1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Rất cám ơn các bác đã có lời động viên khi em được lên mod! Nhưng em cũng chẳng thích thú tí nào khi ngày đầu tiên làm mod mà em đã phải khoá chủ Đài THVN!
    Thôi giờ em gửi tiếp bài về Thiếu tướng Tô Ký.
    ?oTiểu tướng? Tô Ký bắt ?oNgư ma vương? hàng phục
    Tướng Tô Ký sinh năm 1922 tại làng Bình Lý, Hóc Môn (nay là xã anh hùng Bình Mỹ, huyện Củ Chi). Ông tham gia cách mạng từ năm 12 tuổi, năm 17 tuổi bị bắt giải đi căng Tà Lài (1940). Đầu năm 1941, ông cùng bảy đồng chí vượt ngục và tiếp tục hoạt động.
    Ông là một trong những người đứng ra lập Giải phóng quận liên huyện Hóc Môn-Bà Điểm-Đức Hoà, sau là Chi đội 12. Năm 1954 ông tập kết ra Bắc, được thăng Thiếu tướng, Chính uỷ Quân khu. Ông mất mùng hai Tết năm Kỷ Mão (1999).
    Câu chuyện xảy ra cách đây trên nửa thế kỷ, vào đầu năm 1941, vài tháng sau khi Nam Kỳ khởi nghĩa. Lúc đó anh Ba Tô Ký mới là một thanh niên 18-nhỏ nhất trong đám tù chính trị bị Tây bắt đưa về Tà Lài nằm dọc quốc lộ 20, khỏi Định Quán, trên đường Sài Gòn-Đà Lạt.
    Các căng Tà Lài, Bà Rá được Pháp đặt tên là Camp des travailleurs (Trại lao động). Khoảng 300 tù Cộng sản bị nhốt giữa rừng già, cách quốc lộ 20 chừng 10 km đường rừng. Anh em bầu Bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ Trần Văn Giàu làm Délégué général (Tổng đại diện). Tuy ở giữa rừng, anh em vẫn biết tin tức bên ngoài qua đám mã tà gác tù. Anh Năm Tuồng là người ?ođi lính bất đắc dĩ? nên âm thầm giúp đỡ những người yêu nước. Nhờ anh Năm Tuồng và một vài người khác mà Sáu Giàu biết tin tức bên ngoài đang sục sôi chuẩn bị khởi nghĩa vào cuối năm 1940. Trong tù, các chiến sĩ Cộng sản cũng chuẩn bị chia làm nhiều tổ: tổ vũ khí do anh Khung vô rừng sâu rèn mã tấu, dao găm; tổ huấn luyện quân sự do anh Năm Tuồng tập anh em ngắm súng Mút; tổ lương khô do Năm Đông liên hệ với nhà bếp xin cơm thừa phơi khô? Nhưng việc lớn bất thành vì bên ngoài không tiến hành đồng loạt. Vụ khởi nghĩa đã bị lộ trước giờ nổ súng. Hay tin này, Sáu Giàu ra lệnh chôn cất vũ khí chờ thời cơ thuận lợi hơn.
    Sau Tết Tân Tị (năm 1941), ba anh em tù được lệnh vượt ngục. Để chuẩn bị cho cuộc vượt ngục được thành công, Sáu Giàu suy tính về mọi mặt. Một trong những lo ngại của anh em vượt ngục là đồng bào thiểu số ở bên ngoài căng Tà Lài. Đó là các bộ lạc Stiêng, Châu Mạ, Châu Ro, Khmer. Do Tây tuyên truyền và treo giải thưởng như muối, vòng vàng đeo tay (vàng giả), nhiều người Thượng khoái săn bắt tù vượt ngục để lãnh thưởng.
    Sau nhiều đêm suy nghĩ, Sáu Giàu gọi Tô Ký tới: ?oNghe nói hồi nhỏ chú Ba có chăn trâu??. Tô Ký gật: ?oCó?. ?oChú biết xỏ dàm trâu không??. ?oBiết?. ?oNhưng gặp trâu cổ to như voi, chú có xỏ dàm được không??. ?oSao lại không? Anh Sáu muốn nói con Ngưu ma vương của mấy ông Stiêng bên kia sông chớ gì? Tôi đã thấy nó rồi. Đúng là nó to lớn dình dàng như voi?. ?oSao gọi nó là Ngưu ma vương??.
    Tô Ký cười: ?oHồi nhỏ mình mê đọc truyện truyện Tàu, Tây du ký, Tam quốc, Thuỷ hử? Con trâu này đúng là Ngưu ma vương?.
    Sáu Giàu hỏi lại cho chắc ăn: ?oChú Ba có dám hứa chắc với tôi là xỏ dàm được con Ngưu ma vương chớ? Ngoéo tay nếu chú làm được!?.
    Tô Ký mạnh dạn ngoéo tay Sáu Giàu. Vài ngày sau, Sáu Giàu tới gặp sếp căng Ménestrier:
    -Lễ Phục sinh tới đây, tôi xin phép ông cho anh em tù vui chơi giải trí. Sẽ có một màn đấu bò hết sức ngoạn mục không thua gì bên xứ Tây Ban Nha.
    -Đấu bò? Trong đám tù có picador (kẻ đấu bò)?
    -Có chớ! Nên nhớ trong căng này, không thiếu nhân tài thuộc đủ ngành nghề. Xin nói lại cho đúng là không phải màn đấu bò mà là chinh phục con trâu cổ khổng lồ.
    Sếp căng gật gù: ?oMình cũng đã thấy con trâu cổ đó rồi. Nó là trâu rừng, không hiểu sao lại nhập bầy với đàn trâu nhà?.
    Sáu Giàu: ?oCon trâu này giống như con Bạch Tượng. Dân quê cho rằng Bạch Tượng xuất hiện là may mắn. Chớ thật ra thì Bạch Tượng vô dụng, không hữu ích như voi thường?.
    Sếp căng gật: ?oCon trâu rừng này cũng vô dụng, không biết kéo cày hay kéo cộ. Nuôi uổng công!?.
    Sáu Giàu hãnh diện:
    -Rồi sếp sẽ thấy, tay đấu bò của chúng tôi sẽ chinh phục được con Ngưu ma vương này để biến nó trở thành con vật hữu dụng gấp mười lần đồng loại của nó.
    Sếp gật đầu khuyến khích:
    -Cứ làm đi! Tôi cho phép!
    Ngày trọng đại đã đến. Tất cả tù nhân đều tập trung trên sân cỏ sát bờ sông Tà Lài. Đám lính mã tà cùng mấy thằng cò Tây cũng kéo ra xem màn ?oTiểu tướng Tô Ký tử chiến Ngưu ma vương?. Tất cả các bầy trâu của đồng bào Thượng ở gần căng đều được lùa vô căng để cho màn ?oxiếc? thêm phần hào hứng. Tất nhiên, vai chính trong bầy gia súc này là con trâu cổ hỗn danh Ngưu ma vương.
