1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các thể loại âm nhạc

Chủ đề trong 'Âm nhạc' bởi tienghatngoclan, 02/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    V. XÔ-NÁT CỔ ĐIỂN VÀ NHỮNG NGƯỜI SÁNG TẠO

    Hình thức liên khúc ba chương mang tính chất độc lập về nghệ thuật của xô-nát cổ điển đã xuất hiện lần đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ người Đức Phi-líp Ê-ma-nu-in Bắc ( 1714 -1788) -một trong những người con trai tài năng của Giô-han Xe0ba-xchiêng Bắc vĩ đại . Ph.E.Bắc bước vào lịch sử nền âm nhạc thế giới như một nhạc sĩ xuất sắc ,một nhà biểu diễn tài nghệ , tác giả của một công trình sâu sắc nhan đề "kinh nghiệm về phương pháp đúng trong nghệ thuật chơi đàn cla-via " ( cla-via là tên gọi chung của các nhạc cụ phím dây cổ như đàn cla-vicô , cla-vơxanh , pi-a-nô ) .

    Nhờ có trí tưởng tượng sáng tạo hết sức phong phú , Ph.E.Bắc luôn cố gắng xây dựng một ngôn ngữ âm nhạc mới , đặc sắc và diễn cảm mạnh mẽ .Những đặc điểm quan trọng trong các sáng tác của ông là lối ngâm vịnh gây được ấn tượng sâu sắc , với âm điệu điển hình ," có sức diễn cảm như lời nói " , gần với ngôn ngữ sinh động và loại giai điệu du dương , mềm mại , uyển chuyển được tô điểm bằng những nốt hoa mỹ tinh tế .

    Hình tượng âm nhạc trong các xô-nát của Bắc hết sức đa dạng .Xu hướng kịch tính , nhiệt tình mãnh liệt và tinh thần phấn khởi cao đẹp được kết hợp với tính chất suy tư sâu xa ở các chương chậm , hoặc những hình tượng trữ tình trong sáng và thơ mộng .Bắc đã cố gắng tạo cho nội dung tình cảm của xô-nát thính phòng có chiều sâu ; nhiều tìm tòi phát kiến của ông là tiền thân của những đặc điểm phong cách âm nhạc của Be-tô-ven , mà ông xứng đáng là một trong những nhạc sĩ tiền bối .

    Những đại diện vĩ đại của trường phái cổ điển Viên là G.Hai-đơn và V.A.Mô-da đã quan tâm sâu sắc đến thể loại xô-nát thính phòng .Các xô-nát pi-a-nô của Hai-đơn và Mô-da đã là đóng góp hết sức qúy giá cho nền âm nhạc cổ điển .Mười tám bản xô-nát pi-a-nô , cũng như một số xô-nát cho vi-ô-lông và pi-a-nô của Mô-da là những tác phẩm hết sức nổi tiếng .

    Sự phong phú , đa dạng và thơ mộng kỳ diệu của nội dung , sự phản ánh sinh động mọi chuyển biến của tâm hồn , kể cả những sắc thái tình cảm tinh tế nhất , lối viết duyên dáng và thanh thoát - tất cả những yếu tố đó làm cho các xô-nát của Mô-da được đông đảo thính giả yêu thích .

    Cũng như nhiều sáng tác khác , các xô-nát pi-a-nô của nhạc sĩ rất giàu giai điệu đẹp , làm cơ sở cho phần lớn các hình tượng âm nhạc của ông .Ru-bin-xtanh đã khẳng định một cách chính xác rằng : " qua toàn bộ âm nhạc pi-a-nô của Mô-da ta thấy nổi bật lên tài năng của một nhà soạn nhạc ô-pê-ra ...tất cả đều ngân vang như tiếng hát , các chủ đề xô-nát của ông thực sự là những bản a-ri-a".

    Các xô-nát pi-a-nô và vi-ô-lông của Mô-da thường được đưa vào chương trình học tập của các trường sơ cấp và trung cấp âm nhạc chuyên nghiệp và nhạc viện . Xô-nát pi-a-nô của Mô-da tưởng chừng như đơn giản , song chính lại là những tác phẩm rất khó thể hiện .Nó đòi hỏi ngươi nghệ sĩ không những phải có kĩ thuật tinh xảo và hoàn toàn biết làm chủ âm thanh mà còn phải nhận thức sâu sắc nội dung tình cảm cao đẹp của âm nhạc , phải biết thâu tóm và thể hiện những sắc thái tinh tế , những âm điệu có sức truyền cảm của ngôn ngử âm nhạc . Điều đó giải thích vì sao xô-nát của Mô-da tương đối ít được biểu diễn trên các sân khấu hoà nhạc lớn , và nếu có thì phần lớn là những chương trình biểu diễn của các nghệ sĩ bậc thầy nổi tiếng như X.Rích-te , G.Pô-mi-e và V.Cli-bớc .

    Thể loại xô-nát đạt tới đỉnh cao nghệ thuật vô song trong sự nghiệp sáng tác của một nhạc sĩ vĩ đại nhất là Lút-vích-van Be-tô-ven ( 1770 -1827).

    Là một nhà nghệ sĩ , đồng thời là một nhà tư tưởng vĩ đại , Be-tô-ven tin vào sức mạnh hùng vĩ của lí trí và hoạt động sáng tạo của con người .Ông tin vào tác dụng cải tạo và hoàn thiện của nghệ thuật âm nhạc , vào khả năng tác động tích cực của nó với ý thức con người .Ông quả quyết " Âm nhạc phải làm nảy lửa trong những tâm hồn dũng cảm " .Trong những tác phẩm lớn có ý đồ lớn lao hơn cả - các xô-nát , giai hưởng , u-véc-tuya với những hình tượng anh hùng của cuộc đấu tranh cách mạng - Be-tô-ven đã xuất hiện như một nghệ sĩ yêu nước , một diễn giả nhiệt thành , mong muốn thiết tha hạnh phúc , tự do cho muôn triệu quần chúng nhân dân .

