1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. U18

    U18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/06/2003
    Bài viết:
    307
    Đã được thích:
    0
    Tui tưởng cái thời điểm năm 70-71 là quýnh nhau ghê lắm mà , bom đem ra quăng khe sanh ầm ầm. Cái này tính toàn bộ chiến dịch thì lụm được nhiêu đó ông máy bay. Chứ hổng lẽ số lượng bom đạn trút xuống cỡ đó , trong một chiến dịch dài ngày cỡ đó mà có mấy chục cái máy bay làm ăn lượn qua lượn lai thôi hẻ .
    Giờ tính vầy, quýnh bao nhiu ngày, thử coi mỗi ngày rụng nhiu cái.
  2. hung_viet

    hung_viet Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    10/07/2005
    Bài viết:
    50
    Đã được thích:
    0
    Thiệu dặn binh sĩ,qua đó đái 1 phát rồi về,chỉ nhằm mục tiêu chính trị!
  3. U18

    U18 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/06/2003
    Bài viết:
    307
    Đã được thích:
    0
    Rừng xanh núi đỏ , đem bom qua đái có mỗi một tí, không đủ thấm cái toilet, cùng lắm làm việc được một số ông bộ đội, mà bảo nhằm mục tiêu chính trị gì. Tôi nghĩ logic là quýnh phải ầm ầm, bom trút rải tham, dioxin quăng tứ tung, may ra mới gọi là có cơ hội nói chuyện mục tiêu chính trị.
  4. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    VNCH thì giỏi rồi.
    Lam Sơn 719, chỉ một nhúm M-113 với lèo tèo vài chiếc M-41 mà nện tơi tả hàng tiểu đoàn T-54 của Bắc Việt. Mỗi trận diệt đến hàng hai ba chục T-54 với PT-76 mà chỉ mất vài ba con M-113 ghẻ.
    Điều hay là tổng số xe tăng được Bắc Việt huy động cho chiến dịch (trong đó khoảng 1 nửa là không tham gia) cũng chả bằng số thiệt hại đấy
    Em xin lỗi bác ptlinh vì lạc đề nhé.
  5. ngac_ngoai_van_con_them

    ngac_ngoai_van_con_them Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2003
    Bài viết:
    21
    Đã được thích:
    0
    Sách mới về các cụ tướng lĩnh đây, mời anh em sưu tầm
    http://www.nhandan.com.vn/tinbai/?top=43&sub=80&article=49566
    Cập nhật 11:06 ngày 16-12-2005

    Sách mới:
    "Tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam qua những trang hồi ức"
    --------------------------------------------------------------------------------


    Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân vừa cho ra mắt bạn đọc cuốn sách: "Tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam qua những trang hồi ức" (Tập 1), sách dày 656 trang khổ 19 x 27 cm, giới thiệu 17 vị tướng.
    Đó là các Ðại tướng Chu Huy Mân, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Quyết, Lê Trọng Tấn, Hoàng Văn Thái, các Thượng tướng Trần Văn Trà, Song Hào, Hoàng Minh Thảo, Ðặng Vũ Hiệp, Nguyễn Trọng Xuyên, Nguyễn Hữu An, Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, các Trung tướng Ðồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Quốc Thước, Nguyễn Ðệ, các Thiếu tướng Nguyễn Thị Ðịnh và Võ Bẩm.
    Hơn bảy mươi lăm năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, nhân dân ta đã đánh thắng những đế quốc có tiềm lực kinh tế, quân sự vào bậc nhất thế giới, giành thắng lợi trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội.
    Trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, sức mạnh Việt Nam là sức mạnh của truyền thống yêu nước, bất khuất, là sức mạnh của chiến tranh nhân dân mà nòng cốt là Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng.
    Từ trong lửa đạn của chiến tranh đã xuất hiện nhiều tướng lĩnh tài giỏi góp phần làm nên chiến thắng Việt Bắc, Biên giới, Hòa Bình, Ðiện Biên Phủ... trong kháng chiến chống thực dân Pháp; Bình Giã, Ba Gia, Plây Me, Ðường 9 - Khe Sanh, Tết Mậu Thân, Ðường 9 - Nam Lào, Quảng Trị, trận Ðiện Biên Phủ trên không ở Hà Nội... và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
    Nói đến chiến thắng vẻ vang của dân tộc, không thể không nói đến vai trò của người chỉ huy, sự quyết đoán mưu lược của những tướng lĩnh trong những trận đánh, những chiến dịch có tính chất quyết định làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo ra sự đột biến về chiến lược tiến tới toàn thắng cho cách mạng.
    Ðến nay, số đông trong các vị tướng lĩnh đã hoàn thành nhiệm vụ và giờ đây một trong những việc làm có ý nghĩa của họ là viết hồi ký. Mỗi cuốn hồi ký của các tướng lĩnh là thiên tiểu thuyết về cuộc đời một con người. Và, mỗi cuốn hồi ký ấy cũng là một phần lịch sử có ý nghĩa với sự nghiệp dựng nước và giữ nước của mọi thế hệ người Việt Nam hôm nay và mai sau. Viết hồi ký là một phương thức để bảo tồn ký ức của một "thế hệ vàng" đã góp phần làm nên một thời đại của những chiến công hào hùng viết tiếp những trang sử vẻ vang của Bạch Ðằng, Chi Lăng... của tổ tiên.