    Anh em tù đặc biệt lo cho ?oTiểu tướng? Tô Ký. Anh thanh niên 20 tuổi này, cao gầy, tuy rắn chắc nhưng so với Ngưu ma vương thì quả là quá chênh lệch. Anh mặc quần cụt bó sát người, mình trần, tay cầm dây mây để xỏ dàm trâu cổ, sắc mặt nghiêm trang nhưng đầy tự tin. Sáu Giàu vỗ vai động viên:
    -Cố gắng nghe chú. Việc lớn có thành công hay không là do chú có trị được con Ngưu ma vương hôm nay hay không đó.
    Tô Ký khẽ mỉm cười với anh Sáu như hàm ý: ?oAnh hãy tin nơi thằng em này!?.
    Sáu Giàu chỉ Tô Ký giới thiệu với bọn Tây:
    -Đây là picador của chúng tôi. Các ông sẽ chứng kiến anh bạn trẻ này chinh phục con trâu rừng khổng lồ như thế nào.
    Tô Ký bảo các già làng quất đàn trâu chạy xuống sông. Con Ngưu ma vương bị đàn trâu kẹp cứng giữa bầy, không tự do hung hăng như ở trên bờ. Tô Ký nhảy từ lưng con trâu này tới lưng con trâu kia, từ từ tiến lại gần con Ngưu ma vương. Nó trông thấy, đoán được ý đồ của Tô Ký nên hung hăng cung sừng to dài và nhọn hoắt cố chém kẻ tới gần? Nhưng nước sông truy cản các cử động ồ ạt của Ngưu ma vương. Đồng thời tình thế bị kẹt cứng giữa bầy trâu cùng bì bõm trên dòng nước làm cho nó giảm sức hung hãn. Tô Ký đã nhảy lên lưng con Ngưu ma vương. Nó cố hất nhưng không xong, xoay qua hụp đầu xuống mặt toan nhận chìm kẻ thù nhưng Tô Ký ngước cao cổ lên trong khi hai tay vẫn bám chặt cổ con trâu mộng. Đợi tới lúc con vật thấm mệt, Tô Ký mới nhanh tay xỏ dây mây vô mũi nó thật mạnh và gọn. Con Ngưu ma vương đau điếng nhảy dựng lên. Nếu ở trên bờ thì nó đã vật đối thủ văng xa tới cả chục thước. Nhưng nó lại kẹt dưới nước.
    Vùng vẫy cả tiếng, sau cùng Ngưu ma vương chịu để Tô Ký chinh phục, kéo dây dàm trao cho già làng chủ của nó?
    Suốt hơn tiếng đồng hồ, cả căng hồi hộp theo dõi trận tử chiến trên sông Tà Lài. Đây là sự kiện lịch sử có một không hai ở căng Tà Lài. Chiến công này đáng ghi lại trong sổ vàng của Hội cựu tù chính trị Nam Bộ. Bí quyết thành công của Tô Ký là dùng trí tuệ để chiến thắng sức mạnh hoang dã. Trí tuệ đó là giam chặt Ngưu ma vương dưới nước giữa vòng vây đồng loại để vô hiệu hoá sức mạnh dễ sợ của con trâu rừng.
    Nhưng người lập chiến công đó vẫn không biết vì sao anh Tổng đại diện tù nhân căng Tà Lài bày ra chuyện chinh phục con trâu rừng như vậy.
    Đến khi được chọn làm một trong số tám người vượt ngục Tà Lài, Tô Ký mới biết bài bản của Sáu Giàu: ?oVượt ngục ra khỏi trại là lọt vô các sóc, các buôn người Thượng. Họ có thể bắt chúng ta để lãnh thưởng. Cho nên phải có một hành động làm cho họ kính phục tài tháo vát của anh em mình. Xỏ dàm con trâu cổ là chuyện có lợi về nhiều mặt. Trước hết là người mình thông minh, trị được con vật hung hăng. Thứ hai là giúp nó trở thành gia súc hữu ích cho già làng. Mình đem cái lợi cho người ta, không lẽ người ta đem cái hại cho mình?.
    Bấy giờ Tô Ký mới hiểu hết nội dung lời động viên trước đó của Sáu Giàu: ?oViệc lớn có thành công hay không là do chú trổ tài hôm nay đó?.
    Nguyên Hùng
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thiếu tướng Dũng Mã
    Thoạt nghe giọng nói qua điện thoại, tôi không nghĩ đó là giọng một cụ già. Càng ngạc nhiên hơn khi đối diện với ông: tướng Dũng Mã trẻ hơn nhiều so với cái tuổi giữa thất tuần! Là một tri thức trẻ xung phong vào quân đội, được cử làm thư ký riêng cho Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ với tư cách trung đoàn trưởng đặc phái viên Bộ chỉ huy chiến dịch, ?oNho tướng? Dũng Mã lần lượt đảm nhiệm các chức vụ: tham mưu trưởng Quân khu Đông Bắc, tham mưu trưởng Hải quân Đông Bắc, phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Mặt trận 31 Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng ở Lào, chủ nhiệm Khoa Lịch sử quân sự rồi cục trưởng Cục Huấn luyện Học viện Quân sự cao cấp? Ông được thăng quân hàm từ Đại tá lên Thiếu tướng năm 1984. Trong ký ức những chiến binh thời đánh Pháp ở Việt Nam, hai cái tên Dũng Mã-Sơn Mã khá quen thuộc. Nhờ lập công xuất sắc, Dũng Mã là một trong ba cán bộ chỉ huy trẻ, đều tên Dũng, đã được Hồ Chủ tịch gọi lên khen ngợi sau Chiến dịch Biên Giới-1950. Bất cứ nơi đâu, trong lòng tướng Dũng Mã hình ảnh người em ruột Sơn Mã cũng hiện diện như một niềm thôi thúc thân thương. Trong ngôi nhà ở làng Đại học, quận Thủ Đức câu chuyện giữa ông với chúng tôi cũng bắt đầu từ Sơn Mã. Chỉ tay về hướng một bức ảnh khổ lớn ***g khung kính treo trang trọng trên bàn thờ, Thiếu tướng Dũng Mã xúc động nói:
    -Đây là ảnh chú Sơn Mã, người em ruột kế tôi, hy sinh ở Việt Bắc. Tên thật của tôi là Nguyễn Xáng, còn Sơn Mã là Nguyễn Huynh. Chú ấy sinh năm 1925, nhỏ hơn tôi hai tuổi.
    -Thưa Thiếu tướng, vì sao hai người lại mang tên Dũng Mã-Sơn Mã?
