1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nguyencongtu712

    nguyencongtu712 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/02/2005
    Bài viết:
    1.310
    Đã được thích:
    0
    Hôm nọ đọc trên báo nói về luật Công An nhân dân có đoạn nói rằng Bộ trưởng Bộ Công An cấp hàm thượng tướng hoặc Đại tướng. Có lẽ vì vậy phải trao cho Lê Hồng Anh hàm đại tướng thì mới có uy ( ông này không phải người trong ngành công an). Còn vì sao trao cho bác Trà cấp hàm Đại tướng thì không biết. Còn những vị tướng kia có lẽ do về hưu rồi nên không phong cấp nữa.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    To hitlai: câu hỏi của bác khoai quá, cái này phải mấy bác trong ngành mới rõ được!
    Thiếu tướng Phan Khắc Hy
    Được sinh ra và lớn lên trong vòng tay của người mẹ nghèo vùng gió cát Quảng Bình, cậu bé hiếu học Phan Khắc Hy sớm ý thức thân phận nô lệ của người dân mất nước, quyết đi tìm con đường cứu dân cứu nước. Ở tuổi hai mươi, Phan Khắc Hy đã là bí thứ Huyện ủy. Vào quân đội, ông trở thành cán bộ chính trị rồi quân sự cao cấp. Thời chống Mỹ, ông là chính uỷ Không quân nhân dân Việt Nam, phó tư lệnh Bộ đội Trường Sơn-559, trực tiếp tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đất nước thống nhất, hai mươi tám vạn quân được chuyển sang làm kinh tế, tướng Phan Khắc Hy sát cánh cùng vị chỉ huy than thiết là tướng Đồng Sĩ Nguyên lăn xả vào mặt trận mới. Ông được cử làm phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng kinh tế, phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và phó tổng cục trưởng Tổng cục Công nghiệp quốc phòng. Ông còn được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VIII. Năm 1973, Phan Khắc Hy được thăng quân hàm Đại tá, năm 1980 thăng Thiếu tướng. Cuộc đời vị tướng từng ?othập tử nhất sinh? này là một cuộc đời học tập phấn đấu không ngừng, mang nhiều bước ngoặt và ẩn chứa bao điều kỳ thú.
    -Cha tôi là một nhà Nho nghèo ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Ông từng đi thiếu tá tam trường, nhưng vì Nho học thất thế, ông chuyển sang học quốc ngũ rồi vào Quảng Bình vừa dạy học vừa làm thầy thuốc Đông y và gặp mẹ tôi (Cởi mở và chân tình, Thiếu tướng Phan Khắc Hy đi thẳng vào câu chuyện, đúng tác phong của một nhà quân sự). Tôi tuổi Đinh Mão, sinh năm 1927 tại quê ngoại thị trấn Hoàn Lão, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Mẹ tôi mua bán trầu cau ở chợ, một tay bà nuôi sáu anh em tôi ăn học, tham gia cách mạng. Khi mẹ mất, tôi đọc điếu văn về cuộc đời gian truân của bà, ai nghe cũng khóc!
    Còn cha tôi lại vào Quảng Ngãi có vợ khác. Năm 1946, ông về Hoàn Lão cất nhà cho con cái ở, rồi trở vào Quảng Ngãi. Năm 1951, ông bệnh mất. Mãi năm 1975, tôi mới về được Quảng Ngãi viếng mộ cha. Bà con ở đây gọi ông là Thầy Học. Cha tôi vẫn vừa dạy học vừa làm thuốc. Sau Cách mạng tháng Tám, ông còn làm Chủ nhiệm ********* xã.
    -Việc học hành của Thiếu tướng thời niên thiếu ra sao, thưa Thiếu tướng?
    -Lúc nhỏ tôi học trường làng ở Bố Trạch, lấy bằng yếu lược. Sợ ở thị trấn lêu lỏng chơi bời, cha tôi đưa anh em tôi về Đức Thọ, Hà Tĩnh là vùng đất hiếu học, ở với bà mẹ lớn để ăn học. Hết tiểu học, đậu primaire, tôi ra Vinh học trung học. Ngoài chương trình ở nhà trường, học sinh chúng tôi hồi ấy rất ham hiểu biết. Chúng tôi góp nhau lập thư viện đủ loại sách văn học, triết học, chính trị? Tôi đọc rất nhiều về Khổng Tử, Lão Tử, Các Mác, chép sổ tay thơ Tố Hữu, Xuân Diệu cùng nhiều nhà thơ khác. Tôi cũng tranh thủ làm thêm để bớt gánh nặng cho gia đình. Năm 1943, nửa năm thứ hai trung học, tôi với một người bạn thân là Quách Xuân Kỳ trốn học, dự định xuất dương làm cách mạng nhưng không thành.
    -Quách Xuân Kỳ là một nhân vật lừng lẫy ở Quảng Bình. Thiếu tướng với Quách Xuân Kỳ từng gắn bó?
    -Chúng tôi như hai anh em ruột thịt, cùng học với nhau từ nhỏ, cùng tham gia cách mạng và vào Đảng một ngày, cùng trong ủy ban khởi nghĩa huyện. Trước Cách mạng, ủy ban khởi nghĩa hay họp ở nhà tôi, nhưng mẹ tôi không biết. Khi hay tin ********* cướp chính quyền, mẹ tôi tưởng ********* từ Hà Nội vào, nên chạy lên huyện xem, mới vỡ lẽ ********* chính là? thằng Kỳ, thằng Hy và toàn những khuôn mặt hay lui tới nhà mình (cười).
