1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. qthang2006

    qthang2006 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2005
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    0
    Trung tướng Đồng Văn Cống đã ra đi

    TT (TP.HCM) - Vào hồi 13g10 ngày 6-8-2005, trung tướng Đồng Văn Cống - nguyên phó tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam (1965-1972) - đã mãi mãi ra đi, hưởng thọ 87 tuổi.
    Trung tướng Đồng Văn Cống sinh năm 1918 tại xã Tân Trào, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Vào Đảng Cộng sản VN năm 1944, nhập ngũ năm 1946, trong kháng chiến chống Pháp chiến đấu tại chiến trường Nam bộ; đã đảm đương các chức vụ đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn và tỉnh đội trưởng Bến Tre. Năm 1954 tập kết ra miền Bắc được bổ nhiệm sư đoàn trưởng sư đoàn 330; tư lệnh Quân khu Hữu Ngạn (1962).
    Năm 1963 về chiến trường miền Nam chiến đấu, được bổ nhiệm tư lệnh Quân khu 9 (1964), phó tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam từ năm 1965-1972. Tháng 10-1972 đến 1975 được phân công là tư lệnh Quân khu 8. Từ tháng 5-1976 đến tháng 9-1982 là phó tư lệnh Quân khu 7, rồi quyền tư lệnh Quân khu 7. Tháng 10-1982 được bổ nhiệm là phó tổng thanh tra Quân đội nhân dân VN. Trung tướng Đồng Văn Cống là đại biểu Quốc hội khóa VI.
    Với những thành tích của mình, trung tướng Đồng Văn Cống đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh; Huân chương Độc lập hạng nhất; Huân chương Kháng chiến hạng nhất; Huân chương Chiến thắng hạng nhất; Huân chương Quân công hạng 1, 2, 3; hai Huân chương Chiến công hạng nhất; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhất; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.
    Linh cữu trung tướng Đồng Văn Cống quàn tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng phía Nam (số 5 Phạm Ngũ Lão, phường 3, quận Gò Vấp, TP.HCM). Lễ viếng bắt đầu hồi 8g ngày 9-8. Lễ truy điệu hồi 6g30 ngày 10-8-2005, sau đó đưa đi an táng tại quê nhà ở Bến Tre.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cám ơn bác qthang2006 đã có những bổ sung! Đúng là quyển này có 20 vị tướng. Em sẽ gửi lên dần dần!
    (Tiếp theo)
    -Thời ở chiến khu, những lúc rảnh rỗi Trung tướng thường thư giãn bằng cách nào?
    -Đọc sách, chơi bóng bàn hoặc chăm sóc phong lan. Bây giờ vườn nhà tôi ở Huế, hoa phong lan cũng phong phú lắm.
    -Trong đời cầm quân, có khi nào Trung tướng gặp thất bại không?
    -Đánh nhau, thắng bại là lẽ thường. Nhất là trong buổi đầu cầm, quân ta chưa có kinh nghiệm, trình độ tác chiến, vũ khí chưa được trang bị mấy.
    -Trung tướng có thể cho biết một ví dụ cụ thể được không?
    -Mùa xuân 1950, thực hiện chủ trương của cấp trên, hai trung đoàn 95 và 101 vào hoạt động ở vùng sâu Quảng Điền. Để chỉ huy thống nhất cả hai đơn vị, Bộ chỉ huy Phân khu Bình Trị Thiên chỉ định anh Lê Bá Vận làm chỉ huy trưởng, tôi làm chính ủy. Tháng 9 năm 1950, quân ta mở Chiến dịch Biên giới. Chúng tôi được lệnh tích cức phối hợp với chiến trường chính, giữa lúc trời đang mưa lũ. Hồi ấy đường xe lửa Đà Nẵng-Huế bị đánh liên tục, còn đoạn Huế-Quảng Trị thì địch chưa bị ta chặn đánh bao giờ. Vì vậy, chúng tôi đã bất ngờ phục kích đoàn tàu quân sự của Pháp tại Như Sơn-Bến Đá và giành thắng lợi lớn: đốt các toa tàu, thu toàn bộ vũ khí, đặc biệt trong đó có khẩu bô-pho 40 ly với trên 3.000 viên đạn. Chúng tôi mừng như bắt được vàng!
