1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Vì sao từ chỉ huy quân sự Đồng Sĩ Nguyên lại chuyển sang phụ trách công tác hậu cần? Ân cần rót nước suối mời chúng tôi, vị tướng cho biết:
    -Trong những ngày diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi đang là phái viên của Tổng cục Chính trị được Bộ Tổng tư lệnh cử tham gia Bộ tư lệnh cánh phối hợp Trung-Hạ Lào. Sau Hiệp định Genève, tôi về Bộ Tổng tham mưu phụ trách Cục Động viên dân quân. Năm 1964, sau ba năm học tập tốt nghiệp Học viện Cao cấp Quân sự Bắc Kinh, về nước tôi được đề bạt làm Tổng tham mưu phó Bộ Tổng tham mưu. Năm 1965, tôi được điều vào làm chính uỷ, bí thư Quân khu 4 và tư lệnh kiêm chính uỷ Bộ đội tình nguyện Trung-Hà Lào. Trong một trận chiến đấu tôi bị thương.
    Về Hà Nội điều trị lành bệnh, tôi được điều sang làm phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần tiền phương năm 1966. Sở chỉ huy Tổng cục Hậu cần tiền phương đóng tại xã Hương Đô, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh vốn ngày xưa là căn cứ địa của cụ Phan Đình Phùng. Một nhiệm vụ rất mới mẻ. Tôi trực tiếp lo tổ chức thực hiện việc chi viện cho các chiến trường ta và hai nước bạn Lào, Campuchia ở phạm vi Nam Đông Dương.
    -Việc phụ trách hậu cần tiền phương phải chăng là bước chuẩn bị cho nhiệm vụ chỉ huy tuyến đường Hồ Chí Minh mà Trung tướng được đề bạt sau đó, thưa Trung tướng?
    -Trách nhiệm ấy do Quân uỷ Trung ương quyết định. Là người lính, tôi luôn cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó. Một năm chỉ huy vận tải ở tuyến lửa Nam Khu 4 đối với tôi là một năm thực tập bổ ích, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quí báu. Từ tháng 8 đến tháng 12 năm 1966, Tổng cục Hậu cần tiền phương với lực lượng 750 xe vận tải, 5 tiểu đoàn của bốn binh trạm, đã lập được chân hàng ở các cửa khẩu tuyến đường 559 đạt tới 75% kế hoạch cả năm, trong bối cảnh máy bay Mỹ đánh phá ngăn chặn ác liệt.
    -Hình như trong chiến tranh chống Mỹ, Trung tướng là một trong hai sĩ quan cao cấp vinh dự được thăng quân hàm vượt cấp từ Đại tá lên thẳng Trung tướng?
    -Vâng, tôi với anh Lê Đức Anh, được thăng vượt cấp vào năm 1974. Tôi được phong Đại tá từ năm 1958 khi làm Cục trưởng Cục Động viên dân quân.
    -Thưa Trung tướng, phẩm chất cần nhất của người làm tướng khi ra trận là gì?
    -Bình tĩnh. Không nóng nảy, không chủ quan, đánh giá đúng địch đúng ta. Tập trung cao độ tư duy, hạ lệnh đúng lúc, dứt khoát, sát đúng.
    -Trong đời thường, điều gì dễ gây Trung tướng dị ứng?
    -Quan cách. Nịnh hót. Luồn lách. Nói xấu, bôi nhọ người khác. Nạn quan liêu giấy tờ. Bệnh phô trương hình thức.
    -Khi còn trên chiến trường, ai là đồng đội thân thiết của Trung tướng?
    -Trong kháng Pháp, khi ở chiến trường Bình Trị Thiên cũng như lúc về Tổng cục Chính trị, tôi được sự dìu dắt của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Chính anh cũng đã góp phần tạo nên nhân cách của tôi về sau.
    Ngay trên chiến trường quê nhà trong buổi đầu kháng chiến, những người bạn thân thiết nhất của tôi là các anh Lê Văn Tri, Đoàn Khuê, Nguyễn Hòa, Trần Sự, Phan Khắc Hy,? Khi về Bộ Tổng tư lệnh thì có các anh Nguyễn Trọng Vĩnh, Lê Quang Đạo, Phạm Ngọc Mậu, Hoàng Văn Thái, Đinh Đức Thiện, Trần Sâm,? Trong suốt hai cuộc kháng chiến, ngoài anh em thân thiết trong Bộ tư lệnh 559 Trường Sơn, trên các chiến trường tôi còn quen thân nhiều bạn bè, trong đó có các anh Chu Huy Mân, Trần Văn Trà, Vương Thừa Vũ, Lê Trọng Tấn, Hoàng Minh Thảo, Trần Quý Hai, Nam Long, Nguyễn Quyết, Hoàng Cầm, Đặng Kính, Vũ Lăng?