    -Khi tham gia cách mạng, hoạt động bí mật, mỗi người đều cần bí danh. Tôi vốn rất ham cưỡi ngựa, lại mê bài hát hùng tráng của nhạc sĩ Văn Cao: ?oBao chiến mã lên đường. Lạnh lùng vung gươm ra sa trường??o, nên đã lấy tên Dũng Mã. Em tôi thấy vậy, về sau đặt bí danh cho mình là Sơn Mã.
    -Anh em Thiếu tướng tòng quân từ lúc nào?
    -Sau Cách mạng tháng Tám, tôi được gọi học tiếp năm thứ hai Trường Cao đẳng Công chính Hà Nội, và tham gia hoạt động trong Hội Sinh viên Cứu quốc. Theo lời kêu gọi của đoàn thể, tôi cũng ?oxếp bút nghiên? lên đường nhập ngũ và được cử đi học Trường Quân chính Bắc Sơn tại Thái Nguyên đầu năm 1946. Toàn quốc kháng chiến, tôi chiến đấu ở phía bắc Hà Nội rồi lên Việt Bắc làm thư ký riêng cho Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp.
    Cũng năm 1946, sau khi tốt nghiệp Trường Quân chính Quảng Ngãi, Sơn Mã được điều ra Việt Bắc làm huấn luyện viên Trường Sĩ quan Trần Quốc Tuấn. Giữa năm 1949, Đại đoàn 308-Quân Tiên Phong, đại đoàn đầu tiên của quân đội ta được thành lập, do anh Vương Thừa Vũ làm tư lệnh và anh Song Hào làm chính uỷ, tôi cùng Sơn Mã được về đó công tác. Hai anh em chúng tôi tuy ở hai tiểu đoàn khác nhau, nhưng thường tham gia cùng một chiến dịch, có khi cũng phối hợp tác chiến một số trận, chia sẻ thắng lợi lẫn khó khăn.
    -Thiếu tướng còn nhớ thời điểm Sơn Mã hy sinh?
    -Nhớ chứ. Thu đông 1952, quân ta mở Chiến dịch Lê Hồng Phong 2 giải phóng Tây Bắc. Lúc đó, tôi là trung đoàn phó Trung đoàn 209-Sông Lô thuộc đại đoàn 312. Còn Sơn Mã là tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 84 thuộc Trung đoàn 36 Đại đoàn 308. Quân ta đang thắng lớn trên chiến trường phía Tây Bắc, bộ chỉ huy địch cho một binh đoàn tinh nhuệ nhảy dù xuống Đoan Hùng giáp ranh hai tỉnh Tuyên Quang và Phú Thọ nhằm đánh vào hậu phương ta để đỡ đòn cho hướng Tây Bắc. Trung đoàn 36 được lệnh cấp tốc quay về đánh địch rút lui từ Đoan Hùng về Việt Trì (Phú Thọ) giành thắng lợi lớn tiêu diệt trên bốn trăm tên và nhiều xe cơ giới.
    Trên đường truy kích địch tháo chạy theo đường số 2, đoạn cầu Hai-Trạm Thản, Sơn Mã đang hăng say dẫn đầu một bộ phận Trung đoàn 84 đánh địch, thì bất ngờ bị trúng đạn vào đầu tại Trạm Thản và hy sinh khi trận đánh sắp kết thúc vào lúc 5 giờ 30 chiều ngày 17 tháng 11 năm 1952. Sơn Mã là một cán bộ chỉ huy tiểu đoàn được đánh giá xuất sắc. Khi chú ấy ngã xuống, cả tiểu đoàn đều khóc. Hơn mười ngày sau, lúc chuẩn bị đánh trung tâm Nà Sản ở Sơn La tôi mới hay tin. Đau lòng lắm anh ạ! Hai anh em ruột từ miền Trung xa xôi ra Việt Bắc chiến đấu, giờ chỉ còn lại mình tôi?
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Thiếu tướng, nghe nói sau đó Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp có viết thư chia buồn và Hồ Chủ tịch gửi tặng Thiếu tướng một tấm áo lụa.
    -Đúng vậy. Tôi hết sức bất ngờ và cảm động. Tôi không nghĩ anh Văn-người anh cả và Bác Hồ-người cha của các lực lượng vũ trang, đã quan tâm đến cán bộ và chiến sĩ như vậy. Lúc đó là đầu tháng 12 năm 1952, tôi vừa bị thương trong trận tấn công cứ điểm Bản Vây của địch, một điểm cao nằm khống chế phía tây trung tâm Nà Sản. Được đưa về điều trị tại bệnh viện dã chiến gần thị xã Hòa Bình, khoảng mười ngày sau, tôi nhận được thư anh Văn cùng thiệp chúc mừng năm mới của Bác Hồ kèm theo một chiếc áo lụa. Tôi nhớ thư anh Văn thế này: ?oLúc đầu tôi được tin Sơn Mã và Sơn Mã đềy hy sinh nên rất buồn, nhưng sau được biết Dũng Mã chỉ bị thương nên viết thư thăm và chia buồn. Cậu tranh thủ viết kinh nghiệm về trận đánh vừa qua. Bác có quà gửi tặng cậu đây??.
    (Thiếu tướng Dũng Mã lật cuốn album lưu niệm lấy ra tấm thiệp). Đây là tấm thiệp chúc Tết Quý Tỵ-1953 của Bác Hồ gửi tôi. Tự tay Bác viết mấy dòng bằng mực đỏ: ?oBác gửi biếu chú 1 cái áo lụa và chúc chú mau lành mạnh. Nhờ chú chuyển cho anh em thương binh, bệnh binh, cán bộ và nhân viên ở nhà thương-lời thân ái chúc năm mới của Bác?. Tôi cũng nhớ trên ngực chiếc áo lụa Bác tặng có thêu dòng chữ màu xanh ?oHội Liên hiệp Phụ nữ Hà Đông kính tặng?. Rất tiếc, thời chống Mỹ tôi sang Lào, gia đình tôi ở Hà Nội do đi sơ tán, chiếc áo lụa quí giá đó đã bị thất lạc.
    -Vậy tấm hình Thiếu tướng chụp chung với Hồ Chủ tịch và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, treo trên vách tường kia, có xuất xứ từ đâu?
    -À, đó là vào cuối năm 1950. Lúc bế mạc hội nghị tổng kết Chiến dịch Biên Giới tại khu rừng núi đá gần phía nam thị xã Cao Bằng, nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An đến bảo tôi: ?oTheo đề nghị của anh Văn, Bác cho gọi ba cậu Dũng đến gặp Bác tại nhà riêng?. Nghe vậy, tôi phấn khởi thu xếp đi ngay. ?oBa cậu Dũng? là Thái Dũng-trung đoàn trưởng Trung đoàn 88, Thế Dũng-chính trị viên Trung đoàn 102, và tôi-Dũng Mã, tiểu đoàn trưởng Trung đoàn 11-Phủ Thông. tất cả đều thuộc Đại đoàn 308.