    Sau đó, Trung đoàn trưởng 101 được giao nhiệm vụ vừa chủ động tác chiến bảo vệ mùa màng, vừa phối hợp với chiến dịch Trung Du ở chiến trường chính. Cụ thể là ?ocông đồn diệt viện? nhằm phá vỡ một mảng trong hệ thống đồn bót địch, đẩy mạnh phong trào kháng chiến lán sát vào thành phố Huế. Diệt viện thì không lo, nhưng công đồn thì quá mới mẻ. Kinh nghiệm thực tế chưa có. Vũ khí mạnh duy nhất chỉ có khẩu bô-pho lấy được trong trạn Như Sơn-Bến Đá. Tuy vậy chúng tôi vẫn hăm hở đi nghiên cứu thực địa, quyết định diệt đồn Phổ Lại vào đêm ba mươi Tết Nguyên đán. Lệnh cho bộ đội hành quân đến mục tiêu, bố trí xong các mũi tiến công, tôi kiểm tra lai khẩu bô-pho. Do lúc tháo gỡ trên lô cốt thép quá vội vã, khẩu súng không còn máy ngắm, giờ đành phải ngắm qua nòng. Thấy ngọn đèn le lói trong lô cốt địch, chúng tôi nghĩ chắc ăn rồi. Tôi ra lệnh phát hỏa. Khẩu bô-pho gầm lên. Một phát. Hai phát. Lô cốt vẫn sừng sững, đạn bên trong lại vãi ra như mưa. Bô-pho gầm lần thứ ba. Đạn cũng bay đâu mất! Từ trong lô cốt và các đồn bót gần đó, địch cứ nhắm vào hướng có tiếng súng bô-pho mà vãi đạn. Bộ đội lúng túng. Tôi nghĩ không xong, liền ra lệnh rút lui?
    Trời không trăng, không sao. Mưa phùn lạnh thấu xương. Bụng đói. Tôi và anh Lê Văn Tri-trung đoàn phó Trung đoàn 101 cùng bước bên nhau, mặt mày buồn thiu. Anh Tri bất thần bị tụt xuống vũng lầy. Càng cựa quậy anh càng bị tụt sâu hơn. Rất nguy. Chẳng biết làm sao, tôi liền nằm sấp bám vào bờ ruộng, kéo từ từ anh lên (cười)!
    -Thời đánh Mỹ, Trung tướng là một trong những chỉ huy chủ chốt của chiến trường Trị Thiên (B5), chiến trường giáp ranh hết sức ác liệt. Trong chiến dịch đường 9-Nam Lào, lực lượng B5 giữ một vai trò quan trọng? Trung tướng còn nhớ gì về diễn biến chiến dịch này?
    -Đông xuân 1970-71, theo phán đoán của ta, địch có thể hoạt động trên hai hướng. Một là, chúng tấn công đường 9, cắt đứt đường chi viện miền Nam, cô lập Trung-Hạ Lào và Campuchia. Hai là chúng sẽ đánh ra phía Nam Quân khu 4. Để khỏi bị động, chúng tôi đã lập ba phương án tác chiến khác nhau. Và ngày 30 tháng 1 năm 1971, trực thăng địch liên tục bay về hướng tây. Thế là đúng với phương án một, tức nếu địch đánh ra đường 9 nhằm cắt đôi Đông Dương ta nhất thiết phải sử dụng bộ đội chủ lực Bộ với sự phối hợp của B5. Bộ tư lệnh Chiến dịch Đường 9-Nam Lào (Mặt trận 702) do anh Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, anh Lê Quang Đạo làm chính ủy, đã tổ chức một cuộc họp. Tôi được mời tham dự. Nhiệm vụ B5 là phối hợp với hướng chính diện, tiêu diệt quân Mỹ trên đường Đông Hà-Khe Sanh và cắt đường không cho chúng rút lui. Mỹ có mười ba tiểu đoàn bộ binh và tám tiểu đoàn bộ binh cơ giới, bố trí thành ba tuyến dọc đường 9, đại bộ phận đóng ở Khe Sanh. Vì đánh sang đất Lào, nên quân Mỹ không dám vượt qua biên giới, mà chỉ đứng phía sau yểm trợ quân ngụy. Lực lượng quân ngụy huy động rất hùng hậu: ba sư đoàn (một sư đoàn dù, một sư đoàn thủy quân lục chiến và sư đoàn 1 bộ binh mà chúng xem là ?osư anh cả?) cùng ba lữ đoàn bộ binh, sáu thiết đoàn, mười lăm tiểu đoàn pháo bộ binh, trên một ngàn máy bay các loại, trong đó có bốn mươi máy bay B.52?
    -Lực lượng B5 do Trung tướng chỉ huy đã tác chiến như thế nào?
    -Giữa lúc hướng chính chủ lực Bộ đánh địch ở Bản Đông, thì B5 tấn công quân Mỹ ở Sa Mưu-Tân Lâm-Khe Sanh, rồi tung đơn vị dự bị đánh ngang sườn địch khi chúng rút chạy khỏi Bản Đông. B5 đã tiêu diệt gần 2.000 tên địch, nhưng nhiệm vụ cắt đường rút lui của chúng thì không đạt. Địch dùng hình thức luồn rừng để thoát thân. Hơn nữa, chúng tôi cũng không thể làm chủ đường 9 được thường xuyên.
    -Trên phương diện toàn bộ chiến dịch thì sao?
    -Ngoài số bị diệt, ta bắt sống hàng ngàn tên, có cả Đại tá Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 369 thủy quân lục chiến. Gần sáu trăm máy bay bị bắn hạ và hỏng hóc nặng. Hơn bốn mươi tàu chiến và xà lan bị đánh chìm. Chiến dịch phản công Đường 9-Nam Lào là thất bại nặng nề nhất của địch trong chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh. Đồng thời, nó cũng cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương về dự kiến tình hình chính xác, chuẩn bị triển khai lực lượng chu đáo, kịp thời.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Vậy còn chiến dịch giải phóng Quảng Trị xuân hè 1972 mà quân đội Sài Gòn gọi là ?omùa hè đỏ lửa?? Trung tướng đánh giá thế nào về thắng lợi cũng như tổn thất trong chiến dịch này?