    Nếu như giao hưởng là một thể loại phù hợp hơn cả với ý đồ sáng tác vĩ đại , gắn liền với các cuộc đấu tranh giải phóng anh hùng của quần chúng nhân dân , thì các xô-nát pi-a-nô , độc tấu của Be-tô-ven lại là thể loại đã thể hiện đầy đủ toàn diện thế giới nội tâm của người nghệ sĩ vĩ đại .

    Be-tô-ven sáng tác ba mươi hai xô-nát pi-anô ( không kể sáu bản thời niên thiếu ) , mười xô-nát vi-ô-lông và pi-a-nô , năm xô-nát vi-ô-lông-xen và một xô-nát cho kèn có đệm pi-a-nô . Hình thức liên khúc xô-nát còn được sử dụng trong phần lớn các hợp tấu thính phòng của ông ( tam tấu , tứ tấu ) .

    Những đặc điểm phong cách chín mùi của Be-tô-ven thể hiện trong các xô-nát pi-a-nô sớm hơn các thể loại khác . ARu-bin-stanh đã nhận xét chính xác rằng , trong chủ đề phụ của chương kết bản xô-nát pi-a-nô số 1 cũng như trong chương largo appassionato nổi tiếng của bản xô-nát số 2 " đã xuất hiện một thế giới mới của tâm tư , của cách diễn đạt , của âm hưởng và thậm chí cả kĩ xảo pi-a-nô nữa " . So sánh phong cách của các xô-nát này với phong cách khí nhạc thông thường của thế kỷ XVIII , Ru-bin-stanh đã nhận xét rất tinh tế như sau : " Ngay trong những tác phẩm này , người ta đã nhận thấy rằng , không bao lâu nữa bộ tóc thật sẽ thay thế mớ tóc giả rắc phấn có bím , và đôi giầy thay cho đôi guốc sẽ biến đổi dáng đi của người đàn ông ( đồng thời cả dáng dấp của âm nhạc nữa )..."
    Những người đương thời của Be-tô-ven kể lại rằng xung quanh một số xô-nát của ông , đặc biệt là xô-nát "Pa-tê-tích " đã nổ ra những cuộc tranh luận sôi nổi , giống như là khi dựng những vở ô-pêra mới .Với tuổi thanh niên ,Nhà nghệ sĩ pi-a-nô nổi tiếng T.Mô-se-lét đã vô cùng xúc động khi nghe được bản xô-nát "Pa-tê-tích " của Be-tô-ven . Mô-se-lét không có tiền mua bản nhạc đó nên đã tự tay chép lại toàn bộ tổng phổ . Vì thiếu thận trọng , ông đã thổ lộ điều này với thầy dạy của mình là Đ.Ve-be . Người thầy nổi giận liền nghiêm cấm Mô-se-lét không được tập , thậm chí ,không được ngó ngàng đến "những sản phẩm kì quặc" ấy nữa .Nhưng vô ích , người nhạc công trẻ tuổi bị thiên tài của Be-tô-ven chinh phục vẫn tiếp tục bí mật nghiên cứu các sáng tác của nhạc sĩ . Mô-se-lét kể lại : " Và tôi đã tìm được trong đó niềm an ủi , niềm vui sướng mà chưa một nhạc sĩ nào đem lại được cho tôi ".

    Ngay từ khi mới bước vào con đường sáng tác , trong những năm 90 của thế kỉ XVIII , Be-tô-ven đã thường xuyên viết xô-nát pi-a-nô , và tiếp tục sáng tác thể loại này cả trong thời kì thiên tài rực rỡ nhất của ông .

    Xét về chiều sâu và tầm cỡ lớn lao của ý đồ tư tưởng , vẻ đẹp và sức hấp dẫn mãnh liệt của các hình tượng âm nhạc , thì các xô-nát cho pi-a-nô và vi-ô-lông ưu tú của Be-tô-ven xứng đáng đứng ngang hàng với những liên khúc giao hưởng thiên tài của ông . Trong số những tác phẩm ưu tú đó , các bản xô-nát " Pa-tê-tích " , xô-nát số 12 với chương hành khúc tang lễ , xô-nát phóng tác thường được gọi là xô-nát "Ánh trăng " , xô-nát có kịch tính sâu sắc " theo thần Sếch-pia " ( số 17 ) , xô-nát "Đồng quê " thơ mộng và bản "Bình minh " chói lọi ánh mặt trời ( số 21 ) , " A-pa-xi-ô-na-ta " ,xô-nát viết tặng "Crây-de " , bản xô-nát pi-a-nô cuối giọng đô thứ cùng nhiều tác phẩm khác nữa .

    Bản xô-nát "A-pa-xi-ô-na-ta " là tác phẩm có ý đồ tư tưởng lớn lao hơn cả . Tên gọi " A-pa-xi-ô-na-ta " ( tiếng Ý có nghĩa là sôi nổi , nhiệt tình ) không phải của tác giả , mà là của thính giả nào đó , đã đặt tên cho nó , song , tên gọi đó nói lên được tinh thần chung của tác phẩm âm nhạc rực rỡ và tràn đầy ý chí chiến đấu mãnh liệt này .

    Quả vậy , "A-pa-xi-ô-na-ta " là đỉnh cao sáng tác của sự nghiệp sáng tác xô-nát của Be-tô-ven . Rô-manh Rô-lăng đã nhận định về bản "A-pa-xi-ô-na-ta " " cũng tựa như đỉnh Mông-bơ-lăng vươn cao trên dãy An-pơ vậy " .

