểm đáng nói là thành này mở hai cửa Tiền (Đông Nam và Tây Nam). Mở cửa cách này làm cho những cung điện trong thành được che kín đáo hơn, nghĩa là không có một cửa nào đi thẳng vào chính giữa mặt các cung điện.
    Một tường thành dương mã che kín phía ngoài mỗi cửa và mở lối đi chếch sang một bên để qua hào bằng một cái cầu. Bộ phận này cũng có tác dụng làm cho cửa thành kín đáo hơn thêm một mức nữa.
    So với tất cả mọi tòa thành xây thời Nguyễn ở miền Bắc Việt Nam, thành Hà Nội là tòa thành xây lớn nhất, đẹp nhất và kiên cố nhất, bởi vì thành đã có vị trí một thành tổng trấn trước khi bị hạ xuống vai trò của một thành tỉnh.
    Năm 1896 - 1897, thực dân Pháp đã cho san bằng thành Hà Nội, chỉ để lại Kỳ đài và cửa Bắc, để xây dựng các đường phố Hà Nội.
    Mới hơn một thế kỷ qua, dù có những tấm bản đồ vẽ chính xác về tòa thành đó, nhưng do những biến đổi của nhà cửa, phố sá, người ta đã không dễ gì chỉ định được vị trí cũ của công trình. Tất nhiên càng không hiểu được những chi tiết cấu trúc của nó.
    Việc theo dõi những hiện tượng khảo cổ trong lòng đất khu vực xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1975 cho biết một số điều:
    - Lăng Hồ Chủ Tịch được xây dựng đúng vào quãng giữa mặt tường thành phía tây, nghĩa là đúng vào vị trí của cửa Tây thành Hà Nội.
    - Gạch xây kè bờ hào ngoài thành đều là gạch vồ thời Lê. Phần lớn gạch đều vỡ, nhiều viên có vết ám khói. Hiện tượng này cho phép kết luận thời Nguyễn đã sử dụng lại nguyên vật liệu xây thành Đông Kinh đã từng qua sụt lở và đốt phá vì chiến tranh và đã từng được sử dụng lại một lần trước đó vào thời Tây Sơn.
    - Từ điểm chuẩn được biết một cách chính xác tại khu vực Lăng Hồ Chủ tịch, kết hợp với những điểm hiện còn trên mặt đất như Cột cờ, Cửa Bắc v.v... ta có thể dễ dàng xác định vị trí thành Hà Nội trên bất cứ nơi nào trong thành phố.
    Đây là một thuận lợi lớn cho những kết luận khoa học về những phát hiện lẻ tẻ tại khu Hà Nội cổ, tất cũng là thuận lợi quan trọng cho việc tìm hiểu di tích thành Thăng Long thời Lý - Trần, một vấn đề vẫn còn đang là ẩn số.

    (1) Đại Nam thực lục chinh biên, T. II, Nhà xuất bản Sử học, Hà Nội, 1963, tr. 112 - 113.
    Đơn vị đo chiều dài thời Nguyễn được tính như sau: Trượng = 4 mét; thước = 0,40 mét; tấc 0,40 mét