    -Thắng lợi Chiến dịch Đường 9-Nam Lào đã mở ra khả năng thực tế đánh bại hoàn toàn âm mưu Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ. Nhận định lực lượng cách mạng ba nước Đông Dương ngày một lớn mạnh, diễn biến tình hình trong đó có lợi cho ta, Trung ương đề ra nhiệm vụ tập trung triển khai cuộc tấn công chiến lược năm 1972. Mục tiêu làm tiêu hao phần lớn sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, đưa cuộc kháng chiến tiến lên một bước mới. Đối với B5 thì mục tiêu lớn nhất: nếu điều kiện cho phép, sẽ giải phóng toàn bộ Trị Thiên-Huế. Quân ủy Trung ương thành lập một Bộ tư lệnh chiến dịch đủ mạnh, do anh Lê Trọng Tấn làm tư lệnh, anh Lê Quang Đạo-chính ủy, anh Cao Văn Khánh-phó tư lệnh và tôi-phó chính ủy. Tôi cùng anh Giáp Văn Cương được phân công trực tiếp chỉ huy cánh Nam.
    11 giờ 30 ngày 30 tháng 3 năm 1972 tiếng súng chiến dịch bắt đầu. Đến ngày 4 tháng 4 năm 1972, mọi đồn bót thuộc hệ thống phòng ngự từ đông sang tây mà địch xây dựng trên 20 năm đã bị đập nát. Địch thua đau, co cụm cố thủ ở Đông Hà, Ái Tử. Ngày 27 tháng 4 năm 1972, quân ta mở đợt tấn công thứ hai tiêu diệt Đông Hà, Ái Tử. Cánh Nam đánh xuống cắt đường số 1. Cánh Đông cho cơ giới vượt sông Cửa Việt đánh vào. Ngày 2 tháng 5 năm 1972, Quảng Trị giải phóng. Địch chạy sang phía Nam cầu Mỹ Chánh, phá sập cầu, cố thủ. Quân ta cũng thấm mệt, tạm dừng. Cánh Nam trở thành tiền phương của Bộ tư lệnh chiến dịch. Đợt tấn công thứ ba bắt đầu ngày 20 tháng 6 năm 1972. Lúc này địch phản công quyết liệt. Sức tấn công của ta lại không đủ mạnh. Sau sáu ngày, cuộc tấn công phải chững lại.
    -Vì sao khoảng cách giữa đợt tấn công thứ hai với thứ ba lâu như vậy?
    -Nó có mấy vấn đề cơ bản như sau. Khó nhất là vượt sông bằng cơ giới. Khi đánh du kích thì tất cả đều trên vai chiến sĩ, giờ đánh lớn nếu không có xe chở vũ khí, lương thực thì đừng hòng đánh chác gì. Cái khó thứ hai là đường sá cho cơ giới. Đường không có thì xẻ đường bạt núi mà đi, chứ còn sông thì không thể qua được nếu không có cầu, phà. Bắc cầu phao, bị máy bay bắn hỏng. Do đó phải tìm bến vượt, đắp ngầm cho xe sang. Năm ấy gặp lúc ?otiểu mãn?, mưa như thác đổ, nước sông dâng cao lênh láng. Con đường 15 N mở sau giải phóng Quảng Trị, chủ yếu dựa vào lòng khe suối, đã bị nước tràn, tắc nghẽn. Trong lúc đó, quân trang quân dụng chuẩn bị chỉ nhỏ giọt. Bộ đội đối mặt với nhiều khó khăn, vất vả. Lợi dụng thời gian, địch ra sức củng cố lực lượng để đối phó, đặc biệt chúng dùng phi pháo để ngăn chặn, gây khó khăn cho ta. Tôi nghĩ, sau khi giải phóng Quảng Trị khoảng sáu đến mười ngày mà không tiếp tục tấn công, thì thời cơ đã mất. Nếu như thấy mở đợt tấn công vào sâu chưa thể được, thì chuyển hẳn sang chiếm lĩnh địa bàn, bố trí lại lực lượng, xây dựng công sự,? tạo thế đứng vững chắc. Sau đó, mới chuẩn bị đợt tấn công mới, cũng không muộn. Nhưng tiếc là ta đã không làm thế!
    -Quân giải phóng chiếm giữ thành cổ Quảng Trị được bao lâu?
    -Tám mươi mốt ngày đêm. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, địch mở cuộc phản công bằng hai sư đoàn cơ động Lao Cai. Sư dù tiến ra theo phía tây đường 1. Sư đoàn thủy quân lục chiến tiến dọc phía đông. Chủ yếu chúng dùng bom, pháo đánh mạnh vào các trận địa của ta. Theo số liệu thống kê, mỗi ngày chúng dội vào đây 24 tấn bom đạn trên một cây số vuông. Cuộc chiến đấu diễn ra hết sức ác liệt, trước khi chúng tôi rời thành cổ Quảng Trị lùi về phía bắc sông Thạch Hãn. Tuy nhiên, phần lớn đất đai được giải phóng vẫn nằm dưới sự kiểm soát của quân ta.