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thành phần Bộ tư lệnh khi Trung tướng phụ trách gồm những ai?
    -Ngoài tôi, Bộ tư lệnh 559 còn có các phó tư lệnh qua các thời kỳ: Hoàng Kiện, Nguyễn An, Lê Đình Sum, Nguyễn Quang Bích, Phan Khắc Hy, Nguyễn Lang, Nguyễn Hòa. Chính uỷ và các phó chính uỷ: Vũ Xuân Chiêm, Đặng Tính, Lê Xy, Hoàng Thế Thiện, Lễ Nghĩa Sĩ, Bùi Đức Tạm, Trần Quyết Thắng, Nguyễn Lệnh.
    -Trung tướng nhớ thời điểm Chính uỷ Đặng Tính hy sinh?
    -Nhớ chứ. Năm 1972, anh Đặng Tính vào làm chính uỷ 559. Trên đường đi kiểm tra tuyến đường Trường Sơn anh bị trúng bom hy sinh vào ngày 3 tháng 4 năm 1973 ở Pắc Xoòng.
    -Đối với hai vị chỉ huy cao cấp nhất của quân đội là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng, Trung tướng có được nhiều thời gian gần ũi?
    -Trong lòng tôi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp như người anh thân thiết. Tôi được làm việc với Đại tướng rất nhiều lần. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là danh tướng, một nhà chiến lược về quân sự, chính trị của Đảng và dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.
    Còn đối với Đại tướng Văn Tiến Dũng, tôi cũng được làm việc nhiều lần, kể từ lúc tôi còn là Phó Tổng tham mưu trưởng cũng như khi phụ trách đường Hồ Chí Minh. Đại tướng là một vị tướng quân sự, chính trị song toàn, dày dặn, thao lược trong việc dùng binh.
    -Đối với các tướng lĩnh là thế, còn với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung tướng còn nhớ lần đầu được trực tiếp gặp lãnh tụ? Ấn tượng sâu sắc nào của Người đọng lại trong tâm khảm Trung tướng?
    -Với tư cách đại biểu Quốc hội khóa I, tôi được cử vào ban sửa đổi hiến pháp năm 1959. Tôi vinh dự gặp Bác Hồ trong một số buổi thảo luận dự thảo hiến pháp sửa đổi. Bác thông thạo chữ Hán cổ lẫn tiếng Trung Quốc hiện đại cùng nhiều thứ tiếng khác. Bác cũng hết sức tôn trọng các nước bạn. Tuy nhiên, khi viết hay nói cho đồng bào trong nước, bao giờ Bác cũng dùng tiếng Việt. Tôi còn nhớ có lần thảo luận hiến pháp, khi đề cập tới cụm từ nam-nữ, Bác nói: Tại sao không dùng từ con trai, con gái?... Từ những việc cụ thể đó làm cho chúng tôi trong ban sửa đổi hiến pháp ai cũng thấy sự anh minh của Bác đối với giá trị cội nguồn dân tộc.
    Trong dòng cảm xúc có tính riêng tư, Trung tướng lật cuốn album cho chúng tôi xem một số tấm ảnh mà ông chụp với bạn bề, đồng đội và người thân. Chợt ông dừng lại ở một tấm ảnh trắng đen còn khá mới. Ảnh ông cùng bà Ngọc Lan chụp từ năm 1960.Thật trẻ trung và hạnh phúc. Nhìn anh, tôi lại nhìn ông. Vị tướng không thấy tôi nhìn. Ông đang theo đuổi một ý nghĩ nào đó. Hình như tấm ảnh gợi cho ông về một thời tuổi trẻ hào hùng và gian khổ, hạnh phúc và chia ly?
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thành phần Bộ tư lệnh khi Trung tướng phụ trách gồm những ai?
    -Ngoài tôi, Bộ tư lệnh 559 còn có các phó tư lệnh qua các thời kỳ: Hoàng Kiện, Nguyễn An, Lê Đình Sum, Nguyễn Quang Bích, Phan Khắc Hy, Nguyễn Lang, Nguyễn Hòa. Chính uỷ và các phó chính uỷ: Vũ Xuân Chiêm, Đặng Tính, Lê Xy, Hoàng Thế Thiện, Lễ Nghĩa Sĩ, Bùi Đức Tạm, Trần Quyết Thắng, Nguyễn Lệnh.
