1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các trận đánh kinh điển

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi cuongnsls, 14/07/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. cuongnsls

    cuongnsls Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2007
    Bài viết:
    359
    Đã được thích:
    1
    Do thông tin liên lạc hoàn toàn không đầy đủ, phần lớn các chỉ huy quân Anh không nắm được diễn biến của trận đánh. Một báo cáo sai lầm rằng sư đoàn 29 đã thành công ở Beaumont Hamel dẫn đến việc trung đoàn dự bị được yêu cầu tiến theo để hỗ trợ. Trung đoàn số 1 Newfoundland không có khả năng tiến đến các chiến hào tuyến đầu, do vậy phải sử dụng chiến hào dự trũ. Hầu hết toàn bộ trung đoàn bị giết trước khi tiến qua toàn bộ phòng tuyến. Với con số thương vong lên đến 91%, đây là trung đoàn có số thương vong tồi tệ thứ hai trong ngày. Trong số 801 người tham dự trận đánh, hơn 500 người chết, chỉ còn 68 người không bị thương. Hầu như toàn bộ thế hệ sĩ quan chỉ huy tương lai của trung đoàn bị chết. Vì nỗ lực đó, trung đoàn số 1 Newfoundland được vua George V đổi tên thành Trung đoàn hoàng gia Newfoundland
    Bước tiến của quân Anh theo con đường Albert-Bapaum cũng thất bại, bất kể hai quả mìn ở La Boisselle đã phát nổ. Ở khu vực này, một bi kịch khác cho Trung đoàn Tyneside Irish của sư đoàn 34 khi họ xuất kích khoảng một dặm trước hàng rào phòng ngự của quân Đức, trong một tầm súng máy của lực lượng phòng thủ. Họ nhanh chóng bị quét sạch trước khi đến vượt tuyến chiến hào phía trước của chính mình
    Ở khu vực phía nam của con đường, các sư đoàn Pháp thành công hơn. Ở đây, lực lượng Đức phòng ngự tương đối yếu. Bên cạnh đó, pháo binh Pháp, với sự vượt trội về số lượng cũng như kinh nghiệm so với người Anh, đã thành công cao độ. Tất cả các mục tiêu cho ngày thứ nhất của người Pháp từ thị trấn Montauban cho đên sông Somme đều được hoàn thành. Mặc dù nhiệm vụ của quân đoàn 20 Pháp chỉ là đóng vai trò hỗ trợ trong khu vực, nhưng trong trường hợp này, chính họ lại là những người dẫn đầu. Ở phía nam của sông Somme, các lực lượng Pháp tiến hành rất tốt, trên cả mức dự định ban đầu. Quân đoàn 1 thuộc địa xuất kích khỏi chiến hào lúc 9h30 sáng như một phần của hành động nghi binh nhằm lừa quân Đức. Hành động nghi binh này thành công đến mức, giống những các lực lượng khác của Pháp, họ tiến quân quá dễ dàng. Chỉ trong vòng một giờ, quân đoàn thuộc địa chiếm Fay, Dompierre, Becquincourt, và chiếm được một phần của đỉnh Flaucourt, thậm chí không cần đến cả quân tiếp viện. Ở bên phải của quân đoàn thuộc địa, quân đoàn 25 cũng bắt đầu tiến công vào lúc 9h30, nhưng chỉ có duy nhất một sư đoàn ở tuyến đầu và tiến quân được được ít. Tuy nhiên, tất cả các mục tiêu cho ngày đầu tiên đều hoàn thành. Các chiến hào của quân Đức hoàn toàn bị tràn ngập. Người Đức hoàn toàn bị bất ngờ bởi cuộc tấn công. Quân Pháp tiến đươc 1.5 km ở bờ nam và 2 km ở bờ bắc
    Nhìn chung, ngày đầu tiên của trận Somme là một thất bại. Tổn thất của người Anh là 19.240 chết, 35.493 bị thương, 2.152 mất tích, 585 bị bắt làm tù binh. Tổng số thiệt hại là 57.470 quân. Số lượng sĩ quan chịu tổn thất đặc biệt nặng nề, do quân Đức đã được huấn luyện để nhận biết quân phục của họ, vốn khác biệt so với các hạ sĩ quan và binh lính. Tổn thất của phía Đức trong ngày 1 tháng 7 tương đối khó ước đoán. Người ta tính rằng, quân Đức chịu thiệt hại khoảng 8.000 lính trên trận tuyến với quân Anh, 2.000 trong số đó bị bắt làm tù binh chiến tranh. Sự chênh lệch giữa thiệt hại của Đức và Anh cao nhất là ở khu vực Ovillers với tỉ lệ là 18/1. Lực lượng tấn công là Sư đoàn 8 quân Anh chịu tổn thất đến 5.121 quân, trong khi lực lượng phòng ngự quân Đức là Trung đoàn 180 chỉ mất có 280 quân.
  2. cuongnsls

    cuongnsls Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2007
    Bài viết:
    359
    Đã được thích:
    1
    Vào 22h00 ngày 1 tháng 7, trung tướng Henry Rawlinson, chỉ huy của tập đoàn quân 4 Anh, phát lệnh tiếp tục tấn công. Sự lộn xộn và kém cỏi về thông tin của hệ thống chỉ huy làm người Anh mấy mấy ngày mới nhận ra mức độ thiệt hại kinh khủng. Tướng Haig chỉ định trung tướng Hubert Gough chịu trách nhiệm khu vực phía bắc, trong khi tập quan đoàn quân số 4 chịu trách nhiệm khu vực phía nam. Tướng Gough nhận ra được sự thất bại ở mặt trận của mình và ngay lập tức cấm tổ chức các trận tấn công cho đến ngày 3 tháng 7.
