1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

    Em mời các bác đọc về cuộc đời và sự nghiệp của các tướng lĩnh QĐND Việt Nam! Nguồn tài liệu của em là quyển: Phỏng vấn Tướng lĩnh Việt Nam" của tác giả Phan Hoàng!

    Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa
    *Thưa Viện sĩ, ra Hà Nội tìm Viện sĩ thì được biết gia đình đã chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh?
    -Vâng, tôi vào trong này đã được 3 năm. Mắt đã mờ nên ít đi đâu. Năm ngoái-1993 tôi trở ra Hà Nội dự lễ mừng sinh nhật lần thứ 80 của mình, rồi vào lại. Ở đây không khí dễ chịu hơn. Thỉnh thoảng anh em, bạn bè đến chơi cũng vui.
    *Thưa Viện sĩ, cuộc đời và sự nghiệp của Trần Đại Nghĩa là cả một ?ohành trình bí mật?, mà nhiều người ngưỡng mộ muốm tìm hiểu?
    -Công việc của Trần Đại Nghĩa thì bí mật chứ đời thường chẳng có gì bí mật cả.
    *Nếu không có gì bí mật, xin Viện sĩ thổ lộ đội nét về mình.
    -Tôi sinh ngày 13-9-1913, tuổi Sửu, tại Vĩnh Long. Tên cha mẹ đặt là Phạm Quang Lễ. Mới 7 tuổi, tôi đã mồ côi cha. Nhà nghèo, chị gái tôi 8 tuổi đã phải nghỉ học để cùng má tôi tảo tần mua bán nuôi tôi ăn học. Thời đó, học trò nghèo mà được gia đình tạo điều kiện đến trường như tôi hiếm lắm, vì thế, thế hệ tôi đa số bị thất học. Cuộc sống hết sức nghèo khổ, tù túng. Cảnh đói khát, chết chóc diễn ra triền miên rất đau lòng. Tôi còn nhớ năm 1925, lúc tôi mới 12 tuổi, đi học qua cầu Thiềng Đức, hai lần tôi chứng kiến cảnh người nhảy xuống sông tự tử. Tôi ngạc nhiên hỏi vì sao, thì mọi người xung quanh bảo rằng do cuộc sống cơ cực đói khổ quá. Chế độ thuộc địa hà khắc của thực dân Pháp, lại thêm cường hào địa phương áp bức bóc lột khiến họ không chịu đựng nổi. Hình ảnh hai cái chết thương tâm ray rứt mãi trong lòng tôi, gây cho tôi nhiều suy nghĩ. Tôi bắt đầu nuôi ý tưởng đánh đuổi người Pháp để cho dân mình bớt khổ. Mà muốn đuổi được người Pháp ra khỏi đất nước mình thì phải có vũ khí.
    *Và Viện sĩ không theo học những ngành có thể thăng quan tiến chức, mà đã quyết tâm theo học ngành chế tạo vũ khí?
    -Vâng. Hành trình học tập của tôi là cả một chặng đường cam go. Từ năm, 1926 đến 1930, tôi xa nhà lên Mỹ Tho học. Chung lớp tôi có anh Phạm Hùng sau này là Thủ tướng đấy. Qua những giờ lịch sử, tôi được biết thêm về cụ Phan Chu Trinh và những phong trào chống Pháp. Tôi học khá giỏi về khoa học tự nhiên như toán, lý, hoá, cơ học. Tôi càng hiểu thêm: muốn đánh giặc phải có chiến lược, chiến thuật và vũ khí. Tôi chú tâm theo học môn chế tạo vũ khí cho bằng được. Từ năm 1930-1933 tôi lên Sài Gòn học ở trường Pétrus Ký. Tôi đỗ đầu tú tài bản xứ và tú tài Pháp cả hai môn triết và toán học, được học bổng đi Hà Nội nhưng tôi không đi, vì ở Việt Nam không có trường dạy về vũ khí và cũng không có tài liệu. Tôi trở về Mỹ Tho làm thơ ký. Thời gian này tôi quen nhà báo yêu nước Vương Quan Ngươu, ông vận động và xin cho tôi học bổng 1 năm tại Pháp vào cuối tháng 9-1935. Học bổng này là của hội phụ huynh học sinh người Pháp và người Việt có quốc tịch Pháp mới được cấp. Học trình của một số trường Pháp thời đó là: sau khi đậu tú tài phải học thêm 2 năm mới có đủ trình độ thi vào hệ cao đẳng hay đại học. Học bổng cấp cho tôi chỉ có 1 năm, nên khi mới qua Pháp tôi liền nhảy vào học năm thứ 2, ở nhà trọ, tìm sách tự học năm thứ 1. Cuối năm 1936 tôi thi đậu vào trường Quốc gia cầu cống và được học bổng tiếp. Tôi học công khai ở các trường: Quốc gia cầu cống, điện, hàng không, Đại học Sorbonne, nhưng cái chính là bí mật thu thập tài liệu để học về chế tạo vũ khí qua 7 trường, mà các trường này dù là người Việt có quốc tịch Pháp cũng không được đặt chân đến. Các đảng viên Cộng sản Pháp hết sức quí trọng và nhiệt tình giúp đỡ tôi nhiều tài liệu học tập.
    *Hình như Viện sĩ có thời gian sang Đức làm việc?
    -Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Đức ký kết liên minh phe Trục với Nhật. Đa số người châu Á được Đức xem là? ?oNhật Bổn?, nên chúng tôi được thoải hơn người Pháp chính gốc. Một nhà máy chế tạo máy bay nằm ở miền Trung nước Đức là Halle nhận tôi vào làm. Kỹ thuật hàng không của Đức vốn tiến bộ nhất châu Âu lúc đó, nên đây là dịp để tôi tìm hiểu, học hỏi. Mấy tháng sau, thấy việc làm không thích hợp, tôi trở lại Paris làm cho công ty Sud-Avion. Chỉ một thời gian ngắn sau khi tôi rời Đức, máy bay quân Đồng minh đã oanh tạc tan tành nhà máy Halle. Thật may mắn cho tôi.
    *Thưa Viện sĩ, Viện sĩ trở về Việt Nam trong hoàn cảnh nào?
    -Tháng 5-1946, Bác Hồ sang Pháp cùng với phái đoàn đàm phàn của ta do Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn. Lúc ấy, anh Hoàng Xuân Mạn (em của Hoàng Xuân Hãn) là Chủ tịch Hội Việt kiều ở Pháp. Biết trước Hội nghị Fontainebleau sẽ thất bại và phải đánh nhau với Pháp, nên anh Phạm Văn Đồng tìm người hiểu biết về vũ khí. Ở bên nước ta lúc bấy giờ có nhiều tướng giỏi nhưng am hiểu về vũ khí thì không có. Anh Hoàng Xuân Mạn mới giới thiệu tôi cho anh Phạm Văn Đồng. Sau đó, tôi được gặp Bác Hồ. Bác hỏi tôi về vũ khí và kinh nghiệm Chiến tranh thế giới thứ hai. Rồi bác bảo rằng, thế nào chúng ta cũng đánh nhau với Pháp và bảo tôi chuẩn bị sẵn sàng tư liệu về vũ khí để về nước.
    Đúng như dự đoán, Hội nghị Fontainebleau thất bại. Nước Pháp không chịu công nhận chủ quyền và nền độc lập của nước Việt Nam. Bác Hồ và chúng tôi về nước. Lúc ấy, chính phủ Pháp sắp xếp đưa Bác về bằng đường hàng không, nhưng Bác từ chối. Bác đi theo đường biển.
    *Ngoài Viện sĩ, còn có trí thức Việt kiều nào ở pháp theo Hồ Chí Minh về nước?
    -Ngoài tôi, còn có bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư luyện kim Võ Quý Huân, kỹ sư mỏ và luyện kim Võ Đình Quỳnh theo về với Bác.
    *Ngay sau khi đặt chân lên Tổ quốc, Viện sĩ lao vào công việc nghiên cứu và chế tạo vũ khí?
    -Ngày 20-1-1946, tôi đặt chân lên cảng Hải Phòng. Tôi còn nhớ đó là ngày kỷ niệm thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Nghỉ ngơi được mấy hôm là tôi nhận nhiệm vụ. Ngày 5-11-1946, anh Tạ Quang Bửu đưa tôi lên Thái Nguyên để nghiên cứu đạn chống tăng. Lúc đó, anh Tạ Quang Bửu là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Về vũ khí, ngành quân giới của ta chưa biết gì nhiều. Lúc tôi mới về, anh Võ Nguyên Giáp có nói: ?oNghe tin anh về, anh em bên này mừng lắm!?. Bấy giờ xe tăng là con chủ bài của quân Pháp. Làm sao để chống được xe tăng khi chúng tấn công? Thuận lợi là tình báo Mỹ có giúp ta 3 khẩu súng và hơn 20 viên đạn Bazooka để chống Nhật mà Bộ Quốc phòng có giao cho bên quân giới trước đó. Dựa vào mẫu vũ khi của Mỹ, chúng tôi chế tạo Bazooka, với quyết tâm phải làm cho bằng được trong hoàn cảnh khó khăn lúc đó. Đạn nổ tốt nhưng không xuyên thép được. Vậy là phải tiếp tục nghiên cứu, sửa chữa và điều chỉnh thật gấp rút, vì thời điểm toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) sắp nổ ra. Trong khi đó, quân Pháp lớn tiếng tuyên bố sẽ tiêu diệt quân đội chính quy Việt Nam trong vòng 8 ngày. Điều này trưởng phái đoàn của Pháp tại Hội nghị Fontainebleau cũng đã tuyên bố với trưởng đoàn của ta là Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Con chủ bài chính về vũ khí của Pháp là máy bay và xe tăng, mà họ lại biết rất rõ là ta làm gì có súng chống tăng. Và trận chiến đầu tiên đã nổ ra vào ngày 3-3-1947 tại chùa Trầm ở Sơn Tây. Dẫn đầu đội hình quân Pháp gồm 4 xe tăng. Ta lại chỉ có đúng 5 viên đạn để bắn thử. Thế nhưng, viên đầu tiên bắn ra thì chiếc xe tăng dẫn đầu bốc cháy. Không thể kể hết niềm hân hoan vui sướng của quân ta lúc đó, nhất là anh em quân giới. Quân Pháp hoảng hồn bỏ chạy. Sau đóm, thêm một trận chiến nửa lửa có tính chất quyết định cuộc chiến mà quân Pháp có ý đồ nhằm chấm dứt chiến tranh vào tháng 9-1947. Nhưng quân Pháp cũng đã tiếp tục thất bại. Sau dúng Bazooka đến súng SKZ (súng không giật) ta cũng chế tạo trong điều kiện không đúng theo yêu cầu lý thuyết sách vở. SKZ mạnh hơn Bazooka, có khả năng chọc thủng dễ dàng các bức tường bê tông dày 600-1000mmm của lô cốt địch.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Thưa Viện sĩ, được biết sau khi về nước Viện sĩ đã bị mất một tấn sách tài liệu về vũ khí?
    -Đúng là tôi bị mất gần một tấn sách tài liệu về vũ khí, do thất lạc khi gởi cho một người bạn. May mắn là ngay khi về nước, tôi có phân phát cho anh em trong quân đội một số tài liệu cơ bản. Còn phần lớn công việc là phải làm lại từ đầu. Bằng trí nhớ của mình, tôi cố gắng moi tất cả kiến thức về vũ khí, từ trong đầu, nối kết và tính toán trở lại để làm tư liệu sản xuất vũ khí. Trong việc này, sự giúp đỡ về ?ohậu cần? của nhà tôi là rất lớn. Nhờ vậy mà tôi mới an tâm ngày này qua ngày khác lao vào nghiên cứu.