    Chủ nhân của những tập hồi ký được trích dẫn trong tập sách này là những vị chỉ huy dũng cảm, sáng tạo, mưu lược và quyết đoán. Chiến công và thành tích của các vị tướng đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Cuốn sách còn cung cấp cho bạn đọc hiểu rõ thêm về thân thế, sự nghiệp cũng như tâm tư, tình cảm chân thật và sống động của các tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
    Sắp tới, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân sẽ xuất bản cuốn sách "Tổng tập hồi ký" của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp - Người anh Cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam và các tập tiếp theo của "Tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam qua những trang hồi ức".
    ÐẶNG VIỆT THỦY
    (Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân)
    =====
    ôi ! kẻ bị nhồi sọ thù hận lại hay ra rả "các anh bị nhồi sọ"
    trong cuộc đấu với các thế lực thù địch, chúng ta - đại diện cho chính nghĩa - nhất định thắng.
    Việt gian Bùi Tín, sư gian Thích Quảng Độ, "chấy sĩ DC" Hoàng Minh Chính, 3 tên phản quốc tiêu biểu trong năm
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các bác đừng nóng, đừng nói nhau là nhồi sọ với không nhồi sọ! Mất hết hoà khí với nhau.
    Thiếu tướng Tô Ký
    Ôm mối thù cha, vượt ngục Tà Lài, thuyết phục lính mã tà khám Tây Ninh, quay về Mười tám thôn Vườn Trầu cùng nhân dân Gia Định đứng lên cướp chính quyền, Tô Ký cùng người đồng đội chí thiết Trần Văn Trà thành lập và chỉ huy lực lượng võ trang đầu tiên của Nam Bộ do Đảng Cộng sản lãnh đạo: Giải phóng quân Liên quận Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hòa mà ông là chỉ huy trưởng; rồi tận tình giúp tướng Nguyễn Bình thống nhất các lực lượng vũ trang Nam Bộ, được cử làm phó tư lệnh Quân khu 7. Năm 1954 đất nước bị chia cắt, bằng uy tín và bản lĩnh của một nhà chỉ huy dạn dày trận mạc Tô Ký đã góp phần ổn định và nâng cao tinh thần cán bộ chiến sĩ miền Nam tập kết ra Bắc đang nóng lòng quay về giải phóng quê hương. Ông được thăng Thiếu tướng năm 1961, lần lượt đảm trách: trưởng Phòng Giao thông vận tải Bộ Tổng tham mưu, tư lệnh kiêm chính uỷ Sư đoàn 338, chánh án Tòa án Quân sự Trung ương, phó chánh án Tòa án nhân dân tối cao, chính uỷ Quân khu 7, chính uỷ Quân khu Hữu Ngạn? Cuối đời, tướng Tô Ký lại cùng tướng Trần Văn Trà đứng ra tập hợp thành lập và lãnh đạo Hội Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh với cương vị phó chủ tịch rồi chủ tịch hội. Đồng thời, ông còn là phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
    Cuộc đời của tướng Tô Ký gắn liền với mảnh đất thép Hóc Môn-Củ Chi của Gia Định xưa, với Mười tám thôn Vườn Trầu lừng danh sử sách. Ông tuổi Mậu Ngọ-1918, nhưng khai sinh trễ, giấy đề ngày 5 tháng 9 năm 1919. Nhà nghèo, học đến primaire trường Hóc Môn thì phải nghỉ ở nhà phụ giúp gia đình. Năm mười bốn tuổi, Tô Ký vừa làm ruộng vừa đi học chữ Hán thầy Mười Lời (Phạm Văn Lời) mong theo nghề thầy thuốc. Nhưng rồi phong trào cách mạng bùng lên ở quê hương Mười tám thôn Vườn Trầu cuốn hút chàng trai trẻ yêu nước, đầy cá tính. Tô Ký tham gia phong trào Thanh niên Dân chủ, được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 4 năm 1937. Hai năm sau, trong một làn đi phân phát truyền đơn cổ động đấu tranh, Tô Ký bị mật thám Pháp bắt giam tại Khám lớn Sài Gòn, tòa tiểu hình kết án một năm tù ở và ba năm đày biệt xứ.
    Tháng 11 năm 1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ mạnh mẽ. Do điều kiện còn non nớt, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp dãn man. Thân sinh của Tô Ký là cụ Tô Nếp cùng tám trăm đồng chí cách mạng bị kẻ thù bắt xỏ dây kẽm vào lòng bàn tay, đẩy xuống bốn chiếc xà lan, bí mật nhấn chìm vào nửa đêm trên sông Sài Gòn khúc Xóm Chiếu. Thời khắc tang thương ấy xảy ra vào tháng 5 năm 1941.
    Lúc người cha thân yêu bị hãm hại cũng là lúc Tô Ký đang bị giam cầm trong nhà tù thực dân, sau một cuộc vượt ngục không thành. Điều làm Tô Ký hết sức đau lòng là trước khi thân phụ bị thủ tiêu, chính ông đã tận mắt chứng kiến cảnh cha mình bị mật thám Pháp tra tấn dã man ở bót Catinat. Gan lì, dũng cảm, Tô Ký không những khuất phục được đám ?oanh chị? giang hồ trong tù, mà còn luôn đứng ra hứng chịu đòn khảo tra thay cho đồng chí của mình trong các cuộc đấu tranh trực diện với kẻ thù. Những hành động nghĩa khí ấy cho đến nay vẫn còn được truyền tụng như những giai thoại đẹp! Và cũng từ đó, uy danh Tô Ký dần ngự trị trong tâm khảm người dân Mười tám thôn Vườn Trầu lẫn cả người Mỹ như một niềm mến phục, tự hào.