    Người Anh cũng bỏ qua cơ hội ở phía nam của con đường Albert-Bapaume, nơi mà học đã có những thành công đầu tiên. Ở đây phòng tuyến quân Đức giữa Ovillers và Longueval có một lỗ hổng lớn trong một thời gian, điều mà sau này người ta mới biết. Vào ngày 3 tháng 7, một đơn vị trinh sát của sư đoàn 18 tiến sâu 2 mile vào trong vùng kiểm soát của người Đức mà không gặp bất cứ một kháng cự nào. Tuy nhiên, cơ hội này đã bị bỏ lỡ bở người Anh không có đủ lực lượng để tận dụng cũng như người Đức đã kịp thời lấp lỗ hổng đó.
    Khu Mametz Wood vẫn còn trống đến ngày 3 tháng 7, tuy nhiên bị người Đức chiếm vào ngày hôm sau. Người Anh chỉ giành lại đựoc vùng đất này cho đến ngày 10 tháng 7, trả giá đắt sau hai nỗ lực tấn công. Các vị trí khác như High Wood và Delville Wood, giành được trong ngày đầu tiên, phải đổi lại bằng một số lượng lớn sinh mạng của quân Anh cho đến khi hoàn toàn chiếm được vào tháng 8 và tháng
  3. cuongnsls

    cuongnsls Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/02/2007
    Bài viết:
    359
    Đã được thích:
    1
    Nguồn
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_Somme_(1916)
  4. TulipMan

    TulipMan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    16/02/2003
    Bài viết:
    1.766
    Đã được thích:
    0
    Bác này chắc mới vào box LS-VH
    Rất chăm chỉ, cần cù nhẫn nại copy n paste.
    Đưa cả Tam Quốc chí vào chung với chính sử thì đúng là vô đối
    Kiểu này có khi em cũng xin phép các bác đưa trận
    Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung
    Tôn Ngộ Không đại chiến Hồng Hài Nhi, Ngưu Ma Vương vào cùng
  5. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    copy and Paste
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_V%C3%B2ng_cung_Kursk
    Trận Vòng cung Kursk - Trận đấu tank lớn nhất WW II
    Trận vòng cung Kursk là trận đánh lớn xảy ra vào tháng 7 và tháng 8 năm 1943 trong Thế chiến thứ hai giữa quân đội Xô Viết và quân đội Đức Quốc Xã tại vùng đồng bằng giữa ba thành phố Kursk (tiếng Nga: sf?ск), Belgorod ('елго?од) và Oriol (z?'л) thuộc miền trung nước Nga. Trận đánh này nổi tiếng là trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh, đỉnh điểm trong trận đánh này ngày 12 tháng 7 hai bên đã triển khai đánh nhau tại cánh đồng Prokhorovka (Y?о.о?овка) trên 1.200 xe tăng và pháo tự hành diệt tăng.
    Với thắng lợi thuộc về phía quân đội Xô Viết, Trận vòng cung Kursk là bước ngoặt lớn trong Chiến tranh Xô-Đức cũng như trong Thế chiến thứ hai, sau trận đánh lớn này quân đội Đức Quốc xã đã mất hẳn quyền chủ động tấn công chiến lược và rơi vào phòng thủ bị động cho đến khi đầu hàng vào tháng 5 năm 1945.
    Diễn biến
    Sau thất bại lớn tại trận Stalingrad tháng 2 năm 1943, nước Đức Quốc Xã vẫn còn rất mạnh và còn rất nhiều tiềm lực. Adolf Hitler quyết định tổ chức một trận đánh lớn vào mùa hè năm 1943 để giành lại thế chủ động chiến lược. Chiến dịch được mang tên Citadel (Pháo đài). Điểm quyết chiến sẽ là khu vực vòng cung Kursk vì hình dạng chiến tuyến ở đây rất thuận lợi cho một chiến dịch tấn công bao vây: phòng tuyến của quân đội Liên Xô tạo thành một vòng cung lồi ăn sâu về phía địch: có đáy vòng cung là đường nối giữa ba thành phố: ở phía bắc là Oriol phía nam là Belgorod, còn Kursk là thành phố trung tâm nằm trong lòng hậu phương quân phòng thủ Xô Viết. Quân Đức dự định bằng hai mũi tiến công từ Belgorod và Oriol đánh thẳng đến Kursk cắt khúc lồi vòng cung Kursk, bao vây và tiêu diệt số quân Xô Viết đang phòng thủ tại đây.