    -Trung tướng nhớ thời điểm Chính uỷ Đặng Tính hy sinh?
    -Nhớ chứ. Năm 1972, anh Đặng Tính vào làm chính uỷ 559. Trên đường đi kiểm tra tuyến đường Trường Sơn anh bị trúng bom hy sinh vào ngày 3 tháng 4 năm 1973 ở Pắc Xoòng.
    -Đối với hai vị chỉ huy cao cấp nhất của quân đội là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng, Trung tướng có được nhiều thời gian gần ũi?
    -Trong lòng tôi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp như người anh thân thiết. Tôi được làm việc với Đại tướng rất nhiều lần. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp là danh tướng, một nhà chiến lược về quân sự, chính trị của Đảng và dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh.
    Còn đối với Đại tướng Văn Tiến Dũng, tôi cũng được làm việc nhiều lần, kể từ lúc tôi còn là Phó Tổng tham mưu trưởng cũng như khi phụ trách đường Hồ Chí Minh. Đại tướng là một vị tướng quân sự, chính trị song toàn, dày dặn, thao lược trong việc dùng binh.
    -Đối với các tướng lĩnh là thế, còn với Chủ tịch Hồ Chí Minh, trung tướng còn nhớ lần đầu được trực tiếp gặp lãnh tụ? Ấn tượng sâu sắc nào của Người đọng lại trong tâm khảm Trung tướng?
    -Với tư cách đại biểu Quốc hội khóa I, tôi được cử vào ban sửa đổi hiến pháp năm 1959. Tôi vinh dự gặp Bác Hồ trong một số buổi thảo luận dự thảo hiến pháp sửa đổi. Bác thông thạo chữ Hán cổ lẫn tiếng Trung Quốc hiện đại cùng nhiều thứ tiếng khác. Bác cũng hết sức tôn trọng các nước bạn. Tuy nhiên, khi viết hay nói cho đồng bào trong nước, bao giờ Bác cũng dùng tiếng Việt. Tôi còn nhớ có lần thảo luận hiến pháp, khi đề cập tới cụm từ nam-nữ, Bác nói: Tại sao không dùng từ con trai, con gái?... Từ những việc cụ thể đó làm cho chúng tôi trong ban sửa đổi hiến pháp ai cũng thấy sự anh minh của Bác đối với giá trị cội nguồn dân tộc.
    Trong dòng cảm xúc có tính riêng tư, Trung tướng lật cuốn album cho chúng tôi xem một số tấm ảnh mà ông chụp với bạn bề, đồng đội và người thân. Chợt ông dừng lại ở một tấm ảnh trắng đen còn khá mới. Ảnh ông cùng bà Ngọc Lan chụp từ năm 1960.Thật trẻ trung và hạnh phúc. Nhìn anh, tôi lại nhìn ông. Vị tướng không thấy tôi nhìn. Ông đang theo đuổi một ý nghĩ nào đó. Hình như tấm ảnh gợi cho ông về một thời tuổi trẻ hào hùng và gian khổ, hạnh phúc và chia ly?
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Cắt dòng suy tư của vị tướng, tôi từ tốn hỏi:
    -Thưa Trung tướng, một trong những cái đích vươn tới của con người là tình yêu và hạnh phúc. Quan niệm của Trung tướng về điều này ra sao?
    -Tình yêu và hạnh phúc phải bắt đầu từ cái ?otâm?. Trời thì cao, biển thì rộng nhưng tấm lòng con người còn có thể cao hơn trời, rộng hơn biển. tấm lòng là cội nguồn của tình yêu và hạnh phúc!
    -Thời của Trung tướng xã hội vẫn còn đặt nặng chuyện ?ocha mẹ đặt đâu con ngồi đấy?. Vậy mối tình giữa Trung tướng với người bạn đời do gia đình sắp đặt hay tự nguyện?
    -Do chúng tôi tự đến với nhau. Nhà tôi xuất thân từ một gia đình Nho giáo nghèo. Một thiếu nữ bình thường ở nông thôn, trụ cột lo toan việc nhà. Cô ấy cũng sớm tham gia phong trào địa phương chuẩn bị khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Đó là quan sát ban đầu trong một vài lần tôi đến nhà cô vận động ông cụ tham gia *********. Tình cảm giữa chúng tôi dần dần nảy nở! Khi bắt đầu bén duyên, tôi rất quan tâm đến ?otầm lòng? của người mình yêu. Và tôi đã nhận biết điều đó qua biểu hiện ở một vài việc nhỏ.