    Nói đến đây, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa quay sang phía bà nhà, cười. Bà vui vẻ cho biết: ôi vất vả lắm các anh ạ! Có khi nửa đêm, ông chợt thức giấc, ngồi dậy, ghi chép công thức cho đến sáng. Ông nhớ đâu là liền ngồi ghi chép ở đó. Lúc nào cũng vũ khí với vũ khí? Chuyện quên ăn quên ngủ với ông là chuyện thường. Đến bữa ăn, có khi gọi hoài mà ông chẳng hề nhúc nhích động đậy.
    *Thưa Viện sĩ, thế còn SAM-2 hạ pháo đài bay B-52 trong chống Mỹ thì sao?
    -Đây cũng là thứ vũ khí cải tiến với mẫu mã có sẵn của Liên Xô cũ. B-52 lúc bấy giờ đúng là loại pháo đài bay bất khả xâm phạm, tầm bay rất cao, sức phá hoại do chúng oanh tạc ghê gớm. Chúng tôi có hai việc phải làm. Một là, B-52 gây nhiễu làm rối loạn sóng radar của SAM-2, khiến cho SAM nổ từ xa chứ không tiếp cận được B-52. Hai là, tầm bay B-52 cao hơn tầm bắn của SAM-2. Biết được hai yếu tố cơ bản trên, chúng tôi tập trung giải quyết.
    *Phương thức giải quyết tiến hành ra sao?
    -Đây là bí mật quốc phòng.
    *Viện sĩ đánh giá thế nào về vai trò vũ khí trong chiến tranh?
    -Ngoài yếu tố con người, vũ khí đóng vai trò quyết định. Vũ khí có khả năng gây yếu tố bất ngờ và thay đổi cục diện chiến tranh.
    *Viện sĩ có thường theo dõi tình hình phát triển và sản xuất vũ khí trên thế giới nữa không?
    -Có. Tiềm lực phát triển vũ khí hiện đại rất mạnh. Tôi vẫn còn một tủ sách tài liệu về vũ khí ở bên Pháp, bạn bè cất giữ. Nhưng so với hiện nay thì đã lạc hậu, nên không đưa về.
    *Được biết, Viện sĩ còn là một trong những người được phong tướng đầu tiên?
    -Vâng. Lúc đó anh Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng; anh Nguyễn Bình là Trung tướng; còn tôi, anh Nguyễn Sơn, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm? là Thiếu tướng.
    *Thế quân hàm hiện nay của Viện sĩ?
    -Vẫn là Thiếu tướng.
    *Còn những nhiệm vụ chính mà Viện sĩ được giao phó?
    -Khi còn bên Pháp, Bác Hồ đã nói trước nhiệm vụ của tôi là phục vụ cho kháng chiến. Ngày 5-12-1946 tôi nhận nhiệm vụ Cục trưởng Cục quân giới, sau đó (năm 1949), kiêm Cục trưởng Cục pháo binh. Đến năm 1950 tôi nhận thêm chức vụ Thứ trưởng Bộ công thương và tiếp tục nghiên cứu khoa học. Ngày 8-2-1966, tôi được tặng danh hiệu Viện sĩ Viện hàm lâm khoa học Liên Xô.
    *Ngoài ra, Viện sĩ cũng từng là Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước, là người đề xuất thành lập Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam? Một khối lượng công việc không ít, nếu không nói là quá tải.
    -Có năng lực đến đâu tôi sẵn sàng cống hiến đến đó. Chỉ sợ mình bất tài, làm hư việc mà thôi.
    *Thưa Viện sĩ, vì lý do nào anh Phạm Quang Lễ lại có bí danh Trần Đại Nghĩa.
    -Trần Đại Nghĩa là tên do Bác Hồ đặt cho tôi tại Bắc Bộ phủ vào ngày 5-12-1946. Lúc đó Bác giao cho tôi nhiệm vụ lãnh đạo Cục quân giới, hơn nữa tôi mới ở nước ngoài về, nên yếu tố bí mật phải được tôn trọng, nhất là tôi còn gia đình, người thân ở trong Nam sợ địch trả thù. Từ đó tôi mang cái tên này.
    *Là người được tiếp xúc và làm việc nhiều với Hồ Chủ tịch, xin Viện sĩ cho biết vài ấn tượng của mình đối với Bác.
    -Trước đây ở Pháp, tôi đã nghe kể rất nhiều về Bác, nhưng đến hội nghị Fontainebleau tôi mới được gặp mặt. Không có vị lãnh tụ nào của Việt Nam đi và sống nhiều như Bác. Hơn 30 năm trời Bác bôn ba học hỏi và nghiên cứu không ngừng ở hầu khắp thế giới, trong mọi hoàn cảnh gian khổ. Tôi được may mắn kề cận Bác suốt 102 ngày: 62 ngày tại Paris và 40 ngày lênh đênh trên tàu từ cảnh Toulouse về Hải Phòng. Và cả sau này, trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến, Bác luôn là hình ảnh thiêng liêng nhưng rất gần gũi với tôi. Bất kỳ lúc nào tôi có ý muốn gặp Bác, thì điện thoại cho anh Vũ Kỳ, nếu không bận, Bác sẵn sàng tiếp. Và mỗi lần điện thoại cho Bác là tôi đều chuẩn bị xe trước. Hễ Bác đồng ý, tôi đến ngay. Mãi cho đến bây giờ, Bác vẫn vô cùng gần gũi và như vẫn còn sống trong tôi như ngày nào. Trong tâm khảm tôi, một bên là ba má tôi và chị tôi, còn một bên là Bác!
    *Nếu như có một sự định vị, thưa Viện sĩ, Trần Đại Nghĩa là một nhà yêu nước hay một chiến sĩ cộng sản?
    -Làm thế nào tách tời được hai con người này. Với Trần Đại Nghĩa yêu nước và cộng sản là một.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Thưa Viện sĩ, được biết sau khi về nước Viện sĩ đã bị mất một tấn sách tài liệu về vũ khí?
    -Đúng là tôi bị mất gần một tấn sách tài liệu về vũ khí, do thất lạc khi gởi cho một người bạn. May mắn là ngay khi về nước, tôi có phân phát cho anh em trong quân đội một số tài liệu cơ bản. Còn phần lớn công việc là phải làm lại từ đầu. Bằng trí nhớ của mình, tôi cố gắng moi tất cả kiến thức về vũ khí, từ trong đầu, nối kết và tính toán trở lại để làm tư liệu sản xuất vũ khí. Trong việc này, sự giúp đỡ về ?ohậu cần? của nhà tôi là rất lớn. Nhờ vậy mà tôi mới an tâm ngày này qua ngày khác lao vào nghiên cứu.
    Nói đến đây, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa quay sang phía bà nhà, cười. Bà vui vẻ cho biết: ôi vất vả lắm các anh ạ! Có khi nửa đêm, ông chợt thức giấc, ngồi dậy, ghi chép công thức cho đến sáng. Ông nhớ đâu là liền ngồi ghi chép ở đó. Lúc nào cũng vũ khí với vũ khí? Chuyện quên ăn quên ngủ với ông là chuyện thường. Đến bữa ăn, có khi gọi hoài mà ông chẳng hề nhúc nhích động đậy.
    *Thưa Viện sĩ, thế còn SAM-2 hạ pháo đài bay B-52 trong chống Mỹ thì sao?
    -Đây cũng là thứ vũ khí cải tiến với mẫu mã có sẵn của Liên Xô cũ. B-52 lúc bấy giờ đúng là loại pháo đài bay bất khả xâm phạm, tầm bay rất cao, sức phá hoại do chúng oanh tạc ghê gớm. Chúng tôi có hai việc phải làm. Một là, B-52 gây nhiễu làm rối loạn sóng radar của SAM-2, khiến cho SAM nổ từ xa chứ không tiếp cận được B-52. Hai là, tầm bay B-52 cao hơn tầm bắn của SAM-2. Biết được hai yếu tố cơ bản trên, chúng tôi tập trung giải quyết.
    *Phương thức giải quyết tiến hành ra sao?
    -Đây là bí mật quốc phòng.
    *Viện sĩ đánh giá thế nào về vai trò vũ khí trong chiến tranh?
    -Ngoài yếu tố con người, vũ khí đóng vai trò quyết định. Vũ khí có khả năng gây yếu tố bất ngờ và thay đổi cục diện chiến tranh.
    *Viện sĩ có thường theo dõi tình hình phát triển và sản xuất vũ khí trên thế giới nữa không?
    -Có. Tiềm lực phát triển vũ khí hiện đại rất mạnh. Tôi vẫn còn một tủ sách tài liệu về vũ khí ở bên Pháp, bạn bè cất giữ. Nhưng so với hiện nay thì đã lạc hậu, nên không đưa về.
    *Được biết, Viện sĩ còn là một trong những người được phong tướng đầu tiên?
    -Vâng. Lúc đó anh Võ Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng; anh Nguyễn Bình là Trung tướng; còn tôi, anh Nguyễn Sơn, Văn Tiến Dũng, Song Hào, Hoàng Văn Thái, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm? là Thiếu tướng.
    *Thế quân hàm hiện nay của Viện sĩ?
    -Vẫn là Thiếu tướng.
    *Còn những nhiệm vụ chính mà Viện sĩ được giao phó?
    -Khi còn bên Pháp, Bác Hồ đã nói trước nhiệm vụ của tôi là phục vụ cho kháng chiến. Ngày 5-12-1946 tôi nhận nhiệm vụ Cục trưởng Cục quân giới, sau đó (năm 1949), kiêm Cục trưởng Cục pháo binh. Đến năm 1950 tôi nhận thêm chức vụ Thứ trưởng Bộ công thương và tiếp tục nghiên cứu khoa học. Ngày 8-2-1966, tôi được tặng danh hiệu Viện sĩ Viện hàm lâm khoa học Liên Xô.
    *Ngoài ra, Viện sĩ cũng từng là Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước, là người đề xuất thành lập Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam? Một khối lượng công việc không ít, nếu không nói là quá tải.
    -Có năng lực đến đâu tôi sẵn sàng cống hiến đến đó. Chỉ sợ mình bất tài, làm hư việc mà thôi.
    *Thưa Viện sĩ, vì lý do nào anh Phạm Quang Lễ lại có bí danh Trần Đại Nghĩa.
    -Trần Đại Nghĩa là tên do Bác Hồ đặt cho tôi tại Bắc Bộ phủ vào ngày 5-12-1946. Lúc đó Bác giao cho tôi nhiệm vụ lãnh đạo Cục quân giới, hơn nữa tôi mới ở nước ngoài về, nên yếu tố bí mật phải được tôn trọng, nhất là tôi còn gia đình, người thân ở trong Nam sợ địch trả thù. Từ đó tôi mang cái tên này.
    *Là người được tiếp xúc và làm việc nhiều với Hồ Chủ tịch, xin Viện sĩ cho biết vài ấn tượng của mình đối với Bác.
    -Trước đây ở Pháp, tôi đã nghe kể rất nhiều về Bác, nhưng đến hội nghị Fontainebleau tôi mới được gặp mặt. Không có vị lãnh tụ nào của Việt Nam đi và sống nhiều như Bác. Hơn 30 năm trời Bác bôn ba học hỏi và nghiên cứu không ngừng ở hầu khắp thế giới, trong mọi hoàn cảnh gian khổ. Tôi được may mắn kề cận Bác suốt 102 ngày: 62 ngày tại Paris và 40 ngày lênh đênh trên tàu từ cảnh Toulouse về Hải Phòng. Và cả sau này, trong hai cuộc trường kỳ kháng chiến, Bác luôn là hình ảnh thiêng liêng nhưng rất gần gũi với tôi. Bất kỳ lúc nào tôi có ý muốn gặp Bác, thì điện thoại cho anh Vũ Kỳ, nếu không bận, Bác sẵn sàng tiếp. Và mỗi lần điện thoại cho Bác là tôi đều chuẩn bị xe trước. Hễ Bác đồng ý, tôi đến ngay. Mãi cho đến bây giờ, Bác vẫn vô cùng gần gũi và như vẫn còn sống trong tôi như ngày nào. Trong tâm khảm tôi, một bên là ba má tôi và chị tôi, còn một bên là Bác!