    T-34 Nga tấn côngCánh quân phía bắc của Đức thuộc cụm tập đoàn quân Trung tâm do thống chế Đức Günther von Kluge chỉ huy theo kế hoạch sẽ từ Oriol đánh thẳng xuống phía nam theo phương Oriol ?" Kursk. Cánh nam thuộc cụm tập đoàn quân Nam do thống chế Erich von Manstein đánh lên phía bắc theo phương Belgorod ?" Kursk. Các lực lượng quân Đức tại toàn mặt trận khoảng 90 vạn quân, 2.700 xe tăng của 15 sư đoàn xe tăng, 10.000 đại bác và súng cối, 2.050 máy bay. Đây là là các đơn vị xung kích mạnh nhất của Đức lúc đó tập trung lại. Đặc biệt phía Đức đặt rất nhiều hy vọng vào các vũ khí mới là xe tăng hạng nặng con cọp và con báo. Cánh nam của Đức mạnh hơn có 9 trong tổng số 15 sư đoàn xe tăng và là các sư đoàn xe tăng thiện chiến và sung sức nhất của Đức trong đó có 3 sư đoàn xe tăng SS (Đầu lâu chết, Adolf Hitler và Đế chế). Do các khúc mắc trong việc đảm bảo số xe tăng con cọp cho chiến dịch nên Hitler quyết định lùi trận đánh lại sau hai tháng cho đến tận tháng 7 năm 1943. Trong trận chiến này của Đức yếu tố bí mật, bất ngờ đã không còn, tình báo Liên Xô đã biết trước về ý định và thời điểm tiến công và quân đội Xô Viết đã tích cực phòng bị.
    Phía quân đội Xô Viết đối mặt với khối quân cánh bắc của Đức là phương diện quân Trung tâm của đại tướng tư lệnh Konstantin Konstantinovich Rokossovsky, đại diện đại bản doanh: nguyên soái Georgi Konstantinovich Zhukov). Đối mặt với cánh nam của Đức là phương diện quân Voronezh ?" tư lệnh: đại tướng Nikolai Fyodorovich Vatutin, đại diện đại bản doanh: nguyên soái Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky. Trong hậu tuyến phòng ngự Xô Viết có phương diện quân Thảo nguyên của Thượng tướng tư lệnh Ivan Stepanovich Koniev làm dự bị chiến dịch và phản công sau này. Số lượng quân đội Xô Viết phòng ngự tại khu vực vòng cung Kursk lên đến khoảng 1,5 triệu binh sĩ khoảng 4.000 xe tăng và các lực lượng pháo binh không quân đều vượt trội so với phía Đức.
    Quân đội Xô Viết chủ trương chủ động chuyển sang phòng ngự dựa vào trận tuyến phòng thủ chống tăng có chiều sâu nhiều tầng nhiều lớp để bẻ gẫy và tiêu hao mũi nhọn xe tăng của đối phương sau đó chuyển sang phản công. Để chống lại lực lượng tiến công của Đức phía Liên Xô đã biến vòng cung Kursk thành một trận địa phòng ngự vô cùng kiên cố có nhiều tầng nhiều lớp có chiều sâu khoảng hơn 100 km dày đặc các vật cản, mìn chống tăng, hàng rào, mìn chống bộ binh và hệ thống liên hoàn các vị trí pháo chống tăng và bộ binh phòng ngự. Ngay phía sau tuyến phòng ngự là các tập đoàn quân xe tăng và bộ binh cơ giới làm nhiệm vụ dự bị sẵn sàng trám lỗ bị quân địch chọc thủng và chuẩn bị phản công.
    Xe tăng Con cọp của Đức xung phong tiêu diệt T-34 NgaNgày 5 tháng 7 trận đánh bắt đầu: khai thác tù binh biết chắc chắn cuộc tấn công của Đức sẽ bắt đầu lúc 3 giờ sáng, vào trước 3 giờ sáng tất cả các cỡ hoả lực pháo binh mặt trận của quân đội Xô Viết đã đánh phủ đầu vào các vị trí tập trung xuất phát tấn công của Đức. Đòn phản chuẩn bị này đã rất hiệu quả: quân tiến công đã chịu tổn thất rất lớn và phải hoãn cuộc tấn công lại nhiều giờ và khi tiến công không còn độ sắc bén vốn có nữa.
    Cuộc tiến công của Đức đã diễn ra rất vất vả không còn sắc nhọn xuyên phá như vốn có của quân đội Đức trước đây nữa. Trong 1 tuần cánh bắc của thống chế Kluge chỉ thâm nhập được vào trận địa địch 15-20 km và có chỗ còn bị đối phương phản công đánh bật trở lại. Tại cánh nam của thống chế von Manstein quân Đức sắc bén hơn nhưng cũng không tạo nên được đột phá, sau 1 tuần cũng chỉ tiến sâu được 40-50 km. Cuộc chiến diễn ra rất căng thẳng trên mặt đất và trên không.
    Ngày 11 tháng 7 hai phương diện quân Tây và Bryansk của quân đội Xô Viết bắt đầu phản công. Đây là các lực lượng phía bắc tiếp giáp với vòng cung Kursk đe doạ đánh vào sườn trái cánh quân của von Kluge, cánh Bắc của thống chế von Kluge đã phải ngừng tấn công và chuyển sang phòng ngự. Để tạo đột phá cho chiến dịch và giải gánh nặng cho cánh bắc của thống chế von Kluge, ngày 12 tháng 7 quân Đức tung toàn lực xe tăng thiết giáp còn lại vào trận tại cánh nam của thống chế von Manstein. Xe tăng Đức đã chọc thủng được phòng thủ của phương diện quân của Vatutin và tiến lên phía Bắc hướng đến Kursk. Đứng trước tình hình quân Đức chọc thủng phòng tuyến, cùng ngày Bộ chỉ huy Xô Viết quyết định tung quân dự bị là tập đoàn quân xe tăng số 5 của trung tướng Pavel Alekseyevich Rotmistrov và tập đoàn quân cận vệ số 5 của trung tướng Aleksey Semenovich Dzadov thuộc phương diện quân Thảo nguyên vào chiến đấu để vô hiệu hoá mũi xe tăng đang định thọc sâu của quân Đức.