    Vào một sáng mùa hạ nắng trong, tướng quân Tô Ký hẹn và tiếp tôi trong một ngôi nhà ở Phú Nhuận. Dáng người cao ráo, hơi ốm nhưng khỏe khoắn. Bước đi nhanh. Cử chỉ thoải mái, bộc trực. Nụ cười luôn tươi rói trên khuôn mặt phúc hậu. Một con người, một tính cách, một hình ảnh đặc trưng Nam Bộ! Ngả lưng trên chiếc sa lông gỗ, lão tướng hồi tưởng bằng trí nhớ mạch lạc, âm giọng hào sảng.
    -Quê tôi có truyền thống cách mạng từ xa xưa, mà gần nhứt là phong trào do ông Nguyễn An Ninh khởi xướng. Đây cũng là nơi Thường vụ Trung ương Đảng đóng. Trước Nam Kỳ khởi nghĩa, phong trào cách mạng ở Hóc Môn-Bà Điểm quê tôi đã phát triển khá mạnh. Quân Pháp liên tục bố ráp, săn lùng. Cha tôi và tôi lần lượt bị chúng bắt. Tôi bị đày đi căng Tà Lài (bọn Tây gọi là Camp dés trvailleurs Talai) một trại giam nằm trong rừng, cách thị trấn Định Quán, Đồng Nai hơn mười lăm cây số.
    Chi bộ nhà tù tổ chức học văn hóa lẫn chính trị. Anh Trần Văn Vi dạy về cách mạng tư sản dân quyền. Anh Trần Văn Giàu dạy chủ nghĩa Marx-Lénin. Ông Mười Mắn người Bến Tre, từng dự kỳ thi Hương cuối cùng của nhà Nguyễn năm 1915, dạy chữ Hán. Ngoài ra, anh em tù còn học tiếng Pháp và một số môn khác. Thời gian này, tôi được làm quen khá nhiều bạn tù tiếng tăm có thành phần xuất thân khác nhau. Những người cộng sản như: Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Văn Nguyễn, Dương Bạch Mai? Những người thộc nhóm Troskist Đệ tứ Quốc tế như: Đào Văn Long, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu? Những nhà sư yêu nước: Sư Thiện Chiếu, Huệ Thới?
    Một thời gian sau Nam Kỳ khởi nghĩa thất bại, Chi bộ đảng nhà tù quyết định cho tám đồng chí vượt ngục, gồm các anh Trần Văn Giàu, Dương Văn Phúc (tức Dương Quang Đông), Chân Văn Giác, Trần Văn Kiết (Kiệt), Trương Văn Nhâm, Nguyễn Công Trung, Nguyễn Hoàng Sính (Đức) và tôi. Một nhóm năm người chạy về hướng Sài Gòn. Nhóm của tôi gồm anh Giàu, anh Giác và tôi băng rừng trốn lên Đà Lạt. Đến ngày thứ mười bảy thì tới nơi. Nhưng có lệnh truy nã gắt gao, tôi bị Tây bắt lại đưa về Sài Gòn kêu án sáu tháng tù ngồi, sau đó đưa lên giam ở căng Bà Rá, một nơi rừng thiêng nước độc chẳng kém Tà Lài, rồi chuyển về khám Tây Ninh. Thời gian này, tôi cùng một vài anh em đi làm tạp dịch ngày hai buổi khá cực nhọc. Mỗi ngày nấu tới mười tám chảo cơm cho tù ăn, sáng mười chiều tám chảo. Nhờ đó, tôi khá sành chuyện nấu nướng!
    Cho đến kế hoạch Nhựt đảo chánh Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, tôi đã thuyết phục bọn lính mã tà giao súng cho tù chánh trị và anh em lập tức về quê chuẩn bị tham gia tổng khởi nghĩa. Tôi về Gia Định, được phân công thành lập, chỉ huy các lực lượng võ trang địa phương. Tôi được cử làm ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Gia Định kiêm ủy viên Ban Cán sự Liên tỉnh miền Đông phụ trách tỉnh Thủ Dầu Một mà chủ yếu là địa bàn quận Lái Thiêu.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn-Gia Định được xem là một trong những hình ảnh tiêu biểu cho cả nước trong Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Thiếu tướng còn nhớ gì về những ngày khi cách mạng vừa thành công?
    -Sau khi giành được chánh quyền, tôi tiếp tục xây dựng các lực lượng quân sự tỉnh Gia Định, đồng thời tham gia xây dựng chánh quyền rộng khắp các địa phương, góp phần dàn xếp ổn thỏa giữa ********* mới (Tiền Phong) và ********* (Giải Phóng) để đi đến thống nhất. Còn anh Trần Văn Trà mới trong khám ra, tham gia Kỳ bộ *********. Trước đó, Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ mời tôi đến có ý định phân công tôi làm tỉnh trưởng Gia Định, rồi tỉnh trưởng Thủ Dầu Một nhưng tôi đều từ chối. Tôi muốn trở về Hóc Môn dàn xếp ổn thỏa những mối oán thù còn tồn tại từ Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940. Vì nhiều cuộc trả thù trả oán đang diễn ra. Nếu không kịp thời ngăn chặn thì hậu quả khó lường?