    -Nghe nói trong cuộc giằng co ác liệt này, Trung tướng cùng Sở chỉ huy suýt nữa bị trúng bom B.52, có đúng không, thưa Trung tướng?
    -Đúng. Có một chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi và viên phi công nhảy dù ngay trong khu vực sở chỉ huy chúng tôi. Máy bay địch quần đảo, lùng sục hòng cứu viên phi công bị bắt. Đặc biệt, máy bay trực thăng rà lượn khắp nơi. Lán trại chúng tôi ẩn dưới các lùm cây tung bay như gặp bão. Bị lộ, chúng tôi tức tốc di chuyển nơi khác. Đi ban chiều thì B52 dội bom ngay tối hôm đó. Tôi không bao giờ tin vào sự may rủi, nhưng điều ngẫu nhiên này làm tôi phải suy nghĩ. Rõ ràng, nếu nấn ná vài tiếng đồng hồ nữa thôi thì cả sở chỉ huy đã bị bom B52 cày nát. Chúng tôi bảo nhau: ?oThế nào Mỹ cũng khoe khoang rùm beng vừa phá nát một sở chỉ huy *********?.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Năm 1973, Chủ tịch Fidel Castro vào thăm vùng giải phóng Quảng Trị, Trung tướng có tiếp xúc với Fidel?
    -Có. Lúc đó, cơ quan chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đóng tại Quảng Trị. Ủy ban Quốc tế giám sát bốn bên và các đoàn ngoại giao cũng đến đây. Chủ tịch Fidel dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước Cuba đến thăm Quảng Trị đầu tiên. Chúng tôi ra đón tại Vĩnh Linh. Tôi nhớ mãi hình ảnh Fidel đạp chân lên khẩu đại bác 175 ly nằm bên vệ đường, cười nói với tôi: ?oVua chiến trường? mà còn bị các đồng chí bắt sống, thì địch còn biết lấy vua gì nữa để mà chống đỡ các đòn tấn công sắp tới!?. Anh Trần Nam Trung đại diện chính phủ Cách mạng lâm thời tặng Chủ tịch Fidel một chiếc xe M48. Tôi đại diện Quân khu Trị Thiên tặng một khẩu 106,7 ly. Sau đoàn Cuba là đoàn Đảng cộng sản Pháp do Tổng bí thứ Marse dẫn đầu đã đến thăm Quảng Trị giải phóng.
    -Thưa Trung tướng, lần đầu Trung tướng được gặp Hồ Chủ tịch vào lúc nào? Ấn tượng nào của Người đã để lại trong lòng Trung tướng?
    -Năm 1948, sau một thời gian làm chính ủy Trung đoàn 77, tôi được cử tham gia Đoàn đại biểu Liên khu 4 được đưa đi gặp Hồ Chủ tịch. Trước đó khi nghe được tin, chúng tôi hồi hộp lắm, sung sướng lắm, đứng ngồi không yên! Lần theo một con đường rừng, chúng tôi đến một cái vườn rộng, thấy một ngôi ngà sàn có ánh đèn. Bác ngồi đợi sẵn. Đập vào mắt tôi trước tiên là hình ảnh một cụ già quắc thước, mắt long lanh, trán cao, chòm râu dài lưa thưa; trong bộ quần áo nâu giản dị, không cài cúc, để lộ chiếc may ô cũ đã ngã sang màu vang đục. Bác vui vẻ bắt tay từng người, rồi bảo: ?oCòn chú nào chưa bắt tay thì đến, kẻo bác quên!?. Giọng nói của Bác không trầm, không thanh và vang xa, nghe rất ấm. Đề cập đến việc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào nước ta, cuối buổi gặp gỡ Bác nói: ?oMột thằng Mỹ chứ mười thằng Mỹ cũng đánh. Phải đánh và phải thắng?? Rồi Bác quay sang Đại tướng Võ Nguyên Giáp: ?oNgày mai lên hội trường chú phải giải thích việc này cho mọi người rõ, kẻo có người còn lơ mơ?. Gần bốn mươi năm trôi qua, những lời đanh thép ấy của bác vẫn luôn văng vẳng bên tai tôi. Nhất là những lần xung trận, hình ảnh và lời dặn của Bác như một niềm thôi thúc tiến lên mạnh mẽ!
    -Với kinh nghiệm ba mươi năm dày dạn trên chiến trường, theo Trung tướng, điều cốt yếu của tướng cầm quân khi ra trận là gì?