    *Nếu như có một sự định vị, thưa Viện sĩ, Trần Đại Nghĩa là một nhà yêu nước hay một chiến sĩ cộng sản?
    -Làm thế nào tách tời được hai con người này. Với Trần Đại Nghĩa yêu nước và cộng sản là một.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Thưa Viện sĩ, có một thời ta chỉ nói đến cái chung mà ít nói đến cái riêng, hay nói rõ hơn là quên đi sự đóng góp của cá nhân đối với tiến trình lịch sử dân tộc. Là chứng nhân sống của hai cuộc kháng chiến, Viện sĩ có suy nghĩ gì về điều này?
    -Tất nhiên, tập thể quyết định sự thành bại của lịch sử. Nhưng cá nhân đóng vai trò hết sức quan trọng. Trận Điện Biên Phủ chẳng hạn, nếu như không có vài trò của anh Võ Nguyên Giáp thì tôi tin cục diện sẽ khác đi và chiến thắng không lừng lẫy như thế.
    *Là một nhà bác học uyên thâm, Viện sĩ có thể cho thế hệ trẻ ngày nay biết vài kinh nghiệm về phương pháp học tập và nghiên cứu của mình?
    -Tại các trường học dân dụng mà tôi học thì có thầy dạy, tốt nghiệp thì có bằng cấp. Nhưng về quân sự, mà nhất là ngành chế tạo vũ khí, thì làm sao học công khai được, nên phải tìm cách khác. Tôi làm quen, rồi dần thân thiết với các quản thủ thư viện, mượn sách ?omật? về quân sự của thế giới để tự học. Tôi chỉ mượn loại sách này đúng vào khoảng thời gian: từ 5 giờ chiều thứ bảy đến 7 giờ sáng thứ hai phải trả, nếu không, bị lộ, cả quản thủ và tôi có thể bị tù. Sách thì thường dày hàng ngàn trang, nên làm sao có thể ghi chép cho kịp, chỉ vận dụng bằng trí nhớ. Và tôi phải thức suốt cả ngày lẫn đêm để học, đến sáng thứ hai trả sách xong thì về nhà lăn ra ngủ bù.
    *Viện sĩ có thể sử dụng được bao nhiêu ngoại ngữ?
    -Thông thạo thì có Pháp, Đức, Anh, Nga, còn nghe hiểu và đọc được thì có tiếng Trung Quốc và một vài thứ tiếng khác.
    *Để có một vốn liếng ngoại ngữ hiếm có như vậy, Viện sĩ học bằng cách nào?
    -Có nhiều cách. Thí dụ, khi tôi muốn nghiên cứu sách quân sự Đức, tôi hỏi một anh bạn Đức: ?oBiết được bao nhiêu chữ thì có thể đọc sách quân sự bằng tiếng Đức??. Anh bạn trả lời: ?oKhoảng 4.000 chữ?. Tôi về mua một quyển tự vị Đức-Pháp khoảng 1 vạn chữ và học thuộc lòng. Tôi còn nhớ khoảng 40% tức khoảng 4.000 chữ và như thế là đọc sách quân sự tiếng Đức được. Cách học song ngữ ấy tôi cũng thường áp dụng để đọc sách triết học và quân sự của thế giới.
    *Ở tuổi bát tuần, nhìn lại cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Viện sĩ có cảm tưởng như thế nào?
    -Bác Hồ đã nói với tôi từ lúc còn ở Pháp: ?oChú về, chú sẽ làm được việc nhưng không sung sướng đâu?. Đúng như vậy. Các bạn tôi còn ở lại Pháp, cho đến giờ, họ sướng hơn tôi nhiều về vật chất và không phải lo nghĩ gì cả. Nhưng rõ ràng về mặt phụng sự cho Tổ quốc thì họ cũng chẳng có gì cả. Ngày 30-4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, tôi ghi trong sổ tay của mình là đã hoàn thành nhiệm vụ và, đó là việc lớn nhất của đời tôi mà tôi đã làm xong. Tôi cũng nói với các anh em mỗi lần gặp gỡ như thế. Và công việc tiếp theo xin chuyển giao cho thế hệ trẻ. Anh Hoàng Xuân Hãn ở Paris có gửi thư về nói rằng: Tôi chúc anh sống lâu đẻ xem bọn trẻ làm ăn thế nào.
    *Nếu có một lời khuyên suy nhất đối với thế hệ trẻ thì Viện sĩ muốn khuyên điều gì?
    -Cố gắng giữ gìn và phát triển đất nước. Đó là mong mỏi của đời tôi và cho cả các thế hệ sau này. Không có đất nước nào trên thế giới này phải chống trả 14 cuộc xâm lăng như đất nước mình. Nhiều lúc tôi nghĩ, giá như Việt Nam là một đảo quốc tách khỏi đát liền, xung quanh biên giới là biển thì hay hơn.
    *Còn với tư cách là một nhà khoa học, Viện sĩ có suy nghĩ gì về nền khoa học Việt Nam hiện nay?
    -Tôi rất hiểu và thông cảm cho nỗi khó khăn của anh chịu em làm công tác khoa học. Bởi tôi cũng từng là hiệu trưởng đầu tiên của Trường đại học Bách khoa Hà Nội. Chúng ta cần nhiều kinh phí hơn để tổ chức nghiên cứu khoa học cơ bản, vì lý thuyết có vững thì thực hành mới tiến xa được. Và cần thiết phải mua phát minh, sáng chế của nước ngoài, mới theo kịp tiến độ phát triển của khoa học thế giới. Thí dụ, Nhật là một nước bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng thắng lợi trong xây dựng kinh tế nhanh chóng, bởi họ biết tranh thủ ?ochất xám? tiên tiến của các nước. Nhiều nước khác cũng tương tự như thế.
    Sẵn đây nói vui, cũng vì vấn đề kinh phí cho khoa học, mà tôi với một đồng chí lãnh đạo cao cấp hiểu lầm nhau, khi tôi đòi tăng kinh phí cho công việc nghiên cứu khoa học, sau ngày miền Nam giải phóng. Nhưng cuối cùng đồng chí ấy cũng hiểu ra và cho rằng tôi đúng. Cho đến nay, kinh phí cho khoa học của ta so với thế giới vẫn còn thấp. Chẳng hạn số liệu năm 1990, Mỹ 205 tỉ đôla, Pháp 10 tỉ, Trung Quốc 4 tỉ, còn ta chỉ vẻn vẹn có 12 triệu đôla cho lĩnh vực khoa học. Tôi mong các nhà làm ngân sách phải chú ý đến điều này. Một đất nước không thể có tương lai xán lạn nếu không có sự đầu tư đúng mức cho giáo dục khoa học.
    *Thưa Viện sĩ, cả cuộc đời hiến dâng cho Tổ quốc, giờ đã vượt quá tuổi ?ocổ lai hi?, cụoc sống hưu trí của Viện sĩ có thoải mái không?
    -Viện sĩ hàn lâm thì không được về hưu. Còn cuộc sống tất nhiên là chật vật, không thể nào sung sướng hơn kẻ tham nhũng.
    *Viện sĩ ăn uống và sinh hoạt thế nào?
    -Buổi sáng thức dậy, tôi đi bộ quanh nhà và tập thể dục nhẹ, tay không. Sức khỏe tôi bình thường, chỉ cặp mắt thì hơi yếu. Vì lúc bên Pháp tôi làm việc rất nhiều, về nước kháng chiến gian khổ, thiếu thôn thuốc men nên mắt yếu dần. Tôi ăn uống rất dễ, món nào cũng được. Tôi ăn ít vì y học có khuyên người già ăn ít sống lâu. Bà bác sĩ nhà tôi là một đầu bếp giỏi.
    *Thế mỗi lần Viện sĩ cần đi đâu?
    -À, có xe của viện khoa học đến đón. Tôi nhờ anh em giới khoa học nhiều lắm. Họ cũng không sung sướng gì, nhưng biết tôi khó khăn, nên họ sẵn sàng giúp.
    *Như chợt nhớ điều gì, bà đứng dậy đi ra phía cửa. Tôi hỏi nhỏ Viện sĩ: Thưa Viện sĩ, bà có phải là mối tình đầu của Viện sĩ không?
    -Lúc ở Pháp tôi chủ trương không lấy vợ. Vì tôi sẽ về nước kháng chiến bất kỳ lúc nào khi cần. Lúc đó, có một cô bạn gái người Pháp rất mến tôi và thường đến gặp để trò chuyện, tỏ vẻ chăm sóc tôi. Tôi cũng rất quí cô ấy. Nhưng rồi tôi khuyên cô ấy nên tìm người bạn trai khác, vì theo tôi cô ấy sẽ khổ? Có lẽ sau nhiều lần như vậy, cô hiểu, cô nghe lời tôi? Vậy là thôi.
    *Thế còn Viện sĩ với bà nhà gặp nhau trong hoàn cảnh nào?
    -Nhà tôi bấy giờ là y tá riêng của Cục quân giới. Chúng tôi làm đám cưới lúc bà ấy mới 20, còn tôi đã 34 tuổi. Đám cưới tổ chức đơn sơ ở Bắc Cạn-thủ đô kháng chiến 9 năm chống Pháp. Hiện nay bà ấy là bác sĩ về hưu. Chúng tôi có 4 con trai. Con trai trưởng là Trung tá đang phục vụ trong quân đội.
    *Là người từng sống nhiều năm ở phương Tây, Viện sĩ có ý kiến gì về khái niệm ?ogia đình??
    -Cái này tôi thấy Khổng Tử đúng. Tôi không bị Tây hóa, bởi Tây phương ly dị quá nhiều.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Thưa Viện sĩ, có một thời ta chỉ nói đến cái chung mà ít nói đến cái riêng, hay nói rõ hơn là quên đi sự đóng góp của cá nhân đối với tiến trình lịch sử dân tộc. Là chứng nhân sống của hai cuộc kháng chiến, Viện sĩ có suy nghĩ gì về điều này?
    -Tất nhiên, tập thể quyết định sự thành bại của lịch sử. Nhưng cá nhân đóng vai trò hết sức quan trọng. Trận Điện Biên Phủ chẳng hạn, nếu như không có vài trò của anh Võ Nguyên Giáp thì tôi tin cục diện sẽ khác đi và chiến thắng không lừng lẫy như thế.
    *Là một nhà bác học uyên thâm, Viện sĩ có thể cho thế hệ trẻ ngày nay biết vài kinh nghiệm về phương pháp học tập và nghiên cứu của mình?
    -Tại các trường học dân dụng mà tôi học thì có thầy dạy, tốt nghiệp thì có bằng cấp. Nhưng về quân sự, mà nhất là ngành chế tạo vũ khí, thì làm sao học công khai được, nên phải tìm cách khác. Tôi làm quen, rồi dần thân thiết với các quản thủ thư viện, mượn sách ?omật? về quân sự của thế giới để tự học. Tôi chỉ mượn loại sách này đúng vào khoảng thời gian: từ 5 giờ chiều thứ bảy đến 7 giờ sáng thứ hai phải trả, nếu không, bị lộ, cả quản thủ và tôi có thể bị tù. Sách thì thường dày hàng ngàn trang, nên làm sao có thể ghi chép cho kịp, chỉ vận dụng bằng trí nhớ. Và tôi phải thức suốt cả ngày lẫn đêm để học, đến sáng thứ hai trả sách xong thì về nhà lăn ra ngủ bù.