    Xe tăng T-34 của Hồng quân đang tời kéo 1 chiếc T-34 Liên Xô bị xe tăng Đức bắn hỏng khi trận đánh vẫn đang tiếp diễnCác đơn vị xe tăng hai bên lăn xả vào nhau tại làng Prokhorovka trận đánh trở thành trận đấu xe tăng lớn nhất trong lịch sử chiến tranh của nhân loại, trận đấu tăng này có khoảng 1.200 xe tăng và pháo tự hành diệt tăng của 2 phía tham gia đánh nhau hỗn loạn. Đến cuối ngày phía Đức thiệt hại hơn 300 xe tăng và phía Liên Xô khoảng 500 xe nhưng quân Đức đã kiệt sức không còn lực lượng dự bị để có thể phát triển tiến công được nữa. Hơn nữa vào lúc này quân Đồng Minh Anh?"Mỹ đã đổ bộ vào Ý, Hitler buộc phải rút bớt các lực lượng xe tăng sang mặt trận Ý và ra lệnh chấm dứt tấn công tại vòng cung Kursk.
    Quân Đức trong trận đọ tăng ở KurskĐến lúc này trận Kursk tuy chưa chấm dứt nhưng phía Đức về cơ bản đã thất bại phải lui về phòng thủ từ bỏ tham vọng giành quyền chủ động tiến công và bao vây tiêu diệt cụm quân Kursk của đối phương. Đến đây bắt đầu giai đoạn phản công của quân đội Xô Viết.
    Liên tiếp trong hơn 1 tháng tiếp theo quân đội Đức phải giật gấu vá vai các lực lượng vất vả chống đỡ trước sức tiến công của Hồng quân. Tuy đã bỏ tiến công chuyển sang phòng ngự nhưng quân Đức cũng không đủ lực lượng để chống lại các phương diện quân Xô Viết phản công theo một kế hoạch đã được định trước. Đó là các chiến dịch tấn công mang tên Kutuzov và Rumyantsev với sức mạnh áp đảo đối phương. Lần lượt Belgorod và Oriol rơi vào tay Hồng quân vào ngày 5 tháng 8 và cuối cùng 23 tháng 8 năm 1943 quân đội Xô Viết chiếm Kharkov, thành phố lớn thứ hai, cố đô của Ukraina, thì chiến dịch tiến công của họ mới dừng lại. Chấm dứt giai đoạn phản công và cả trận chiến vòng cung Kursk.
    Từ đó trở đi quyền chủ động chiến lược đã nằm chắc trong tay quân đội Xô Viết, cho đến cuối chiến tranh chỉ có phía Xô Viết tấn công chiến lược còn Đức quốc Xã bị động chống đỡ cho tới ngày bị đánh bại hoàn toàn.
    Kết quả
    Trận vòng cung Kursk là trận đánh bước ngoặt của Chiến tranh Xô-Đức và Thế chiến thứ hai vì ngoài quy mô to lớn của nó nơi hai bên đánh nhau với quân số nhiều triệu quân, lần đầu tiên phía Liên Xô giành thắng lợi trong một chiến dịch mùa hè khi họ đã biết cách và có đủ phương tiện để khắc chế được sức mạnh thiết giáp vô địch của Đức. Tại đây sức mạnh xưa nay ghê gớm nhất của quân đội Đức là các mũi thọc sâu bằng xe tăng thiết giáp đã bị đối phương chặn đứng và phản công cũng chính bằng các đòn đánh bằng xe tăng thiết giáp, quân đội Xô Viết đã đánh thắng được quân Đức bằng chính võ của địch.
    Chiến sĩ Hồng quân trong trận KurskTrận Kursk đã tiêu diệt được xương sống thiết giáp của quân đội Đức và những đơn vị tinh nhuệ nhất của Đức. Cùng với thất bại tại trận Stalingrad và thất bại lần này quân Đức không thể gượng lại nổi họ vĩnh viễn mất đi quyền chủ động chiến lược từ nay chỉ còn bị động lùi dần và chống đỡ cho đến khi đầu hàng tại Berlin tháng 5 năm 1945.
    Trận Kursk đã làm rõ cho thế giới thấy kết cục thất bại không tránh được của nước Đức phát xít tuy rằng họ còn đang chiếm đóng gần trọn châu Âu.
  6. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Copy And Paste:
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%ADn_Stalingrad
    Trận Stalingrad - trận đấu kinh điển về nghệ thuật phòng thủ và phản công
    Trận Stalingrad (1942-1943) là trận đánh lớn của Chiến tranh Xô-Đức xảy ra trong thời gian Thế chiến thứ hai giữa quân đội Đức và hồng quân Liên Xô vì thành phố Stalingrad (nay là Volgograd) ở miền Nam nước Nga.