    Chỉ khoảng hai mười ngày sau Cách mạng, một đại đội gồm 120 lính Pháp của trung đoàn thuộc địa số 5 đã trà trộn vào đơn vị đầu tiên của quân Anh-Ấn đến Sài Gòn. Tình hình bắt đầu gay cấn. Tướng Anh Douglas D.Gracy, tư lệnh Sư đoàn 20 Anh-Ấn lãnh sứ mệnh của Đồng Minh vào giải giới quân Nhựt, nhưng lại yểm trợ quân Pháp tái chiếm Nam Kỳ. Gracy ra lệnh thả những tên sĩ quan Pháp bị quân Nhật bắt giam trong Khám Lớn và một số nơi khác, chiếm Nam Bộ phủ, rồi tìm cách giải thoát Toàn quyền Decoux, Thống đốc Nam kỳ Hoeffel, tướng Delsuc-Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, Tỉnh trưởng Biên Hòa Larivière? Ngày 13 tháng 9 năm 1945, khi Sài Gòn đang âm ỉ khả năng bùng nổ chiến tranh thì một lá cờ ba sắc đột ngột xuất hiện ở dinh Toàn quyền cũ, như một sự thách thức đối với ta. Tức giận, nhân dân kéo đến dinh Toàn quyền càng lúc càng đông để phản đối hành động xấc xược, buộc chúng hạ cờ.
    Chúng còn bày mưu ?omời? các vị lãnh đạo Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ đến gặp bàn bạc, hòng bắt làm con tin. Đoán biết thủ đoạn của chúng, ta đồng ý nhận lời mời nhưng lại bí mật khẩn trương chuyển toàn bộ cơ quan ra khỏi dinh Đốc Lý cũ. Tối ngày 22 tháng 9, không thấy đại diện của ta đến, chúng cho quân đánh chiếm những điểm trọng yếu ở nội thành Sài Gòn. Cho đến ba giờ sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Đến ngày 5 tháng 10 thì Leclerc-viên tướng nổi danh vừa chỉ huy giải phóng thủ đô Paris nước Pháp khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức, đã bay sang Sài Gòn. Tướng Leclerc huênh hoang: ?oChúng ta sẽ quét sạch ********* trong ba tuần?! Và ngay lập tức, hắn xua quân đánh chiếm các tỉnh miền Đông, rồi hành quân xuống các tỉnh miền Tây Nam Bộ.
    -Phản ứng của ta lúc ấy như thế nào, thưa Thiếu tướng?
    -Chỉ hai ngày sau khi quân Pháp núp bóng Đồng Minh vào Sài Gòn, từ Hà Nội, Hồ Chủ tịch đã ra lời kêu gọi quốc dân đồng bào hãy cảnh giác sẵn sàng đợi lệnh Chánh phủ để chiến đấu. Nhân dân Sài Gòn tỏ thái độ bất hợp tác với quân đội chiếm đóng. Hầu khắp thành phố không có điện, không thư tín, các cửa hàng đều đóng cửa? Và khi quân Pháp chính thức nổ súng tái xâm lược, thì tại một căn nhà ở đường Cây Mai thuộc Chợ Lớn, Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ và Kỳ bộ ********* đã tổ chức một cuộc họp quan trọng, ra lời kêu gọi kháng chiến và thành lập Ủy ban Hành chánh kháng chiến.
    Hưởng ứng lời kêu gọi kháng chiến, nhân dân Sài Gòn-Nam Bộ đã đứng lên. Vũ khí lúc này chủ yếu là tầm vông vạt nhọn. Trên các ngả đường từ ngoại ô đến nội thành, đâu đâu cũng có chướng ngại vật cản bước tiến quân xâm lược, lập thành các phòng tuyến mặt trận như Thị Nghè, Cầu Bông, Hàng Xanh, Gò Vấp, Thủ Đức, Nhà Bè, Bà Quẹo, cầu Tham Lương, cầu Bến Phân, cầu An Lạc? Nhiều cuộc cắt máu ăn thề ?oQuyết tử cho Tổ quốc quyết sinh?. Để bảo vệ cột cờ Thủ Ngữ, nhiều cảm tử quân đã anh dũng ngã xuống, khiến viên chỉ huy quân Pháp phải tập hợp đại đội bồng dúng đứng chào những chiến sĩ vệ quốc anh hùng vừa ngã xuống của chúng ta.
    -Vậy còn lực lượng vũ trang tự vệ của ta lúc đó được tổ chức ra sao?
    -Lúc quân Pháp bắt đầy gây hấn, Tổng công đoàn Nam Bộ đã tổ chức được lực lượng võ trang công nhân hơn sáu ngàn người, phiên chế thành bốn sư đoàn chánh quy. Tuy nhiên, những người chỉ huy bốn sư đoàn này phần lớn là tay chân của Pháp, Nhựt trước đó.
    Tại các quận huyện cũng tổ chức cho nhân dân tự võ trang. Các đơn vị võ trang tự vệ ở các địa phương thường mang tên người chỉ huy như bộ đội Hai Bứa, Hai Chiểu, Ba Tô Ký, Nam Bi, Hứa Văn Yến, Huỳnh Tấn Chùa ở Hóc Môn; Tư Thược (Lâm Quốc Dũng), Năm Bội, Sáu Hàm, Tám Đào ở Bà Quẹo; Hai Nhị, Ba Dương (Dương Văn Dương), Năm Chảng, Sáu Đối (Trần Văn Đối), Bảy Viễn (Lê Văn Viễn), Tám Hoe (Nguyễn Văn Hoe), Chín Phải (Quách Văn Phải), Mười Lực (Ngô Tấn Lực) ở Thủ Thiêm-Nhà Bè, Tám Mạnh (Nguyễn Văn Mạnh), Hai Vĩnh (Mai Văn Vĩnh) ở Chánh Hưng; Ba Bang (Trương Văn Bang), Tư Hoạnh (Nguyễn Văn Hoạnh) ở Cần Giuộc; Bảy Quới, Đào Sơn Tây, Trần Đình Xu, Thái Văn Lung ở Thủ Đức, anh Hứa Văn Yến, anh Phan Đình Công ở Bà Rịa; anh Dung, anh Hai Minh Minh? Có đơn vị lấy tên địa phương mình như, bộ đội Bà Quẹo, bộ đội Phú Thọ, bộ đội Thủ Thiêm, bộ đội An Điền, bộ đội Tân Qui?