    (st)
  5. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Minh hoạ thêm một số hình ảnh về Lam Kinh
    Đầu Rồng trong điện Lam Kinh
    [​IMG]
    Nhà bia
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 12:07 ngày 26/10/2006
  6. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Update lại mấy tấm hình về Lam Kinh
    Làm sang ấy nhỉ?
    thử ảnh khác xem nào
    [​IMG]
    [​IMG]
    [​IMG]
    Được kienxanh sửa chữa / chuyển vào 13:32 ngày 30/10/2006
  7. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Thành Hoàng Công Chất (Thành Bản Phủ)
    Thành Bản Phủ nằm ở xã Noong Hẹt, huyện Điện Biên, cách thành phố Điện Biên Phủ khoảng 9 km.
    Đây là một kỳ tích về xây dựng thành của họ Hoàng. Thành rộng hơn 80 mẫu. Sau lưng là sông Nậm Rốm. Tường thành đắp bằng đất, trồng tre gai vây quanh, loại tre được mang từ Thái Bình lên. Ngoài có hào sâu rộng 4-5 thước, trên mặt thành ngựa, voi đi lại được. Thành có các các cửa: tiền, hậu, tả, hữu. Mỗi cửa có đồn cao và vọng gác...
    Đền thờ Hoàng Công Chất được xây ở trung tâm thành Chiềng Lê (tức Bản Phủ) để thờ họ Hoàng và 6 thủ lĩnh nghĩa quân - là di tích lịch sử văn hóa quan trọng của địa phương ghi lại công lao to lớn của người anh hùng nông dân Hoàng Công Chất, người con của Thái Bình trong cuộc chiến tranh giải phóng Mường Thanh (Mường Then) - Điện Biên khỏi sự chiếm đóng của giặc Phẻ.
    Ngoài ra, đền còn là nơi tín ngưỡng của nhân dân trong ngày rằm, đầu xuân năm mới, nhất là ngày lễ hội truyền thống vào các ngày 24, 25 tháng Hai âm lịch hàng năm.
    Theo http://www.dulichdienbienphu.gov.vn
  8. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0