    Kháng chiến bùng nổ, chúng tôi cùng tập thể lãnh đạo huyện Bố Trạch, một huyện tạm bị địch chiếm đóng, thực hiện chủ trương ?odân bám làng, cán bộ bám dân, toàn dân kháng chiến?, lăn lộn với nhân dân, xây dựng cơ sở, lãnh đạo đấu tranh, đưa phong trào kháng chiến lên cao với những làng chiến đấu nổi tiếng như Cự Mẫm, Hoàn Lão. Quách Xuân Kỳ trên các cương vị bí thư Thanh niên Cứu quốc, chủ nhiệm *********, bí thư Huyện ủy, với tinh thần dũng cảm, tác phong nhạy bén, sâu sát đã được nhân dân tin yêu, kẻ thù khiếp sợ. Cuối năm 1948, phong trào thị xã Đồng Hới gặp khó khăn, Tỉnh ủy Quảng Bình điều Quách Xuân Kỳ vào làm bí thứ Thị ủy. Tôi thay anh làm bí thư Huyện ủy Bố Trạch. Trong một thời gian ngắn, anh đã cùng tập thể Thị ủy khôi phục và phát triển cơ sở quần chúng, cơ sở Đảng trong thị xã. Một ngày đầu tháng 5 năm 1949, Quách Xuân Kỳ bị địch bắt khi vào công tác ở nội thị. Băng mọi thủ đoạn mua chuộc và tra tấn dã man, kẻ thù vẫn không khuất phục được anh. Biết địch không để mình sống nhưng anh vẫn lạc quan, vẫn học tập và đấu tranh không mệt mỏi.
    Trước lúc bị địch xử tử vào tháng 7 năm 1949, từ trong tù anh gửi cho tôi một bức thư bằng máu, do cô người yêu của anh từ thị xã chuyển. Anh nhờ tôi chuyển lời chào vĩnh biệt và quyết chiến đến đồng chí và đồng bào thân yêu!
    Quách Xuân Kỳ và cô bạn gái rất thương yêu nhau, nhưng chưa ai tỏ tình và hứa hẹn với ai. Có thể vì công tác cách mạng luôn đối mặt với hiểm nguy nên Quách Xuân Kỳ không muốn người mình yêu phải khổ. Tình cảm lứa đôi thế hệ chúng tôi trong chiến tranh thật đẹp thật lãng mạn!
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Sự lãng mạn ấy có gì khác thường không, thưa Thiếu tướng?
    -Chúng tôi tìm hạnh phúc của mình trong hạnh phúc người khác. Cuộc chiến đấu có thể phải hy sinh, ta không để cho người khác phải đau khổ vì minh. Như chuyện tình của Quách Xuân Kỳ, khi được tin anh bị bắt, người yêu chưa một lần tỏ tình của anh đã xung phong làm công tác phụ nữ, dấn thân vào nơi nguy hiểm cùng với người yêu.
    -Trở lại với hành trình cuộc đời Thiếu tướng, từ cán bộ dân chính Thiếu tướng chuyển sang quân đội lúc nào?
    -Tháng 6 năm 1949, tôi được điều lên Tỉnh ủy Quảng Bình. Tháng 12 năm 1949 tôi thay Đồng Sĩ Nguyên làm chính trị viên Tỉnh đội, rồi phó bí thư Tỉnh ủy kiêm tỉnh đội trưởng. Đầu năm 1952, chuẩn bị tổng phản công, tôi nhận nhiệm vụ phó chính uỷ rồi chính uỷ Trung đoàn 18 hoạt động trên Mặt trận Bình Trị Thiên rồi Mặt trận Đường 9 và Trung Lào, phối hợp với chiến trường Điện Biên Phủ trong chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Kết thúc kháng chiến chống Pháp, Trung đoàn 18 tập kết về Đồng Hới thi hành Hiệp định Genève.
    -Vì sao từ bộ binh Thiếu tướng lại chuyển sang không quân rồi trở thành chính uỷ của quân chủng non trẻ này?
    Do đề nghị của anh Trần Quý Hai. Sau Hiệp định Genève, thực hiện Nghị quyết Trung ương thứ 12 khóa II, ta phải xây dựng quân đội chính qui, từng bước hiện đại hóa, trong đó có xây dựng hai quân chủng mới là không quân và hải quân. Ban Nghiên cứu sân bay-tiền thân của Cục Không quân được thành lập, do anh Trần Quý Hai làm trưởng ban, tôi được điều ra làm chủ nhiệm chính trị vào tháng 1 năm 1955.
    Năm 1964, Quân uỷ Trung ương quyết định hợp nhất phòng không-không quân. Tôi được cử làm phó chủ nhiệm chính trị rồi chủ nhiệm chính trị Quân chủng Phòng không-Không quân, còn anh Phùng Thế Tài là tư lệnh, anh Đặng Tính là chính uỷ và anh Lê Văn Tri là phó tư lệnh. Cho đến năm 1967, không quân phát triển, Bộ tư lệnh Không quân được thành lập, tôi về làm chính uỷ cùng các anh: Nguyễn Văn Tiên-tư lệnh, Hoàng Ngọc Diêu và Đào Đình Luyện-phó tư lệnh, Đỗ Long-phó chính uỷ. Tôi đặc trách công tác chính trị và tổ chức của không quân, tuyển chọn người đi học lái, xây dựng đội ngũ cán bộ không quân.
    -Trên đây Thiếu tướng có nói rằng mình về không quân theo đề nghị của tướng Trần Quý Hai, nghĩa là thế nào?
    -Anh Trần Quý Hai nguyên là đại đoàn trưởng Đại đoàn 325, mà Trung đoàn 18 do tôi làm chính uỷ vốn trực thuộc Đại đoàn 325, nên chúng tôi rất hiểu nhau. Lúc anh được điều về làm trưởng Ban Nghiên cứu sân bay, như tư lệnh không quân, đã đề nghị tôi từ Đồng Hới ra phụ trách công tác chính trị. Anh Trần Quý Hai là một trong những người chỉ huy đội du kích Ba Tơ, rồi chiến đấu ở các chiến trường Bình Trị Thiên, Trung-Hạ Lào, Đông Campuchia? Anh là một cán bộ quân đội dũng cảm, tài năng; về sau được đề bạt làm Tổng tham mưu phó, thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thanh tra quân đội và được thăng quân hàm Trung tướng.
    -Không quân Việt Nam vừa mới ?ochào đời? đã lập nên những kỳ công trong cuộc đối đầu với không lực Hoa Kỳ khi chúng ném bom phá hoại miền Bắc. Theo Thiếu tướng, đâu là yếu tố quyết định cho những chiến công đó?
    -Hãy quay về lịch sử của không quân. Lớp phi công, cán bộ lãnh đạo, cán bộ kỹ thuật đầu tiên được tuyển chọn từ bộ binh đã trải qua chiến đấu, có sức khỏe, còn trẻ; tập trung lại bồi dưỡng văn hóa, rồi gửi đi đào tạo huấn luyện tại Trung Quốc, Liên Xô, Tiệp Khắc. Đồng thời từng bước khôi phục, xây dựng các sân bay và cơ sở vật chất kỹ thuật mà khi quân Pháp rút chúng đã phá hủy và tháo gỡ hầu hết.
    Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn không quân tiêm kích đầu tiên được tổ chức và huấn luyện bên Trung Quốc về nước, giữa lúc Mỹ gây hấn trong sự kiện vịnh Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1964, Đại hội Đảng bộ hợp nhất hai Quân chủng Phòng không-Không quân ra nghị quyết về xây dựng, quyết tâm chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu đánh bại các bước leo thang đánh phá miền Bắc của đế quốc Mỹ. Nửa năm sau, ngày 3 và ngày 4 tháng 4 năm 1965, trong trận xuất kích đầu tiên của hai phi đội do Phạm Ngọc Lan và Trần Hanh chỉ huy đã giành thắng lợi: bắn rơi hai máy bay của hải quân và hai máy bay của không quân Mỹ trên bầu trời Hàm Rồng, gây chấn động thế giới.
    Hãng thông tin Mỹ AP chua chát thừa nhận: ?oNgày 4 tháng 4 năm 1965 là ngày đen tối nhất của không quân Mỹ, ngày đánh dấu một sự kiện bi thảm: những máy bay phản lực siêu âm F105 mạnh nhất, nhanh nhất, tốt nhất của không lực Hoa Kỳ đã bị máy bay MiG của Bắc Việt chọc tiết?.
    Tại sao thành tích nhỏ của không quân ta lại làm cho quân thù hết sức kinh ngạc, bàng hoàng? Vì chúng không hiểu nổi sức mạnh nào đã khiến cho lực lượng không quân Việt Nam non trẻ, mà chúng coi là ?ođàn muỗi mắt?, những ?omáy bay cổ lỗ sĩ? lại hạ được những máy bay hiện đại nhất và những phi công lành nghề nhất của chúng. Phạm Ngọc Lan, Trần Hanh mới chỉ có hai trăm giờ bay trên những máy bay cũ, lạc hậu đã chọc tiết những ?othần sấm?, ?ochim ưng? của Mỹ do các phi công có trên hai ngàn giờ bay trên các máy bay hiện đại điều khiển. Thật phi thường!
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Vậy điều gì tạo nên chiến công phi thường ấy, thưa Thiếu tướng?
    -Đó là nhờ sức mạnh tinh thần của quân đội ta, sức mạnh của những chiến sĩ từ nhân dân mà ra, vì nhân dân chiến đấu, mang trong mình dòng máu anh hùng của dân tộc anh hùng, biết hy sinh vì độc lập tự do Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Những ý chí và tình cảm cách mạng đó giúp không quân ta nỗ lực không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật, sáng tạo những cách đánh địch chưa tìm thấy trong sách vở và ở nhà trường nào; đã có phát huy cao độ uy lực của vũ khí trang bị có trong tay, để lấy ít thắng nhiều, lấy trang bị kém hơn địch thắng trang bị kỹ thuật hiện đại của địch, càng đánh càng mạnh.
    Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, công tác chính trị trong không quân đã góp phần quan trọng nang cao nhân tố chính trị tinh thần-sức mạnh vô địch của không quân ta.
    -Thiếu tướng có thể cho biết công việc cụ thể của công tác chính trị lúc đó ra sao?
    -Từ thực tiễn, chúng tôi rút ra ba vấn đề của công tác chính trị trong chiến đấu của không quân: Thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng bằng nhiều hình thức, nhằm nâng cao tinh thần yêu nước, trung thành vô hạn với Tổ quốc, với nhân dân, căm thù địch sâu sắc, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp thiêng liêng giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Trên cơ sở đó, làm cho mỗi người hiểu rõ vị trí chiến đấu và trách nhiệm của mình, hướng dẫn hành động phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đánh thắng địch.
    Toàn thể bộ đội không quân thấm sâu lời dạy của Bác Hồ khi người đến thăm đơn vị trước ngày xuất trận: ?oNgày xưa ta có đêm, có rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển, các chú phải mở mặt trận trên không thắng lợi?. Ai ai cũng đinh ninh quyết tâm giành thắng lợi trận đầy, càng đánh càng thắng để không phụ lòng tin cậy của Đảng, của Bác, của nhân dân. Những khẩu hiệu ?oSân bay là chiến trường, máy bay là vũ khí, người bay là đồng chí thay ta diệt thù?, ?oLập trường tư tưởng vững, kỹ thuật nghiệp vụ giỏi, đoàn kết kỷ luật nghiêm? được viết lên trong hội trường, thao trường, nhà ăn nhắc nhở mọi người biết vị trí công việc và yêu cầu đối với mình.
    Tôi có làm một bài thơ để động viên các phi công (ông đọc một cách hứng thú):
    Cờ quyết thắng đỏ tươi dòng máu
    Đảng của ta sữa mẹ ngọt ngào
    Nuôi anh sức sống dạt dào
    Tung anh bay bổng trời cao chín tầng
    Lúa hớn hở như mừng được nước
    Nhà máy cao tưởng được thêm trời
    Tiếng chim vang dậy núi đồi
    Ngày xưa tiếng quạ, nay trời phượng bay
    Muôn người góp một bàn tay
    Chim ơi chim quyết phanh thây quân thù
    Một đi quyết thắng một về chiến công

    Bài thơ không hay, nhưng có tác dụng động viên bộ đội không quân lúc bấy giờ rất lớn. Khi rời khỏi không quân, tôi cũng cảm thấy tự hào mình đã góp một phần nhỏ vào sự trưởng thành và chiến thắng của không quân ta.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Thiếu tướng, vì sao đang làm chính uỷ không quân thiếu tướng lại rời Hà Nội vào Trường Sơn?