    *Viện sĩ có thể sử dụng được bao nhiêu ngoại ngữ?
    -Thông thạo thì có Pháp, Đức, Anh, Nga, còn nghe hiểu và đọc được thì có tiếng Trung Quốc và một vài thứ tiếng khác.
    *Để có một vốn liếng ngoại ngữ hiếm có như vậy, Viện sĩ học bằng cách nào?
    -Có nhiều cách. Thí dụ, khi tôi muốn nghiên cứu sách quân sự Đức, tôi hỏi một anh bạn Đức: ?oBiết được bao nhiêu chữ thì có thể đọc sách quân sự bằng tiếng Đức??. Anh bạn trả lời: ?oKhoảng 4.000 chữ?. Tôi về mua một quyển tự vị Đức-Pháp khoảng 1 vạn chữ và học thuộc lòng. Tôi còn nhớ khoảng 40% tức khoảng 4.000 chữ và như thế là đọc sách quân sự tiếng Đức được. Cách học song ngữ ấy tôi cũng thường áp dụng để đọc sách triết học và quân sự của thế giới.
    *Ở tuổi bát tuần, nhìn lại cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Viện sĩ có cảm tưởng như thế nào?
    -Bác Hồ đã nói với tôi từ lúc còn ở Pháp: ?oChú về, chú sẽ làm được việc nhưng không sung sướng đâu?. Đúng như vậy. Các bạn tôi còn ở lại Pháp, cho đến giờ, họ sướng hơn tôi nhiều về vật chất và không phải lo nghĩ gì cả. Nhưng rõ ràng về mặt phụng sự cho Tổ quốc thì họ cũng chẳng có gì cả. Ngày 30-4-1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, tôi ghi trong sổ tay của mình là đã hoàn thành nhiệm vụ và, đó là việc lớn nhất của đời tôi mà tôi đã làm xong. Tôi cũng nói với các anh em mỗi lần gặp gỡ như thế. Và công việc tiếp theo xin chuyển giao cho thế hệ trẻ. Anh Hoàng Xuân Hãn ở Paris có gửi thư về nói rằng: Tôi chúc anh sống lâu đẻ xem bọn trẻ làm ăn thế nào.
    *Nếu có một lời khuyên suy nhất đối với thế hệ trẻ thì Viện sĩ muốn khuyên điều gì?
    -Cố gắng giữ gìn và phát triển đất nước. Đó là mong mỏi của đời tôi và cho cả các thế hệ sau này. Không có đất nước nào trên thế giới này phải chống trả 14 cuộc xâm lăng như đất nước mình. Nhiều lúc tôi nghĩ, giá như Việt Nam là một đảo quốc tách khỏi đát liền, xung quanh biên giới là biển thì hay hơn.
    *Còn với tư cách là một nhà khoa học, Viện sĩ có suy nghĩ gì về nền khoa học Việt Nam hiện nay?
    -Tôi rất hiểu và thông cảm cho nỗi khó khăn của anh chịu em làm công tác khoa học. Bởi tôi cũng từng là hiệu trưởng đầu tiên của Trường đại học Bách khoa Hà Nội. Chúng ta cần nhiều kinh phí hơn để tổ chức nghiên cứu khoa học cơ bản, vì lý thuyết có vững thì thực hành mới tiến xa được. Và cần thiết phải mua phát minh, sáng chế của nước ngoài, mới theo kịp tiến độ phát triển của khoa học thế giới. Thí dụ, Nhật là một nước bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng thắng lợi trong xây dựng kinh tế nhanh chóng, bởi họ biết tranh thủ ?ochất xám? tiên tiến của các nước. Nhiều nước khác cũng tương tự như thế.
    Sẵn đây nói vui, cũng vì vấn đề kinh phí cho khoa học, mà tôi với một đồng chí lãnh đạo cao cấp hiểu lầm nhau, khi tôi đòi tăng kinh phí cho công việc nghiên cứu khoa học, sau ngày miền Nam giải phóng. Nhưng cuối cùng đồng chí ấy cũng hiểu ra và cho rằng tôi đúng. Cho đến nay, kinh phí cho khoa học của ta so với thế giới vẫn còn thấp. Chẳng hạn số liệu năm 1990, Mỹ 205 tỉ đôla, Pháp 10 tỉ, Trung Quốc 4 tỉ, còn ta chỉ vẻn vẹn có 12 triệu đôla cho lĩnh vực khoa học. Tôi mong các nhà làm ngân sách phải chú ý đến điều này. Một đất nước không thể có tương lai xán lạn nếu không có sự đầu tư đúng mức cho giáo dục khoa học.
    *Thưa Viện sĩ, cả cuộc đời hiến dâng cho Tổ quốc, giờ đã vượt quá tuổi ?ocổ lai hi?, cụoc sống hưu trí của Viện sĩ có thoải mái không?
    -Viện sĩ hàn lâm thì không được về hưu. Còn cuộc sống tất nhiên là chật vật, không thể nào sung sướng hơn kẻ tham nhũng.
    *Viện sĩ ăn uống và sinh hoạt thế nào?
    -Buổi sáng thức dậy, tôi đi bộ quanh nhà và tập thể dục nhẹ, tay không. Sức khỏe tôi bình thường, chỉ cặp mắt thì hơi yếu. Vì lúc bên Pháp tôi làm việc rất nhiều, về nước kháng chiến gian khổ, thiếu thôn thuốc men nên mắt yếu dần. Tôi ăn uống rất dễ, món nào cũng được. Tôi ăn ít vì y học có khuyên người già ăn ít sống lâu. Bà bác sĩ nhà tôi là một đầu bếp giỏi.
    *Thế mỗi lần Viện sĩ cần đi đâu?
    -À, có xe của viện khoa học đến đón. Tôi nhờ anh em giới khoa học nhiều lắm. Họ cũng không sung sướng gì, nhưng biết tôi khó khăn, nên họ sẵn sàng giúp.
    *Như chợt nhớ điều gì, bà đứng dậy đi ra phía cửa. Tôi hỏi nhỏ Viện sĩ: Thưa Viện sĩ, bà có phải là mối tình đầu của Viện sĩ không?
    -Lúc ở Pháp tôi chủ trương không lấy vợ. Vì tôi sẽ về nước kháng chiến bất kỳ lúc nào khi cần. Lúc đó, có một cô bạn gái người Pháp rất mến tôi và thường đến gặp để trò chuyện, tỏ vẻ chăm sóc tôi. Tôi cũng rất quí cô ấy. Nhưng rồi tôi khuyên cô ấy nên tìm người bạn trai khác, vì theo tôi cô ấy sẽ khổ? Có lẽ sau nhiều lần như vậy, cô hiểu, cô nghe lời tôi? Vậy là thôi.
    *Thế còn Viện sĩ với bà nhà gặp nhau trong hoàn cảnh nào?
    -Nhà tôi bấy giờ là y tá riêng của Cục quân giới. Chúng tôi làm đám cưới lúc bà ấy mới 20, còn tôi đã 34 tuổi. Đám cưới tổ chức đơn sơ ở Bắc Cạn-thủ đô kháng chiến 9 năm chống Pháp. Hiện nay bà ấy là bác sĩ về hưu. Chúng tôi có 4 con trai. Con trai trưởng là Trung tá đang phục vụ trong quân đội.
    *Là người từng sống nhiều năm ở phương Tây, Viện sĩ có ý kiến gì về khái niệm ?ogia đình??
    -Cái này tôi thấy Khổng Tử đúng. Tôi không bị Tây hóa, bởi Tây phương ly dị quá nhiều.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Đồng Văn Cống
    -Rất nhiều bạn bè ngạc nhiên trước sức khoẻ của tôi và hỏi tôi các bí quyết. Chẳng có bí quyết nào đâu. Tôi vốn được cha mẹ và trời ban cho một sức vóc khỏe mạnh. Thời trẻ tôi từng lặn rất sâu nhiều lần dưới sông để vớt súng, từng đi bộ hàng trăm cây số hành quân mà chẳng hề hấn gì. Tôi chỉ chơi thể thao thường xuyên mà thôi. Tôi từng là tuyển thủ đội A bóng đá tỉnh hồi trước Cách mạng tháng Tám.
    *Bây giờ Trung tướng còn chơi môn thể thao nào không?
    -Bóng chuyền, bóng bàn và cờ tướng tôi cũng rất thích, nhưng nay không còn chơi nữa. Sáng sáng tôi chỉ đi bộ 3-4 cây số, từ nhà ra công viên Lê Văn Tám tập thể dục, rồi về.
    *Trung tướng có còn nghiên cứu về công tác quân sự?
    -Tôi mới nhận một tập tài liệu dày hơn 100 tràn đánh máy để đọc và báo cáo trước một cuộc hội nghị. Hàng ngày tôi vẫn đọc sách báo, nghiên cứu tư liệu để góp ý cho Quân khu.
    *Để thế hệ trẻ hình dung rõ hơn về cuộc đời binh nghiệp của Trung tướng, xin Trung tướng vui lòng cho biết đôi nét về mình?
    -Tôi tuổi Tỵ, sinh năm 1918 tại Bến Tre. Gia đình tôi là nông dân, làm lụng đủ ăn. Bố mẹ mất sớm, tôi vừa lớn lên thì được giác ngộ và tham gia cách mạng. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, tôi làm Bí thư chi bộ xã kiêm tổng uỷ viên, lãnh đạo nhân dân địa phương nổi dậy cướp chính quyền. Giặc Pháp tái chiếm Nam Bộ. Tôi cùng anh em tìm được 4 cây súng lửa, cùng giáo gươm, tổ chức trừ gian diệt tề; tôi thường dùng một cây gươm cướp được của quân Nhật để đi đánh địch. Quân số tăng dần, chúng tôi tự thành lập tiểu đội, rồi trung đội do tôi chỉ huy và đến tháng 6-1946 thì thành lập đại đội. Chúng tôi vừa đánh giặc vừa cướp vũ khí của giặc để trang bị cho mình. Lúc ấy chưa có bộ đội chính qui, chỉ có dân quân du kích. Đơn vị tôi phát triển sớm nhất và mạnh nhất tỉnh và khu. Sau đó, cấp trên giao tôi đi thuyết phục anh em, tổ chức biên chế các lực lượng quân sự ở Bến Tre thành 7 trung đôi, rồi tách 4 trung đội thành lập Chi đội 19 do tôi chỉ huy hoạt động ở Bến Tre-Gò Công, 3 trung đội còn lại thành lập Chi đội 20 hoạt động ở Trà Vinh-Vĩnh Long. Sang năm 1947, bộ đội phát triển nhanh, khu tổ chức thành lập Trung đoàn 99 với 2 tiểu đoàn. Tôi trực tiếp làm Trung đoàn trưởng và phụ trách Tỉnh đội Bến Tre. Tôi cùng anh em liên tục chiến đấu cho tới khi tập kết ra Bắc 1954. Lúc tập trung quân tập kết, tôi là Tham mưu trưởng kiêm thường trực của Quân khu miền Đông.
    *Được biết, Trung tướng từng được phân công tổ chức con đường chiến lược 559B?