    Vốn là một tác phẩm tràn ngập ý chí nổi dậy mãnh liệt với các chủ đề nhạc có sức mạnh nghệ thuật sâu sắc , " A-pa-xi-ô-na-ta " đã thể hiện hình tượng người anh hùng dũng cảm , không chịu khuất phục trước những đòn sấm xét của số mệnh tàn bạo , tác phẩm miêu tả cuộc đấu tranh quyết liệt và ý chí dũng mãnh của nhân vật . Chương chậm của tác phẩm này ( chương andante biến tấu ) hoàn toàn không phải là giai đoạn ngừng hành động , mà là niềm suy tư sâu sắc , là phút nghỉ ngơi ngắn ngủi , trước khi bùng lên một lần nữa cuộc đấu tranh quyết liệt hơn gấp bội . Chương kết giống như một dòng thác âm thanh dữ dội cuồn cuộn chảy , như những cơn lốc xoáy điên cuồng , từ trong đó nổi bật lên mãnh liệt một chủ đề khắc nghiệt , hùng dũng , thể hiện cuộc đấu tranh anh dũng của nhân vật chống các thế lực thù địch . ( Phần phân tích bản "A-pa-xi-ô-na-ta "của Be-tô-ven xem trong cuốn "Tư liệu âm nhạc các nước phương Tây " của V.ga-lát-xkai-a . Maxcơva - NXB Âm nhạc ) .
  2. tienghatngoclan

    tienghatngoclan Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    12/06/2004
    Bài viết:
    90
    Đã được thích:
    0
    Trong số những sáng tác tuyệt vời nhất của Be-tô-ven , nổi bật là bản xô-nát vi-ô-lông và pi-a-nô số 9 , thường được gọi là xô-nát " Crây-de " .Tác phẩm này ra đời vào thời kì phát triển rực rỡ thiên tài của Be-tô-ven , cùng lúc với bản giao hưởng " Anh hùng ca " và bản " A-pa-xi-ô-na-ta " .

    Xô-nát "Crây-de" được biểu diễn lần đầu tiên trước động đảo thính giả vào năm 1803 ở Viên , cùng với bản công-xéc-tô pi-a-nô số 3 của nhạc sĩ . Tác giả biểu diễn phần pi-a-nô , còn bè vi-ô-lông do nghệ sĩ Brét-tao-e ( người Anh đảm nhiệm ) . Brét-tao-e đã làm cho giới thính giả Viên phải kinh ngạc trước lối thể hiện sôi nổi và cách xử lí tác phẩm độc đáo .Chỉ một thời gian ngắn , Be-tô-ven đã kết thân với nhà nghệ sĩ vi-ô-lông tài năng này , và đã có ý định đề tặng ông bản xô-nát . Song , vì một sự bất hòa với Brét-tao-e , Be-tô-ven đã đề tặng xô-nát cho nghệ sĩ vi-ô-lông người Pháp là Ru-đôn-phơ Crây-de . Người ta kể lại rằng , nhà nghệ sĩ được trọng vọng này không hiểu các sáng tác của Be-tô-ven , và chưa hề biểu diễn bản xô-nát được đề tặng .
    Trong số các xô-nát vi-ô-lông của Be-tô-ven , bản xô-nát Crây-de là một tác phẩm nổi bật về quy mô đồ sộ .Chính tác giả đã gọi nó là " xô-nát cho vi-ô-lông và pi-a-nô viết theo phong cách hoà tấu , giống như công-xéc-tô " .

    Chương một của xô-nát có ý đồ tư tưởng lớn lao hơn cả .Sau phần mở đầu chậm , mang tính chất ngâm vịnh , nổi lên sức mạnh không gì ngăn cản nổi , dòng thác âm thanh rực rỡ của chương presto với tiếng gọi thôi thúc , với xu hướng nổi loạn đầy khát vọng của tâm hồn dũng cảm . Chưa một tác phẩm nào của Be-tô-ven lại có chất liệu giai điệu phong phú kì diệu và lối diễn đạt thanh thoát đến như vậy ,làm cho đôi khi người ta có cảm giác như đây là một tác phẩm âm nhạc ngẫu hứng , kết hợp đồng thời với lối phát triển dồn dập có chủ đích .Ở đây tất cả đều mới lạ và khác thường : sức mạnh hùng dũng , tình cảm nồng nàn , ý đồ tư tưởng phức tạp , tác dụng nghệ thuật mạnh mẽ chinh phục lòng người ; tất cả đều vận động , đều ở thế tiến công mãnh liệt , ở tâm trạng sôi sục của những niềm khát vọng .

    Kết cấu chương một của xô-nát "Crây-de" phức tạp hơn hẳn phần lớn các xô-nát khác của Be-tô-ven ;tính chất phức tạp đó xuất phát từ những đặc điểm ý đồ nghệ thuật của tác phẩm . Lòng quyết tâm khắc phục mọi trở lực , niềm khát vọng dũng cảm và chí căm hờn đã được thể hiện xen kẽ với niềm suy tư thanh thản , những ước mơ trong sáng .Tất cả những yếu tố đó góp phần tạo nên không khí căng thẳng chung của cuộc đấu tranh , biểu hiện không những trong sự thay đổi mau lẹ các hình tượng tương phản đậm nét , mà cả trong quá trình phát triển kéo dài và căng thẳng của các hình tượng đó .Điều này giải thích vì sao Be-tô-ven lại không bố trí các chủ đề theo thứ tự thông thường của chúng trong liên khúc xô-nát thời bấy giờ ( chính -phụ-kết ) , mà ranh giới giữa các chủ đề của Be-tô-ven ở đây đôi khi khó phân định .Toàn bộ phần trình bày của xô-nát ở đây là phần giới thiệu các chủ đề , và các hình tượng âm nhạc khác nhau , không theo trật tự quy định , chúng thay thế nhau trong một quá trình phát triển âm lượng căng thẳng .