    -À, do yêu cầu của chiến trường. Tháng 5 năm 1971, tôi được điều vào làm Chính uỷ Đoàn 470-phụ trách cung đường từ Nam Lào, Đông Bắc Campuchia đến Nam Bộ, với nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược cho chiến trường miền Nam. Vào đến Bộ tư lệnh Đoàn 559-Trường Sơn, tôi gặp lại anh Đồng Sĩ Nguyên vốn trước cùng anh chiến đấu ở Quảng Bình. Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên giữ tôi lại, rồi điện đề nghị Quân uỷ Trung ương để tôi làm phó tư lệnh Đoàn 559 giúp việc cho anh. Thế là từ người làm công tác chính trị trong quân đội, tôi chuyển sang làm công tác chỉ huy quân sự. Có thể nói, tôi trưởng thành trong vai trò người chỉ huy quân sự là nhờ những bài học vỡ lòng đầu tiên của anh Đồng Sĩ Nguyên truyền đạt cho tôi khi giao nhiệm vụ ở Trường Sơn và qua tấm gương thực tiễn của anh, một người chỉ huy luôn sáng tạo, giỏi tổ chức.
    -Nghe nói trong một lần đi thị sát chiến trường, Thiếu tướng đã bị thương rất nặng khi xe lọt vào bãi bom từ trường?
    -Vâng. Đó là loại bom Model 3 hẹn giờ mới nhất lúc đó mà ta chưa kịp phát hiện. Nó khác với các loại bom từ trường của Mỹ trước đó: ngòi nổ tự động khi tắt khi mở. Khi nó tắt thì công binh phóng từ hoặc xe cộ đi qua cũng không nổ, nên rất khó phát hiện. Nhận nhiệm vụ phó tư lệnh Đoàn 559, tôi bắt đầu đi kiểm tra các cửa khẩu chuẩn bị bước vào mùa khô 1971-1972. Kiểm tra xong cửa khẩu Đường 12-Cổng Trời, tôi cùng Binh trạm trưởng Khúc Trường Thành sang Seng Phan, một điểm chết gồm một dãy núi đá trọc, bị địch đánh phá ác liệt đến thấp dần, là nơi xe vận tải của ta hay qua lại.
    Xe chúng tôi vừa đến nơi thì địch cũng bắt đầu ném bom từ trường đánh phá. Xe bị bay mui. Kiểm tra xong, chúng tôi quay về binh trạm bộ Đường 12, thì lọt vào bãi bom từ trường Model 3. Xe lật tung. Anh Khúc Trường Thành hy sinh tại chỗ. Tôi với Chính trị viên tiểu đoàn công binh, anh vệ binh và tài xế bị thương nặng. Trong tình trạng hôn mê, tôi được đưa về Binh trạm 12 để phẫu thuật, rồi ra Bệnh viện Quân y 108 ở Hà Nội điều trị hai tháng. Hiện tôi là thương binh hạng 4/4. Vết thương cột sống đang bị vôi hóa.
    -Cho đến nay vẫn âm vang nhiều câu chuyện về nữ chiến dịch Trường Sơn như những huyền thoại. Là một trong những vị chỉ huy trực tiếp cao nhất của họ, xin Thiếu tướng thổ lộ vài nét về những ?obông hoa kiên cường? này.
    -Bây giờ tôi nhìn con gái mình lớn lên, mới thấy hết sự phi thường của các cô gái Trường Sơn. Đúng là anh hùng vô song. Họ xứng đáng với tất cả mọi lời ca ngợi. Lực lượng nữ chiếm một phần ba trong số hơn mười vạn quân thuộc Đoàn 559. Họ có mặt nhiều nhất ở lực lượng thanh niên xung phong, bảo vệ giao thông, giao liên, hỏa tuyến, quân y và hậu cần. Để bảo đảm giao thông được xuyên suốt, các cô phải túc trực thường xuyên tại các điểm nóng. Mà nơi đây, máy bay Mỹ lại hay ném bom tọa độ bằng B52 rải thảm. Trong tích tắc, họ có thể biến mất theo mảnh bom, đất đá nát vụn. Tôi luôn chứng kiến tận mắt sự hy sinh anh dũng ấy!
    -Điều kiện chiến trường ác liệt là thế, vậy điều kiện sinh hoạt bình thường của nữ chiến sĩ Trường Sơn ra sao?
    -Hết sức khắc nghiệt. Thiếu thốn trăm bề. Mà với phụ nữ thì? tội nghiệp lắm anh ạ! Có những đơn vị toàn nữ, sống chiến đấu biệt lập, nên mỗi khi gặp được nam giới, họ rất mừng. Do điều kiện sống như thế, nên nhiều người mắc bệnh cười.
    -Bệnh cười?
    -Vâng. Lạ lắm. Thỉnh thoảng tự nhiên họ cười ngất. Chẳng nói gì, chỉ cười. Cứ thế. Hình như một căn bệnh về sinh lý. Chiến tranh kết thúc, nhiều nữ chiến sĩ vì lớn tuổi, không lập được gia đình. Bệnh cười vẫn không dứt.
    -Vậy còn tình yêu lứa đôi của chiến sĩ Trường Sơn? Có khi nào Thiếu tướng trực tiếp xử lý những vụ liên quan tới quan hệ nam nữ ngay trên chiến trường?
    -Hầu hết chiến sĩ nam nữ Trường Sơn là thanh niên, ngoài lý tưởng cao cả hiến dâng tuổi trẻ cho độc lập, thống nhất Tổ quốc, họ còn khao khát tình yêu, hạnh phúc gia đình-khát khao muôn thuở của con người. Nhà thơ của Trường Sơn là Phạm Tiến Duật từng viết:
    Như tình yêu nối lời vô tận
    Đông Trường Sơn nối Tây Trường Sơn

    Nhưng chiến tranh, cuộc chiến đấu một mất một còn với quân thù đã dồn nén khát khao đó của họ. Mỗi lúc có dịp gặp nhau qua trọng điểm, lúc dừng chân binh trạm giao liên, tiếng chào hỏi, tiếng hát, tiếng cười, những cái liếc mắt đưa tình hoặc câu đùa ghẹo là lúc biểu lộ khát khao đó của họ, để rồi kẻ ở người đi, dấn mình trong đạn lửa, mang theo một kỷ niệm êm đềm. (Vị tướng chợt hạ thấp giọng). Có khi trở lại chỗ cũ, họ đã khóc thầm cắm bông hoa sim tím lên mộ người yêu mà mình chưa kịp tỏ tình!... Và con người vẫn là con người, có lúc họ đã ?ocho nhau? để rồi chịu đựng những búa rìu của dư luận còn ảnh hưởng nặng nề đạo đức phong kiến và sinh nở nuôi con trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn!
    -Với những trường hợp đặc biệt ấy, Bộ tư lệnh 559 có cách giải quyết cụ thể ra sao?