    -Vâng. Ra Bắc tôi sang Trung Quốc học 2 năm, đến năm 1961 trở về làm Phó tư lệnh Quân khu 3, rồi được điều về Cục tác chiến lo tổ chức, củng cố đường 559A và 559B (tức con đường chiến lược Hồ Chí Minh trên Trường Sơn và trên biển). Tôi vốn dân Nam Bộ, rành từng cù lao, con rạch nên được giao trực tiếp tổ chức, chỉ huy con đường 559B trên biển để đưa vũ khí về Nam Bộ. Con đường này được tổ chức hết sức bí mật. Ở Bộ chính trị chỉ có các anh Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ biết. Còn ở Bộ Quốc phòng thì có anh Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Vịnh và Trần Văn Trà biết. Cho đến khi tôi vào Nam chiến đấu, mới giao con đường này lại cho anh Nguyễn Chánh trực tiếp lo liệu.
    *Trung tướng trở về Nam lúc nào?
    -Tháng 4-1963. Sau 3 tháng vượt Trường Sơn, tôi về đến Nam Bộ. Theo dự kiến, tôi vào Nam lãnh nhiệm vụ Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Miền. Tuy nhiên, vừa đến nơi thì có điện của Bộ Quốc phòng quyết định thành lập các quân khu nhằm đáp ứng tình hình mới trên chiến trường. Tôi được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9 ở miền Tây Nam Bộ.
    *Như vậy Trung tướng lại có dịp tái ngộ với bưng biền Đồng Tháp Mười lừng lẫy năm xưa.
    -Vâng. Đây là nơi tôi được trui rèn trong máu lửa với bao kỷ niệm hào hùng và đau thương của chín năm kháng chiến chống Pháp. Rất nhiều người thân và đồng đôi của tôi đã ngã xuống trên chiến khu này. Đến năm 1964, tôi được phân công làm Phó tư lệnh Miền kiêm Tư lệnh Quân khu 9. Mấy năm sau, do yêu cầu mới, tôi mới về hẳn Bộ tư lệnh Miền để chuyên trách công tác quân sự chung.
    *Hình như Bộ tư lệnh Quân giải phóng miền Nam bấy giờ có sự điều chỉnh, bổ sung liên tục.
    -Đó là do yêu cầu của chiến trường. Khi Tư lệnh Trần Văn Quang ra Bắc, anh Trần Văn Trà từ Bắc vào làm Tư lệnh, anh Nguyễn Chí Thanh là Chính uỷ, anh Trần Độ là Phó chính uỷ, còn tôi cùng anh Lê Trọng Tấn, anh Nguyễn Hữu Xuyến là Phó tư lệnh. Lúc Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, anh Hoàng Văn Thái được bổ sung vào giữ nhiệm vụ Tư lệnh Miền một thời gian. Anh Thái vì sức khỏe yếu phải về lại Bộ tổng tham mưu, anh Trà lên thay. Và chị Nguyễn Thị Định cùng các anh Hoàng Cầm, Lê Đức Anh lần lượt được đề bạt làm Phó tư lệnh Miền. Trước đó, khi anh Nguyễn Chí Thanh ra Bắc, anh Phạm Hùng là Bí thư Trung ương Cục được phân công kiêm Chính uỷ Bộ tư lệnh Miền. Mỗi người một nhiệm vụ khác nhau, đoàn kết như anh em một nhà, đã đóng góp tất cả công sức và trí tuệ của mình cho sự nghiệp thống nhất đất nước.
    *Tất nhiên khi đó không có đố kỵ quyền lực?
    -Tổ quốc luôn là trên hết. Mỗi người đều ở tư thế sẵn sàng hy sinh tới giọt máu cuối cùng. Hiện tượng đố kỵ, công thần, tham nhũng không thể tồn tại trên chiến trường máu lửa!
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Đồng Văn Cống
    -Rất nhiều bạn bè ngạc nhiên trước sức khoẻ của tôi và hỏi tôi các bí quyết. Chẳng có bí quyết nào đâu. Tôi vốn được cha mẹ và trời ban cho một sức vóc khỏe mạnh. Thời trẻ tôi từng lặn rất sâu nhiều lần dưới sông để vớt súng, từng đi bộ hàng trăm cây số hành quân mà chẳng hề hấn gì. Tôi chỉ chơi thể thao thường xuyên mà thôi. Tôi từng là tuyển thủ đội A bóng đá tỉnh hồi trước Cách mạng tháng Tám.
    *Bây giờ Trung tướng còn chơi môn thể thao nào không?
    -Bóng chuyền, bóng bàn và cờ tướng tôi cũng rất thích, nhưng nay không còn chơi nữa. Sáng sáng tôi chỉ đi bộ 3-4 cây số, từ nhà ra công viên Lê Văn Tám tập thể dục, rồi về.
    *Trung tướng có còn nghiên cứu về công tác quân sự?
    -Tôi mới nhận một tập tài liệu dày hơn 100 tràn đánh máy để đọc và báo cáo trước một cuộc hội nghị. Hàng ngày tôi vẫn đọc sách báo, nghiên cứu tư liệu để góp ý cho Quân khu.
    *Để thế hệ trẻ hình dung rõ hơn về cuộc đời binh nghiệp của Trung tướng, xin Trung tướng vui lòng cho biết đôi nét về mình?
    -Tôi tuổi Tỵ, sinh năm 1918 tại Bến Tre. Gia đình tôi là nông dân, làm lụng đủ ăn. Bố mẹ mất sớm, tôi vừa lớn lên thì được giác ngộ và tham gia cách mạng. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, tôi làm Bí thư chi bộ xã kiêm tổng uỷ viên, lãnh đạo nhân dân địa phương nổi dậy cướp chính quyền. Giặc Pháp tái chiếm Nam Bộ. Tôi cùng anh em tìm được 4 cây súng lửa, cùng giáo gươm, tổ chức trừ gian diệt tề; tôi thường dùng một cây gươm cướp được của quân Nhật để đi đánh địch. Quân số tăng dần, chúng tôi tự thành lập tiểu đội, rồi trung đội do tôi chỉ huy và đến tháng 6-1946 thì thành lập đại đội. Chúng tôi vừa đánh giặc vừa cướp vũ khí của giặc để trang bị cho mình. Lúc ấy chưa có bộ đội chính qui, chỉ có dân quân du kích. Đơn vị tôi phát triển sớm nhất và mạnh nhất tỉnh và khu. Sau đó, cấp trên giao tôi đi thuyết phục anh em, tổ chức biên chế các lực lượng quân sự ở Bến Tre thành 7 trung đôi, rồi tách 4 trung đội thành lập Chi đội 19 do tôi chỉ huy hoạt động ở Bến Tre-Gò Công, 3 trung đội còn lại thành lập Chi đội 20 hoạt động ở Trà Vinh-Vĩnh Long. Sang năm 1947, bộ đội phát triển nhanh, khu tổ chức thành lập Trung đoàn 99 với 2 tiểu đoàn. Tôi trực tiếp làm Trung đoàn trưởng và phụ trách Tỉnh đội Bến Tre. Tôi cùng anh em liên tục chiến đấu cho tới khi tập kết ra Bắc 1954. Lúc tập trung quân tập kết, tôi là Tham mưu trưởng kiêm thường trực của Quân khu miền Đông.
    *Được biết, Trung tướng từng được phân công tổ chức con đường chiến lược 559B?
    -Vâng. Ra Bắc tôi sang Trung Quốc học 2 năm, đến năm 1961 trở về làm Phó tư lệnh Quân khu 3, rồi được điều về Cục tác chiến lo tổ chức, củng cố đường 559A và 559B (tức con đường chiến lược Hồ Chí Minh trên Trường Sơn và trên biển). Tôi vốn dân Nam Bộ, rành từng cù lao, con rạch nên được giao trực tiếp tổ chức, chỉ huy con đường 559B trên biển để đưa vũ khí về Nam Bộ. Con đường này được tổ chức hết sức bí mật. Ở Bộ chính trị chỉ có các anh Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ biết. Còn ở Bộ Quốc phòng thì có anh Võ Nguyên Giáp, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Vịnh và Trần Văn Trà biết. Cho đến khi tôi vào Nam chiến đấu, mới giao con đường này lại cho anh Nguyễn Chánh trực tiếp lo liệu.
    *Trung tướng trở về Nam lúc nào?
    -Tháng 4-1963. Sau 3 tháng vượt Trường Sơn, tôi về đến Nam Bộ. Theo dự kiến, tôi vào Nam lãnh nhiệm vụ Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Miền. Tuy nhiên, vừa đến nơi thì có điện của Bộ Quốc phòng quyết định thành lập các quân khu nhằm đáp ứng tình hình mới trên chiến trường. Tôi được điều về làm Tư lệnh Quân khu 9 ở miền Tây Nam Bộ.
    *Như vậy Trung tướng lại có dịp tái ngộ với bưng biền Đồng Tháp Mười lừng lẫy năm xưa.
    -Vâng. Đây là nơi tôi được trui rèn trong máu lửa với bao kỷ niệm hào hùng và đau thương của chín năm kháng chiến chống Pháp. Rất nhiều người thân và đồng đôi của tôi đã ngã xuống trên chiến khu này. Đến năm 1964, tôi được phân công làm Phó tư lệnh Miền kiêm Tư lệnh Quân khu 9. Mấy năm sau, do yêu cầu mới, tôi mới về hẳn Bộ tư lệnh Miền để chuyên trách công tác quân sự chung.
    *Hình như Bộ tư lệnh Quân giải phóng miền Nam bấy giờ có sự điều chỉnh, bổ sung liên tục.
    -Đó là do yêu cầu của chiến trường. Khi Tư lệnh Trần Văn Quang ra Bắc, anh Trần Văn Trà từ Bắc vào làm Tư lệnh, anh Nguyễn Chí Thanh là Chính uỷ, anh Trần Độ là Phó chính uỷ, còn tôi cùng anh Lê Trọng Tấn, anh Nguyễn Hữu Xuyến là Phó tư lệnh. Lúc Mỹ tiến hành chiến tranh cục bộ, anh Hoàng Văn Thái được bổ sung vào giữ nhiệm vụ Tư lệnh Miền một thời gian. Anh Thái vì sức khỏe yếu phải về lại Bộ tổng tham mưu, anh Trà lên thay. Và chị Nguyễn Thị Định cùng các anh Hoàng Cầm, Lê Đức Anh lần lượt được đề bạt làm Phó tư lệnh Miền. Trước đó, khi anh Nguyễn Chí Thanh ra Bắc, anh Phạm Hùng là Bí thư Trung ương Cục được phân công kiêm Chính uỷ Bộ tư lệnh Miền. Mỗi người một nhiệm vụ khác nhau, đoàn kết như anh em một nhà, đã đóng góp tất cả công sức và trí tuệ của mình cho sự nghiệp thống nhất đất nước.
    *Tất nhiên khi đó không có đố kỵ quyền lực?
    -Tổ quốc luôn là trên hết. Mỗi người đều ở tư thế sẵn sàng hy sinh tới giọt máu cuối cùng. Hiện tượng đố kỵ, công thần, tham nhũng không thể tồn tại trên chiến trường máu lửa!
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Trung tuớng còn nhớ gì về những ngày tiến quân vào giải phóng Sài Gòn?
    -Tôi không trực tiếp tham gia các mũi tiến công. Nhưng trước đó, tôi đã tổ chức chu đáo cánh quân phía Nam chuẩn bị tiến vào giải phóng Sài Gòn. Tình hình lúc ấy theo tin tức ta nắm được, địch có âm mưu: nếu thất thủ Sài Gòn sẽ rút về bên kia sông Tiền để củng cố lực lượng, thành lập chính phủ bốn thành phần. Do đó, tôi được phân công ở lại chỉ huy sở của Miền để trực và chỉ huy hoạt động phối hợp của các quân khu, tỉnh đội; đồng thời kiêm Tư lệnh quân đoàn dự bị nhằm đối phó với âm mưu mới này của địch.