    -Những biểu hiện tấm lòng ấy cụ thể ra sao?
    -(Cười) Hồi tháng 9 năm 1945, ********* tỉnh Quảng Bình tổ chức một cuộc mít tinh toàn tỉnh, tôi là người chủ trì, phát biểu chính. Cô ấy cùng một số chị em phụ nữ từ quê vào tỉnh lỵ dự mít tinh và mong trực tiếp? nghe người mình yêu! Một lần khác, trước lúc tôi từ Quảng Trạch lên ga tàu hoả về Vinh họp khu uỷ, cô ấy đã mời tôi cùng cô về nhà. Khi sang sông, tôi để ý thấy cô dốc hết năm chữ tiền đồng trong túi trả tiền đò. Về tới chiếc cầu gần nhà, cô ra hiệu nói nhỏ anh: ?oAnh đi chậm lại. Em về trước, anh vào sau!?.
    Khi tôi đến nhà, ông bà cụ ra đó. Tôi liếc xuống bếp thấy cô đang loay hoay thái rau, nấu cơm. Không hề biết giờ tôi lên tàu nhưng vì sao cô ấy đoán được lại khẩn trương chuẩn bị cơm? Chỉ một lát sau bữa cơm đã dọn tươm tất. Ông bà cụ mời tôi cùng ăn. Tôi ước lượng thời gian ăn xong vẫn lên ga kịp. Trên đường ra Vinh tôi cứ miên man nghĩ, đúng là một cô gái nhanh nhẹn, tháo vát, đảm đang, lại có ?otấm lòng hết sức nhiệt thành, chân thật? Tôi càng quí mến, quyến luyến!
    Rồi một lần khác, lúc giặc Pháp đóng đồn gần nhà cô ấy, tôi chỉ huy một đơn vị nhỏ Vệ quốc quân đến đánh. Trong thời gian chuẩn bị, tôi đóng quân tại một làng gần đó. Không hiểu sao cô ấy biết được, liền vượt qua đồn địch, đến tận nơi trú quân để thăm. Cô còn mang theo một gói lạc và nói lại nguyện vọng của nhân dân trong vùng mong Vệ quốc quân sớm đánh tan đồn địch ở ga Minh Lệ. Nghe cô nói, tôi rất cảm động!
    -Ông bà thực sự đến với nhau lúc nào?
    -Khi quân Pháp chiếm huyện lỵ Quảng Trạch, cơ quan huyện dời lên chiến khu Trung Thuần, cô ấy theo bố ra thăm. Ông cụ được mời ở lại hẳn chiến khu làm chủ nhiệm Mặt trận Liên Việt. Cô cũng ở lại. Từ đó, chúng tôi nên vợ nên chồng ngay trên chiến trường.
    Một thời gian sau, tôi nhận quyết định ra Trung ương học lớp trung cao quân sự thì nhà tôi mang thai đứa con đầu lòng. Dù trong túi không tiền nhưng nhờ sự tháo vát và được cơ quan giúp đỡ, bà đã một mình vượt cạn, tần tảo nuôi con. Rồi nhà tôi ra Việt Bắc, vào làm ở Tổng cục Chính trị. Tôi tiếp tục đi chiến dịch. Bà ở nhà vừa công tác vừa chăm sóc con cái. Cả trong chống Mỹ cũng thế. Bằng đồng lương ít ỏi, bà tính toán chu đáo lo cho sáu đứa con ăn học đến trưởng thành, rồi năm đứa lần lượt vào bộ đội. Bà lặng lẽ vất vả một đời nhưng không bao giờ có lời kêu ca, trách móc chồng. Nhờ vậy, tôi mới an tâm tập trung công tác nơi chiến trường!