    Tính chất sôi nổi đầy khát vọng của toàn chương Presto đã toát ra ngay từ những âm thanh của chủ đề chính .Cũng như nhiều tác phẩm khác của Be-tô-ven , chẳng hạn chương một của xô-nát "Pa-tê-tích " , chương kết của xô-nát "Ánh trăng " , chủ đề chính của chương Allegro trong bản xô-nát "Crây-de" , tựa như một dòng suối âm thanh ồ ạt , mãnh liệt không ngừng phát triển về âm lượng . Trong khi đó xu hướng phát triển tập trung của chủ đề được kết hợp rất tự nhiên với lối viết ngẫu hứng thoải mái .Triển khai " một mạch " như vậy chủ đề chính dường như thể hiện niềm khát vọng vĩ đại của một tâm hồn dũng cảm .Nó bao quát âm vực mỗi lúc một rộng lớn hơn ( nhưng vẫn kiên trì quay lại một âm cố định là âm bậc V của điệu thức ) và bỗng dưng , nó dừng lại ở chính đỉnh cao , ngân vang với một vẻ chiến thắng đầy kiêu hãnh , làm nổi bật hơn nữa tính chất kiên định của nó .

    Khuông nhạc : a/Presto

    Lần thứ hai , cũng đạt tới đỉnh cao về âm lượng với sự giảm nhịp độ một cách trang trọng , chủ đề thứ nhất đã kết thúc bằng một nét lướt mạnh mẽ , hùng tráng ( trong bè pi-a-nô ) .Tiếp đó , đến một giai điệu mới , đặc sắc và giàu sức diễn cảm , một nét nhạc mang tính chất thôi thúc và sôi nổi ( câu thứ ba của chủ đề chính ) .

    KN: b/vi-ô-lông

    Khi tuyến giai điệu của chủ đề chính tưởng như đã có thể kết về chủ âm thì đó lại là lúc bắt đầu giai đoạn phát triển mới của nó . Và toàn bộ phần tiếp sau rõ ràng mang tính chất triển khai , như ta thường thấy trong các xô-nát của Be-tô-ven ( Nhịp 45-60 là phần nối tiếp của chủ đề chính , nó chuyển trực tiếp sang chủ đề liên kết , không vạch rõ ranh giới giữa hai chủ đề ) . Nhịp độ mỗi lúc một nhanh và dồn dập hơn .Và ở đây , bè pi-a-nô sôi nổi - một thành viên bình đẳng của hợp tấu - đã được đưa lên bình diện thứ nhất . Âm lượng mỗi lúc một căng thẳng hơn ( do điệu tính của bè liên kết không ổn định rõ rệt ) dẫn tới cao điểm , chuẩn bị cho một sự biến động của quá trình phát triển chung - đó là lúc xuất hiện chủ đề phụ , một chủ đề trong sáng , thanh bình ( Về phương diện tiết tấu , chủ đề phụ giống như âm hình giai điệu cuối cùng của chủ đề chính , và cũng chính âm hình giai điệu này được dùng làm cơ sở âm điệu cho chủ đề phụ ) .

    Sau những hình tượng trữ tình trong sáng trên , lại trào lên làn sóng mới của nghị lực sôi nổi và sức mạnh dũng cảm .Cũng như nhiều chương xô-nát Allegro khác của các nhạc sĩ cổ điển , những âm điệu hùng dũng của chủ đề chính đã "sát nhập " vào phần phát triển tiếp theo của chủ đề nhạc . Ở điệu thức trưởng trong sáng , những âm hình giai điệu đặc sắc , với các quãng nhảy khoáng đạt điển hình của chúng đã vang lên một âm hưởng mới mẻ :

    KN : c/vi-ô-lông

    Phần trình bày đã kết thúc bằng một chủ đề tràn đầy lòng quyết tâm dũng cảm , một chủ đề căng thẳng và dồn dập ( chủ đề kết ) . Nó trải rộng , dường như tổng kết cả quá trình phát triển trước đó , bằng một sự khẳng định mạnh mẽ những hình tượng của ý chí , lời kêu gọi xông vào cuộc chiến đấu sống còn :

    KN d/

    Tính chất xung đột và kịch tính căng thẳng mà ta đã thấy trong phần trình bày của xô-nát "Crây-de" là yếu tố còn điển hình hơn cho phần trểin khai được xây dựng như một chuỗi dài những làn sóng âm thanh mỗi lúc một rầm rộ .Những âm điệu căng thẳng và thôi thúc của chủ đề chính , cũng như nét nhạc anh hùng ca dũng mãnh của chủ đề chính , đã trở thành những nét nhạc chủ đạo của phần này .Lô-gích phát triển của diễn biến kịch tính âm nhạc dần dần đưa đến phần tái hiện , phần nhắc lại điệu nhạc sôi nổi , thôi thúc của chủ đề chính ( lúc đầu ở một giọng không ổn định ) ( gọi là "tái hiện giả" sau đó mới tới phần tái hiện thực sự ) và tất cả các chủ đề tiếp . Cũng giống như trong phần trình bày , ở đây tất cả các ý nhạc phát triển sôi nổi , nối tiếp nhau liên tục , gây cho người nghe ấn tượng về sự phát triển kịch tính căng thẳng .Những âm điệu hùng dũng của phần kết ( cô-đa ) đã kết thúc ở bi kịch khí nhạc vĩ đại này bằng sự khẳng định ý chí mãnh liệt của con người .