    ?oNhà riêng? của Bác thật ra là một cái lán nhỏ ở cửa hang núi đá Lam Sơn. Anh Thái Dũng và tôi đến trước. Sau khi nghe báo cáo của chúng tôi, Bác gật đầu khen ngợi ?oHai Dũng đánh giặc giỏi, tên xứng với người?. Rồi Bác ân cần căn dặn ?oDũng cảm nhưng cần phải mưu trí nữa?. Chúng tôi lắng nghe Bác nói mà vô cùng xúc động. Suốt đời binh lửa, tôi nhớ mãi lời dặn của Người!...
    Thấy cánh tay phải của Thái Dũng bị cụt bàn tay, bác hết sức xúc động. Người hỏi: ?oChú có gặp khó khăn lắm trong sinh hoạt và chiến đấu không??. Anh Thái Dũng thưa: ?oThưa Bác, dần dần cháu cũng quen. Chỉ có trèo cây và leo núi đá là khó thôi ạ!?. Bốn bác cháu cùng cười vui vẻ. Chờ mãi mà không thấy Thế Dũng đến, anh Vũ Năng An sợ trời hết nắng, mới xin phép Bác cho chụp một vài bức ảnh kỷ niệm nhân buổi gặp thân mật. Bức ảnh trên vách tường kia là do Viện Bảo tàng Quân đội tặng tôi sau ngày đất nước thống nhất.
    -Về cánh tay phải bị cụt của ông Thái Dũng, nghe kể do quân Pháp tập kích bất ngờ vào một đêm năm 1948, vừa lao ra khỏi cửa, ông đã bị một loạt đạn của địch băm nát bàn tay. Dù vậy, Thái Dũng vẫn cố nén nỗi đau, tiếp tục chỉ huy bộ đội đẩy lùi quân địch. Có đúng không, thưa Thiếu tướng?
    -Về chuyện của anh Thái Dũng tôi cũng chỉ nghe kể lại. Vì hai chúng tôi ở hai đơn vị khác nhau, lúc đó chưa thành lập Đại đoàn 308.
    -Hai ông Thái Dũng và Thế Dũng bây giờ ở đâu?
    -Anh Thế Dũng về sau chuyển ngành ra ngoài. Còn anh Thái Dũng, thời chống Mỹ từng làm sư đoàn trưởng chiến đấu ở mặt trận Trị Thiên và Đường 9-Nam Lào. Anh Thái Dũng được thăng quân hàm Thiếu tướng và qua đời năm 1993 do bệnh tim.
    -Ngoài kỷ niệm lần đầu được gặp Hồ Chủ tịch trên đây, về sau Thiếu tướng còn có dịp gặp lại lãnh tụ?
    -Tôi được gặp Bác ba lần, ngoài những lần được đón Bác đến thăm đơn vị hay lớp tập huấn. Nhưng lần làm tôi xúc động nhất là khi tôi được túc trực bên linh cữu của Bác quàng tại Hội trường Ba Đình đêm mùng 5 tháng 9 năm 1969. Đêm hôm ấy, tôi được phân công cùng ba đồng chí trực hai phiên, mỗi phiên ba mươi phút; tuy luôn ở tư thế đứng nghiêm nhưng tôi không kìm được tiếng nấc và nước mắt ràn rụa. đầu óc tôi luôn hiện lại những hình ảnh kính yêu và những lời dạy bảo ân cần của Bác, tôi thầm hứa sẽ cố gắng làm theo lời Bác suốt đời.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Những kỷ niệm về Hồ Chủ tịch, về đồng đội là thế, còn kỷ niệm về thời thơ ấu của mình, Thiếu tướng còn nhớ những gì?
    -Cha tôi quê ở xã Điện Tiến, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nhưng ông lấy vợ và ở rể tại nhà ông bà ngoại (không có con trai) thuộc xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, anh chị em chúng tôi đều sinh ra và lớn lên ở quê mẹ. Nhà tôi tạm đủ ăn, nhưng thường xuyên phải ăn cơm độn khoai sắn, trừ những ngày mùa. Cha tôi là một nông dân rất hiếu học nhưng lại không có điều kiện đi học đến nơi đến chốn. Ông tự học chữ Nho và chữ quốc ngữ, viết được văn tự, giúp bà con trong làng khi có việc. Ông là người nghiêm khắc, còn mẹ tôi là một phụ nữ chân quê, hiền lành, hết lòng vì chồng con.
    Nhà tôi đông anh chị em, ba gái bảy trai. Cha tôi bảo rằng do không có điều kiện nên chỉ đứa nào lanh lợi, tiếp thu nhanh, sức khỏe tốt mới được học lên cao. Tôi học hết cấp hai thì đậu diplôme, đang học tiếp cấp ba thì thi đỗ vào Trường Cao đẳng Công chính Hà Nội. Nếu không vào bộ đội, thì sau bốn năm tôi sẽ tốt nghiệp kỹ sư xây dựng.
    -Trong đời binh nghiệp, những nhiệm vụ chính nào Thiếu tướng được giao?
    -Thời chống Pháp, sau khi tốt nghiệp Trường Quân chính Bắc Sơn, tôi làm thư ký riêng cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp gần hai năm, rồi ra chiến đấu ở Đại đoàn 308 và Đại đoàn 312, tham gia nhiều chiến dịch lớn trên chiến trường Bắc Bộ. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi là trung đoàn trưởng-đặc phái viên tác chiến của Bộ chỉ huy chiến dịch. Về Hà Nội, tôi được phân công làm trưởng khoa chiến thuật Trường Trung Cao Quân sự (tiền thân của Học viện Lục quân ngày nay). Sau đó, tôi làm tham mưu trưởng Quân khu Đông Bắc, rồi tham mưu trưởng Hải quân Đông Bắc. Năm 1970, tôi sang Lào làm phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Mặt trận 31 Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng phối hợp tác chiến với bộ đội Pathét Lào.
    Đối tượng tác chiến chính trên chiến trường Lào bấy giờ là lực lượng đặc biệt của tướng phỉ Vàng Pao và quân chính Quân uỷ Thái Lan với sự yểm trợ về không quân, hậu cần của Mỹ. Cuối năm 1973 tôi bị thương khá nặng tại sở chỉ huy tiền phương đặt ở sườn núi Phu-Húa-Sạn (điểm cao 1830 mét), trong lúc trực tiếp chỉ huy cuộc đánh trả cuộc tiến công lấn chiếm của địch ra phía nam Cánh đồng Chum. Tôi được đưa về Hà Nội rồi sang Moskva điều trị gần một năm, nên rất tiếc không được tham gia đợt Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giải phóng miền Nam.