  5. donghailongvuong

    donghailongvuong Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    23/08/2005
    Bài viết:
    1.547
    Đã được thích:
    1
    TRUNG TƯỚNG PHẠM TUÂN (sinh năm 1947)[​IMG][​IMG]     Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1973). Quê quán xã Quốc Tuấn, huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bính ; nhập ngũ năm 1965 ; trung tướng, chủ nhiệm TCCNQP (1999) ; khi tuyên dương anh là thượng uý, biên đội trưởng không quân thuộc đại đội 5, Trung đoàn 921, Sư đoàn 371, Quân chủng phòng không - không quân ; phi công vũ trụ đầu tiên của Việt Nam ; anh hùng lao động VN và Liên Xô (1980).     Đêm 27/12/1972, tại vùng trời phía tây Hà Nội, Phạm Tuân lái máy bay MiG-21 vượt qua đội hình dày đặc máy bay F-4 của Mĩ, xông vào tốp B-52 bắn rơi một chiếc, trở về hạ cách an toàn. Năm 1980, Phạm Tuân tham gia chuyến bay lên vũ trụ cùng với phi công LX Gorơbatcô trên tổ hợp quĩ đạo Chào Mừng - 6, Liên Hợp - 36, Liên Hợp - 37 ; phó tư lệnh Quân chủng không quân (1989)Huân chương : Hồ Chí Minh, Lênin, 2 Quân công hạng 3
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Trung tướng, trong suốt hành trình chinh chiến của mình, thời gian nào Trung tướng cảm thấy khó khăn nhất?
    -Khó khăn nhất là giai đoạn 1947-1948, đánh Pháp phần lớn bằng vũ khí thô sơ, tri thức quân sự lại kém, chủ yếu dựa vào tinh thần xả thân của anh em. Trong chống Mỹ, đó là thời gian làm tư lệnh kiêm chính uỷ Bộ đội Trung-Hạ Lào, tôi bị thương phải rời chiến trường điều trị một thời gian. Thời kỳ phụ trách đường Trường Sơn, khó khăn là lúc đường cầu còn độc đạo, binh chủng hợp thành còn yếu; từ năm 1965-1967 bộ đội rất thiếu thốn, nhất là ở Tây Nguyên.
    -Trung tướng chính thức nhận trọng trách tư lệnh Bộ đội Trường Sơn lúc nào?
    -Đầu năm 1967, tôi vào thay anh Hoàng Văn Thái làm tư lệnh Đoàn 559 kiêm chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần tiền phương, đồng thời là tư lệnh một quân khu trực thuộc Bộ Tổng.
    -?oXe dọc Trường Sơn đi cứu nước?. Một câu thơ của nhà thơ Tố Hữu luôn gợi nhớ đến con đường Hồ Chí Minh lịch sử khi đất nước còn chìm trong máu lửa thương đau. Nhưng thưa Trung tướng, vì sao phải xẻ dọc Trường Sơn mà không chọn con đường khác?
    -Đông, Tây Trường Sơn vừa là bên sườn vừa là bên ruột của chiến trường ba nước Đông Dương, là một căn cứ chiến lược vĩ đại, có địa lợi, nhân hoà, thế địch yếu, tấn công phòng ngự vô cùng lợi hại. Được ba nước đồng lòng, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch quyết định thành lập tuyến chi viện chiến lược, không chỉ bằng đường núi mà còn bằng cả đường biển. Ngày 19 tháng 5 năm 1959 nhân sinh nhật lần thứ sáu chín của Bác Hồ, đường Trường Sơn chính thức ra đời, được đặt tên đường Hồ Chí Minh, mang mật danh đường 559. Anh Võ Bẩm là người đầu tiên được Quân uỷ Trung ương cử phụ trách mở đường. Nó gồm ba giai đoạn. Đầu tiên là đường bộ, gùi thồ. Từ năm 1964 phát triển thành nhiều phương thức: đường bộ, đường sông, đường ống. Bên cạnh đường Hồ Chí Minh trên Trường Sơn thì đường Hồ Chí Minh trên biển Đông cũng được thành lập với mật danh 759.
    -Được biết trước khi Trung tướng về phụ trách, thì đường Trường Sơn còn ở dạng thô sơ, những cuộc thử nhiệm vận tải cơ giới qui mô bị thất bại. Bên cạnh đó lại có ý kiến chỉ muốn quay lại gùi thồ. Và tranh luận đã diễn ra. Vậy nhờ đâu cuối cùng Trung tướng thành công?
    -Nhờ thừa kế kinh nghiệm các năm trước. Năm 1964, anh Võ Bẩm cho thí điểm mở đường vận tải cơ giới. Mùa khô 1964-1965, Tư lệnh kiêm Chính uỷ Đoàn 559 Phan Trọng Tuệ cùng Chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần Đinh Đức Thiện tiếp tục thử nghiệm vận tải cơ giới cấp tiểu đoàn 100 xe trên cung đường 300 km. Do thời gian quá ngắn, chưa nắm được qui luật đánh phá ngăn chặn của địch và cũng chưa tổ chức được bộ đội hợp thành, chỉ huy chưa tập trung thống nhất, nên cuộc thử nhiệm không thành công. Tuy nhiên, hai anh Phan Trọng Tuệ và Đinh Đức Thiện luôn cương quyết bảo vệ quan điểm tiếp tục mở đường vận tải cơ giới chứ nhất định không quay lại gùi thồ.