    Đây chính là tiền thân của Giải phóng quân Liên quận Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hòa. Với tinh thần ?oAi có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi tấc đất là một chiến hào?, quân dân Sài Gòn đã ghìm được chân địch trong thành phố hơn một tháng ròng, bất chấp sự chênh lệch về lực lượng, khí tài, trước khi rít lui an toàn ra chiến khu tiếp tục cuộc trường ký kháng chiến.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Xin Thiếu tướng cho biết rõ hơn về tình hình bốn sư đoàn chính qui?
    -Đệ nhất sư đoàn hay Cộng hòa Vệ binh do Kiều Công Cung cùng Trần Tử Oai, Trương Văn Giàu, Nguyễn Văn Quạn, Nguyễn Văn Hoặc chỉ huy, quân số phần lớn là lính mã tà của Tây và một số lính Hải Hồ (Heiho) của Nhựt. Đây được xem là lực lượng chủ lực của Lâm ủy Hành chánh Nam Bộ. Đệ nhị sư đoàn thì do Vũ Tam Anh tức Nguyễn Ngọc Nhẫn chỉ huy. Đệ tam sư đoàn là Nguyễn Hòa Hiệp và Đệ tứ sư đoàn là Lý Huê Vinh chỉ huy. Quân lính bốn sư đoàn này rất hỗn tạp, thích ăn diện phô trương. Ngày thường thì diễu hành rùm beng khắp phố. Giặc đến thì chưa đánh đã quăng súng chạy. Về sau, chỉ có Cộng hòa Vệ binh do anh Trương Văn Giàu và anh Nguyễn Văn Quạn chỉ huy là đi kháng chiến tới cùng.
    Đội quân này khác toàn với lực lượng dân quân tự vệ. Anh em có gì mặc nấy. Vũ khí thô sơ, chiến tranh là tầm vông, giáo mác, mã tấu. Nhưng tinh thần thì kiên cường, sẵn sàng hy sinh vì đại cuộc.
    Thời kỳ đầu kháng chiến, Nam Bộ được chia làm ba khu. Khu 7 do Kiều Đắc Thắng tự xưng hùng xưng bá, xem mình như tư lệnh. Khu 8 đứng đầu là Vũ Đức, còn Khu 9 là Đào Văn Trường đều là những chỉ huy quân Nam tiến. Cho tới khi Trung ương cử Nguyễn Bình vào Nam Bộ thì Kiều Đắc Thắng lên Tây Nguyên rút ra Bắc. Anh Nguyễn Bình được cử làm tư lệnh Quân khu 7, còn tôi cùng anh Huỳnh Văn Nghệ, anh Dương Văn Dương là phó tư lệnh. Sau khi anh Ba Dương mất, nhằm thống nhứt lực lượng Bình Xuyên vào Quân khu 7, anh Ba Bình với tư cách là tư lệnh Nam Bộ đã bổ nhiệm Bảy Viễn tức Lê Văn Viễn làm phó tư lệnh Quân khu 7.
    -Thiếu tướng còn nhớ Giải phóng quân Liên quận Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hòa được thành lập như thế nào và ai là người đứng đầu lực lượng này?
    -Trước tình hình mới, để có một lực lượng võ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc kháng chiến, chúng tôi bàn bạc với Tỉnh ủy Gia Định thành lập Giải phóng quân Liên quận Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hòa. Đây cũng chính là lực lượng nòng cốt cho Chi đội 12 do tôi làm chi đội trưởng, về sau đổi thành Trung đoàn 312 Vệ quốc đoàn.
    Giải phóng quân Liên quận chính thức thành lập ngày 1 tháng 11 năm 9145, lúc đầu do anh Hoàng Dư Khương phụ trách chung. Nhưng chỉ một tháng sau, anh Khương nói rằng mình không quen với việc chỉ huy quân sự nên xin chuyển sang làm thơ ký *********. Còn lại tôi với anh Trần Văn Trà cùng chỉ huy. Tôi là chỉ huy trưởng, anh Trà là chính trị viên, với sự giúp sức của các anh Huỳnh Tấn Chúa, Lê Minh Định, Hoàng Tế Thế và nhiều anh em khác. Lúc chuẩn bị đón cái Tết kháng chiến đầu tiên năm 1945-46, Giải phóng quân Liên quận làm cuộc ?ochinh Đông? qua Tân Uyên phối hợp với Chi đội 10 của anh Huỳnh Văn Nghệ ?obày binh bố trận? ngăn chặn giặc Pháp từ Biên Hòa tấn công lên căn cứ chiến khu Đ.
    -Vậy là gần một năm sau khi Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân ra đời ở chiến khu Việt Bắc, thì ở Nam Bộ đã xuất hiện Giải phóng quân Liên quận.