    Sau khi bình phục, tôi được chuyển về công tác ở Bộ Tổng tham mưu. Đến cuối năm 1977, tôi được điều về làm chủ nhiệm Khoa lịch sử quân sự, rồi Cục trưởng Cục Kế hoạch huấn luyện của Học viện Quân sự cao cấp (nay là Học viện Quốc phòng) do Thượng tướng Hoàng Minh Thảo làm giám đốc. Đến cuối năm 1989 thì về hưu.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Trên chiến trường, chuyện thắng bại là lẽ đương nhiên. Trong quá trình cầm quân, có khi nào Thiếu tướng không hoàn thành ?sứ mạng? được giao không?
    -Có vài lần, kể cả trong chính phủ lẫn chống Mỹ. Chẳng hạn như trận đánh cao điểm Khâu Luông trong Chiến dịch Biên Giới năm 1950. Sau khi Đông Khê bị ta tiêu diệt, địch cho một binh đoàn từ Lạng Sơn lên nhằm chiếm lại Đông Khê để đón binh đoàn từ Cao Bằng rút về. Binh đoàn phía nam do tên quan năm Lepage chỉ huy đã bị ta đánh chặn ở phía nam Đông Khê, buộc chúng phải dừng lại và chiếm lĩnh một số điểm cao phía bắc đường số 4, trong đó có Khâu Luông, do một tiểu đoàn Âu Phi phòng ngự. Lúc đó, tiểu đoàn của tôi phối thuộc cho Trung đoàn 36, trong đó có Trung đoàn 84 của Sơn Mã được phân công đánh điểm cao này.
    Từ 3 giờ chiều đến tối vẫn không giải quyết được như kế hoạch. Một số chiến sĩ bị thương vong. Cấp trên hạ lệnh cho đơn vị củng cố lực lượng, bám chắc địch, chuẩn bị 4 giờ sáng hôm sau tiếp tục tấn công. Mờ sáng hôm sau, chúng tôi xung phong lên mới biết mình bị địch đánh lừa: toàn bộ tiểu đoàn địch đóng ở đây đã bí mật rút hết về phía tây nam đường số 4, chỉ để lại xác chết, thương binh nặng và một tổ bắn súng nghi binh.
    Tôi đang hỏi cung tù binh thì Sơn Mã chạy tới: ?oAnh Bảy ơi, chúng mình bị đánh lừa, bây giờ làm thế nào??. Tôi bảo: ?oĐể địch chạy là phải đuổi, đuổi đến cùng?. Ngày chiều tối hôm đó, các đơn vị bộ đội đã đuổi kịp và bao vây chúng ở núi đá Cốc Xá, chúng tôi lại suốt đêm đến sáng phối hợp chiến đấu cùng đơn vị bạn, tiêu diệt và bắt gọn một binh đoàn địch, trong đó có Đại tá Lepage.
    -Ranh giới giữa sống và chết, chiến thắng và thất bại ở trên chiến trường nhiều khi rất mong manh. Sau mỗi trận đánh hay chiến dịch, Thiếu tướng thường có tâm trạng như thế nào?
    -Khi chiến thắng, dù chiến thắng giòn giã đến đâu vẫn có ít nhiều thương vong. Do đó, tôi thường cảm thấy lẫn lộn vui buồn, nhất là thương tiếc khôn nguôi nhưng đồng đội không còn nữa. Còn khi không hoàn thành nhiệm vụ thì càng buồn và ân hận, càng thấy rõ trách nhiệm của người chỉ huy hơn. Dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn xác định ?thắng không kiêu, bại không nản?.
    -Ngoài những kỷ niệm kể trên, Thiếu tướng còn những kỷ niệm nào đáng nhớ trong những ngày trực tiếp cầm súng?
    -Kỷ niệm thì nhiều, làm sao kể hết. Tôi luôn nhớ về những ngày còn chg ở Tiểu đoàn Phủ Thông còn thiếu kinh nghiệm nhưng thừa khí thế. Những đồng đội sát cánh bên nhau lúc đó gồm tôi-tiểu đoàn trưởng, Đào Đình Luyện-chính trị viên, Hồ Quang Hòa-tiểu đoàn phó, bây giờ đều là cấp tướng. Riêng anh Đào Đình Luyện đã trải qua các cương vị trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân đầu tiên, tư lệnh Quân chủng Không quân, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, quân hàm cao nhất là Thượng tướng.
    Bên cạnh đó, tôi còn có những kỷ niệm đẹp như khi gặp Nguyên soái Chu Đức bên Trung Quốc, hay Chủ tịch Suphanuvong bên Lào. Tháng 9 năm 1951, tôi vinh dự là đại biểu quân đội tham gia đoàn ?oPhỏng vấn Hữu nghị Việt-Trung-Triều: gồm trên mười người, đủ thành phần, đã đi thăm hai nước bạn.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thiếu tướng có thể kể chi tiết về đoàn ?oPhỏng vấn Hữu nghị Việt-Trung-Triều?.
    -Đầu năm 1951, cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiếp tục thu được nhiều thắng lợi, có tác dụng phối hợp với nhân dân Triều Tiên kháng chiến chống đế quốc Mỹ và bọn chư hầu xâm lược. Tháng Chín năm ấy, Ban Thường vụ Trung ương Đảng tổ chức một đoàn ?ophỏng vấn? nhằm mục đích cổ vũ và thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước anh em chống kẻ thù chung là hai đế quốc Pháp và Mỹ. Đoàn gồm trên mười người, có đại biểu công, nông, binh, trí thức, thanh niên, phụ nữ, tôn giáo? do Bác Tôn Đức Thắng rồi đến Bác Hoàng Quốc Việt dẫn đầu.
    Một buổi chiều, trời mưa dầm trong một gian nhà lá ở Tân Trào, trong khi mọi người đang nhộn nhịp chuẩn bị hành lý thì được báo tin Bác Hồ đến thăm. Cả đoàn rất vui mừng, xúc động đón bác và nghe Bác căn dặn. Bác nói cụ thể thêm nhiệm vụ của đoàn, chúc đoàn giữ gìn sức khỏe và gắng sức hoàn thành tốt đẹp sứ mệnh được giao.