    -Điều cốt yếu của tướng cầm quân là trận đầu phải thắng. Đó là tiền đề nâng cao tinh thần chiến sĩ, sớm hoàn thành những nhiệm vụ tiếp theo. Tôi lấy ví dụ, trong Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975, với trận đầu Buôn Mê Thuật thắng lợi, dẫn đến giải phóng ?onóc nhà? Tây Nguyên, tạo bàn đạp thuận lợi cho toàn chiến trường miền Nam. Quân địch suy sụp nhanh chóng. Quân ta càng đánh càng mạnh.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Đại tướng Văn Tiến Dũng từng nói rằng việc giải phóng thành phố Huế và toàn bộ Trị Thiên đã ?ogiáng một đòn nặng vào âm mưu co cụm chiến lược của địch?. Là vị chỉ huy trực tiếp giành thắng lợi này, xin Trung tướng cho biết rõ hơn?
    -Tiến trình gồm hai giai đoạn. Thứ nhất là khi mặt trận Tân Nguyên mở màn thì Trị Thiên cũng bắt đầu nổ súng phối hợp cả ở vùng giáp ranh lẫn đồng bằng. Chúng tôi mượn đường của dân sự để bí mật chuyển quân từ trên núi xuống. Và 11 phân chi khu của địch bị diệt gọn trong số 30 phân chi khu bị tiến công. Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 18 tháng 3 năm 1975. Ta phán đoán địch sẽ đưa Sư đoàn 1 từ Huế vào Đà Nẵng tổ chức phòng thủ từ đèo Hải Vân trở vào. Lúc này, Quân đoàn 2 do anh Nguyễn Hữu An làm tư lệnh, anh Hoàng Đan làm phó tư lệnh, anh Lê Linh làm chính ủy và anh Giáp Văn Cương-phó tổng tham mưu trưởng được Quân ủy Trung ương biệt phái vào trợ giúp quân đoàn,đã phối hợp với Quân khu Trị Thiên. Tôi bàn và thống nhất với anh Nguyễn Hữu An là phải táo bạo thọc qua tuyến phòng thủ bên ngoài của địch, áp sát Huế, cắt đứng đường số 1, tiêu diệt Sư đoàn 1 bộ binh để chúng không kéo được về Đà Nẵng thực hiện ý đồ co cụm phòng thủ chiến lược.
    Trên Đài phát thanh Huế, tướng ngụy Ngô Quảng Trưởng, tư lệnh Quân khu 1, không ngừng lớn tiếng tuyên bố: ?oTôi sẽ chết trên đường phố Huế. ********* phải bước qua xác tôi mới vô được cố đô này?. Ngày 19 tháng 3 tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Ngày 22 tháng 3, chúng tôi chia cắt chiến tranh tại phía nam Huế, các cánh quân của ta từ ba hướng bắc, tây và nam bao vây Huế. Sư đoàn 1 bộ binh và Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến ngụy bị đánh tan tác. Đường số 1 bị đứt ở Mũi Né-Bái Sơn. Quân địch thực sự bắt đầu hỗn loạn. Nhiều vị trí không đánh đã bỏ chạy. Anh Nguyễn Hữu An gọi điện cho tôi trao đổi rằng, sẽ có bộ đội chia làm hai cánh tấn công Huế và cửa Thuận An, bao vây không cho địch thoát chạy bằng đường biển và lừa chúng vào giữa vòng vây của ta mà tiêu diệt. Anh còn đề nghị tôi cho lực lượng xuống từ phía tây Huế để hợp vây giải phóng Huế. Ý định của anh hoàn toàn ăn khớp với tối!
    Địch bị cắt đường số 1 chỉ còn lối thoát duy nhất là rút chạy bằng cửa biển Thuận An và Tư Hiền. Chúng tôi nắm rõ ý đồ đó, liền cho pháo tầm xa bắn ra biển, khống chế tàu địch vào đón đoàn quân rút chạy. Đặc công thả mìn phong tỏa cửa biển. Bọn ngụy chỉ còn cách quay lưng cố đạp lên nhau thoát thân mà thôi. Đúng 10 giờ 20 ngày 25 tháng 3, cờ quân giải phóng được kéo lên trước Ngọ Môn. Huế hoàn toàn thuộc về ta. Sư đoàn 1 bộ binh ngụy từng được ca ngợi là sư đoàn thiện chiến bị nhanh chóng tan rã. Huế giải phóng, tướng ngụy Ngô Quảng Trưởng chuồn thẳng vào Sài Gòn giả bệnh vào quân y viện. Tinh thần quân địch hoang mang cực độ. Mấy ngày sau thì Đà Nẵng cũng thuộc về ta. Nghĩa là chỉ trong một thời gian ngắn, hai thành phố chiến lược quan trọng đã được quân ta đánh chiếm một cách thần tốc, táo bạo, bất ngờ.
    -Trung tướng có cảm xúc gì khi đặt chân lên thành phố Huế?
    -Như một giấc mơ. Một giấc mơ ba mươi năm trời đằng đẵng, mà trong tâm trí tôi lúc nào cũng nghĩ về quê hương, về Huế thân yêu! Khoảng 9 giờ đêm 26 tháng 3 năm 1975, sau khi chia tay với Bộ tư lệnh Quân đoàn 2, xe chúng tôi chạy về Huế. Cảnh vật hai bên đường đã bình yên trở lại. Nhân dân đã yên giấc ngủ. Xe tới cầu An Cựu, tôi thật vui mừng khi thấy đèn điện vẫn sáng. Chúng tôi đi thẳng vào đồn Bảo an ngụy vốn là trụ sở tình báo quân sự do anh Cao Pha phụ trách hồi Cách mạng tháng Tám, nay tạm thời là trạm hậu cần Quân khu Trị Thiên.