    -Chúng tôi chỉ đạo các đơn vị thấm nhuần tính nhân đạo, tìm cách an ủi động viên và tạo điều kiện cho chị em đó ra tuyến sau, tìm chỗ ở và công ăn việc làm ổn định. Khi chiến tranh đã qua rồi, nhiều chị em tuy bị thiệt thòi không có được tình yêu hôn nhân, nhưng lại cảm thấy hạnh phúc được làm mẹ, sớm hôm được nghe tiếng con thỏ thẻ bên mình.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Vâng, có lẽ trên thế giới này không ở đâu người phụ nữ phải chịu nhiều mất mát hy sinh như thế. Họ xứng đáng được phong tặng danh hiệu cao quí nhất, được lịch sử tụng ca, cả những người lỡ lầm chịu ?obúa rìu dư luận?. Và thưa Thiếu tướng, nghe nói khi vào Trường Sơn, Thiếu tướng Đinh Đức Thiện cũng là một trong những nhà lãnh đạo cao cấp rất quan tâm đến nữ chiến sĩ?
    -Đúng như vậy. Là ủy viên Thường trực Quân uỷ Trung ương, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần nhưng anh Đinh Đức Thiện thấu hiểu và lo từng chi tiết, cả những đồ dùng cá nhân thầm kín cho đời sống, sinh hoạt nữ chiến sĩ ở chiến trường. Sự quan tâm ấy của anh Đinh Đức Thiện được Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp hết sức khen ngợi.
    -Trong quan hệ cá nhân, Thiếu tướng có kỷ niệm đáng nhớ nào với vị tướng nổi tiếng bởi những cá tính đi vào huyền thoại này không?
    -Anh Đinh Đức Thiện cùng với anh Trần Quý Hai và anh Đồng Sĩ Nguyên là ba người có tác động lớn trực tiếp đối với tôi. Tôi quen anh Thiện năm 1968 khi anh chỉ đạo Bộ tư lệnh Đoàn 550 làm nhiệm vụ vận chuyển giao hàng cho Đoàn 559. Có thể nói, Đinh Đức Thiện là một con người thực tiễn, dám làm, dám chịu trách nhiệm, rất thương yêu chiến sĩ, nhưng hay nổi nóng, chửi tục. Và anh còn đưa? tục vào cả trong thơ một cách tự nhiên! Anh không thành kiến với bất cứ ai, nên luôn được anh em quí trọng.
    Tôi nhớ tháng 3 năm 1975, hai anh Văn Tiến Dũng và Đinh Đức Thiện được Trung ương cử vào chiến trường. Tôi thay mặt Bộ tư lệnh Đoàn 559 đưa anh Văn Tiến Dũng từ Quảng Trị vào Tây Nguyên. Vừa đến nơi, tôi lại nhận được điện của anh Đinh Đức Thiện gọi ra Quảng Trị đón anh. Tôi quay ra thì anh ấy đã lên đường trước một ngày. Anh dặn anh Đồng Sĩ Nguyên nói với tôi phải chạy theo? Không đi tuyến Đông Trường Sơn quen thuộc mà anh lại bọc sang phía Tây. Đuổi đến Thateng của Lao tôi mới bắt kịp anh. Tôi ngạc nhiên: ?oTại sao anh đi đường này??. Anh cười: ?oTao đi đường này để thăm lại đất Lào và Đông Bắc Campuchia. Chuyến này giải phóng miền Nam rồi thì không có dịp trở lại!??. Anh dự cảm đúng tình hình Campuchia khi Khmer Đỏ tiến vào Phnôm Pênh.
    Miền Nam giải phóng, ngày 1 tháng 5 năm 1975 tôi với anh Đinh Đức Thiện cùng đi khảo sát thành phố Sài Gòn. Anh cũng trao đổi thống nhất với tôi rằng: cải cách Sài Gòn và miền Nam phải rút kinh nghiệm của miền Bắc, chứ không sẽ gặp lôi thôi về kinh tế?
    -Hình như Thiếu tướng có quan hệ thân thiết với Trung tướng Nam Long và Trung tướng Nguyễn Đường?
    Sau ngày đất nước giải phóng, chúng tôi mới có nhiều thời gian gần gũi khi là láng giêng của nhau ở Tân Sơn Nhất này. Anh Nam Long là lão tướng kỳ cựu từ thời thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, chỉ huy chi đội Nam tiến đầu tiên trong buổi đầu đánh Pháp tái xâm lược. Tôi làm việc và quen thân với anh Nam Long từ khi anh còn là tư lệnh Quân khu 4 phối hợp với bộ đội không quân mà tôi là chính uỷ. Anh là người dân tộc, sống rất chân tình, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, được mọi người quí mến. Những ngày cuối đời, anh ốm nặng, mỗi lần anh em đến thăm, anh đều cầm tay khóc. Chúng tôi rất xúc động khi các con anh tổ chức mừng thọ cho anh, giữa lúc anh ốm nặng nhưng cũng cố gượng dậy ra dự. Nghe con trai lớn của anh đọc lời chúc thọ Bố và hứa giữ gìn truyền thống của bố để lại, chúng tôi không ai cầm được nước mắt.
    -Thế còn với Trung tướng Nguyễn Đường?
    -Anh Nguyễn Đường nguyên là bí thư Tỉnh ủy Gia Lai đầu tiên trong Cách mạng tháng Tám, sau đó làm chủ nhiệm chính trị Quân khu 5. Tôi quen anh khi anh là chính uỷ Đại đoàn 305 phối hợp không quân huấn luyện đơn vị bộ đội dù đầu tiên. Sau năm 1975, tôi cũng thường xuyên làm việc với anh khi anh phụ trách tài chính Bộ Quốc phòng rồi chuyển sang làm ủy viên Ủy ban Kế hoạch Nhà nước. Anh Nguyễn Đường là một người điềm đạm, hiền lành, giàu tình nghĩa.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Thiếu tướng, trở lại với thời điểm mùa xuân 1975, lúc đó nhiệm vụ của Thiếu tướng là gì? Bộ đội 559 đã có những đóng góp thiết thực nào trong Chiến dịch Hồ Chí Minh?