    -Và thực tế đã chứng minh quan điểm của hai ông là hoàn toàn đúng?
    -Vâng. Cuối năm 1966, Quân uỷ Trung ương triệu tập cuộc họp do Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp chủ trì. Tôi được mời dự thính. Hai loại ý kiến trái ngược nhau được đưa ra thảo luận sôi nổi, đôi lúc hết sức gay gắt. Anh Tuệ và anh Thiện thẳng thắn tự phê bình việc thử nghiệm chưa thành công, phản bác mọi lý lẽ muốn lùi về gùi thồ và phân tích một cách thuyết phục sự cần thiết cấp bách của vận tải cơ giới nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu theo tình hình phát triển của chiến trường, vì mục tiêu cuối cùng phải đạt tới là giải phóng miền Nam thống nhất đất nước!
    Hai anh cũng đề nghị tranh thủ tập trung mọi trí tuệ, sức lực ưu tiên cho chiến trường mà trước hết phải tăng cường đồng bộ lực lượng đủ mạnh cho con đường huyết mạch Trường Sơn, cầu nối hậu phương với tiền tuyến. Theo hướng đề nghị đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã tổng kết nhấn mạnh rằng ?ođịch dùng chiến tranh để ngăn chặn, ta cũng phải tổ chức bộ đội hợp thành để chống lại, cương quyết thực hiện thành công đường vận tải cơ giới, có kết hợp gùi thồ nơi và lúc cần?.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Sau đó, chính Trung tướng là người trực tiếp thực hiện quyết định có tầm chiến lược của Quân uỷ Trung ương vốn xuất phát từ ý tưởng của tướng Tuệ và tướng Thiện?
    -Tôi nhớ khi giao nhiệm vụ cho tôi làm chủ nhiệm Tổng cục Hậu Cần tiền phương sau khi cuộc họp trên vừa kết thúc, anh Đinh Đức Thiện bức xúc nói rằng do thử nghiệm vận tải cơ giới chưa thành công nên mới có ý kiến bàn thụt lùi. Anh rất tức! Và anh hy vọng chắc chắn ở tôi: ?oLần này, cậu vào chính quê cậu, tâm điểm đánh phá ác liệt của giặc Mỹ, hãy cố thực hiện cho được vận tải cơ giới qui mô lớn để chứng minh kết luận của Quân uỷ Trung ương là hoàn toàn đúng đắn?.
    -Từ kinh nghiệm ở Tổng cục Hậu cần tiền phương, Trung tướng đã vận dụng như thế nào đối với đường 559? Nếu không thuộc phạm vi bí mật quốc gia, xin Trung tướng cho biết những nguyên tắc chủ yếu để thực hiện thành công nhiệm vụ vận tải quân sự chiến lược
    -Nguyên tắc chủ yếu là phải chuyển đổi tổ chức và lực lượng thành lực lượng chiến đấu. Phải chuyển tuyến vận tải chiến lược đường Hồ Chí Minh thành một hướng chiến trường, một căn cứ chiến lược. Phải tổ chức bộ đội hợp thành dưới sự chỉ huy tập trung thống nhất ở các cấp. Phải vận dụng được nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân, lấy đánh lâu dài, lấy tư tưởng tiến công làm chủ đạo.
    -Những nguyên tắc ấy được cụ thể ra sao, xin Trung tướng vui lòng cho biết rõ hơn?
    -Thứ nhất, trong điều kiện chiến tranh ác liệt phải lấy tư tưởng tiến công làm chủ đạo, đồng thời coi trọng phòng tránh. Đó là nguyên tắc đánh được địch, giữ được mình. Thứ hai, không thể để xe vận tải ?ođơn thương độc mã? trên đường, mà phải có công binh thiện chiến túc trực, pháo cao xạ yểm trợ chống máy bay địch oanh tạc, bộ binh bảo vệ và các lực lượng phục vụ chiến đấu tích cực hỗ trợ thường xuyên trên tuyến đường. Đồng thời còn cơ động pháo theo đội hình xe vận tải. Tất cả bám đường trên nguyên tắc binh chủng hợp thành, lấy bộ đội xe làm chủ lực, nắm trọng điểm, coi trọng diện. Thứ ba là tập trung thống nhất chỉ huy về một mối, lệnh phát ra có hiệu lực ngay.