    Đây là trận đánh đẫm máu nhất có quy mô cực kỳ to lớn mà cho đến nay vẫn là kỷ lục cho mọi cuộc chiến tranh. Trận đánh có quân số của mỗi bên huy động đều gồm nhiều triệu quân và bên nào cũng có số binh sĩ chết lớn chưa kể số bị thương và mất tích. Trận đánh diễn ra trong khoảng hơn nửa năm và thực chất là hai giai đoạn nối tiếp nhau:
    Giai đoạn đầu là cuộc tiến công của quân đội Đức trong chiến cục mùa hè năm 1942 và kết thúc bằng việc quân Đức tiến được tới bờ sông Volga tấn công và bao vây thành phố Stalingrad mà không chiếm được (từ giữa tháng 7 đến 18 tháng 11 năm 1942), hay còn gọi là trận phòng thủ Stalingrad.
    Giai đoạn hai là cuộc phản công của quân đội Xô viết bao vây và tiêu diệt quân Đức (từ 19 tháng 11 năm 1942 đến 2 tháng 2 năm 1943).

    Hoàn cảnh dẫn đến trận đánh Stalingrad
    Sau thất bại trong việc đánh chiếm Moskva và bị đẩy lui trong mùa đông năm 1941 Bộ chỉ huy Đức, đứng đầu là Adolf Hitler, nhận thấy rằng không thể đánh thắng Liên bang Xô viết bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng. Để đánh thắng phía Đức phải tính đến cách đánh tiêu hao: trước tiên phải thủ tiêu các nguồn lực vật chất để Liên Xô suy kiệt trước khi bị đánh bại hoàn toàn. Chiến cuộc mùa hè năm 1942 diễn ra với ý tưởng chỉ đạo chiến lược như vậy và với mục tiêu chiếm những nguồn cung cấp chiến lược quan trọng hàng đầu của Liên Xô - đặc biệt là dầu mỏ tại Kavkaz, lúa mì và các nguyên liệu công nghiệp sống còn là điện và than. Tất cả những thứ đó đều nằm ở phía Nam nước Nga.
    Chuikov, Tư lệnh quân Liên XôMục tiêu chiến lược của chiến cuộc 1942 là hướng dãy núi Kavkaz mà Baku - trung tâm công nghiệp khai thác dầu mỏ lớn nhất của Liên Xô - là mục tiêu tối thượng. Mùa hè năm 1942 Bộ chỉ huy Đức phát động chiến dịch Kavkaz. Để tiến công chiến dịch Kavkaz phía Đức thành lập hai cụm tập đoàn quân:
    Cụm A (Tư lệnh: Thống chế Wilhelm List) có nhiệm vụ trực tiếp đánh Kavkaz. Cụm quân này gồm tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 các tập đoàn quân dã chiến số 11 và 17 của Đức và số 8 của Ý;
    Cụm B (Tư lệnh: Thống chế Fedor von Bock) có nhiệm vụ phát triển tiến công theo hướng đông về phía sông Đông ("он Don) để chiếm các nguồn đất đai trù phú của miền nam nước Nga, nhưng nhiệm vụ chính của cụm quân này là bảo đảm an ninh cho sườn trái của cụm quân của List. Cụm quân này gồm tập đoàn quân xe tăng số 4 (sau này được tăng cường từ cụm A), các tập đoàn quân số 2 và 6 của Đức, và số 2 của Hungary, tập đoàn quân số 8 của Ý giữa tháng 9 được điều từ cụm A sang.
    Cả hai cụm được yểm trợ bằng tập đoàn không quân số 4.
    Trong việc lập kế hoạch chiến cuộc hè 1942, Bộ tư lệnh tối cao Đức đã phạm sai lầm nghiêm trọng kết quả của sự đánh giá quá thấp đối thủ và quá cao chính mình. Họ đã vi phạm nguyên tắc tối quan trọng của nghệ thuật chiến tranh là nguyên tắc tập trung binh lực. Mặc dù đã có sự cảnh báo của các tướng lĩnh có kinh nghiệm nhưng Quốc trưởng Adolf Hitler đã bỏ qua những điều trên. Quân Đức thực hành tiến công đồng thời theo hai hướng ngày càng xa rời nhau, điều này là tiền đề để bị đối phương bao vây tiêu diệt sau này.
    Diễn biến trận đánh

    Lính Đức trong trận StalingradChiến dịch Kavkaz của Đức đã diễn ra không suôn sẻ. Rõ ràng Bộ tổng chỉ huy quân đội Đức đã đánh giá sai về tình hình của quân mình và của đối phương; họ cũng không thấy hết những khó khăn của việc tác chiến vùng núi - nơi chỉ một lượng nhỏ quân phòng thủ có thể chống lại rất đông quân tấn công và các lực lượng cơ động của Đức không thể phát huy hết tác dụng. Quân Đức, sau những thắng lợi ban đầu tại vùng đồng bằng, khi bắt đầu tiếp cận dãy núi lớn Kavkaz đã mất đà tiến công, dần dần bế tắc trên hướng chính và bị chặn lại tại tuyến sông Terech và các đèo ngang của dãy Kavkaz.