    Trong thời gian ba tháng, đoàn đã thăm Bắc Kinh, Bình Nhưỡng và trên mười thành phố ở Trung Quốc và Triều Tiên, một quân đoàn Chí nguyện quân Trung Quốc và một quân đoàn của Quân đội nhân dân Triều Tiên. Tất cả những nơi đoàn đến được đón tiếp nồng nhiệt, đều có tổ chức mít tinh để nghe nói chuyện về tình hình kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ nhằm động viên cổ vũ lấn nhau. Nhân dân Trung Quốc đang xây dựng hòa bình, đồng thời sôi sục vận động ?oKháng Mỹ viện Triều?. Ở Triều Tiên, cuộc chiến tranh đang diễn ra rất ác liệt ở nam bắc vĩ tuyến 38 và cả ở hậu phương. Thủ đô Bình Nhưỡng gần như bị phá trụi. Các cuộc mít tinh đều tổ chức vào ban đêm ở các hội trường ngầm dưới đất an toàn, cũng có cái chứa được hai-ba trăm người.
    Cuộc viếng thăm hữu nghị của đoàn đã thực hiện được nhiệm vụ Bác Hồ giao và góp phần làm tăng cường tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân ba nước anh em trong giai đoạn lịch sử đó.
    -Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Thiếu tướng từng có dịp tiếp xúc và gần gũi với nhiều cán bộ quân đội cao cấp, vậy trong lòng Thiếu tướng, những vị tướng Việt Nam nào thật sự đem lại cho Thiếu tướng sự mến phục?
    -Tôi chỉ xin nêu một số vị tướng mà tôi được gần gũi nhất, hiểu biết nhất. Trước tiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp mà tôi quen gọi thân mật là anh Văn. Như trên đã nói, tôi từng làm thư ký riêng cho ảnh trong năm 1948 vừa nửa năm 1949. Ảnh rất mê mải công việc, đúng là có khi quên ăn quên ngủ, có khi làm việc gần suốt đêm chợp mắt một vài tiếng, dậy ăn điểm tâm qua loa rồi lên ngựa đi công tác luôn. Anh sống chan hòa với cán bộ và chiến sĩ xung quanh; đặc biệt rất chặt chẽ khi viết hoặc thông qua các mệnh lệnh, chỉ thị, các tài liệu,? Tôi nghĩ rằng nhân dân, quân đội ta rất tự hào về một Đại tướng Tổng Tư lệnh đức độ, tài năng kiệt xuất mà lại rất gần gũi. Mỗi lần tôi có dịp đến thăm Đại tướng tại nhà riêng thì anh Văn và chị Hà (vợ Đại tướng) đón tiếp và trò chuyện như người thân trong gia đình.
    -Vâng, ngay chính đối thủ, Thống tướng Westmoreland của Mỹ cũng từng thán phục rằng mọi đức tính tạo thành một thống soái quân sự lớn đều có ở tướng Giáp! Ngoài Đại tướng Võ Nguyên Giáp thì Thiếu tướng còn thân thiết với ai?
    -Với Đại tướng Lê Trọng Tấn, tôi đã từng chiến đấu và công tác dưới quyền chỉ huy của anh từ ngày đầu thành lập Đại đoàn 312 (ngày 27 tháng 12 năm 1950), được cùng Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn tham gia các chiến dịch Trung Du, đường số 18, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào? Trong thời gian tôi công tác ở Bộ tư lệnh Mặt trận 31 Cánh đồng Chum-Xiêng Khoảng, khi mở chiến dịch tiến công lớn cuối năm 1971 đến đầu năm 1972 thì anh Lê Trọng Tấn trên cương vị là phó tổng tham mưu trưởng đi sát giúp đỡ Bộ tư lệnh mặt trận triển khai chiến dịch thu được thắng lợi giòn giã. Anh Lê Trọng Tấn là một vị chỉ huy sắc sảo, cương quyết, nhưng cũng rất gần gũi, thường được cấp trên phái đến những chiến trường nóng bỏng, khó khăn và thực sự đã làm cho cục diện chuyển biến thuận lợi.
    -Thế còn Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, người mà Thiếu tướng cũng từng gắn bó rất lâu?
    -Thượng tướng Hoàng Minh Thảo đã từng là đại đoàn trưởng, quân khu trưởng, tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, giám đốc Trường Quân sự trung cao cấp (sau khi tiếp quản Thủ đô), giám đốc Học viện Quân sự cấp cao? được phong Giáo sư-Nhà giáo nhân dân. Anh Hoàng Minh Thảo là một nhà quân sự có tài đồng thời cũng là một nhà chính trị vững vàng rất được cán bộ, chiến sĩ thương yêu. Tôi được công tác dưới quyền anh Hoàng Minh Thảo khoảng mười năm tại Trường Quân sự trung cao câp và Học viện Quân sự cấp cao luôn có tình cảm sâu sắc với anh. Khi nhà tôi mất ở Thành phố Hồ Chí Minh, anh Thảo cũng vào thắp hương và chia buồn với gia đình tôi.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Thiếu tướng, bà nhà?
    -Bà nhà tôi mất vì bệnh ung thư, lúc còn đang dạy học tại Học viện Quân y ở Hà Đông. Sau khi nhà tôi được đưa vào Viện quân y 108 ở Hà Nội điều trị, tôi xin đưa vào Viện Quân y 175 ở Thành phố Hồ Chí Minh cho gần chồng con, nhưng cũng không qua được.
    -Thời trẻ, Thiếu tướng mải xông pha trận mạc, vậy làm sao gặp được bà?
    -Một sự tình cờ. Nhà tôi quê gốc Hà Đông, sinh sống ở Bắc Ninh, xung phong vào bộ đội từ năm mười sáu tuổi. Năm 1949, tôi đi thăm một người bạn nằm ở bệnh viện dã chiến. Qua giới thiệu, tôi làm quen với cô gái tên Dương Trâm Anh, nhỏ hơn tôi tới mười tuổi. Vừa gặp nhau, tôi có cảm tình ngay và linh cảm rằng? (cười).
    Trở về đơn vị, chúng tôi thường xuyên thư từ cho nhau và sau mỗi chiến dịch tôi tranh thủ về thăm. Đến đầu năm 1953, chúng tôi được đơn vị cô ấy tuyên bố lễ cưới. Nói là lễ cưới nhưng đơn giản thôi: trong đêm văn nghệ quần chúng ở bệnh viện, chúng tôi ra mắt, rồi về dự bữa cơm thân mật với ban chỉ huy. Nhà tôi vừa làm y tá, vừa tự học, thi vào Đại học y khoa, tốt nghiệp rồi học tiếp ở Học viện Quân y. Năm 1970, cô ấy sang Hungary tu nghiệp ba năm chương trình sau đại học.
    -Theo Thiếu tướng, tình vợ chồng có vai trò thế nào trong sự nghiệp mỗi con người?