    Suốt đêm tôi không tài nào ngủ được. Mở cửa sổ nhìn dòng sông Hương êm đềm, dịu dàng trôi lòng tôi miên man nghĩ về đồng đội ai còn ai mất, về công việc ngày mai, về các đoàn quân đang thẳng tiến vào Sài Gòn mà Trị Thiên-Huế trở thành hậu phương trực tiếp trên toàn miền Nam. Ngồi giữa cố đô Huế, tôi cứ ngỡ mình đang mơ. Một giấc mơ đánh đổi bằng biết bao gian khổ, hy sinh. Không chỉ những người con của Huế mà hàng triệu đồng bào Quảng Bình, nhất là Vĩnh Linh cùng chia sẻ. Không chỉ có nhân dân miền Nam mà hàng chục triệu đồng bào miền Bắc cùng chịu đựng, mất mát, hy sinh. Dường như không có gia đình nào ở miền Bắc không có con em vào Nam chiến đấu, cùng chia sẻ gian khổ, hy sinh để có ngày đại thắng của toàn dân tộc.
  6. tmkien

    tmkien Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    28/12/2004
    Bài viết:
    494
    Đã được thích:
    0
    Theo bác thế có phóng đại quá không nhỉ! Mỹ lấy đâu ra mà lắm máy bay thế!
  7. qthang2006

    qthang2006 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2005
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    0
    chào ptlinh, rất hoan nghênh bạn đăng tác phẩm này. Nhưng mà hình như bạn làm có vẻ hơi vất vả, mình thấy kéo dài hơn 1 năm rồi.
    nhưng hình như ptlinh đánh thiếu mấy đoạn, hay là bản của ptlinh cũ. VD : thiếu tướng Trần Đại Nghĩa, mình nhớ sách của mình có đoạn hỏi ông về việc ông được mời làm viện sĩ hàn lâm danh dự của viện hàn lâm TG thứ 3 (thì phải) cùng với ông Nguyễn Văn hiệu, nhưng ông từ chối. Trong bản của ptlinh không thấy có chi tiết này. Rồi như trung tướng Đồng Văn Cống, mình nhớ còn đoạn giới thiệu đầu, cũng không thấy ptlinh gõ vào.
    Đặc biệt, là thiếu những chi tiết biểu lộ cảm xúc như khi được hỏi "bây giờ quân hàm của VS là gì", Trần Đại Nghĩa (cười) : vẫn thiếu tướng. Cái chi tiết nhỏ " (cười)" không thấy ptlinh đưa lên, mình từng đọc rồi nên cảm thấy thiếu thiếu.
    Một là bản của ptlinh cũ, hai là ptlinh chỉ muốn đăng phần nội dung phỏng vấn
    mình rất tiếc vì bạn mình làm mất quyển này. Nếu ptlinh cần, gửi bản scan cho mình, mình gõ giúp 1 tay.
    Được qthang2006 sửa chữa / chuyển vào 19:51 ngày 29/11/2005
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    To Tmkien: con số gần 600 thì cũng nhiều thật nhưng mà có thể đấy là con số thống kê cuối cũng kiểu như là quân ta bắn rơi mấy nghìn máy bay Mỹ ở miền Bắc vậy thôi!
    To qthang2006: Dạ đúng vậy bác ạ! 7 vị tướng đầu tiên là dùng quyển tập 1. Sau đó em đi lùng mãi mới kiếm được quyển dầy (trọn bộ 3 tập) nên thời gian có lâu hơn.
    (Tiếp theo)
    -Có thể nói bom mìn là một hậu quả kinh hoàng mà chiến tranh để lại. Mãi thời gian gần đây vẫn còn những vụ sát thương vô tình do bom, mìn gây ra. Sau giải phóng, Huế đã tiến hành giải quyết số bom mìn còn sót hay do đối phương cài lại như thế nào?
    -Chúng tôi phát động cả một chiến dịch phá bom mìn, hy động dân quân du kích, bộ đội địa phương, kể cả bộ đội chủ lực cùng tham gia. Hai tháng đầu, đã thu gọn trên ba triệu quả bom, mìn. Dù vậy vẫn chưa thể rà hết. Nhất là vùng giáp ranh, nơi tranh chấp quyết liệt của hai bên từ khi có Hiệp định Paris cho tới ngày giải phóng.
    -Thưa Trung tướng, trong đời binh nghiệp của mình, ai là đồng đội thân thiết của Trung tướng?
    -Ban chiến đấu làm sao kể hết. Tôi còn giữ nhiều kỷ niệm với anh Nguyễn Sơn, anh Lê Văn Tri ở Liên khu 4, rồi cả với anh Cao Văn Khánh khi trở trường lục quân và B5 (tức chiến trường đường 9-Bắc Quảng Trị).
    -Về tướng Nguyễn Sơn, trung tướng còn giữ được kỷ niệm gì?