    Ngược lại, tại hướng tấn công thứ yếu của cụm quân B thì tình hình lại rất thuận lợi cho quân Đức. Trên địa hình đồng bằng quân Đức rất giỏi trong tiến công cơ động. Xe tăng, thiết giáp của Đức lại một lần nữa phát huy tác dụng đánh thọc sâu rất hiểm ác phá tan các tuyến phòng thủ của quân đội Xô viết, đánh bại các phương diện quân Bryansk, Nam và Tây nam và tạo nên một cuộc tiến như vũ bão về phía đông. Quân phòng thủ Xô viết hoảng loạn rối trí, mất tuyến phòng thủ của mặt trận sông Don rồi bị đuổi dài về phía đông. Dường như không gì cản nổi cuộc tiến công của phía Đức về phía sông Volga. Bộ chỉ huy Đức liền chuyển hướng tiến công: lấy cụm B làm hướng tấn công chính và điều các đơn vị từ cụm A sang để phát triển thành quả tiến công. Mục tiêu chính bây giờ là thành phố Stalingrad trên sông Volga.
  7. trongthanhdhv

    trongthanhdhv Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2005
    Bài viết:
    300
    Đã được thích:
    0
    Phòng thủ Stalingrad
    Binh sỹ Xô viết đang tấn công trong thành phố Stalingrad Từ 22 tháng 6 đến 6 tháng 7 năm 1942 quân Đức mở đầu tấn công lớn tại phía nam chiến trường bằng trận Voronezh: tập đoàn quân xe tăng số 4 của Hermann Hoth đánh tan và đẩy lùi lực lượng của phương diện quân Tây Nam và phương diện quân Voronezh, chiếm Voronezh. Quân Đức đã đánh tan phòng tuyến Sông Đông của quân đội Xô Viết, đã tiến đến bờ sông Don loại bỏ được mối nguy hiểm bị Hồng quân đánh vào sườn từ bàn đạp này.
    Bắt đầu từ đầu tháng 7 năm 1942 cụm tập đoàn quân B của Đức với lực lượng chủ lực là tập đoàn quân dã chiến số 6 của Friedrich Paulus phát triển tấn công ào ạt tại vùng trung lưu sông Don về phía đông tiến về phía sông Volga. Ngày 17 tháng 7 năm 1942 các đơn vị tiên phong của Tập đoàn quân số 6 đã giao chiến với các đơn vị phòng thủ Stalingrad tại phòng tuyến sông Chir và sông Shimla trận đánh lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến bắt đầu.
    Bộ chỉ huy Đức nhận thấy chỉ riêng tập đoàn quân Paulus chưa đủ sức để chiếm Stalingrad nên ngày 31 tháng 7 năm 1942 Hitler ra lệnh điều tập đoàn quân xe tăng số 4 từ cụm tập đoàn quân A sang cho cụm B để tăng cường tấn công Stalingrad và từ 2 tháng 8 tập đoàn quân xe tăng này bắt đầu tấn công phía tây nam thành phố. Từ nay trọng tâm chú ý của Bộ chỉ huy Đức dồn chủ yếu cho chiến trường Stalingrad. Càng ngày Stalingrad càng thu hút nhiều binh lực của Đức từ các chiến trường khác: từ chỗ ban đầu chỉ có 13 sư đoàn với khoảng 27 vạn quân đến cuối tháng 9 năm 1942 tại hướng Stalingrad đã có 80 sư đoàn quân Đức và đồng minh Hungary, Ý và Romania chiếm tỷ trọng rất lớn trên toàn chiến tuyến Xô ?" Đức. Phía Đức có 1260 xe tằng, 17000 pháo và cối, 1640 máy bay. Còn phía Liên Xô đã đưa các lực lượng dự bị chiến lược là tập đoàn quân 62, 63, 64, tập đoàn quân cận vệ số 1 và các tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 và rất nhiều các đơn vị khác. Nơi đây thành khu vực tập trung binh lực lớn nhất của cả hai bên trận đánh có quy mô vượt cả trận Moskva năm 1941.
    Theo kế hoạch tấn công của phía Đức tập đoàn quân số 6 tấn công tại mặt bắc và tây bắc Stalingrad và tập đoàn quân xe tăng số 4 tại phía nam và tây nam. Sau khi đột phá đến bờ sông Volga hai cánh quân này sẽ đánh dọc theo bờ sông tiến ngược chiều nhau và hợp vây quân đội Xô Viết phòng thủ thành phố.
    Để chống lại tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, Hồng quân thành lập phương diện quân Đông Nam (từ sau 28 tháng 9 phương diện quân này đổi tên thành phương diện quân Stalingrad) tư lệnh thượng tướng Andrey Ivanovich Eremenko gồm các tập đoàn quân 64, 57, 51 và tập đoàn quân cận vệ số 1 với tập đoàn quân 64 ở trung tâm phòng ngự. Phương diện quân này phòng ngự tại hướng nam và tây nam Stalingrad. Phương diện quân Đông Nam đã phòng thủ thắng lợi ngày 9 và 10 tháng 8 đã phản công mãnh liệt bắt tập đoàn quân xe tăng Đức chuyển sang phòng ngự. Đến 17 tháng 8 tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức đã bị chặn lại tại tuyến phòng ngự vành đai thành phố và đến ngày cuối cùng cũng không thể đột phá được tới sông Volga.