    Bản xô-nát vi-ô-lông này khác những tác phẩm như- xô-nát Ánh trăng và A-pa-xi-ô-na-ta ở chỗ , mối xung đột kịch tính cơ bản không bao trùm lên toàn liên khúc .Xô-nát Crây-de không thuộc loại những tác phẩm , mà trong đó đỉnh cao kịch tính đặt ở chương cuối của liên khúc - chương kết . Sau trận chiến đấu điên cuồng đầy phẫn nộ , chống lại những trở lực đầy khắc nghiệt của cuộc sống , diễn ra torng suốt chương một , sự căng thẳng đầy kịch tính được thay bằng những niềm xúc cảm trữ tình thanh thản , tâm trạng trong sáng , vui tươi . Ngay từ những âm thanh đầu , chương Andante trữ tình da diết đã làm cho người nghe lãng quên đi những hình tượng , những tình cảm bi ai , tạo nên cái không khí suy tưởng thanh bình , chuẩn bị cho một chương kết tươi vui ở giọng trưởng , một chương nhạc tràn đầy nghị lực và lòng dũng cảm .

    Xét về chiều sâu của nội dung và tính chất độc đáo của ý đồ nghệ thuật thì bản xô-nát "Crây-de " có thể đứng ngang hàng với những tác phẩm giao hưởng vĩ đại nhất của Be-tô-ven .

    Các xô-nát vi-ô-lông của Be-tô-ven đã đi vào kho tàng quý giá của nền âm nhạc thế giới . Ngày nay các tác phẩm đó vẫn được biểu diễn và được thính giả khắp các nước trên thế giới hâm mộ .

    * Có thể tìm đọc về các xô-nát của Be-tô-ven trong cuốn " Be-tô-ven " của Rô-manh Rô-lăng ( từ giao hưởng "Anh hùng ca " đến " A-pa-xi-ô-na-ta " ) toàn tập , tập XV . Lenin-grat . Nhà xuất bản thời đại , và trong cuốn "xô-nát pi-a-nô của Be-tô-ven " của Iu.Crem-lốp . Maxcơva , nhà xuất bản Âm nhạc .
  3. the_sensitive_soul

    the_sensitive_soul Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/07/2004
    Bài viết:
    38
    Đã được thích:
    0
    bạn thân mến ơi, topic này bạn lập ra rất thú vị và nó cũng được nhiều người quan tâm
    nhưng giá mà bạn có thể nói về nhiều thể loại hơn nữa, và giá như các bài được trình bày ngắn gon hơn chút nữa, cô đọng hơn chút nữa thì hay wá !
  4. Suongroi

    Suongroi Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    21/03/2003
    Bài viết:
    160
    Đã được thích:
    0
    Mình là tienghatngoclan đây bạn à , nếu mình muốn tóm gọn thì dễ lắm , một trang , nửa trang hay vài ba dòng cũng được . Nhưng mình vẫn sẽ chép nguyên từ cuốn sách đó ra ( cuốn "Các thể loại âm nhạc " của Nga được dịch sang tiếng Việt ) , vì tuy khá dài nhưng không có chữ thừa đâu bạn ạ . Họ đã tóm gọn nhiều lắm rồi đấy , đây cũng chỉ là cuốn sách giới thiệu sơ lược thôi chứ chưa có gì là đi sâu cả . Nên mình vẫn giữ nguyên như thế . Mình tuy không hiểu nhiều, nhưng mình nghĩ cuốn sách này sẽ thú vị đối với một số bạn yêu thích và bước đầu muốn tìm hiểu thêm về âm nhạc cổ điển .
    Mình chép ra không thấy mệt thì thôi , bạn chỉ đọc mà cũng mệt nữa , hihi . Đọc từ từ vậy !
    Thời gian còn nhiều , chúng ta sẽ thong thả post tiếp
    Xin mod xoá dùm hai bài này chút . Thx
    ___________________________
    From temely : Để 2 bài này vài ngày nữa, hãy xoá nhé ?
    u?c temely s?a vo 15:18 ngy 09/07/2004
  5. northernstar_2308