    Sáng 1-5-1975, Sài Gòn hoàn toàn giải phóng, tôi được phân công đi tiền trạm vào thành phố để chuẩn bị đón Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh và Bộ tư lệnh Miền. Có thể nói, đó là những giờ phút đẹp nhất trong cuộc đời binh nghiệp mà tôi mơ ước.
    *Nhưng Trung tướng vẫn chưa được nghỉ ngơi, khi cuộc chiến biên giới Tây Nam Tổ quốc xảy ra?
    -Là người lính thì chẳng bao giờ có quyền nghỉ ngơi. Sau giải phóng, tôi về nhận nhiệm vụ Phó tư lệnh Quân khu 7, rồi khi anh Trà ra Bắc làm Tổng tham mưu phó Bộ tổng tham mưu, thì tôi là Quyền tư lệnh quân khu. Trong chiến dịch biên giới Tây Nam, tôi là Tư lệnh tiền phương Quân khu 7, anh Năm Ngà là Phó tư lệnh, đưa một cách quân sang giải phóng Campuchia. Về sau, tôi được điều về làm Phó tổng thanh tra quân đội, cho đến khi về nghỉ an dưỡng chờ quyết định hưu trí.
    *Thưa Trung tướng, một đời vào sinh ra tử, kỷ niệm đẹp nào thờ chinh chiến thường sống lại trong trí nhớ của Trung tướng?
    -Kỷ niệm thì nhiều, đẹp cũng có, đau thương cũng có. Tôi nhớ hoài về hình ảnh của một đồng đội, một vị lãnh đạo là anh Nguyễn Văn Vịnh ở buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Bấy giờ, tôi đang chỉ huy bộ đội chủ lực thì được tin quê nhà Bến Tre bị quân Pháp đánh chiếm. Tỉnh đội trưởng bệnh nặng, không người thay. Bộ tư lệnh khu 8 mới họp bàn, cử người về phụ trách, nhưng bàn mãi mà không ai thích hợp. Tôi xin về. Anh Vịnh lúc ấy đang là Chính uỷ khu 8, không đồng ý. Anh bảo tôi là chỉ huy bộ đội chủ lực, không quen với cơ sở địa phương, sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng lại từng bước lực lượng dân quân du kích tỉnh nhà vừa bị địch đánh phá nặng, gây tổn thất lớn. Dù vậy, cuối cùng do không có người, tôi cũng được phân công về Bến Tre, tập hợp lực lượng, xây dựng cơ sở, dần dần thành lập lại tiểu đoàn. Khi bắt tay vào thực tế, tôi mới thấm thía những ý kiến cân nhắc chân thành và sáng suốt của anh Nguyễn Văn Vịnh.
    *Trong các tướng lĩnh quân đội ta, Trung tướng gần gũi và quí mến ai nhất?
    -Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh và Nguyễn Chí Thanh.
    *Trung tướng có thể nói vì sao?
    -Với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lần đầu tiên gặp anh ấy, tôi dã cảm tình ngay. Không phải vì anh ấy là Bộ trưởng, là Tổng tư lệnh đâu mà vì những đức tính toát ra từ con người. Khi tổ chức con đường 559B vào Nam, anh em họp tính toán đi cặp theo Hoàng Sa và Trường Sa, dự kiến mất 5-6 ngày. Thế là chuyến đầu tiên lên đường. Ngày nào Cục tác chiến cũng họp giao ban, do anh Giáp chủ trì. Mỗi lần tôi vào họp, anh Giáp đều hỏi đã có tin tức gì về chuyến tàu chưa. Tôi nhìn anh lắc đầu. Cứ thế. Anh tỏ ra hết sức lo lắng! Đến ngày thứ 11, tôi vào giao ban, anh níu tay tôi hỏi. Tôi cười, nói đã có điện. Anh mừng quá, lấy bức điện vào đóng cửa phòng, đọc. Khi bước trở ra, tôi thấy anh chảy nước mắt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một đồng chí lãnh đạo cao cấp, là người đứng đầu quân đội mà có tình cảm sâu sắc với chiến trường như thế. Thấy anh khóc, tôi không cầm lòng được, cũng khóc theo. Rôi anh Giáp cho mở tất cả thực phẩm dùng đãi khách quốc tế ở nhà họp Quân uỷ Trung ương, để anh em ăn mừng.
    *Với Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, ngoài kỉ niệm nói trên, Trung tướng còn nhớ gì về vị tướng tài ba bạc mệnh này không?
    -Nhiều lắm. Với tôi, anh Vịnh là một người anh lớn mà tôi luôn kính trọng cả về tài năng lẫn nhân cách. Chúng tôi luôn xem nhau như anh em một nhà. Anh Vịnh nguyên là một kỹ sư canh nông của Pháp, một trí thức yêu nước trở thành một nhà cách mạng, một vị chỉ huy có bản lĩnh của quân đội ta. Anh sống rất tình cảm và giúp đỡ anh em cấp dưới một cách chí tình. Chỉ tiếc anh Vịnh ra đi quá sớm!
    Đối với quân khu 8 thời chống Pháp, công lao anh Vịnh rất lớn. Với tư cách là Chính uỷ, anh Vịnh là trung tâm tập hợp đoàn kết mọi lực lượng-có thể nói là một đội quân ô hợp lúc bấy giờ: bao gồm các chi đội độc lập ở trong nước lẫn hải ngoại trở về, vừa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, vừa do Đảng dân chủ lãnh đạo. Với sự thuyết phục của anh Vịnh, nhiều Trung ưong uỷ viên Đảng dân chủ, như anh Nguyễn Đăng chẳng hạn-đã trở thành đảng viên Cộng sản, được đề bạt làm Phó tư lệnh Quân khu 8, sau là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp. Nếu hiểu được sự tranh giành quyết liệt quyền lãnh đạo trong quân khu bấy giờ giữa Đảng Cộng sản và Đảng Dân chủ thì mới thấy hết công lao của anh Vịnh. Và Quân khu 8 có thể nói là quân khu ổn định nhất của Nam Bộ vào thời điểm cực kỳ rối ren này.
    *Ông còn nhớ gì thời diểm Tướng Vịnh bị kỷ luật?
    -Anh em chúng tôi hoàn toàn không tán thành bản án kỷ luật quá nặng so với sai sót của anh. Tuy nhiên, điều tôi muốn nói là thái độ chấp hành kỷ luật của anh, một đảng viên trung thành, một tướng lãnh, một cán bộ lãnh đạo gương mẫu-bấy giờ anh đang là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi anh em đề nghị anh khiếu nại bản án kỷ luật nặng nề, anh nói: ?oChuyện đã như vậy rồi thì thôi. Anh em đừng bàn bạc xôn xao nữa, không hay. Hãy tập trung vào nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đoàn kết chống Mỹ ở miền Nam!?.
    *Tình cảm của Trung tướng đối với Tướng Vịnh thật đặc biệt. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói về nhân cách và tài năng của vị tướng thành Nam này. Thế còn đối với Đại tướng Hoàng Văn Thái, Trung tướng có kỷ niệm nào đáng nhớ?
    -Đại tướng Hoàng Văn Thái là người cao to, đẹp trai, phong cách đàng hoàng, giản dị, thái độ luôn điềm tĩnh, chín chắn, tự tin. Khi đứng trước những vấn đề gay go, khúc mắc, anh Hoàng Văn Thái luôn bình tĩnh, kiên trì giải quyết vấn đề. Anh không bao giờ tỏ ra khoe khoang thành tích của mình. Có thể nói, Hoàng Văn Thái là tướng tham mưu tài ba, điển hình của quân đội ta. Thời gian anh vào Nam làm Tư lệnh Miền, chúng tôi rất gắn bó với nhau. Có những đêm, tôi cùng anh thức uống trà bàn công việc, rồi đờn địp với nhau. Tôi đờn theo kiểu tài tử Nam Bộ. Còn anh Thái đờn theo giai điệu dân gian Bắc Bộ. Có một vài bản, chúng tôi có thể ?ophối? lẫn nhau?
    *Được biết Trung tướng cũng từng là đồng đội thân thiết của nữ tướng Nguyễn Thị Định?
    -Chị Ba Định và tôi là người cùng huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Chồng chị là anh Nguyễn Văn Bích lúc ấy hình như là Tỉnh uỷ viên kiêm Chủ tịch Mặt trận Bình dân tỉnh. Tôi thì hoạt động bí mật, thường liên lạc với anh Bích và anh Nguyễn Văn Nguyễn. Tôi gặp chị Ba Định lần đầu khoảng năm 1936-1937, lúc chị và anh Bích mới thành hôn được vài tháng. Chị Ba Định là một phụ nữ đảm lược, sống giản dị, có tác phong rất dễ gần gũi quần chúng. Với tư cách là Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre thời chống Mỹ, chị là nhân vật nòng cốt đã trực tiếp lãnh đạo thành công phong trào Đồng Khởi. Không những giỏi về đấu tranh chính trị, chị Ba Định còn là nữ tướng sắc sảo, đóng góp nhiều ý kiến hay trên chiến trường.
    *Trung tướng có kỷ niệm vui nào với tướng Định?
    -Nhiều kỷ niệm lắm. Tôi nhớ năm 1947-1948, chị Ba Định đứng ra tổ chức Đại hội phụ nữ tỉnh Bến Tre. Tôi là đai biểu quân sự được mời tới dự. Tính tôi hay chọc phá. Trong đại hội có ?oChương trình thi điền kinh? được dán chữ lớn trên tấm băng-rôn. Vô tình, chữ ?on? của chữ ?ođiền? bị dán ngược thành chữ ?ou?. Tôi đến và phát hiện, liền kêu chị Ba lại trêu chọc. Chị đỏ mặt, cười và đánh tôi: ?oĐồ mắc dịch, cứ cố tìm cho bằng được chuyện để chọc phá?.
    *Gần đây, Tướng Đỗ Mậu của chế độ Việt Nam cộng hoà xuất bản một cuốn hồi ký, Trung tướng có đọc không?
    -Có. Từng là viên tướng nhiều uy quyền của chế độ Sài Gòn cũ, nhưng những gì Đỗ Mậu thể hiện trong hồi ký, tôi cho là tương đối trung thực. Tất nhiên, có nhiều điều mà tôi không thể biết hết được.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Trung tuớng còn nhớ gì về những ngày tiến quân vào giải phóng Sài Gòn?
    -Tôi không trực tiếp tham gia các mũi tiến công. Nhưng trước đó, tôi đã tổ chức chu đáo cánh quân phía Nam chuẩn bị tiến vào giải phóng Sài Gòn. Tình hình lúc ấy theo tin tức ta nắm được, địch có âm mưu: nếu thất thủ Sài Gòn sẽ rút về bên kia sông Tiền để củng cố lực lượng, thành lập chính phủ bốn thành phần. Do đó, tôi được phân công ở lại chỉ huy sở của Miền để trực và chỉ huy hoạt động phối hợp của các quân khu, tỉnh đội; đồng thời kiêm Tư lệnh quân đoàn dự bị nhằm đối phó với âm mưu mới này của địch.
    Sáng 1-5-1975, Sài Gòn hoàn toàn giải phóng, tôi được phân công đi tiền trạm vào thành phố để chuẩn bị đón Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh và Bộ tư lệnh Miền. Có thể nói, đó là những giờ phút đẹp nhất trong cuộc đời binh nghiệp mà tôi mơ ước.
    *Nhưng Trung tướng vẫn chưa được nghỉ ngơi, khi cuộc chiến biên giới Tây Nam Tổ quốc xảy ra?