    -Trung tướng còn nhớ thời điểm quân số cao nhất của bộ đội Trường Sơn là bao nhiêu?
    -Mười hai vạn. Trong đó có mười ngàn thanh niên xung phong. Gồm chín sư đoàn. Tám sư thuộc Bộ tư lệnh 559. Một sư cao xạ, tên lửa của Bộ phối thuộc.
    -Thế còn mốc thời gian nào vận tải cơ giới được xem phát triển đến đỉnh cao.
    -Năm 1972-1973. Chúng tôi bắt đầu chuyển sang móc mới vận tải quân sự chiến lược. Bỏ cung, trạm. Vận tải xuyên suốt Bắc-Nam, đi theo đội hình sư đoàn, cơ động gọn từng quân đoàn sư đoàn bộ binh, binh chủng kỹ thuật, cơ sở vật chất đến thẳng từng chiến trường. Nếu trước đây đi bộ mất bốn tháng thì bây giờ vận chuyển chỉ mười hai ngày. Hai sư đoàn ô tô vận tải quân sự cũng đã hình thành. Gồm mười ngàn xe. Có thể nói đây là những sư đoàn vận tải đầu tiên và duy nhất trong lịch sử chiến tranh của dân tộc. Đến năm 1975 hai sư vận tải đã đón đúng thời cơ thực hiện lệnh thần tốc, thời gian từ miền Bắc vào đến Bù Đăng rút xuống chỉ còn bảy-tám ngày để phục vụ kịp thời Chiến dịch Hồ Chí Minh.
    Về hạ tầng cơ sở, đến năm 1975 đã xây dựng 16.700 km đường, chủ yếu là đường dã chiến,trong đó có hơn 800 km đường kín, 1.500 km rải đá, 200 km nhựa. Ngoài ra, còn có 1.500 km đường ống dẫn dầu, 1.350 km đường dây thông tin tải ba, 3.800 km đường giao liên, 500 đường sông.
  8. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Có 2 hình khá hay về tướng Giáp thời trẻ, cùng các chiến sĩ ********* mới. Chú ý, bộ quân hàm của tướng Giáp là bộ quân hàm đầu tiên được quy định năm 1946.
    [​IMG]
    [​IMG]
    Phạm Văn Đồng, Borchers, Frey, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân Đặng Bích Hà
  9. thainhi_vn

    thainhi_vn Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/02/2002
    Bài viết:
    1.448
    Đã được thích:
    1
    Thiếu tướng Nguyễn Bá Phát (1921 ?" 1993), quê làng Trung Sơn, huyện Hòa Vang, nay là xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Tháng 7-1945, tham gia tự vệ bí mật. Tháng 9-1945, Ủy viên Ủy ban nhân dân lâm thời xã Trung Sơn. Từ tháng 9-1945 đến tháng 10-1948, đội trưởng thủy đội Bạch Đằng đánh Pháp ở Khánh Hòa; Chi đội phó chi đội Phan Đình Phùng; Chỉ huy trưởng mặt trận Buôn Ma Thuột và đường 14; Phó chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Nam ?" Đà Nẵng; Trung đoàn trưởng trung đoàn 96, trung đoàn 73, rồi trung đoàn 126.
    Năm 1950, Trung đoàn trưởng trung đoàn 108; Tham mưu trưởng mặt trận Bắc Tây Nguyên; Chỉ huy trưởng sư đoàn 305; Tham mưu phó, rồi Tham mưu trưởng Liên khu 5.
    Tháng 10-1954, tập kết ra Bắc, Phó sư đoàn trưởng sư đoàn 308. Năm 1955 ?" 1960, Phó cục trưởng Cục Phòng thủ bờ biển (sau là Cục Hải quân), được phong quân hàm Đại tá. Tháng 1-1964, Phó tư lệnh quân chủng hải quân. Tháng 12-1964 ?" 1976, Tư lệnh quân chủng hải quân kiêm Tư lệnh Quân khu Đông Bắc (sau khi sáp nhập). Tháng 4-1975, được phong quân hàm Thiếu tướng (từ năm 1981 gọi là Chuẩn đô đốc); Tư lệnh hải quân nhân dân; Ủy viên Hội đồng khoa học Bộ Quốc phòng. Từ tháng 2-1975 đến tháng 5-1975, Tư lệnh hải quân tiền phương trong chiến dịch tổng tiến công mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam.