    northernstar_2308 Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/02/2003
    Bài viết:
    3.263
    Đã được thích:
    1
    Thấy Mít miệt mài quá, quý hóa quá, NS xin được ủng hộ bài viết sau:
    Thuật ngữ âm nhạc
    * Nhạc cổ điển:
    Chúng ta thường nghĩ rằng nhạc cổ điển là những bản nhạc được sáng tác từ những thế kỷ 17, 18 do những nhà soạn nhạc vĩ đại như Mozart, Bethoven, Bach, Tchaikovsky...và cái tên "cổ điển" là vì tính chất "xưa" của nó. Nhưng trong thế kỷ 20 và có thể cả thế kỷ 21 nữa, sẽ có thêm nhiều bản cổ điển hiện đại của các nhà soạn nhạc có tiếng như Charles lves, Aaron Copland... bởi vì nhạc cổ điển là một thể loại nhạc châu Âu . Nhạc cổ điển thường phức tạp hơn các loại nhạc khác với các hình thức thông thường là giao hưởng, thính phòng, nhạc kịch, nhạc cho kịch múa (ba lê). Các bản cổ điển bất hủ: Serenade (nhạc chiều) , Thư gửi ELYSE, BẢN SONAT ÁNH TRĂNG, Ave Maria...
    * Nhạc thính phòng giao hưởng:
    Thính phòng và giao hưởng là hai thể loại nhạc anh em với nhau. Giao hưởng là thể loại nhạc soạn cho cả một dàn nhạc hòa tấu với qui mô lớn , tận dụng sự phong phú đa dạng về hòa thanh, âm sắc, độ vang của nhiều nhạc cụ. Giao hưởng thường gồm 4 tốc độ tạo thành bốn chương tương phản nhưng vẫn có sự gắn bó hữu cơ với nhau.
    Thính phòng là nhạc giao hưởng ở qui mô nhỏ, thường được viết cho một nhóm nhạc công 3, 4 người chơi cùng nhau, hoặc có khi chỉ một người chơi chính trong nhóm nhạc phụ họa. Trước đây nhạc thính phòng được coi là nhạc quí tộc và phục vụ số ít thính giả, vì thế nên có tên là "nhạc trong phòng". Một nhóm nhạc sĩ 4 người chơi đàn dây (tứ tấu đàn dây) gồm 2 violon, 1 viola và cello là ví dụ tiêu biểu cho thể loại nhạc này. Trong nhạc thính phòng, mỗi nhạc cụ chơi một phần riêng biệt
    * Công-xéc-tô:
    Công-xéc-tô (Concerto) là tác phẩm nhạc có tính chất kỹ xảo điêu luyện viết cho một (hoặc 2, 3) nhạc cụ diễn tấu với dàn nhạc và thường có hình thức liên khúc sonat. Concerto thường gồm 3 chương nhạc: Chương 1 có nhịp điệu nhanh, chương 2 chậm - trữ tình, chương 3 rất nhanh.
    Concerto phát huy cao nhất hiệu quả âm nhạc của nhạc cụ độc tấu và tài năng kỳ diệu của nghệ sĩ độc tấu thông qua các đoạn Cadenza (đơn tấu không có sự tham gia của dàn nhạc). Thông thường Concerto được viết cho 1 nhạc cụ nên thường có tên "Concerto viết cho violon..." "viết cho piano"... Ðôi khi cũng gặp các bản Concerto có 1, 2 hoặc 4, 5 chương và những bản viết cho một nhóm nhạc cụ hoặc cho cả dàn nhạc.
    * Giọng Tenor:
    Tenor là giọng nam cao thể hiện trong tác phẩm ca nhạc. Cao độ của giọng hát thường được chia thành 6 1oại giọng theo cấp độ: 3 cho nam và 3 cho nữ. Sáu loại giọng được sắp xếp theo cấp độ thấp dần như sau: Soprano (nữ cao) - cao nhất, mezzo sprano (nữ trung), contralto (nữ trầm), tenor (nam cao) , baritone (nam trung) bass (nam trầm) - thấp nhất. Trong đó giọng nữ trầm tuy ngang với giọng nam cao nhưng rộng và mượt hơn. Ở nước ta giọng nữ cao tiểu biểu ở NSND Lê Dung và nam trầm ở NSND Trần Hiếu.
    * Opera:
    Ðúng! Opera là tên của thể loại nhạc kịch ; vở kịch có lời được hát thành nhạc. Phần nhạc đệm được chơi bởi một ban nhạc, thậm chí là dàn nhạc. Khác với kịch hát của nước ta thường hát theo các làn điệu dân ca và các bài hát có sẵn (ví dụ : dân ca kịch Huế, ca cải lương:..). Opera có giai điệu biến đổi theo diễn biến, tình tiết của vở kịch , thường xuyên có những đoạn cao trào hay trầm lắng các nghệ sĩ Opera phải thuần thục về thanh nhạc có khi phải lên đến giọng cao nhất cũng như tới giọng thấp nhất. Xưa nay, opera chỉ được biểu diễn phục vụ tầng lớp thượng lưu nên còn gọi là nhạc qúy tộc
    * Các loại đàn ghi-ta:
    Cây đàn ghi-ta chúng ta thường thấy là thuộc loại ghi-ta gỗ (ghi-ta thùng) có hộp cộng hưởng là thùng đàn. Tiếng của ghi-ta gỗ rất hay và ấm nhưng độ vang kém. Muốn chơi trong dàn nhạc người ta phải dùng tới ghi-ta điện không còn thùng đàn nhưng tiếng được khuếch đại lên nhiều lần nhờ hệ thống tăng âm điện tử. Ghi-ta điện có hai loại chính : ghi-ta lead (âm thanh cao, chói tai) và ghi-ta bass (âm trầm). Ghi-ta bass chỉ có 4 dây cỡ lớn. Cây đàn ghi-ta của người Nam Bộ được khoét lõm xuống ở phần cần đàn giữa các phím để đệm cho ca vọng cổ. Khi chơi, nghệ sĩ chỉ việc bấm mạnh hay nhẹ hoặc rung ngón bấm là có thể tạo ra luyến láy rất hợp với dân ca Nam Bộ.
    Cây đàn ghi-ta Hawaii (lục huyền Cầm Hạ Uy Di) tuy cũng là ghi-ta điện nhưng các nhạc công dùng một thỏi kim loại bấm xuống dây thay vì dùng ngón tay. Khi chơi người ta di chuyển thỏi kim loại này rất linh hoạt tạo cho tiếng đàn sự luyến láy rất đặc biệt. (Theo báo Hoa Học Trò - số 355).