    -Là người lính thì chẳng bao giờ có quyền nghỉ ngơi. Sau giải phóng, tôi về nhận nhiệm vụ Phó tư lệnh Quân khu 7, rồi khi anh Trà ra Bắc làm Tổng tham mưu phó Bộ tổng tham mưu, thì tôi là Quyền tư lệnh quân khu. Trong chiến dịch biên giới Tây Nam, tôi là Tư lệnh tiền phương Quân khu 7, anh Năm Ngà là Phó tư lệnh, đưa một cách quân sang giải phóng Campuchia. Về sau, tôi được điều về làm Phó tổng thanh tra quân đội, cho đến khi về nghỉ an dưỡng chờ quyết định hưu trí.
    *Thưa Trung tướng, một đời vào sinh ra tử, kỷ niệm đẹp nào thờ chinh chiến thường sống lại trong trí nhớ của Trung tướng?
    -Kỷ niệm thì nhiều, đẹp cũng có, đau thương cũng có. Tôi nhớ hoài về hình ảnh của một đồng đội, một vị lãnh đạo là anh Nguyễn Văn Vịnh ở buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Bấy giờ, tôi đang chỉ huy bộ đội chủ lực thì được tin quê nhà Bến Tre bị quân Pháp đánh chiếm. Tỉnh đội trưởng bệnh nặng, không người thay. Bộ tư lệnh khu 8 mới họp bàn, cử người về phụ trách, nhưng bàn mãi mà không ai thích hợp. Tôi xin về. Anh Vịnh lúc ấy đang là Chính uỷ khu 8, không đồng ý. Anh bảo tôi là chỉ huy bộ đội chủ lực, không quen với cơ sở địa phương, sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng lại từng bước lực lượng dân quân du kích tỉnh nhà vừa bị địch đánh phá nặng, gây tổn thất lớn. Dù vậy, cuối cùng do không có người, tôi cũng được phân công về Bến Tre, tập hợp lực lượng, xây dựng cơ sở, dần dần thành lập lại tiểu đoàn. Khi bắt tay vào thực tế, tôi mới thấm thía những ý kiến cân nhắc chân thành và sáng suốt của anh Nguyễn Văn Vịnh.
    *Trong các tướng lĩnh quân đội ta, Trung tướng gần gũi và quí mến ai nhất?
    -Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh và Nguyễn Chí Thanh.
    *Trung tướng có thể nói vì sao?
    -Với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lần đầu tiên gặp anh ấy, tôi dã cảm tình ngay. Không phải vì anh ấy là Bộ trưởng, là Tổng tư lệnh đâu mà vì những đức tính toát ra từ con người. Khi tổ chức con đường 559B vào Nam, anh em họp tính toán đi cặp theo Hoàng Sa và Trường Sa, dự kiến mất 5-6 ngày. Thế là chuyến đầu tiên lên đường. Ngày nào Cục tác chiến cũng họp giao ban, do anh Giáp chủ trì. Mỗi lần tôi vào họp, anh Giáp đều hỏi đã có tin tức gì về chuyến tàu chưa. Tôi nhìn anh lắc đầu. Cứ thế. Anh tỏ ra hết sức lo lắng! Đến ngày thứ 11, tôi vào giao ban, anh níu tay tôi hỏi. Tôi cười, nói đã có điện. Anh mừng quá, lấy bức điện vào đóng cửa phòng, đọc. Khi bước trở ra, tôi thấy anh chảy nước mắt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một đồng chí lãnh đạo cao cấp, là người đứng đầu quân đội mà có tình cảm sâu sắc với chiến trường như thế. Thấy anh khóc, tôi không cầm lòng được, cũng khóc theo. Rôi anh Giáp cho mở tất cả thực phẩm dùng đãi khách quốc tế ở nhà họp Quân uỷ Trung ương, để anh em ăn mừng.
    *Với Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, ngoài kỉ niệm nói trên, Trung tướng còn nhớ gì về vị tướng tài ba bạc mệnh này không?
    -Nhiều lắm. Với tôi, anh Vịnh là một người anh lớn mà tôi luôn kính trọng cả về tài năng lẫn nhân cách. Chúng tôi luôn xem nhau như anh em một nhà. Anh Vịnh nguyên là một kỹ sư canh nông của Pháp, một trí thức yêu nước trở thành một nhà cách mạng, một vị chỉ huy có bản lĩnh của quân đội ta. Anh sống rất tình cảm và giúp đỡ anh em cấp dưới một cách chí tình. Chỉ tiếc anh Vịnh ra đi quá sớm!
    Đối với quân khu 8 thời chống Pháp, công lao anh Vịnh rất lớn. Với tư cách là Chính uỷ, anh Vịnh là trung tâm tập hợp đoàn kết mọi lực lượng-có thể nói là một đội quân ô hợp lúc bấy giờ: bao gồm các chi đội độc lập ở trong nước lẫn hải ngoại trở về, vừa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, vừa do Đảng dân chủ lãnh đạo. Với sự thuyết phục của anh Vịnh, nhiều Trung ưong uỷ viên Đảng dân chủ, như anh Nguyễn Đăng chẳng hạn-đã trở thành đảng viên Cộng sản, được đề bạt làm Phó tư lệnh Quân khu 8, sau là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp. Nếu hiểu được sự tranh giành quyết liệt quyền lãnh đạo trong quân khu bấy giờ giữa Đảng Cộng sản và Đảng Dân chủ thì mới thấy hết công lao của anh Vịnh. Và Quân khu 8 có thể nói là quân khu ổn định nhất của Nam Bộ vào thời điểm cực kỳ rối ren này.
    *Ông còn nhớ gì thời diểm Tướng Vịnh bị kỷ luật?
    -Anh em chúng tôi hoàn toàn không tán thành bản án kỷ luật quá nặng so với sai sót của anh. Tuy nhiên, điều tôi muốn nói là thái độ chấp hành kỷ luật của anh, một đảng viên trung thành, một tướng lãnh, một cán bộ lãnh đạo gương mẫu-bấy giờ anh đang là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi anh em đề nghị anh khiếu nại bản án kỷ luật nặng nề, anh nói: ?oChuyện đã như vậy rồi thì thôi. Anh em đừng bàn bạc xôn xao nữa, không hay. Hãy tập trung vào nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đoàn kết chống Mỹ ở miền Nam!?.
    *Tình cảm của Trung tướng đối với Tướng Vịnh thật đặc biệt. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói về nhân cách và tài năng của vị tướng thành Nam này. Thế còn đối với Đại tướng Hoàng Văn Thái, Trung tướng có kỷ niệm nào đáng nhớ?
    -Đại tướng Hoàng Văn Thái là người cao to, đẹp trai, phong cách đàng hoàng, giản dị, thái độ luôn điềm tĩnh, chín chắn, tự tin. Khi đứng trước những vấn đề gay go, khúc mắc, anh Hoàng Văn Thái luôn bình tĩnh, kiên trì giải quyết vấn đề. Anh không bao giờ tỏ ra khoe khoang thành tích của mình. Có thể nói, Hoàng Văn Thái là tướng tham mưu tài ba, điển hình của quân đội ta. Thời gian anh vào Nam làm Tư lệnh Miền, chúng tôi rất gắn bó với nhau. Có những đêm, tôi cùng anh thức uống trà bàn công việc, rồi đờn địp với nhau. Tôi đờn theo kiểu tài tử Nam Bộ. Còn anh Thái đờn theo giai điệu dân gian Bắc Bộ. Có một vài bản, chúng tôi có thể ?ophối? lẫn nhau?
    *Được biết Trung tướng cũng từng là đồng đội thân thiết của nữ tướng Nguyễn Thị Định?
    -Chị Ba Định và tôi là người cùng huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Chồng chị là anh Nguyễn Văn Bích lúc ấy hình như là Tỉnh uỷ viên kiêm Chủ tịch Mặt trận Bình dân tỉnh. Tôi thì hoạt động bí mật, thường liên lạc với anh Bích và anh Nguyễn Văn Nguyễn. Tôi gặp chị Ba Định lần đầu khoảng năm 1936-1937, lúc chị và anh Bích mới thành hôn được vài tháng. Chị Ba Định là một phụ nữ đảm lược, sống giản dị, có tác phong rất dễ gần gũi quần chúng. Với tư cách là Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre thời chống Mỹ, chị là nhân vật nòng cốt đã trực tiếp lãnh đạo thành công phong trào Đồng Khởi. Không những giỏi về đấu tranh chính trị, chị Ba Định còn là nữ tướng sắc sảo, đóng góp nhiều ý kiến hay trên chiến trường.
    *Trung tướng có kỷ niệm vui nào với tướng Định?
    -Nhiều kỷ niệm lắm. Tôi nhớ năm 1947-1948, chị Ba Định đứng ra tổ chức Đại hội phụ nữ tỉnh Bến Tre. Tôi là đai biểu quân sự được mời tới dự. Tính tôi hay chọc phá. Trong đại hội có ?oChương trình thi điền kinh? được dán chữ lớn trên tấm băng-rôn. Vô tình, chữ ?on? của chữ ?ođiền? bị dán ngược thành chữ ?ou?. Tôi đến và phát hiện, liền kêu chị Ba lại trêu chọc. Chị đỏ mặt, cười và đánh tôi: ?oĐồ mắc dịch, cứ cố tìm cho bằng được chuyện để chọc phá?.
    *Gần đây, Tướng Đỗ Mậu của chế độ Việt Nam cộng hoà xuất bản một cuốn hồi ký, Trung tướng có đọc không?
    -Có. Từng là viên tướng nhiều uy quyền của chế độ Sài Gòn cũ, nhưng những gì Đỗ Mậu thể hiện trong hồi ký, tôi cho là tương đối trung thực. Tất nhiên, có nhiều điều mà tôi không thể biết hết được.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Trung tuớng còn nhớ gì về những ngày tiến quân vào giải phóng Sài Gòn?
    -Tôi không trực tiếp tham gia các mũi tiến công. Nhưng trước đó, tôi đã tổ chức chu đáo cánh quân phía Nam chuẩn bị tiến vào giải phóng Sài Gòn. Tình hình lúc ấy theo tin tức ta nắm được, địch có âm mưu: nếu thất thủ Sài Gòn sẽ rút về bên kia sông Tiền để củng cố lực lượng, thành lập chính phủ bốn thành phần. Do đó, tôi được phân công ở lại chỉ huy sở của Miền để trực và chỉ huy hoạt động phối hợp của các quân khu, tỉnh đội; đồng thời kiêm Tư lệnh quân đoàn dự bị nhằm đối phó với âm mưu mới này của địch.
    Sáng 1-5-1975, Sài Gòn hoàn toàn giải phóng, tôi được phân công đi tiền trạm vào thành phố để chuẩn bị đón Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh và Bộ tư lệnh Miền. Có thể nói, đó là những giờ phút đẹp nhất trong cuộc đời binh nghiệp mà tôi mơ ước.
    *Nhưng Trung tướng vẫn chưa được nghỉ ngơi, khi cuộc chiến biên giới Tây Nam Tổ quốc xảy ra?
    -Là người lính thì chẳng bao giờ có quyền nghỉ ngơi. Sau giải phóng, tôi về nhận nhiệm vụ Phó tư lệnh Quân khu 7, rồi khi anh Trà ra Bắc làm Tổng tham mưu phó Bộ tổng tham mưu, thì tôi là Quyền tư lệnh quân khu. Trong chiến dịch biên giới Tây Nam, tôi là Tư lệnh tiền phương Quân khu 7, anh Năm Ngà là Phó tư lệnh, đưa một cách quân sang giải phóng Campuchia. Về sau, tôi được điều về làm Phó tổng thanh tra quân đội, cho đến khi về nghỉ an dưỡng chờ quyết định hưu trí.