    -Ngày 15 tháng 4 năm 1975, tôi được anh Đồng Sĩ Nguyên thông báo: anh Văn Tiến Dũng điện bảo tôi vào gấp Sở chỉ huy Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh. Anh Nguyên giao nhiệm vụ cho tôi nắm chắc lực lượng phía trước của Sư đoàn 470. Sư đoàn xe 471 và lực lượng phòng không để bảo đảm các yêu cầu của mặt trận và thường xuyên báo diễn biến tình hình ở mặt trận về Bộ tư lệnh 559.
    Ngày 18 tháng 4, sau khi bàn giao xong những việc đang làm giở cho các đồng chí khác, tôi cấp tốc lên đường. Khác với lần đi cùng anh Văn Tiến Dũng vào chiến dịch Tây Nguyên phải theo đường Đông Trường Sơn, chuyến đi này xe bon bon chạy theo đường 1 vừa được giải phóng với không khí chiến thắng tưng bừng.
    Đến chỉ huy sở Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, Tư lệnh Văn Tiến Dũng giao nhiệm vụ cho tôi giúp anh Đinh Đức Thiện-chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bảo đảm vận chuyển hậu cần và cơ động bộ đội cho mặt trận. Trong Chiến dịch Tây Nguyên tôi đã được Bộ tư lệnh 559 phân công đi cùng Đại tướng Văn Tiến Dũng vào chỉ huy sở tiền phương của Bộ. Biết tôi nắm vững tình hình đường sá và lực lượng của 559 nên anh Dũng đã điện cho tôi vào tham gia phục vụ Chiến dịch Hồ Chí Minh.
    Các anh cho biết do ta thắng lớn và thắng nhanh nên Bộ Quốc phòng và Nhà nước huy động được khối lượng vũ khí và vật chất lấy được của địch và phương tiện trong dân nên các mặt bảo đảm vật chất cho chiến dịch rất đầy đủ. Anh Đinh Đức Thiện đã nói đùa với Bộ chỉ huy chiến dịch rằng, đạn ta có bắn đến ba đời quân ngụy chưa hết! Các anh đã chỉ thị cho tôi trực tiếp kiểm tra đôn đốc khắc phục cầu Nha Bích, tổ chức đón tiếp đoàn xe Quân khu 5 chi viện cho mặt trận do anh Võ Thứ-Thiếu tướng phó tư lệnh quân khu trực tiếp chỉ huy.
    -Ngày đầu vào chỉ huy sở chiến dịch, còn ấn tượng nào để lại trong Thiếu tướng nữa không?
    -Nhiều lắm. Tôi được gặp nhiều đồng chí chỉ hy lãnh đạo các quân đoàn, các quân binh chủng. Đặc biệt vui mừng được gặp lại anh Hoàng Ngọc Diêu, phó tư lệnh Quân chủng phòng không-không quân đến trực tiếp nhận nhiệm vụ của Tư lệnh Văn Tiến Dũng giao cho không quân tham gia chiến dịch. Tôi cùng anh Diêu được cấp trên điều về xây dựng không quân từ ngày đầu thành lập Ban Nghiên cứu sân bay-tiền thân của Quân chủng Không quân. Hai chúng tôi đã cùng gắn bó với không quân từ ngày lực lượng không quân ta chưa có cho đến ngày không quân ta đánh thắng oanh liệt không quân Mỹ trên bầu trời miền Bắc. Thấy anh Diêu phấn khởi trước nhiệm vụ cấp trên giao cho không quân tham gia chiến dịch lịch sử và quyết tâm hứa hẹn của anh với Bộ chỉ huy chiến dịch, tôi cũng vui lây và rất tin tưởng không quân ta nhất định hoàn thành nhiệm vụ; mặc dù thời gian còn rất gấp, chỉ còn ba ngày nữa, nếu không quân không đánh được thì coi như hết thời cơ, vì lúc đó quân ta đã bốn mặt tổng công kích vào trung tâm Sài Gòn.
    Đúng ngày 28 tháng 4 năm 1975 trong lúc kiểm tra bộ đội trên đường tiến quân, được tin không quân đã dùng máy bay thu được của địch đánh vào Tân Sơn Nhất gây nỗi kinh hoàng cho quân địch, tôi mừng như chính mình tham gia trận đánh lịch sử đó của không quân.
    -Thiếu tướng có mặt ở nội thành Sài Gòn thời điểm nào?
    -Sau khi nhận nhiệm vụ Tư lệnh Văn Tiến Dũng giao, tôi cử Sư đoàn phó Trần Quốc Khiêm của Sư đoàn 470 trực tiếp chỉ huy bảo đảm cầu Nha Bích và khắc phục các điểm trơn lầy do mấy trận mưa đầu mùa. Còn Sư đoàn phó Phạm Lê Hoàng của Sư đoàn 471 thì đôn đốc các đơn vị vận tải ô tô và tổ chức đón đoàn xe Quân khu 5 đi theo đường 14 vào.
    Ngày 29 tháng 4, Chính uỷ Sư đoàn 470 Hoàng Văn Thám và Phó chủ nhiệm Chính trị Bộ tư lệnh 559 Phạm Tề vào gặp tôi tại điểm chốt ở ngã ba Chơn Thành. Quân ta đang tổng công kích vào trung tâm đầu não của địch ở Sài Gòn. Tôi phổ biến nhanh cho các đơn vị về công tác chính trị phải làm khi quân ta vào giải phóng Sài Gòn. Sáng ngày 30 tháng 4 trong lúc cán bộ các đơn vị đều tiến công, đúng 11 giờ 30 chúng tôi được đài Sài Gòn truyền lời tuyên bố đầu hàng của Dương Văn Minh. Tất cả chúng tôi đều vùng dậy vui mừng khôn tả. Anh Thám và anh Tề xin phép tôi đi theo đơn vị về Sài Gòn.