    * Nhạc Blues:
    Cùng với nhạc Jazz, nhạc Blues có nguồn gốc từ những bài ca lao động, tôn giáo và dân ca của người Mỹ da đen được người Mỹ da đen khởi xướng vào đầu thế kỷ 20. Nhạc Blues thường buồn, vì thế nên có tên Blues (buồn) Nhạc Jazz thường được biểu diễn bằng kèn, giai điệu réo rắt.
    * Nhạc Country (đồng quê):
    Trước hết, có thể hiểu ngay " nhạc Country" đó là nhạc đồng quê. Khi âm thanh và giai điệu nổi lên, người ta có thể hình dung đến những đồng cỏ bạc ngàn xanh mướt - với những chàng cao bồi miền Tây lãng du. Nói đúng hơn, nhạc Country gắn liền với một nển văn hoá cao bồi mà ở Mỹ chính là quê hương. Nhạc đồng quê ra đời ở Mỹ dựa trên nhạc thượng du miền Nam, chịu nhiều ảnh hưởng từ những hệ thống nhạc khác như Blues, Jazz. Loại nhạc này thường có giai điệu trầm buồn. Nhạc Country phổ biến nhờ đài phát thanh Grand Ole Orpy bang Tennessee vào những năm 20.
    Nguồn gốc của chúng xuất phát từ những người dân Anh nhập cư đến Mỹ, họ mang theo những ca khúc Ballad Celtic với phần lời theo lối kể chuyện mộc mạc, bình dân. Nói khác đi, cội nguồn của nhạc nhạc country chính là những bài dân ca mà những người dân nhập cư từ Anh, Scotland, Iraland đã mang đến vùng núi Appalanchian ở miền Nam Mỹ vào thế kỷ 18 - 19. Ðến thập niên 1930 - 1940, những bộ phim về cao bồi Viễn Tây đã làm dậy lên làn sóng nhạc country. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp ghi âm bùng nổ, Nashville trở thành chiếc nôi của nhạc Country. Và đến những năm 60, dòng nhạc này thực sự ở đỉnh cao với người khởi xướng là Bob Dylan và nhóm byrds. Dòng nhạc thanh cảnh, không cần nhiều nhạc cụ, đôi khi chỉ là một cây guitar; người ta vẫn say sưa hát. Nội dung đơn giản với trung bình khoang từ trong một bài. Chủ đề thường gặp ở nhạc Country là những triết lý nhỏ về cuộc sống, cuộc đời của những người lao động, sự cô đơn hay những niềm tin và các mối quan hệ trong gia đình.
    Ngày nay, để đáp ứng thị hiếu của người nghe, các nhà sản xuất thường pha trộn giữa Country với nhạc Pop và Rock đã phần nào làm cho người nghe, nhất là giới trẻ, khó có thể nhận và phân biệt từng loại nhạc (những bài hát của Shania Twain; Garth Brooks; Trisha Yearwood). Tuy nhiên, cũng phải nhờ họ mà nhạc nhạc Country không bị rơi vào sự lãng quên.
    * Nhạc Rock:
    Còn gọi là Rock''N'' Roll, do Elvis Presley khai sinh từ thập kỷ 50. Dựa trên tiết tấu của ca ba loại nhạc trước đó (Blues, Jazz, Country) nhưng Rock lại có tiết tấu mạnh và nhanh, thường sử dụng các loại nhạc cụ điện tử. Rock chú ý tới hiệu ứng âm thanh của các nhạc cụ hơn là giọng hát. "Folk rock" (rock dân ca) là loại rock nhẹ giống như "slow-rock", "soft-rock"... "Hard rock" là loại Rock nặng với tiết tấu dữ dội và âm thanh cực lớn, chát chúa. Cùng thể loại này là "heavy rock", "heavy metal".
    * Nhạc pop:
    Là loại nhạc phổ biến (popular) hiện nay ở hầu hết các ca khúc như của Celine Dion, Madonna, Frank Sinatra, Brandy...Pop chú trọng nhiều hơn Rock về giai điệu và nhịp điệu, âm thanh cũng mềm hơn.
    * Nhạc Rap:
    Là loại nhạc nói hoặc đọc thanh, được đệm bằng những nhịp mạnh, dồn dập. RAP vì thế chú ý đến nhịp hơn giai điệu. Do người Mỹ da đen sáng tạo, RAP thường biểu hiện cho sức mạnh dữ dội, cuồng nhiệt và tạo cảm giác giận dữ, bạo lực
    * Album và Single
    Trong việc sử dụng các từ, người ta thường không quan tâm về mặt thuật ngữ và thường làm thay đổi các ý nghĩa bao hàm của nó. "Album" là một ví dụ tiêu biểu. Một cuốn album hình chẳng hạn, gồm nhiều hình, nhưng ngày nay trong lĩnh vực âm nhạc chúng ta hiểu album là một đĩa LP hoặc một băng cassette. Một album thường có đến từ 10 đến 12 ca khúc trên một mặt đĩa LP. Nếu việc thu âm trên đĩa hay băng cassette gồm một bộ hai đĩa LP hay hai băng cassette, người ta sẽ gọi đây là "double album" hay "double cassette".
    Cuối thập niên 40, khi các nhà khoa học phát minh ra chiếc đĩa nhựa tổng hợp, thị trường thế giới có hai loại đĩa: đĩa đơn hay còn gọi là đĩa single, chạy với tốc độ 45 vòng/phút, chỉ ghi được 1 ca khúc, còn gọi là đĩa 45. Single thường được ghi âm ca khúc đang được công chúng yêu thích nhất hoặc nhà sản xuất muốn giới thiệu đến công chúng một cái gì đó vô cùng đặc biệt.
    Loại thứ hai là đĩa LP, chạy chậm với tốc độ 33 vòng/phút, chỉ ghi được 2 mặt lên đến 40 phút, chứa từ 8 đến 10 ca khúc, nên đĩa 33 này còn được gọi là album. Theo thời gian, những chiếc đĩa nhựa phải nhường bước cho băng nhựa rồi đến thế hệ ghi âm kỹ thuật số, tức chiếc CD hiện thời. Hình thức single một dạo thoái trào nay đã phục hồi trở lại, nhưng nhờ kỹ thuật tiên tiến, nội dung chiếc single thường chứa 2-3 bài.