    *Thưa Trung tướng, một đời vào sinh ra tử, kỷ niệm đẹp nào thờ chinh chiến thường sống lại trong trí nhớ của Trung tướng?
    -Kỷ niệm thì nhiều, đẹp cũng có, đau thương cũng có. Tôi nhớ hoài về hình ảnh của một đồng đội, một vị lãnh đạo là anh Nguyễn Văn Vịnh ở buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Bấy giờ, tôi đang chỉ huy bộ đội chủ lực thì được tin quê nhà Bến Tre bị quân Pháp đánh chiếm. Tỉnh đội trưởng bệnh nặng, không người thay. Bộ tư lệnh khu 8 mới họp bàn, cử người về phụ trách, nhưng bàn mãi mà không ai thích hợp. Tôi xin về. Anh Vịnh lúc ấy đang là Chính uỷ khu 8, không đồng ý. Anh bảo tôi là chỉ huy bộ đội chủ lực, không quen với cơ sở địa phương, sẽ gặp khó khăn trong việc xây dựng lại từng bước lực lượng dân quân du kích tỉnh nhà vừa bị địch đánh phá nặng, gây tổn thất lớn. Dù vậy, cuối cùng do không có người, tôi cũng được phân công về Bến Tre, tập hợp lực lượng, xây dựng cơ sở, dần dần thành lập lại tiểu đoàn. Khi bắt tay vào thực tế, tôi mới thấm thía những ý kiến cân nhắc chân thành và sáng suốt của anh Nguyễn Văn Vịnh.
    *Trong các tướng lĩnh quân đội ta, Trung tướng gần gũi và quí mến ai nhất?
    -Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Vịnh và Nguyễn Chí Thanh.
    *Trung tướng có thể nói vì sao?
    -Với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, lần đầu tiên gặp anh ấy, tôi dã cảm tình ngay. Không phải vì anh ấy là Bộ trưởng, là Tổng tư lệnh đâu mà vì những đức tính toát ra từ con người. Khi tổ chức con đường 559B vào Nam, anh em họp tính toán đi cặp theo Hoàng Sa và Trường Sa, dự kiến mất 5-6 ngày. Thế là chuyến đầu tiên lên đường. Ngày nào Cục tác chiến cũng họp giao ban, do anh Giáp chủ trì. Mỗi lần tôi vào họp, anh Giáp đều hỏi đã có tin tức gì về chuyến tàu chưa. Tôi nhìn anh lắc đầu. Cứ thế. Anh tỏ ra hết sức lo lắng! Đến ngày thứ 11, tôi vào giao ban, anh níu tay tôi hỏi. Tôi cười, nói đã có điện. Anh mừng quá, lấy bức điện vào đóng cửa phòng, đọc. Khi bước trở ra, tôi thấy anh chảy nước mắt. Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một đồng chí lãnh đạo cao cấp, là người đứng đầu quân đội mà có tình cảm sâu sắc với chiến trường như thế. Thấy anh khóc, tôi không cầm lòng được, cũng khóc theo. Rôi anh Giáp cho mở tất cả thực phẩm dùng đãi khách quốc tế ở nhà họp Quân uỷ Trung ương, để anh em ăn mừng.
    *Với Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, ngoài kỉ niệm nói trên, Trung tướng còn nhớ gì về vị tướng tài ba bạc mệnh này không?
    -Nhiều lắm. Với tôi, anh Vịnh là một người anh lớn mà tôi luôn kính trọng cả về tài năng lẫn nhân cách. Chúng tôi luôn xem nhau như anh em một nhà. Anh Vịnh nguyên là một kỹ sư canh nông của Pháp, một trí thức yêu nước trở thành một nhà cách mạng, một vị chỉ huy có bản lĩnh của quân đội ta. Anh sống rất tình cảm và giúp đỡ anh em cấp dưới một cách chí tình. Chỉ tiếc anh Vịnh ra đi quá sớm!
    Đối với quân khu 8 thời chống Pháp, công lao anh Vịnh rất lớn. Với tư cách là Chính uỷ, anh Vịnh là trung tâm tập hợp đoàn kết mọi lực lượng-có thể nói là một đội quân ô hợp lúc bấy giờ: bao gồm các chi đội độc lập ở trong nước lẫn hải ngoại trở về, vừa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, vừa do Đảng dân chủ lãnh đạo. Với sự thuyết phục của anh Vịnh, nhiều Trung ưong uỷ viên Đảng dân chủ, như anh Nguyễn Đăng chẳng hạn-đã trở thành đảng viên Cộng sản, được đề bạt làm Phó tư lệnh Quân khu 8, sau là Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp. Nếu hiểu được sự tranh giành quyết liệt quyền lãnh đạo trong quân khu bấy giờ giữa Đảng Cộng sản và Đảng Dân chủ thì mới thấy hết công lao của anh Vịnh. Và Quân khu 8 có thể nói là quân khu ổn định nhất của Nam Bộ vào thời điểm cực kỳ rối ren này.
    *Ông còn nhớ gì thời diểm Tướng Vịnh bị kỷ luật?
    -Anh em chúng tôi hoàn toàn không tán thành bản án kỷ luật quá nặng so với sai sót của anh. Tuy nhiên, điều tôi muốn nói là thái độ chấp hành kỷ luật của anh, một đảng viên trung thành, một tướng lãnh, một cán bộ lãnh đạo gương mẫu-bấy giờ anh đang là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Khi anh em đề nghị anh khiếu nại bản án kỷ luật nặng nề, anh nói: ?oChuyện đã như vậy rồi thì thôi. Anh em đừng bàn bạc xôn xao nữa, không hay. Hãy tập trung vào nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đoàn kết chống Mỹ ở miền Nam!?.
    *Tình cảm của Trung tướng đối với Tướng Vịnh thật đặc biệt. Tôi cũng đã nghe nhiều người nói về nhân cách và tài năng của vị tướng thành Nam này. Thế còn đối với Đại tướng Hoàng Văn Thái, Trung tướng có kỷ niệm nào đáng nhớ?
    -Đại tướng Hoàng Văn Thái là người cao to, đẹp trai, phong cách đàng hoàng, giản dị, thái độ luôn điềm tĩnh, chín chắn, tự tin. Khi đứng trước những vấn đề gay go, khúc mắc, anh Hoàng Văn Thái luôn bình tĩnh, kiên trì giải quyết vấn đề. Anh không bao giờ tỏ ra khoe khoang thành tích của mình. Có thể nói, Hoàng Văn Thái là tướng tham mưu tài ba, điển hình của quân đội ta. Thời gian anh vào Nam làm Tư lệnh Miền, chúng tôi rất gắn bó với nhau. Có những đêm, tôi cùng anh thức uống trà bàn công việc, rồi đờn địp với nhau. Tôi đờn theo kiểu tài tử Nam Bộ. Còn anh Thái đờn theo giai điệu dân gian Bắc Bộ. Có một vài bản, chúng tôi có thể ?ophối? lẫn nhau?
    *Được biết Trung tướng cũng từng là đồng đội thân thiết của nữ tướng Nguyễn Thị Định?
    -Chị Ba Định và tôi là người cùng huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Chồng chị là anh Nguyễn Văn Bích lúc ấy hình như là Tỉnh uỷ viên kiêm Chủ tịch Mặt trận Bình dân tỉnh. Tôi thì hoạt động bí mật, thường liên lạc với anh Bích và anh Nguyễn Văn Nguyễn. Tôi gặp chị Ba Định lần đầu khoảng năm 1936-1937, lúc chị và anh Bích mới thành hôn được vài tháng. Chị Ba Định là một phụ nữ đảm lược, sống giản dị, có tác phong rất dễ gần gũi quần chúng. Với tư cách là Phó bí thư Tỉnh ủy Bến Tre thời chống Mỹ, chị là nhân vật nòng cốt đã trực tiếp lãnh đạo thành công phong trào Đồng Khởi. Không những giỏi về đấu tranh chính trị, chị Ba Định còn là nữ tướng sắc sảo, đóng góp nhiều ý kiến hay trên chiến trường.
    *Trung tướng có kỷ niệm vui nào với tướng Định?
    -Nhiều kỷ niệm lắm. Tôi nhớ năm 1947-1948, chị Ba Định đứng ra tổ chức Đại hội phụ nữ tỉnh Bến Tre. Tôi là đai biểu quân sự được mời tới dự. Tính tôi hay chọc phá. Trong đại hội có ?oChương trình thi điền kinh? được dán chữ lớn trên tấm băng-rôn. Vô tình, chữ ?on? của chữ ?ođiền? bị dán ngược thành chữ ?ou?. Tôi đến và phát hiện, liền kêu chị Ba lại trêu chọc. Chị đỏ mặt, cười và đánh tôi: ?oĐồ mắc dịch, cứ cố tìm cho bằng được chuyện để chọc phá?.
    *Gần đây, Tướng Đỗ Mậu của chế độ Việt Nam cộng hoà xuất bản một cuốn hồi ký, Trung tướng có đọc không?
    -Có. Từng là viên tướng nhiều uy quyền của chế độ Sài Gòn cũ, nhưng những gì Đỗ Mậu thể hiện trong hồi ký, tôi cho là tương đối trung thực. Tất nhiên, có nhiều điều mà tôi không thể biết hết được.
    *Thưa Trung tướng, suốt đời chiến đấu, vậy còn thời gian nào Trung tướng dành cho cuộc sống tình cảm riêng tư và gia đình?
    -Thế hệ chúng tôi vừa lớn lên là đã lao vào cuộc chiến đấu vì nền độc lập, tự do của dân tộc, nên thật ít có thời gian nghĩ đến chuyện riêng tư. Riêng gia đình tôi may mắn là đều được trui rèn trong môi trường quân nhân, cả vợ lẫn con cái.
    *Trung tướng gặp bà nhà trong hoàn cảnh nào?
    -Thuở nhỏ chúng tôi là láng giềng của nhau. Cô ấy là một thợ cấy giỏi có tiếng. Chúng tôi thấy tình tình hợp nhau, thương nhau và xin gia đình tổ chức đám cưới. Năm tôi 18 tuổi tham gia cách mạng cũng là năm chúng tôi thành hôn. Sau đó, cô ấy cũng đi cách mạng và vào quân đội. Chúng tôi giúp đỡ, sánh vai cùng nhau đi qua những chặng đường gian khổ lẫn vinh quang của đất nước. Bảy đứa con chúng tôi lần lượt ra đời trong chiến tranh, nay đã khôn lớn, đều tốt nghiệp đại học và đều là quân nhân. Đứa con đầu của chúng tôi là Đồng Văn Be, phi công chiến đấu đã hy sinh trong cuộc đụng độ với không lực Mỹ trên bầu trời miền Bắc. Còn vợ tôi thì vừa mới mất. Hiện tôi đang sống với một gia đình có tất cả 24 cháu nội, ngoại. Tôi đáng ở một ?otrận chiến? mới là dạy dỗ, động viên con cháu để chúng trở thành những công dân có ích cho xã hội.
    *Trung tướng nghĩ gì khi đứng trước cảnh có những thanh thiếu niên bây giờ, trong số ấy có không ít con của những cán bộ, ăn chơi, hút xách, trác tráng, gây rối loạn trật tự an ninh?
    -Tôi hết sức buồn và lo lắng. Trong các cuộc họp đều đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, số thanh niên bị sa đoạ trước ma lực của đồng tiền, theo tôi, chỉ là một bộ phận nhỏ thôi. Do đó, chúng tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng vào lớp trẻ bây giờ trước vận hội mới của đất nước.

Chia sẻ trang này