    Sau khi dự cuộc họp Bộ tư lệnh chiến dịch, tôi nhận nhiệm vụ mới, chuẩn bị tiếp quản Sài Gòn và tham gia khôi phục hệ thống giao thông. Chiều ngày 1 tháng 5 tôi cùng cơ quan tiền phương Bộ tiến vào Sài Gòn. Cơ quan Bộ về khu Tân Sơn Nhất gần cơ quan Bộ Tổng tham mưu ngụy. Tôi cùng anh em Đoàn 559 về nhà số 14 đường Alexandre de Rhode, ngôi nhà mà Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngụy Trần Văn Đôn ở làm việc cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975 thì lên trực thăng Mỹ chuồn. Ngôi nhà này do anh Hồ Viết Năng, cán bộ Cục Chính trị 559, đi cùng Sư đoàn 471 cơ động Quân đoàn 2 tiến theo cánh quân phía Đông chiếm dinh Độc Lập vào tiếp quản. Về sau, ngôi nhà này thành trụ sở của Đoàn 559 tại Sài Gòn. Khi tôi vào, trên bàn làm việc của tướng Đôn còn nguyên tấm bản đồ tình huống khu vực Sài Gòn và Quân khu 4 ngụy. Tấm bản đồ này tôi còn giữ để đưa vào Bảo tàng bộ đội Trường Sơn.
    Sau khi cùng Tư lệnh Đồng Sĩ Nguyên dự họp với Bộ chỉ huy chiến dịch do Tư lệnh Văn Tiến Dũng chủ trì giao những nhiệm vụ cấp bách cho các đơn vị, tôi được anh Nguyên giao nhiệm vụ kiểm tra lại hệ thống đường 1 vào Cà mau, đường 15 đi Vũng Tàu. Ngày 15 tháng 5 năm 1975 tôi tham dự cuộc diễu binh mừng chiến thắng ở quảng trường dinh Độc Lập, phấn khởi tự hào cùng đoàn xe diễu hành mà Sư đoàn vận tải ô tô 471 thay mặt cho bộ đội Trường Sơn anh hùng chào mừng ngày thắng lợi vĩ đại của dân tộc.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Sau ngày đất nước thống nhất, Thiếu tướng làm gì?
    -Xây dựng kinh tế, công nghiệp quốc phòng. Đoàn 559 Trường Sơn làm lễ kết thúc nhiệm vụ lịch sử tại Nha Trang. Sứ mệnh giải phóng dân tộc hoàn thành, Trung ương Đảng quyết định chuyển hai mươi tám vạn quân sang làm kinh tế, kiến thiết lại đất nước. Tổng cục Xây dựng kinh tế được thành lập, anh Đồng Sĩ Nguyên là thứ trưởng Bộ Quốc phòng đặc trách làm Tổng cục trưởng, tôi làm tổng cục phó, rồi quyền Tổng cục trưởng. Một thời gian sau, tôi lại được cử sang làm Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, rồi Cục phó Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng. Tôi cũng được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa VIII.
    Nhiều vùng kinh tế mới hiện nay trở nên trù phú ở Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng Tháp Mười, tức giác Long Xuyên? có công khai phá ban đầu của bộ đội xây dựng kinh tế. Khi chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam xảy ra, ta chuyển ngay mười ba sư đoàn đang làm kinh tế sang chiến đấu.
    -Bây giờ đã về hưu, Thiếu tướng còn theo dõi sát sao tình hình đất nước không?
    -Có chứ. Đất nước mình bị cái công thức giáo điều ăn sâu gần ba mươi năm, cách ly với thế giới bên ngoài, cùng hậu quả nặng nề của chiến tranh, dẫn tới khủng hoảng kinh tế trầm trọng từ xã hội đến từng hộ gia đình. Nhưng khi mình tỉnh ngộ, thì chuyển biến rất nanh, tiến một cách tự tin và vững chắc. Điều quan trọng là làm sao phát hiện cho ra nhân tài và sử dụng đúng. Công tác cán bộ đừng để xảy ra tình trạng mua quan bán chức, gia đình trị, bè cánh trị mà các triều đại xưa từng bị.
    -Nghĩa là Việt Nam cần có một nền dân chủ thực sự?
    -Theo tôi, tình hình hiện nay điều cần thiết hơn hết là cần có ?ominh quân?, từ cấp lãnh đạo cao nhất tới từng cơ quan, đơn vị.
    -Từng là phó tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, gắn mình với con đường lịch sử Hồ Chí Minh trong chiến tranh mà nay thành con đường Trường Sơn công nghiệp hóa. Xin Thiếu tướng cho biết vài nét về quá trình phát triển của con đường này?
    -Đường Trường Sơn hay còn gọi là đường Hồ Chí Minh, trong chiến tranh đã được Trung ương đặc biệt quan tâm. Từ năm 1973, Bộ Chính trị giao Đoàn 559 xây dựng tuyến đường Đông Trường Sơn, từ Khe Giác (Quảng Bình) đến Chơn Thành (Bình Phước), mà giai đoạn đầu tập trung khai thông từ đường 9 đến Lộc Ninh.
    Hiện nay, đường Trường Sơn công nghiệp hóa có qui mô lớn hơn. Trước đây là đường cấp bốn miền núi, chỉ hai làn xe. Bây giờ do yêu cầu mới, nâng cấp cao hơn, nên một số tuyến cũ phải bỏ để triển khai hướng khác. Và Binh đoàn 12, đơn vị kế tục truyền thống Bộ đội Trường Sơn, được giao xây dựng một đoạn đường khó nhất-từ Quảng Bình vào Tây Nguyên của đường Trường Sơn công nghiệp hóa.
    -Chuyện chinh chiến và chuyện đất nước là thế, còn chuyện gia đình thì sao? Thiếu tướng có kinh nghiệm gì trong đời sống hôn nhân?
    -Sự hòa thuận hay mâu thuẫn của bố mẹ đều có ảnh hưởng rất lớn đối với con cái. Chúng tôi có một trai, hai gái đều trưởng thành. Tôi thường nói với con cái rằng, cái quí nhất của đời cha là ngoài sự độc lập, tự do của Tổ quốc thì còn có sự đầm ấm của gia đình. Vợ chồng chúng tôi luôn sống với tình cảm như lần đầu tôi gặp và yêu cô ấy, một nữ sinh trung học ở Hương Khê thời kháng Pháp. Vợ tôi là một phụ nữ hiền thục, thủy chung và có ý chí tiến thủ.
    -?oCái thuở ban đầu lưu luyến ấy? của hai ông và có gì đặc biệt không?