    * Recording (phương tiện ghi âm)
    Recording bao gồm các đĩa băng cassette, đĩa compact hay bất kỳ "vật chứa" nào trên đó phần nhạc thu vào đều có thể được phát lại. Trải qua các thời kỳ phát triển từ thế kỷ thứ 19 (chưa có nhạc cụ điện tử) đến thời đại kỹ thuật số hiện nay, Kỹ thuật ghi âm đã trở nên ngày càng đạt mức độ trung thực cao, tương đương như khi đang nghe trình diễn trực tiếp. Ngày nay, các phương tiện thu âm được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, từ đĩa xilanh nhựa đặc đến shellac (nhựa cánh kiến), đĩa vinyl (nhựa tổng hợp); các loại băng cũng được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau, từ ô-xit, carbon, metal đến các loại băng đĩa đọc bằng kỹ thuật số.
    * Record Label (nhãn đĩa, công ty ghi âm)
    Record Label là một mảnh giấy hình tròn được dán giữa đĩa nhạc, trên có ghi tên của hãng ghi âm hoặc tên của công ty đứng ra chịu trách nhiệm phát hành đĩa. Ngoài ra trên mảnh giấy này bạn có thể thấy danh mục các ca khúc hoặc bản nhạc trên cùng mặt đĩa có dán label cũng như tên của ban nhạc hoặc tên người biểu diễn các ca khúc hoặc bản nhạc này. Ngày này, Record Label được dùng với nghĩa mở rộng chỉ công ty phát hành đĩa nhạc.
    * Side (mặt đĩa)
    Trước khi sử dụng băng từ, nhạc thường được ghi trên đĩa shellac và sau đó là đĩa polyvinyl chloride. Ngoại trừ các đĩa xuất hiện thời kỳ đầu, nhạc thường được ghi âm trên cả hai mặt đĩa (chúng ta thường gọi là mặt A và mặt B). Với các phương tiện ghi âm phổ biến, mặt A (side A) thường gồm các ca khúc chính hoặc có chất lượng âm thanh hay hơn so với mặt B (side B hoặc flip side), mặc dù trong một số trường hợp, các ca khúc được ghi trên mặt B lại là các ca khúc được mọi người ưa chuộng. Trong các album LP, các ca khúc ở mặt A và mặt B không có sự khác biệt nào về chất lượng.
    * Soundtrack (nhạc phim)
    Một soundtrack là phần âm nhạc trong mộy bộ phim được phát hành trong một album (băng cassette hay dĩa CD). Soundtrack gồm tất cả phần nhạc sử dụng trong bộ phim. Về phương diện kỹ thuật, phần âm thanh trong phim được thu bao gồm lời đối thoại, âm nhạc và các hiệu quả âm thanh được gọi là soundtrack.
    * Track (rãnh âm thanh)
    Tất cả các phương tiện ghi âm (băng, đĩa ...) được miêu tả đều có liên quan đến track. Nội dung của các phương tiện như record (đĩa nhạc), cassette tape (băng cassette) và CD (đĩa compact) là những bản nhạc được ghi âm và số bản nhạc trên mỗi vật chứa nhiều ít khác nhau tùy thuộc vào mỗi loại vật chứa. Ngày nay, trong các lời hướng dẫn, giới thiệu một bài nhạc, việc mô tả các track riêng biệt còn được dùng làm một trong những tiêu chuẩn mới nhất để đánh giá chất lượng một bài nhạc. "Track" còn có nghĩa là mỗi một loại âm thanh nào đó - nhạc cụ hay giọng hát - đã được thu âm trong quá trình sản xuất. Số track (rãnh âm thanh) được thu trong các studio có thể thay đổi trong khoảng từ 16 đến 48 track. Số lượng này cùng với sự phân tách rạch ròi giữa các track và các nhạc khí càng lớn có nghĩa là chất lượng âm thanh của bài nhạc sẽ càng cao. (Tổng hợp)
    * Supergroup là gì?
    "Supergroup" (siêu nhóm) là từ để chỉ nhóm nhạc với các thành viên từ các nhóm nhạc đã có tiếng tăm trước đó. Một trong những supergroup thành công nhất là Cream với các thành viên Eric Clapton (nhóm John Mayall''s Bluesbreakers), Jack Bruce và Ginger Baker (Graham Bond Organisation). Bên cạnh đó là nhóm nhạc mà cái tên cũng đủ cho thấy tính chất supergroup, đó là Crosby, Stills, Nash & Young với David Crosby (nhóm Byrds), Stephen Stills (nhóm Buffalo Springfield), Graham Nash (nhóm Hollies), Neil Young (cũng thuộc nhóm Buffalo Springfield). Tuy nhiên, hầu hết các supergroup đều không đạt được độ thành công mà các thành viên đã có được trước đó. Traveling Wilburys với các "đại gia" như Roy Orbison, Bob Dylan, Tom Petty, George Harrison và Jeff Lynne không thể nào sánh được với những gì mà các tên tuổi này tạo ra trước đó. Các thành viên càng nổi tiếng càng có "cái tôi" quá lớn, có phong cách riêng nên khó hòa hợp lại. Supergroup đôi khi là sự lắp ghép khá khiêng cưỡng, là dự án tay trái của các thành viên khi nhóm nhạc chính của họ tạm ngưng hoạt động. Một số supergroup quen thuộc là: Asia, Contraband, Liquid Tension Experiment, Oysterhead... (SGGP)

    Trích từ http://www.saigonnet.vn/

Chia sẻ trang này