    -Nguyễn Sơn thì tôi biết anh từ khi anh làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam, nhiều lần công tác qua Huế. Nguyễn Sơn là con người ngay thẳng, tài ba. Anh vốn được xem là một trong bảy mươi hai vị đại công thần được nhân dân Trung Quốc trọng vọng, dưới cái tên Hồng Thủy. Khi anh làm Tư lệnh khu 4, tôi ra học quân sự, gặp anh rất vui vẻ, cởi mở. Nguyễn Sơn hay bảo: ?oNày Đồng, tao có cái gì không đúng không??. Con người tự nhiên, trực tính như thế! Tôi nói: ?oTôi thì tôi chịu anh đấy!?. Anh nhìn tôi: ?oƠ, cái thằng này!?. Đại hội tập toàn quân ở Khu 4 là một sáng tạo của tướng Nguyễn Sơn lúc đó. Tôi nhớ, anh luôn chạy nhanh, khỏe hơn cả trước hàng quân đang luyện tập. Thật khó có anh lính dưới quyền nào đánh được sự khỏe khắn, nhanh nhẹn của anh. Đại hội tập là dịp để nâng cao trình độ huấn luyện, trao đổi kinh nghiệm và gắn liền giữa huấn luyện của Thanh Nghệ Tĩnh với cuộc chiến đấu đang diễn ra ở Bình Trị Thiên.
    -Thời gian ở Trường kỹ nghệ thực hành Huế, Trung tướng có quan hệ với tướng Trần Văn Trà?
    -À, anh Trà học trước tôi rồi ở lại dạy, từng làm thầy. Chúng tôi thường xuyên liên lạc với nhau. Anh Trà là một trong hai người xuất thân từ Trường kỹ nghệ thực hành Huế mà tôi phục. Về sau, chiến đấu khác chiến trường, chúng tôi ít có cơ hội gặp nhau. Chỉ thời gian ra Bắc, tôi có cùng anh sang Liên Xô đàm phán, nhờ bạn viện trợ xây dựng học viện quân chính năm 1956.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Trung tướng, hết ở chiến trường lại về học viện quân sự, suốt đời gắn bó với binh nghiệp, bây giờ nhìn lại, có khi nào Trung tướng chợt luyến tiếc cho hạnh phúc tuổi thanh xuân của mình không?
    -Hạnh phúc tuổi thanh xuân của tôi là được đứng vào hàng ngũ cách mạng, góp sức mình vào sự nghiệp giải phóng quê hương, đất nước. Tôi ít nghĩ đến hạnh phúc riêng tư cho mình. Tôi may mắn có được người vợ chung thủy, đảm việc nhà, nuôi dạy chu đáo con cái để tôi yên tâm trường kỳ đi đánh giặc.
    -Trung tướng còn nhớ kỷ niệm lần đầu tiên gặp bà nhà thời trai trẻ?
    -Nhớ chứ! Chúng tôi quen biết và thương yêu nhau trên chiến trường thời đánh Pháp. Lúc mặt trận Huế vỡ, trên đường rút về chiến khu Hòa Mỹ, tôi hơi buồn. Tình cờ, tôi gặp một cô chủ tịch xã, tên Nguyễn Thị Kim Khánh, nguyên là nữ sinh trường Đồng Khánh. Trong tâm trạng ngổn ngang ấy, gặp được một người khác giới, đoan trang, nghị lực, biết cách chia sẻ, động viên, tôi dần phải lòng, nhưng cũng chưa dám nghĩ đến chuyện riêng tư. Mãi tới khi tôi ra Liên khu 4 học quân sự, cô ấy cũng ra học, chúng tôi mới ngỏ lời nói chuyện tương lai và tiến tới thành hôn với nhau. Lễ cưới tổ chức đơn sơ ở Hậu Hiền, Thanh Hóa. Anh Nguyễn Sơn-tư lệnh, anh Nguyễn Chí Thanh-bí thư Liên khu ủy, chị Lê Thị Quế,? đã đến sự và anh Nguyễn Sơn đứng ra làm chủ hôn.
    -Trong kháng chiến bà nhà ở đâu?
    -Vào chiến khu, làm công tác phụ nữ, rồi cũng vào bộ đội. Miền Bắc giải phóng, nhà tôi ra học văn hóa ở Hà Nội và tiếp tục vừa công tác vừa nuôi dạy con cái. Chứ còn tôi luôn đi xa, có ở nhà được mấy.
    -Những lúc rỗi rãi trên chiến trường, có khi nào vì quá nhớ vợ mà Trung tướng mong sớm có dịp hội ngộ cùng gia đình?
    -Vợ con ai mà không nhớ! Nhưng vì nhiệm vụ lớn trước mắt, giữa bao nhiêu mất mát hy sinh của anh em chiến sĩ, tôi lòng nào nghĩ đến chuyện riêng mình. Trong chiến tranh, việc phải xa vợ con năm mười năm biền biệt đối với người lính chúng tôi là chuyện thường tình. Năm 1948, sau kế hoạch dự Hội nghị rèn cán chỉnh quân tại Việt Bắc, tôi được cử ở lại học một khóa quân sự tại Thái Nguyên, sau dời lên Tam Đảo, do anh Trần Tử Bình và Lê Thiết Hùng phụ trách, rồi về ngay Khu 4 nhận nhiệm vụ.