    Thành Bản Phủ và lễ hội đền Hoàng Công Chất
    Thành Bản Phủ ở xã Noọng Hẹt (tỉnh Điện Biên), là khu di tích lịch sử gắn liền tên tuổi lãnh tụ nông dân Hoàng Công Chất ở thế kỷ 18. Ông được nhân dân tôn vinh lập đền thờ và hằng năm, lễ hội nơi đây thu hút khá đông du khách. Lễ hội năm nay diễn ra trong hai ngày 14 và 15-3 vừa qua, là một trong những sự kiện lớn của năm du lịch Điện Biên Phủ 2004.
    Lễ hội thành Bản Phủ - đền Hoàng Công Chất nhằm giáo dục truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, tinh thần đoàn kết giữa miền xuôi, miền ngược tổ chức đúng vào dịp kỷ niệm 50 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ và 250 năm Ngày nghĩa quân Hoàng Công Chất với sự hỗ trợ của dân binh địa phương đánh đuổi giặc cướp, giải phóng Mường Thanh. Sau thắng lợi này, từ năm 1758 đến 1762, nghĩa quân và nhân dân đã xây thành Bản Phủ, một công trình kiến trúc quân sự trấn thủ vùng biên cương. Tòa thành nằm giữa trung tâm cánh đồng Mường Thanh trù phú, vựa thóc lớn của cả vùng Tây Bắc. Theo dân gian truyền lại thì thành được xây dựng khá kiên cố với hào sâu và lũy tre dày đặc phía ngoài chân tường. Hiện nay, dấu tích vòng tường thành vẫn còn hiện hiển. Hai năm qua, tỉnh Điện Biên (trước đây là tỉnh Lai Châu) và Bộ Văn hóa - Thông tin đã đầu tư kinh phí trùng tu, nâng cấp, sửa chữa các hạng mục di tích khu vực thành Bản Phủ - đền Hoàng Công Chất với phương hướng xây dựng nơi đây trở thành một trung tâm sinh hoạt văn hóa nghệ thuật, tín ngưỡng và du lịch hấp dẫn, đáp ứng tình cảm và lòng mong muốn thiết tha của nhân dân các dân tộc Điện Biên. Việc trùng tu đã hoàn thành giai đoạn ban đầu, thể hiện được một phần quá khứ lịch sử và tôn vinh công đức của người anh hùng nông dân. Nhiều công trình được xây mới, trong đó có cổng thành Bản Phủ khá bề thế, mang nét kiến trúc cổ, phù hợp cảnh quan, bên trên cổng thành có kỳ đài và vọng thành để hóng gió và ngắm cảnh. Từ đây, du khách có thể ngắm nhìn phong cảnh toàn vùng với những mái nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện sau rặng tre xanh và cánh đồng lúa trải dài, ngút ngát tầm mắt. Khu vực bên trong thành có nhà sàn văn hóa đủ sức chứa hàng trăm người, hai bên tường thành là ao sen kè đá chung quanh cùng hệ thống đường gạch và sân bãi rộng phục vụ cho những hoạt động văn hóa, lễ hội, vui chơi và thi đấu thể thao. Các công trình có tổng vốn đầu tư giai đoạn đầu là 4,5 tỷ đồng. Giữa trung tâm khu thành, bên gốc đa cổ thụ là ngôi đền thờ Hoàng Công Chất, các bộ tướng và hai thủ lĩnh người dân tộc thiểu số ở địa phương mới được nhân dân trong vùng, tỉnh Thái Bình và dòng tộc họ Hoàng quyên góp xây dựng lại to đẹp hơn trước với kiến trúc điêu khắc đẹp và công phu. Sau khi hoàn thành, đền thường xuyên đón nhiều đoàn khách đến thăm và thắp hương tưởng niệm.
    Trong hai ngày lễ hội vừa qua, thành Bản Phủ và đền Hoàng Công Chất đã đón hàng nghìn lượt du khách và nhân dân các bản, làng trong tỉnh. Mở màn lễ hội là phần rước kiệu và dâng hương. Đi đầu là đội múa rồng, lân tạo không khí sôi động. Sau các nghi thức, 40 diễn viên trình diễn màn múa cờ hội theo nhịp trống tưng bừng. Tiếp đến là phần biểu dương sức mạnh đại đoàn kết dân tộc của 60 diễn viên trong trang phục truyền thống, đại diện cho các dân tộc thiểu số tây bắc trình diễn những tiết mục ca, múa nhạc đặc sắc. Độc đáo và lôi cuốn sự chú ý của mọi người là những cô gái Thái với nón, quạt, khăn, ô, kèn, tính tẩu với những bông hoa tươi của núi rừng trên tay trong điệu múa hoa ban và vòng xòe uyển chuyển, đằm thắm, dịu dàng. Nhiều hoạt động văn nghệ, thi đấu thể thao có sự tham gia của đội nghệ thuật quần chúng các xã Na Ư, Pa Thơm, Noọng Hẹt, Thanh Nưa của huyện Điện Biên và các tỉnh bạn Hòa Bình, Sơn La, Hải Phòng, Bắc Giang, Thái Bình. Sân đền và khuôn viên trong thành nô nức người trảy hội và xem các trò chơi dân gian như hái đào tiên, bắt lợn lấy thưởng, đánh đáo đá, tung còn, chơi cờ phạ, thi bắn nỏ, đẩy gậy, kéo co nam, nữ. Còn buổi tối là giao lưu văn nghệ có tổ chức xòe và uống rượu cần, thi giọng hát hay dân ca các dân tộc. Chị Quàng Thị Hoa, Đội trưởng văn nghệ Bản Ten, huyện Điện Biên cho biết: "Năm nào chúng tôi cũng đi dự và biểu diễn ở hội nhưng năm nay lễ hội được tổ chức lớn nhất và có nhiều đội văn nghệ các thôn, bản và các tỉnh cùng tham gia, hội tụ đủ các loại hình nghệ thuật dân tộc".
    Theo ban tổ chức có khoảng hơn 20 nghìn khách đã về dự lễ hội. Hiện nay, một số công ty lữ hành đã đưa thành Bản Phủ - đền Hoàng Công Chất vào chương trình du lịch Điện Biên Phủ và tuyên truyền, quảng bá về điểm đến hấp dẫn này.
    (Cinet)
    [​IMG]
    @Filly: Chị còn nhớ cái hồi tháng 5, chị em mình đi xe ôm từ tp Điện Biên xuống Thành Bản Phủ không? Xuống tới nơi, nhìn thấy cái tường thành mới tinh tình tình và đỏ lừ sơn màu gạch mà thấy choáng, chị nhờ.
    Chị còn giữ cái anh chụp cổng thành, xoay mãi mọi góc cạnh mà vẫn vướng hàng quán, lều bạt thì show lên nhá. tks
  9. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Có khá nhiều nhóm trong box đến Thành Cổ Sơn Tây nhưng kiếm tìm bài viết về nơi này thì không thấy nhiều. Trên trang chủ của tỉnh Hà Tây chỉ có giới thiệu ngắn gọn thế này:
    THÀNH CỔ SƠN TÂY