    -Tình vợ cồng là hậu phương vững chắc, có khi ảnh hưởng lớn đến sự thành bại cả đời người. Tôi may mắn có được một người vợ hết mực chung thủy, có nghị lực trong học tập, công tác và đời sống, gia đình, biết cách dạy dỗ con cái nên người, là nguồn động viên lớn đối với tôi trên chiến trường và những ngày xa nhà. Nhà tôi từng là phó chủ nhiệm Khoa Sinh lý và ủy viên Đảng ủy Học viện Quân y. Năm 1988, nhà tôi được phong quân hàm Đại tá. Chúng tôi có hai đứa con cũng đề đi bộ đội. Đứa lớn chiến đấu ở Lào thời đánh Mỹ, cuối năm 1975 xuất ngũ thi vào Đại học Bách khoa Hà Nội, nay là kỹ sư công tác ở Tổng công ty Cáp điện (CADIVI). Đứa nhỏ hiện là trung tá không quân đóng ở sân bay Tân Sơn Nhất.
    -Lần đầu tiên Thiếu tướng đặt chân đến Sài Gòn lúc nào? Vì sao cuối đời Thiếu tướng lại rời Hà Nội vào sống ở thành phố này?
    -Vào giữa tháng 8 năm 1975, tôi được tháp tùng Đại tướng Hoàng Văn Thái, thứ trưởng Bộ Quốc phòng đi vào miền Nam để nắm tình hình các cơ sở và công trình quốc phòng, mà trọng điểm là khu vực Sài Gòn. Đấy là lần đầu tiên trong đời tôi đặt chân đến thành phố này. Sau đó mấy năm, hai con trai tôi lần lượt được điều vào công tác ở Thành phố Hồ Chí Minh; nhà tôi cũng đã hai lần vào giảng dạy ở cơ sở 2 (nay là Bệnh viện nhân dân 115) của Học viện Quân y. Vì vậy, cuối năm 1989, sau khi nghỉ hưu, chúng tôi xin vào Thành phố Hồ Chí Minh thường trú để sum họp gia đình. Thành phố này đúng là một nơi ?ođất lành chim đậu? như ông bà ta từng nói.
    -Cuộc sống hiện nay của Thiếu tướng ra sao?
    -Bình thường và thoải mái. Tôi được anh em cử tham gia lãnh đạo Hội Cựu chiến binh quận Thủ Đức, cố gắng đóng góp phần tâm lực còn lại của mình cho đồng đội, cho xã hội. Đấy là trách nhiệm cũng là nguồn vui quí báu. Nhờ thường xuyên tập thể dục và chơi thể thao, nhất là môn bóng bàn nên tôi mới giữ được sức khỏe khá tốt thế này.
    -Nếu được trở lại thời trai trẻ giữa lúc đất nước được thanh bình, Thiếu tướng sẽ làm gì?
    -Tôi sẽ đi vào ngành giao thông, xây dựng cầu đường, đó là mơ ước của tôi khi còn ngồi trên ghế nhà trường cách đây năm mươi năm.
    Kim đồng hồ chỉ 11g30. Thiếu tướng Dũng Mã dứt khoát mời chúng tôi ở lại dùng cơm. Ông hướng dẫn chúng tôi tham quan mảnh vườn tươi xanh hoa trái, cây kiển, ở một góc có một khu cầu môn bóng đá mà ông cùng đứa cháu trai hay chơi. Còn sau nhà là phòng bóng bàn. Ông khoe mấy năm liền mình đã đoạt giải bóng bàn quận Thủ Đức dành cho người cao tuổi.
    Qua chuyện trò, chúng tôi còn được biết, được sự giới thiệu của ông anh ruột và các cháu ở Nha Trang, Thiếu tướng đã quen với cô giáo Nguyễn Thị Chín. Nhờ sự động viên của hai người con trai mong tìm cho cha ?ođiểm tựa? trong tuổi gìa, tướng Dũng Mã và cô giáo Nguyễn Thị Chín đã đi đến thành hôn. Ông đưa bà từ Nha Trang vào Thành phố Hồ Chí Minh chung sống cách đây vài năm. Tướng Dũng Mã nở nụ cười hạnh phúc: ?oNăm ngoái tôi có đưa nhà tôi ra Hà Nội vào viếng lăng Bác, thăm đền Hùng, Tân Trào rồi lên nghĩa trang Trạm Thản-Phú Thọ thắp hương cho các đồng đội và chú Sơn Mã?. Vâng, dưới suối vàng người em Sơn Mã và các đồng đội hẳn cũng chúc mừng niềm hạnh phúc muộn màng của thiếu tướng!
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên
    Trong lễ tưởng niệm mười năm ngày mất của Thượng tướng Đinh Đức Thiện tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10 tháng 1 năm 1997, Đại tướng Võ Nguyên Giáp xúc động nói: ?oĐồng chí Đinh Đức Thiện và đồng chí Đồng Sĩ Nguyên có công lớn trong việc xây dựng tuyến đường Trường Sơn 559, xây dựng hệ thống giao thông vận tải lớn từ hậu phương miền Bắc đến các chiến trường, trong đó có tuyến đường ống dẫn xăng dầu, nhằm bảo đảm chi viện cho miền Nam, tạo cơ sở hạ tầng cho cơ động lực lượng và vận chuyển lớn, phục vụ đắc lực cho thời cơ chiến lược, nhất là cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975?. Và ở những năm cuối thế kỷ XX này, khi tướng Đinh Đức Thiện đã mãi mãi ra đi thì thật may mắn, người đồng đội chí thiết-tướng Đồng Sĩ Nguyên, vị tư lệnh lừng danh Trường Sơn năm xưa, vẫn còn đồng hành với thế hệ hôm nay, với Quốc lộ Hồ Chí Minh, trở thành trục đường bộ xuyên Việt thứ hai trong tương lai của đất nước?
    -Thành phố Hồ Chí Minh với tôi có nhiều kỷ niệm lắm! Mỗi lần đặt chân đến thành phố này là tôi nhớ tới anh Đinh Đức Thiện, một nhà chiến lược tài ba, cấp trên trực tiếp của tôi trong chiến tranh. Sau ngày giải phóng Sài Gòn 30 tháng 4 năm 1975 một tuần, vào ngày 8 tháng 5 năm 1975, anh Thiện triệu tập tôi đến bàn ngay kế hoạch xây dựng kinh tế Tây Nguyên để đệ trình lên Chính phủ, mà lực lượng nòng cốt là bộ đội Trường Sơn.
    Kế đó, anh Thiện chỉ đạo lên phương án tiềm kiếm dầu khí ở đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Đó cũng chính là nền tảng đầu tiên để liên danh với Liên Xô xây dựng ngành dầu khí Việt Nam. Nghĩa là, giống như sau chiến thắng Điện Biên Phủ được Đảng và Nhà nước tin cậy giao xây dựng Khu Công nghiệp gang thép Thái Nguyên có qui mô lớn nhất nước bấy giờ, anh Đinh Đức Thiện đã lao ngay vào những công việc tầm cỡ quốc gia ngay sau khi giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước!
    Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên đã mở đầu câu chuyện một cách nồng nhiệt, thân tình khi tôi cùng đồng nghiệp Hoàng Ngọc Châu tìm đến nhà riêng của ông ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm vào một chiều thu Hà Nội.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thân hình vạm vỡ. Cử chỉ hoạt bát. Phong cách giản dị, thâm trầm. Thời gian như có vẻ chùn bước trước sức khỏe lẫn dáng dấp oai phong của một người lính dạn dày trận mạc, một nhà lãnh đạo giàu bản lĩnh kinh nghiệm nay đang ở giữa tuổi thất tuần.
    Quê xã Quảng Trung, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, Đồng Sĩ Nguyên cất tiếng khóc chào đời ngày 1 tháng 3 năm 1923. Sáu tuổi bắt đầu đến trường. Bảy tuổi học chữ Hán. Rồi học chữ quốc ngũ hết bậc tiểu học ở trường huyện, lên tỉnh học trung học tư thục. Cũng từ đó ông bắt đầu tham gia cách mạng. Đang học năm thứ ba Thành chung Trường Saint Marie ở thị xã Đồng Hới, Đồng Sĩ Nguyên được Xứ ủy Trung Kỳ cho thoát ly sang Thái Lan tránh khủng bố khi bị truy nã gắt gao và tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước Thái-Lào. Cuối năm 1944 phát xít Nhật tấn công quân Pháp ở Đông Dương. Ông bí mật trở về quê hương, củng cố Phủ ủy ở Quảng Trạch, làm chủ nhiệm báo Hồng Lạc, trực tiếp đàm phán với chỉ huy tàn quân Pháp để phối hợp đánh Nhật, rồi phụ trách chiến khu Trung Thuần, huấn luyện tự vệ cứu quốc địa phương chuẩn bị tổng khởi nghĩa.
    Cách mạng tháng Tám thành công, Đồng Sĩ Nguyên làm chủ nhiệm ********* tỉnh, chỉ huy bộ đội địa phương. Ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I. Chính thời điểm này trong một lần tiếp xúc với cử tri, ?oông Nghị? trẻ Đồng Sĩ Nguyên gặp Nguyễn Thị Ngọc Lan, một cô gái duyên dáng xinh đẹp, con của một nhân sĩ yêu nước, về sau trở thành bạn đời chung thủy của ông. Bà Ngọc Lan năm lần ?ovượt cạn? hạ sinh sáu người con, bốn trai hai gái. Các con ông cũng lần lượt tiếp bước cha ra trận. Trong đó, có một người con trai khi tham gia giải phóng Sài Gòn năm 1975, ra chiến đấu ở biên giới phía Bắc đã vĩnh viễn ngã xuống năm 1979.
    Năm 1948-1949, Đồng Sĩ Nguyên được phân công làm chính trị viên kiêm tỉnh đội trưởng Quảng Bình. Cuộc đời chàng học sinh nghèo yêu nước Quảng Trạch năm xưa đã thực sự gắn liền với con đường binh nghiệp, với những bước thăng trầm của hai cuộc chiến tranh vệ quốc. Trải bao cuộc trường chinh vào sinh ra tử, từ người chiến sĩ vệ quốc Đồng Sĩ Nguyên đã trở thành danh tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, đứng đầu Bộ tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn 559, trực tiếp chỉ huy tuyến đường Hồ Chí Minh huyền thoại mà giới truyền thông phương Tây gọi là ?otrận đồ bát quái xuyên rừng rậm? trong chống Mỹ. Cùng với các bậc tiền bối Trần Đăng Ninh, Đinh Đức Thiện, Phan Trọng Tuệ? Đồng Sĩ Nguyên được xem là tướng chỉ huy hậu cần chiến lược tài ba hàng đầu, lập nhiều công trạng.
    Đất nước im tiếng súng. Hai mươi tám vạn quân từ chiến trường lửa đạn tiến hẳn sang chiến trường kinh tế góp phần khắc phục hậu quả chiến tranh. Tướng Đồng Sĩ Nguyên cũng chuyển sang mặt trận mới, giữ chức thứ trưởng Bộ Quốc phòng phụ trách Tổng cục Xây dựng kinh tế, rồi Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Chiến tranh biên giới phía Bắc xảy ra năm 1979, ông được điều khẩn cấp trở lại quân đội làm tư lệnh kiêm chính uỷ Quân khu Thủ đô.
    Đồng Sĩ Nguyên được bầu làm ủy viên chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV, ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị khóa V, ủy viên Bộ Chính trị khóa VI và là phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải. Trên cương vị này, Đồng Sĩ Nguyên trực tiếp chỉ đạo xây dựng các công trình: nhiệt điện Phả Lại, thủy điện Hòa Bình, thủy điện Trị An, cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, cầu Bến Thủy, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn, giấy Bãi Bằng, Kiên Lương, kính Đáp Cầu, dầu khí Vũng Tàu, Viện bảo tàng Hồ Chí Minh, mở rộng năm cửa ô Thủ đô Hà Nội? Cho đến khi thôi giữ chức Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ông vẫn được tin cẩn giao làm đặc phái viên Chính phủ phụ trách Chương trình 327 về bảo vệ và phát triển rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ dạo Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quốc lộ Hồ Chí Minh.
  10. donghailongvuong

    donghailongvuong Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/08/2005
    Bài viết:
    1.547
    Đã được thích:
    1
    Trung tướng Lê Thuỳ (Lê Văn Lộc : 1922-1999)      Tư lệnh quân khu Tây Bắc (1970-1974). Dân tộc Tày, quê xã Dân Chủ, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng; tham gia cách mạng năm 1940, nhập ngũ tháng 3-1945, trung tướng 1986, đảng viên ĐCS VN (1945). Năm 1940-44 hoạt động xây dựng cơ sở cách mạng ở Bắc Kạn, Tuyên Quang, Yên Bái. Năm 1945 chính trị viên giải phóng quân ở Chiêm Hoá. Năm 1946-54 trung đoàn trưởng và chính uỷ trung đoàn một số đơn vị. Năm 1956-66 sư đoàn trưởng sư đoàn 335 và 316, tham mưu trưởng quân khu Tây Bắc. Năm 1967-74 phó tư lệnh, tư lệnh quân khu Tây Bắc. Tháng 6/1974 đến 78 phó tư lệnh quân khu Việt Bắc. Năm 1976 phó tư lệnh quân khu 1. Năm 1978 phó tư lệnh quân khu .Huân chương : Độc lập hạng nhất, Quân công (1 hạng nhất, 2 hạng ba).....------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Ngoài lề : phần mộ của Trung tướng nằm trong nghĩa trang Mai Dịch - Hà Nội, các con cháu và vợ sống tại khu tập thể Nam Đồng - Hà Nội

Chia sẻ trang này