    Quân Đức tấn côngChiến sự diễn ra mãnh liệt và căng thẳng và quyết định nhất là tại cánh bắc và tây bắc nơi đối đầu với tập đoàn quân Đức số 6. Để phòng thủ hướng này Liên Xô thành lập phương diện quân Stalingrad tư lệnh đầu tiên là nguyên soái Semen Konstantinivich Timoshenko từ ngày 23 tháng 7 là trung tướng Vasili Nikolaevich Gordov và sau đó là trung tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky (từ 28 tháng 9 phương diện quân này đổi tên thành phương diện quân Sông Don). Trong đó tập đoàn quân 62 là lực lượng chịu áp lực trực tiếp mạnh nhất của quân Đức. Tại đây tập đoàn quân dã chiến số 6 Đức cố gắng đánh tách tập đoàn quân 62 Xô Viết ra khỏi khối quân còn lại và tiêu diệt tập đoàn quân này. Quân đội Xô Viết dưới áp lực quá lớn của đối phương buộc phải lui dần về phía thành phố. Để chặn đứng sự rút lui Stalin ra mệnh lệnh "không lùi một bước" và nghiêm cấm rút quân qua sông Đông ra khỏi khúc ngoặt của con sông này. Các công tác đảng, chính trị được tiến hành tại chiến hào để nâng cao tinh thần binh sỹ mặt khác biện pháp kỷ luật khắt khe nhất được thi hành: mọi sỹ quan và binh sỹ rút lui không có mệnh lệnh bằng văn bản đều bị bắn bỏ tại chỗ. Tuy nhiên cuối cùng trước nguy cơ bị bao vây tại khúc ngoặt của sông Don ngày 19 tháng 8 tập đoàn quân 62 và 64 buộc phải rút qua bờ trái sông Don và bị ép chặt vào thành phố lúc này đã biến thành một pháo đài khổng lồ.

    Quân lính Xô Viết tại StalingradNgày 19 tháng 8 quân Đức tổ chức tổng tấn công thành phố và ngày 23 tập đoàn quân số 6 tại cánh bắc thành phố đã đến được bờ sông Volga đã tách được tập đoàn quân 62, 64 ra khỏi các lực lượng Xô Viết và đánh ngoặt sang phải theo bờ sông định đánh vào lưng bao vây hai tập đoàn quân 62 và 64. Trong ngày này không quân Đức đã dùng 2.000 lần chiếc máy bay ném bom cháy gây ra được trận bão lửa huỷ diệt Stalingrad. Tình hình của tập đoàn quân 62 Xô Viết tưởng chừng tuyệt vọng nhưng tập đoàn quân này vẫn kháng cự rất ngoan cường và được tiếp viện liên tục từ phía bên kia sông Volga mặc dù việc vượt sông tiếp viện cho thành phố đi liền với thương vong rất lớn, Pháo binh Xô Viết từ bên kia sông cũng tập trung bắn phá mãnh liệt các vị trí Đức. Ngày 12 tháng 9 chiến sự đã chuyển vào trong thành phố hai bên đánh nhau rất ác liệt thương vong cực kỳ lớn. Cuộc chiến này điển hình của tính chất không khoan nhượng cả hai bên không chấp nhận bắt tù binh. Các công nhân, dân thành phố và phụ nữ cũng tham gia đánh nhau trực tiếp, tại các công xưởng của Stalingrad xe tăng được sản xuất lăn thẳng ra chiến tuyến mà còn chưa được quét sơn và lắp ráp các thiết bị phụ.
    Những lực lượng tinh nhuệ nhất của Hồng quân được điều tới tham chiến trong thành phố đổ nátChiến sự đặc biệt ác liệt và đẫm máu cả trên mặt đất và trên không: cả hai bên đã chiến đấu hết sức dũng cảm và quên mình. Quân Đức một mặt theo lệnh của Führer ("Lãnh tụ", tức Hitler) phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm. Quân đội Xô viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường, họ đã bị bao vây tất cả các phía, mà sau lưng là sông lớn Volga không còn lùi đi đâu được nữa. Từng ngôi nhà, từng tầng hầm để chiếm đươc đều phải đánh nhau đẫm máu giành đi giật lại nhiều lần. Trong trận đánh phòng thủ Stalingrad, nổi bật nhất là tập đoàn quân 62 của Tư lệnh Trung tướng Vasily Ivanovich Chuikov. Đơn vị này đã đứng vững trong thành phố bảo vệ từng thước đất thực sự theo đúng khẩu hiệu "không lùi một bước".
    Ngày 15 tháng 10 quân Đức ngay trong thành phố đột phá được tới bờ sông Volga tại phía nam nhà máy Barrikada nhưng đó đã là nỗ lực cuối cùng của quân Đức: cũng chính vào lúc này sức mạnh tiến công của quân đội Đức đã cạn kiệt. Chiến sự đi vào ổn định - quân Đức đã đi quá xa nguồn tiếp ứng của mình và việc đánh nhau trong thành phố không phải là lợi thế của quân tấn công: quân Đức đã mất hết lợi thế hoả lực và tấn công cơ động.
    Trận phản công Stalingrad

    Việc đánh chiếm thành phố vẫn tiếp tục cho đến 18 tháng 11 nhưng không thành công. Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã đến, quân Đức đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp vận của mình. Tình hình quân Đức thực sự đã nguy ngập chí ít thì cũng báo hiệu cái gì đó như mùa đông năm 1941.