    Tôi vượt sông Hồng, qua Hà Đông, vào Thanh Hóa. Đây là con đường nhanh nhất, thuộc đường dây biệt động Hà Nội. Tôi được anh Nguyễn Sơn phân công về Trung đoàn 101. Anh bảo: ?oCậu Đồng về Thừa Thiên phải cố gắng lên. Trong ấy đang gặp nhiều khó khăn đấy?. Như hiểu rõ tâm trạng của tôi, anh bảo thêm: ?oCứ yên tâm mà đi. Còn cô Khánh thì phải sinh nở xong đã, sẽ tính sau?. Gần hai năm trời ở Việt Bắc, tôi ao ước trở lại chiến trường xưa. Giờ đã toại nguyện. Nhưng tôi không khỏi xao xuyến khi xa vợ trong lúc vợ đang bụng mang dạ chửa, ở nhờ nhà đồng bào cơ sở, không ai chăm sóc lúc sinh nở. Tuy nhiên, vợ tôi đã động viên tôi tranh thủ vào chiến trường sớm!
    -Trước khi gặp bà nhà, có thiếu nữ nào ở Huế làm Trung tướng phải lòng không?
    -(Cười hồn nhiên) Tất nhiên là có rồi. Nhưng chuyện xa xưa nhắc làm chi. Anh em chúng tôi thời ở tù có một cô bạn gái rất thân, tôi muốn nói là bạn thôi nhé! Đó là Đào Thị Đính, em ruột học giả Đào Duy Anh. Sau này chị ấy có chồng, anh em chúng tôi gặp nhau hay đùa: ?oSao con Đính hồi ấy nó không lấy mình nhỉ!??.
    -Theo cách nhìn chủ quan của Trung tướng, phụ nữ Huế có điểm gì đặc biệt so với?
    -Cái này khó nói quá (cười). Mỗi nơi có mỗi cái nết. Nhưng theo tôi ở Huế, chung thủy là đức tinh truyền thống. Thứ hai là đảm việc nhà, nuôi con thương chồng, quí trọng bố mẹ. Ôi châu cha làm dâu ở Huế không đơn giản đâu anh ạ! Khó lắm. Không giống như làm dâu ở Hà Nội, Sài Gòn đâu. Cái may của bà nhà tôi là khỏi làm dâu, vì bố mẹ tôi bị mất sớm. Nói vậy, chứ bây giờ (ông hạ thấp giọng) bao nhiêu công việc mồ mả giỗ chạp bà ấy lo cả, tôi có lo được gì đâu. Bốn đứa con chúng tôi thì đều sống ở Hà Nội.
    -Vì sao về hưu Trung tướng không ở lại Hà Nội với con cháu mà quay trở về Huế, thưa Trung tướng?
    -Hoàn thành nhiệm vụ rồi thì trở về quê hương chứ ở Hà Nội làm chi! Tôi và nhà tôi muốn về Huế sống phần đời còn lại, giữa tình cảm bà con quê hương, tình đồng đội năm xưa. Tôi lại được anh em tín nhiệm đề cử làm Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Trị Thiên-Huế. Thấy tôi về Huế, bắt đầu dựng nhà để ở, anh em cựu chiến binh tức cười. Cả đời tôi có nhà của gì riêng cho mình đâu! Tôi mới làm bài thơ đùa vui, trong đó có hai câu rằng:
    Bảy mươi xuân mới làm nhà
    Nặng tình non nước hỏi già chăng ai?
    Câu chuyện đến đây thì trận đấu quyền Anh được truyền trực tiếp giữa Mike Tyson và Evander Holyfeld chuẩn bị bắt đầu. Lão tướng dạn dày trận mạc dán mắt vào truyền hình, hồi hộp thấp thỏm chẳng kém chúng tôi. Ông cười bảo: ?oHồi trẻ tôi mê chơi quyền Anh lắm (Ông đưa nắm tay lên). Một tay đấm có hạng đây. Cả bóng đá nữa. Cũng nhờ chơi thể dục thể thao thường xuyên mà tôi mới giữ được sức khỏe tốt. Mắt không mờ. Tai không kém??.
  10. hitlai

    hitlai Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/11/2005
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn
    Cho minh hỏi tí nhé về đợt phong tướng vừa qua. Theo ý của các bạn trong này thì việc phong hàm đại tướng cho 2 pác Trà và pác Lê Hồng Anh là có xứng đáng hay không vì theo tui biết là trong các thời kỳ kháng chiến và chiến tranh biên giới thì chả thấy nhắc tới mấy ông này cả về quân sự lẫn chính trị. Trong khi đó thì nước ta có rất nhiều thượng tướng danh tiếng nhưng chả thấy ông nào được lên hàng đại tướng cả. Tại sao vậy mong các bạn cho ý kiến để tiếp thu học hỏi thêm. Chào thân ái.

Chia sẻ trang này