    -Đúng vậy. Cả hai đều do Đảng thành lập và lãnh đạo. Lúc bấy giờ có mặt tại Xứ ủy Nam Bộ gồm các đồng chí Lê Duẩn, Dương Bạch Mai, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Cao Hồnh Lĩnh, Ung Văn Khiêm, Hà Huy Giáp?
    -Thế các đơn vị võ trang khác ở Nam Bộ lúc đó hình thành thế nào, thưa Thiếu tướng?
    -Chủ yếu do lòng yêu nước tự phát. Dù mang danh nghĩa giáo phái, nhưng lực lượng phần lớn cũng là quần chúng công nông. Họ bất bình trước nạn cường hào ác bá, căm phẫn bọn ngoại xâm mà đứng lên chống lại chúng. Lúc đầu, họ cướp của nhà giàu chia cho người nghèo, cướp vũ khí quân Pháp và tay sai để tự trang bị, nuôi dưỡng lực lượng. Về sau, được sự hướng dẫn, lãnh đạo của Đảng, họ đã đứng vào hàng ngũ kháng chiến.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thiếu tướng nhận định ra sao về các tay anh chị hảo hán giang hồ, mà tiêu biểu là các thủ lĩnh Bình Xuyên trong đội quân hỗn hợp này?
    -Đa số anh em nầy là những người tốt, có tinh thần yêu nước, dù là người của Bình Xuyên hay giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo. Có thể kể đến những tay đàn anh như Dương Văn Dương, Dương Văn Hà, Lê Văn Viễn, Huỳnh Văn Trí, Trần Văn Đối, Trịnh Minh Thế, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Thành Phương, Ngô Tấn Lực, Nguyễn Văn Hoạnh, Trần Văn Soái, Lê Quang Vinh, Lâm Văn Đức, Nguyễn Văn Mạnh? Ban đầu họ đều tích cực tham gia kháng chiến. Nhưng về sau do bọn gián điệp Phòng Nhì Pháp cài vào xúi giục chia rẽ họ.
    Điển hình nhất là Bình Xuyên, một lực lượng rất mạnh bấy giờ. Một số thủ lĩnh Bình Xuyên mà tiêu biểu là Bảy Viễn, do nghe lời xúi giục từ bọn tay sai Phòng Nhì của Pháp là Lại Hữu Tài và Lại Văn Sang, đã trở giáo về Thành ủng hộ giải pháp Bảo Đại. Trước đó, dưới sự hướng dẫn của Pháp, Bảy Viễn đã lập chiến khu Xanh đối lập với chiến khu Đỏ là chiến khu Đ. Nhưng lực lượng ngày càng phân hóa. Cuối cùng, cha con Bảy Viễn cùng một số tay chân bộ hạ đã lên xe GMC của Pháp đợi sẵn lúc trời tờ mờ sáng trên đường 4, đoạn Gò Đen-Bình Chánh, chạy về Sài Gòn. Đó là một ngày của năm 1952. Toàn thể những anh em còn lại của bộ đội Bình Xuyên tiếp tục tham gia kháng chiến đến cùng, cho tới khi nước nhà thống nhất năm 1975. Trong số các thủ lĩnh tiêu biểu của Bình Xuyên có công lớn, được Nhà nước phong quân hàm cấp tướng Quân đội nhân dân Việt Nam có các anh Dương Văn Dương, Lê Thành Công?
    -Chắc Thiếu tướng có biết vụ ?otảo thanh Bình Xuyên? diễn ra khoảng đầu năm 1950?
    -Đây là một sai lầm chính trị đáng tiếc do một vài cá nhân gây ra. Lúc đó tôi là phó tư lệnh Quân khu 7 nhưng không hề hay biết. Cả Xứ ủy, Bộ tư lệnh Nam Bộ và Bộ tư lệnh Quân khu 7 cũng vậy. ?oTảo thanh Bình Xuyên? là chủ trương riêng của Phòng Chính trị Quân khu 7, mà cụ thể là Chủ nhiệm Nguyễn Văn Trí đã phái Nguyễn Đức Huy xuống các đơn vị bộ đội Bình Xuyên bắt bố thanh trừng. Đây là một sai lầm lớn, vì không đánh giá đúng tinh thần dân tộc, ý chí chiến đấu của anh em Bình Xuyên. Khi sự việc xảy ra, Bí thư Xứ úy Lê Duẩn hay tin liền cấp tốc chống xuồng đến khu 7 ngăn chặn, phê phán chủ trương đó. Anh cũng giải quyết những trường hợp cụ thể, đem lại niềm tin cho anh em Bình Xuyên.
    -Thiếu tướng có thể cho biết vài nét về tướng Dương Văn Dương, vị thủ lĩnh nổi tiếng của Bình Xuyên?
    -Anh Ba Dương là lãnh tụ có uy tín nhất của Bình Xuyên. Hai người Nam Bộ đầu tiên được phong tướng là anh Dương Văn Dương và tôi. Một người còn sống. Một đã hy sinh. Ba Dương học hết tiểu học, bỏ đi giang hồ, mượn nghề nuôi vịt để trau dồi võ nghệ và qui tụ hảo hớn. Vóc người nhỏ thó, dáng vẻ thư sinh nhưng Ba Dương rất có uy lực trong giới giang hồ. Anh vốn là ?ođại ca? vùng Tân Qui-Nhà Bè, sau sang làm sếp cai quản bến đồ Nam Vang bên hông chợ Bến Thành. Đám thầy chú rất vị nể. Khi Nhựt chuẩn bị vào Đông Dương, anh bị Tây bắt cắt tóc ra từng đoạn rồi bắt uống để giết dần giết mòn cơ thể anh. Vốn là thầy võ nên khi ngộ nạn anh được nhiều đồ đệ trung thành theo giúp.