    Trong khi phía Đức đang sa lầy trong việc chiếm thành phố thì quân đội Xô Viết đã tập trung một lực lượng lớn sẵn sàng phản công. Kế hoạch tấn công đã được Bộ tổng tư lệnh quân đội Xô Viết soạn thảo kỹ lưỡng có tính đến những kinh nghiệm xương máu của hơn một năm thất thế của quân đội Xô Viết. Trong việc soạn thảo kế hoạch này có dấu ấn cá nhân rất lớn của Đại tướng Georgi Konstantinovich Zhukov và Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky. Và lần này, cũng như mùa đông 1941 trong trận phản công tại Moskva, các lực lượng nòng cốt để phản công lại là các sư đoàn mới tinh, trang bị tốt, giàu sức sống của các quân khu Siberi và Viễn Đông đươc điều tới. Kế hoạch tấn công cũng rất hợp lý khi chọn các điểm chọc thủng tuyến phòng ngự của đối phương là các khu vực bố phòng của quân Romania, Ý và Hungary là các lực lượng có tinh thần và sức chiến đấu kém quân Đức.
    Ngày 19 tháng 11 năm 1942 tại cánh bắc mặt trận Stalingrad phương diện quân Tây Nam của tư lệnh trung tướng Nikolai Phedorovich Vatutin gồm các tập đoàn quân số 2, 5, 17, 21, tập đoàn quân xe tăng số 5 và tập đoàn quân cận vệ số 1 từ bàn đạp Seraphimovich đánh vào sườn trái của tập đoàn quân số 6 Đức tại khu vực bố phòng của tập đoàn quân Romania số 3. Sau một ngày tấn công phương diện quân Vatutin đã tiến sâu được 25-35 km. Ngày 20 tại cánh nam Stalingrad, phương diên quân Stalingrad của tư lệnh thượng tướng Andrei Ivanovich Eremenko gồm tập đoàn quân 51, 57 và 64 tấn công vào sườn phải tập đoàn quân xe tăng số 4 Đức tại vị trí bố phòng của tập đoàn quân Romania số 4 tại khu vực hồ Shasha. Sau khi chọc thủng tuyến phòng ngự đối phương các đơn vị cơ động của hai phương diện quân Xô Viết bằng hai mũi, thọc sâu bằng xe tăng kết hợp cùng bộ binh cơ giới với tốc độ rất cao tiến tới hợp vây tại khu vực Kalach khoảng 30 km về phía tây Stalingrad. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng tiến công đã gặp nhau tại Kalach và đã hợp vây hoàn toàn 22 sư đoàn đối phương, một bộ phận của tập đoàn quân xe tăng số 4 và toàn bộ tập đoàn quân số 6 Đức với khoảng 33 vạn quân đã rơi vào vòng vây siết chặt.
    Đồng thời với vòng vây phía trong, quân đội Xô Viết cũng tiến công về phía tây và phía nam để thành lập luôn vòng vây phía ngoài sẵn sàng đánh quân giải cứu. Adolf Hitler ra lệnh cho tư lệnh cụm tập đoàn quân sông Don, Thống chế Erich von Manstein, bằng mọi cách giải vây cho tập đoàn quân số 6. Mọi nỗ lực giải vây của Bộ chỉ huy Đức đều thất bại. Các mũi xe tăng Đức gặp phải vòng vây bên ngoài rất rắn chắc và linh hoạt của đối phương và đã không thể gặp được quân bị vây dù chỉ còn cách 40-45 km.
    Nhiệm vụ tiêu diệt lực lượng Đức bị vây được giao cho phương diện quân sông Don của tư lệnh trung tướng Konstantin Konstantinovich Rokossovsky. Phía bên trong vòng vây tập đoàn quân số 6 của quân Đức, tuy kháng cự dũng cảm nhưng thiếu tiếp tế, bị cô lập lại bị đối phương chia nhỏ thành hai mảnh không liên lạc được với nhau nên sức yếu dần bị tiêu diệt gần hết. Đến đầu tháng 2 năm 1943 bộ phận còn lại đã đầu hàng. Thống chế Paulus và gần 10 vạn binh sỹ bị bắt làm tù binh.
    Hậu quả
    Trận Stalingrad là bước ngoặt rất lớn về chính trị, quân sự và tâm lý của Đệ nhị thế chiến vì đây là lần đầu tiên quân đội vô địch của nước Đức phát xít bị đánh bại trong một trận đánh tiêu diệt lớn.
    Chiến thắng tại Stalingrad của Nga cũng là một cổ vũ lớn đối với các dân tộc ở châu Âu đang nằm dưới sự chiếm đóng của Phát xít Đức.
    Chiến sĩ Hồng quân StalingradVề phía Đức, tuy thất bại ở Stalingrad nhưng quân đội Đức còn rất mạnh và nhiều tiềm lực. Mùa hè năm 1943 (sau khoảng 3 tháng) quân Đức tổ chức trận đánh quyết định tại vòng cung Kursk để giành lại thế chủ động tiến công chiến lược nhưng một lần nữa quân Đức lại thua trận và sau lần này họ lún sâu vào thế bị động chống đỡ cho đến khi đầu hàng vào tháng 5 năm 1945.
    Sau khi Stalin chết (1953), cùng với trào lưu chống sùng bái cá nhân Stalin, ban lãnh đạo Liên Xô đã đổi tên thành phố Stalingrad thành Volgograd nhưng trận chiến vĩ đại ở đây vẫn mang tên là trận Stalingrad. Ngày nay tại thành phố Volgograd trên đồi Mamaev, đỉnh cao của thành phố, có khu tượng đài nổi tiếng rất to lớn để ghi nhớ trận đánh và tên của hơn một triệu chiến binh Xô Viết hy sinh trong trận đánh này.

Chia sẻ trang này