    -Rất tự nhiên. Cuối tháng 12 năm 1951 tôi được điều vào Mặt trận Bình Trị Thiên. Từ giã Bố Trạch và Quảng Bình thân yêu, nơi tôi sinh ra, lớn lên và trưởng thành trong phong trào cách mạng và kháng chiến của quê nhà, với biết bao tình cảm sâu nặng. Đến cơ quan Mặt trận bộ nộp giấy tờ xong được cô văn thư cho biết bộ chỉ huy hẹn sáng mai gặp. Cô gái duyên dáng vóc thon gầy, nét mặt hiền dịu, đượm đôi nét phong trần của chiến tranh. Qua tiếng nói, cử chỉ khi đối thoại, tự nhiên tôi thấy cảm tình với cô. Hôm sau, anh Trần Quý Hai-chỉ huy trưởng và anh Chu Văn Biên-chính uỷ mặt trận quyết định giữ tôi lại làm phái viên giúp bộ chỉ huy.
    Tình cảm giữa tôi với cô văn thư thân mật hơn và tình yêu đã? đến. Nàng là một nữ sinh mười tám tuổi đời đã tình nguyện ?oxếp bút nghiên lên đường tranh đấu? xung phong vào tuyến lửa, có lần suýt sa vào tay giặc và đã chứng kiến cái chết đau thương của những người bạn chiến đấu thân thiết của mình. Còn tôi là một thanh niên đang độ trưởng thành, đã từng ở bụi nằm hầm sống chết với đồng bào trong vùng địch trên tuyến lửa Quảng Bình. Tình vừa bén, lửa vừa nồng thì tôi được lệnh đi nhận nhiệm vụ ở Trung đoàn 18 thay đồng chí chính uỷ trung đoàn đi học. Tình yêu lại được trao đổi và củng cố qua những lá thư vượt qua bom đạn đến với nhau.
    -Thiếu tướng còn nhớ ngày tổ chức lễ thành hôn?
    -Nhớ chứ! Ngày 9 tháng 11 năm 1952 trong cuộc họp tổng kết chiến tranh du kích toàn mặt trận, chúng tôi tổ chức lễ thành hôn với sự tham dự của đông đủ đại biểu các trung đoàn, tỉnh đội, và cơ quan ban chỉ huy mặt trận Bình Trị Thiên. Chính uỷ Chu Văn Biên nhường chiếc giường ngủ lát bằng cây rừng với? gian phòng lợp lá đơn sơ bên bờ suối để hai vợ chồng chúng tôi hưởng tuần trăng mật. Sống với nhau được năm ngày, tôi có lệnh ra Việt Bắc dự lớp chỉnh huấn sáu tháng. Buổi chia tay thật bịn rịn, tôi lau hoài nước mắt của người vợ mới cưới. Hai đứa trao nhau hai cuốn số tay nhỏ để ghi lại những tình cảm của những ngày xa nhau.
    -Trước khi về hưu, bà nhà làm việc ở đâu?
    -Ở Bộ Giáo dục và Đào tạo, làm Cục phó Cục Giáo dục mầm non. Sau khi tập kết ra Bắc, cô ấy vừa nuôi con và phụng dưỡng hai mẹ già, vừa học bổ túc văn hóa. Năm 1963, cô thi đậu hệ chính qui Đại học Y Hà Nội ngành Nhi khoa, đến năm 1969 thì tốt nghiệp ra trường. Từ năm 1973-1976, cô ấy sang Tiệp Khắc học cao họ về chuyên ngành nuôi dạy trẻ. Miền Nam giải phóng, tôi đưa các con vào Sài Gòn và viết thư sang Tiệp cho nhà tôi. Cô ấy viết thư về, trong đó có câu mà tôi nhớ mãi: ?oKhi nhận được thư anh và con ở Sài Gòn giải phóng, em mới hết nỗi thấp thỏm lo âu đeo đẳng suốt đêm ngày, là khi về liệu có gặp lại nhau không??.
    Vâng, không chỉ riêng tướng Phan Khắc Hy mà cả dân tộc Việt Nam có một thời gian phải gánh chịu những đau thương, chia lìa như thế. Vợ xa chồng. Cha xa con. Anh xa em. Có người may mắn còn ngày rơi nước mắt trong vòng vây sum họp. Có người mãi mãi nằm lại chốn rừng sâu núi thẳm, đến nắm xương tàn cùng không còn để người thân được nhìn lần cuối. Và không ít người khi ngã xuống vẫn còn vẹn nguyên ?ocon gái, ?ocon trai?. Họ chưa kịp được một lần đặt lên môi người yêu nụ hôn đầu thấp thỏm. Cái giá mà dân tộc Việt Nam, một dân tộc từng chống trả mười bốn cuộc ngoại xâm, cái giá phải trả cho sự độc lập, tự do hòa bình thật quá đắt!
  9. masktuxedo

    masktuxedo Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/02/2002
    Bài viết:
    1.625
    Đã được thích:
    1
    Theo tôi nếu tính cả phản lực, lẫn trực thăng thì con số này cũng ko đến nỗi cao quá. Xem các phim tài liệu thì mỗi lần trở quân cũng có đến cả mấy chục trực thăng rồi. Tuy vậy tôi nghĩ con số 600 này, tính cả "bị thương và bị diệt" thì có lẽ phải gọi là "600 lượt máy bay" thì đúng hơn. Vì có lẽ có cái bị trúng đạn nhẹ một lần phải chạy đi cũng tính, lần sau nó quay lại bị bắn bỏ chạy lần nữa có khi họ lại tính là 1 đơn vị.
  10. nguoisgvn

    nguoisgvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/07/2005
    Bài viết:
    45
    Đã được thích:
    0
    600 máy bay! Những con số dốc láo! Thời gian nầy,quân lực VNCH rất yếu kém về ngân sách Quân Sự! 1 đồn địa phương quân bị vây,xin yểm trợ,ngày trước có thể yểm trợ khoảng 20 viên đạn pháo binh,bây giờ chỉ 2,3 viên đạn bắn lấy có,cầm chừng! Vì có súng mà rất thiếu đạn,không có bổ xung! Máy bay,trong trường hợp khẩn cấp mới sử dụng vì thiếu xăng,không thể chi viện,yểm trợ!
    Thời chiến,cứ vặn đài giải phóng,thua trận te tua,xác chết chất đống,nhưng lên đài thì lúc nào cũng khoe chiến thắng tưởng tượng,với thiệt hại tưởng tượng,phe ta,phe địch! Tuyên truyền bịp bọm muôn đời,không cần nói,ai cũng hiểu!!!

Chia sẻ trang này