    Trong Cách mạng tháng Tám, anh tham gia cướp chánh quyền, rồi trở thành thủ lĩnh đứng đầu lực lượng Bình Xuyên. Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Ba Dương chỉ huy một đơn vị đột nhập nội thành Sài Gòn làm bạt vía kinh hồn bọn Tây và đám Việt gian dựa hơi. Ngoài bưng biền, dưới sự chỉ huy của Ba Dương, bộ đội Bình Xuyên lập nhiều công trạng kháng chiến. Thật chẳng may trong lúc chỉ huy một trận đánh ở Bến Tre, anh bị máy bay Pháp bắn trọng thương và hy sinh lúc đang giữ trọng trách phó tư lệnh Quân khu 7. Đây là một tổn thất lớn đối với bộ đội Bình Xuyên và lực lượng kháng chiến Nam Bộ. Anh Ba Bình hết sức quí mến và thương tiếc anh Ba Dương. Lễ truy điệu anh được tổ chức ở Bà Rịa. Sau khi Dương Văn Dương hy sinh, Trung ương và Bác Hồ truy phong anh quân hàm Thiếu tướng. Tên của Dương Văn Dương được đặt cho một con kênh lớn ở miền Tây và một đơn vị bộ đội đánh giặc giỏi.
    -Khi tướng Nguyễn Bình được Trung ương biệt phái vào Nam Bộ tháng 10 năm 1945, được biết Thiếu tướng đã nhiệt tình giúp Nguyễn Bình rất nhiều trong việc thống nhất các lực lượng võ trang hỗn tạp bấy giờ.
    -Anh Nguyễn Bình đúng là con người của tình thế. Nhờ danh nghĩa đặc phái viên Trung ương do Bác Hồ cửa vào, bằng uy tín và kinh nghiệm tổ chức, chỉ huy quân đội của tư lệnh Đệ tứ chiến khu, tức chiến khu Đông Triều ở Hải Phòng, Nguyễn Bình đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình. Ngang tàng, hào hiệp, anh đã thu phục được các tay anh chị giang hồ ?ocoi trời bằng vung?, dẫn đến thống nhất các lực lượng võ trang Nam Bộ, đưa kháng chiến từng bước đi đến thắng lợi. Ngoài căn cứ, anh đã chánh qui hóa các lực lượng võ trang, phiên chế thành các trung đoàn, áp đặt kỷ luật quân sự chặt chẽ. Còn trong vùng tạm chiếm, anh tổ chức các Ban Công tác đặc biệt hoạt động rất hiệu quả, làm cho bọn thực dân lẫn Việt gian ********* ăn không ngon ngủ không yên ngay ở sào huyệt đô thành Sài Gòn.
    -Nhờ vậy mà Nguyễn Bình được tấn phong Trung tướng, cấp hàm cao thứ hai sau Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và trở thành phó chủ tịch Ủy ban Hành chánh kháng chiến Nam Bộ kiêm tư lệnh quân sự Nam Bộ. Với tư cách chỉ huy trưởng Giải phóng quân Liên quận, nhưng lại phải chịu dưới quyền một người hoàn toàn mới như Nguyễn Bình, lúc đó Thiếu tướng và tướng Trần Văn Trà có cảm thấy tự ái không?
    -(Cười lớn) Không, hoàn toàn không? Bởi vì chúng tôi hiểu được sức mình. Lúc đó tôi với anh Ba Trà còn trẻ lắm, mới khoảng hai sáu, hai bảy tuổi. Trong khi chỉ huy các đơn vị khác lớn tuổi hơn chúng tôi rất nhiều, lại có nhiều kinh nghiệm về quân sự. Điều quan trọng là tìm được người có bản lãnh, năng lực và uy tín để tập họp, lãnh đạo thống nhất các lực lượng võ trang. Do đó, anh Ba Trà và tôi cùng nhiều anh em khác ủng hộ anh Nguyễn Bình là điều tự nhiên.
    -Nhưng thưa Thiếu tướng, hình như lúc đầu không phải ai cũng tâm phục Nguyễn Bình.
    -Đơn giản: Nguyễn Bình vốn là đảng viên Quốc dân đảng. Sau thất bại khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, Quốc dân đảng chia làm hai phái. Một phái theo Tàu theo Tây. Một phái theo cộng sản, mà tiêu biểu là các anh Trần Huy Liệu, Trần Xuân Độ, Nguyễn Phương Thảo tức Nguyễn Bình? Tuy vậy, một số anh em vẫn còn kỳ thị, nên không chịu để Nguyễn Bình làm tư lệnh Nam Bộ, mà muốn tôi hoặc anh Ba Trà.
    Như tôi đã nói, anh Nguyễn Bình là người lớn tuổi, hơn tụi tôi tới mười lăm tuổi, biết cách tổ chức quân đội, tính tình hào phóng, hợp với anh em Nam Bộ, lại là người do Bác Hồ và Bộ Tổng tư lệnh cử vào, nên hội đủ các điều kiện. Thực tình, trước đó tôi với anh Ba Trà cũng đã tính chuyện làm cách nào để thống nhất các lực lượng võ trang. Do đó, khi Nguyễn Bình vào, vì sự nghiệp chung, tụi tôi ủng hộ ngay, tạo mọi điều kiện thuận lợi để anh làm việc.