    Thành Sơn Tây nằm giữa thị xã Sơn Tây cách Hà Nội hơn 40 km là một công trình kiến trúc quân sự cổ. Hoàn thành vào năm 1822, thành hình tứ giác có chu vi dài 1.304m, xung quanh có hào nước sâu 3m rộng 20m dài 1.795m, tường bằng đá ong cao 5m nên có tên khác là Thành đá ong. Trong thành có vọng lâu cao 18m, vọng cung, cột cờ và điện Kính Thiên.
    Trải qua nhiều cuộc chiến tranh thành Sơn Tây đã bị phá huỷ phần lớn chỉ còn lại tường thành, cửa tiền, cửa hậu, hai khẩu thần công và một số phế tích như vọng lâu, nền điện Kính Thiên, giếng nước.... Hiện nay, thành Sơn Tây đang được đầu tư tôn tạo trở thành một điểm di tích lịch sử văn hoá hấp dẫn khách tham quan.
  10. kienxanh

    kienxanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2006
    Bài viết:
    762
    Đã được thích:
    0
    Và một bài báo về việc sửa sang lại di tích này.
    Là chê đấy, phê bình đấy (vì nó đáng bị thế!)!!!
    Tân trang thành cổ Sơn Tây!
    Lưu Quang Phổ
    Thành cổ Sơn Tây, thuộc thị xã Sơn Tây, tỉnh Hà Tây được xây năm 1822 xây bằng gạch đá ong theo hình tứ giác, chu vi tổng cộng 1304 mét với chiều cao 5 mét, mặt tường rộng cho người xe đi lại. Ngoài thành là hào nước sâu cũng 5 mét và rộng tới 20 mét, bốn mặt thành có các cổng vòm kiên cố.
    Công trình mang ý nghĩa quân sự độc đáo này là toà thành duy nhất ở Việt Nam được xây bằng đá ong. Tuy nhiên, trải qua các cuộc chiến tranh, thành cổ Sơn Tây đã bị hư hỏng nhiều, cầu qua hào phía Bắc, phía Nam bị sập, Vọng Cung bị huỷ hoại... Năm 1994, Nhà nước công nhận đây là di tích kiến trúc nghệ thuật. Năm 1995 một dự án nâng cấp, tôn tạo được thực hiện. Cổng thành phía Bắc được xây lại, phù điêu được đắp, súng thần công được gắn, tuy nhiên, những phần còn lại của di tích nghệ thuật này tiếp tục bị xâm hại và xuống cấp.
    Năm 2001, tỉnh Hà Tây phê duyệt một dự án tôn tạo, nâng cấp thành cổ với ngân sách hơn 48 tỉ đồng. Cuối năm 2003, dự án được khởi công và đến nay, đã có các hạng mục hoàn thành là cột cờ, một phần tương thành và hai giến nước bên tả, bên hữu. Ngay từ khi dự án mới khởi công, đã có nhiều ý kiến tranh luận về tính khoa học, sự hợp lý của dự án tôn tạo nâng cấp. Tuy nhiên, công trình vẫn được tiến hành.
    Đi vào thành cổ Sơn Tây những ngày này, cảm giác hiện tòa thành trăm tuổi đang được đại hoá bao trùm. Những gốc cây xà cừ cổ thụ bị đánh bật gốc để nhường chỗ cho việc xây dựng các công trình theo dự án. Một đoạn tường thành đá ong cao vút, mới tinh đã xây xong. Lối vào mọc lên dãy cột đèn điện theo phong cách Pháp. Có cảm giác người ta đang xây một ngôi thành mới hơn là bảo tồn một ngôi thành cũ. Đến nỗi, có người nói rằng: ?oKhông sao, một trăm năm nữa con cháu chúng ta sẽ có một ngôi thành cổ Sơn Tây niên đại 2006?...

    Bằng chứng đây nhé:
    Khẩu súng thần công còn lại
    [​IMG]
    Cột cờ mới toanh
    [​IMG]
    Và tường thành cũng mới xây
    [​IMG]
    May còn cái cổng thì nó thế này
    [​IMG]

Chia sẻ trang này