    -Nghe nói lễ thành hôn của Thiếu tướng và hiền nội Trần Thị Tân do Trung tướng Nguyễn Bình làm chủ hôn, có đúng không?
    -Nguyễn Bình là cấp trên trực tiếp, lại sống làm việc chung với tôi tình thân như anh cả, nên việc anh đến dự đám cưới lúc đó xem như chủ hôn cũng được. Tôi nhớ khi tới dự, anh Ba đi ngựa. Anh cưỡi ngựa giỏi như bắn súng.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thiếu tướng gặp bà nhà trong hoàn cảnh nào?
    -Cùng đi kháng chiến. Nhà tôi cũng người Hóc Môn, học hết tiểu học, tham gia Thanh niên Tiền phong, rồi vào chiến khu làm công tác hội phụ nữ. Chúng tôi hiện có bốn co, hai trai, hai gái đều đã trưởng thành.
    ? Từ chuyện chinh chiến Thiếu tướng Tô Ký ?olái? sang chuyện đời thường lúc nào tôi không hay biết. Bởi đã cao hứng rồi thì vị lão tướng thao thao bất tuyệt. Ông tỏ ra rất tâm đắc chuyện ẩm thực. ?oKhi còn trong tủ tôi đã khá sành nấu ăn. Tây Tàu gì tôi cũng nấu ráo. Nấu bài bản đàng hoàng. Tôi thích nấu ăn chẳng kém đánh giặc?! Tôi chợt nhớ lời nhà văn Nguyễn Quang Sáng nói trước khi tôi đến đây: Tô Ký là một con người độc đáo, từ sự nghiệp tới tính cách! Ngẫu hứng, tôi đọc tặng ông mấy vần lục bát vui:
    Vượt Tà Lài bám Vườn Trầu
    Chỉ huy liên quận mưu sâu nghĩa dày
    Giao thông đi gió về mây
    Đã nấu ăn thì Tàu Tây cũng rành

    Vị lão tướng lại nở tràng cười sang sảng, đứng dậy nắm chặt tay tôi: ?oChú mày giỏi thiệt. Khi nào rảnh tới chơi để bàn chuyện khởi nghĩa Nam Kỳ. Đây là việc lớn, phải viết cho có hệ thống, cho đúng sự thiệt lịch sử?.
    Một cuốn sách đầy đủ, trung thực, có hệ thống về cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ là mơ ước lớn cuối đời của tướng quân Tô Ký. Rất tiếc, chưa thực hiện trọn vẹn ước mơ ấy thì ông đột ngột vĩnh viễn ra đi vào mùng Hai Tết Kỷ Mão, tức ngày 17 tháng 2 năm 1999, thọ tám mươi mốt tuổi. Đại tá Nguyễn Văn Tòng, phó chủ tịch Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh, một đồng đội thân thiết của tướng Tô Ký, ngậm ngùi: ?oAnh mất đi để lại một công trình lớn về lịch sử cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ vừa mới được khởi động động mặc dù anh đã để tâm đến việc này mấy năm nay. Anh đầu tư nhiều trí tuệ và công sức vào công trình lịch sử này vì các thế hệ mai sau và cũng vì những đảng viên cộng sản, những đồng bào đã ngã xuống một cách oanh liệt trong cuộc khởi nghĩa anh hùng bị thực dân Pháp dìm trong máu lửa?.
    Trong nỗi thương tiếc vị thủ lĩnh kiên trung, hào hiệp và nhân hậu xuất thân từ Mười tám thôn Vườn Trầu, một vị tướng lĩnh hàng đầu, một ?okhai quốc công thần?, Đại tá Nguyễn Văn Quảng-một trong những chiến binh kỳ cựu của Nam Bộ và nguyên thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, đã tỏ lời tri ân trước vong linh Thiếu tướng Tô Ký: ?oĐược Đảng và nhân dân tín nhiệm giao anh nhiều trọng trách, suốt cuộc cách mạng mà anh từng tự giác lao và từ giữa những năm 30 tóc xanh rực lửa đến buổi đầy bạc dạn dày. Nhiệm vụ nào, khó khăn bao nhiêu anh đều hoàn thành; gian nan và thử thách hiểm nguy nhứt đến tính mạng có lẽ là lúc trong lao tù đế quốc ở Tà Lài, anh không hề nao núng. Cơ thể và nghị lực anh như ?othép được tôi luyện?, như ?ovàng qua lửa đỏ? đã đưa anh vững bước trên các chặng đường.
    Anh nằm xuống rồi mà như anh đang yên bình trong giấc ngủ thiên thu nơi miền lạc cảnh. Anh đã đi xa mà vẫn lưu lại cho đời một gương sáng về ?onhơn cách? của một con người cộng sản chân chính. Cái còn vĩnh viễn của anh chính là điểm đó. Tôi nghĩ như thế và thấy anh như còn mãi bên chúng tôi?.
    Càng xúc động hơn khi bà Trần Thị Tân trong cơn đau khổ tột cùng đã viết nên một bài thơ dài, được chuyển thể sang vọng cổ, ca ngợi cuộc đời kiên trung nghĩa hiệp của đấng phu quân Tô Ký. Mỗi lời ca là một tiếng nấc trước anh linh của ông-người bạn chiến đấu, người chỉ huy, người chồng và hơn hết là thần tượng của bà. Tình yêu của quả phụ Trần Thị Tân đối với tướng quân Tô Ký làm tôi bồi hồi liên tưởng đến tình yêu của công chúa Ngọc Hân trong Ai tư vãn khóc Quang Trung thuở nào.

Chia sẻ trang này