    Từ tháng 7-1976 chuyển ngành, làm Thứ trưởng Bộ Thủy sản cho đến khi nghỉ hưu. Từ năm 1974 ?" 1980, là đại biểu Quốc hội các khóa III, IV, V, VI. Mất tại Đà Nẵng năm 1993.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Đường ống dẫn xăng dầu Trường Sơn là một công trình ngoài sức tưởng tượng, nhất là trong điều kiện không quân Mỹ thường xuyên oanh kích. Ai là người đề xuất sáng kiến táo bạo này?
    -Anh Đinh Đức Thiện. Từ đầu năm 1969, anh cùng Bộ tư lệnh 559 bàn bạc hạ quyết tâm lắp đặt đường ống dẫn xăng dầu vào đến Bù Đốp thuộc tỉnh Bình Phước ngày nay. Nhiều chính khách trên thế giới cũng từng phải ngạc nhiên: trong lúc không quân Mỹ đánh phá dữ dội, làm sao chúng ta có thể sử dụng đến hàng sư đoàn xe vận tải, cơ động bằng cơ giới từng quân đoàn, sư đoàn bộ binh, cơ động khối lượng lớn binh chủng kỹ thuật vào tận chiến trường Nam Bộ, chỉ cách Sài Gòn 100 km. Xăng dầu được tiếp tế như thế nào?
    -Báo chí phương Tây còn gọi đường mòn Hồ Chí Minh là ?otrận đồ bát quái xuyên rừng rậm??
    -Đường Hồ Chí Minh không chỉ là một tuyến vận tải mà còn là một chiến trường, một căn cứ địa chiến lược rộng lớn vững chắc hậu thuẫn cho các chiến trường của ta và bạn. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, nó là một trong những yếu tố quyết định thần tốc. Lúc đầu dự kiến giải phóng miền Nam trong vòng hai năm. Sau, Bộ Chính trị rút còn một năm. Nhưng đánh xong Buôn Mê Thuột, nhờ sự chuẩn bị chu đáo ở các chiến trường và tuyến chi viện đường Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị quyết định giải phóng miền Nam trong tháng 4 năm 1975.
    -Hình như sự so sánh trên còn xuất phát từ thất bại của không quân Mỹ?
    -Đúng! Nhưng Mỹ đâu chỉ tấn công đường Hồ Chí Minh bằng không quân. Từ năm 1965, Mỹ nguỵ cấu kết với các nước chư hầu bắt đầu đánh phá bằng nhiều binh chủng kết hợp, với đủ loại phương tiện vũ khí chiến tranh hiện đại như hàng rào điện tử, mưa nhân tạo, mù nhân tạo, bom từ trường, chất độc hoá học? Năm 1971, địch lại tiến hành chiến dịch tổng hợp Đường 9 Nam Lào gồm cả bộ binh, không quân, hải quân quyết tâm một lần nữa cắt đứt mạch máu chi viện cho các chiến trường. Nhưng một lần nữa chúng lại chuốc lấy thất bại. Nhờ lưới lửa phòng không tập trung mạnh, lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh ta đã bắn rơi mấy mươi chiếc trực thăng Mỹ. Điều chưa từng có. Mỹ nguỵ vô cùng hoảng hốt, cam chịu thất bại. Cũng từ đó, đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại vĩnh viễn không bị cắt đứt, được cả thế giới biết đến!
    -Theo Trung tướng, yếu tố nào đóng vai trò quyết định làm nên huyền thoại đó? Nghệ thuật chỉ huy, sức mạnh của vũ khí hiện đại hay con người?
    -Đương nhiên có nhiều yếu tố tổng thành, nhưng yếu tố quyết định là con người! Chính con người cá nhân lẫn con người tập thể là yếu tố quan trọng nhất làm nên điều kỳ diệu Trường Sơn. Những con người của thời đại Hồ Chí Minh biết kết hợp sức mạnh yêu nước truyền thống với tinh thần cách mạng tiến công, kết hợp dũng và mưu, quyết chiến quyết thắng trong chiến tranh lâu dài.
    -Thắng lợi càng lớn, cái giá phải trả càng lớn. Cho đến khi kết thúc nhiệm vụ lịch sử, có bao nhiêu chiến sĩ Trường Sơn đã ngã xuống?
    -Mười chín ngàn người đã vĩnh viễn nằm xuống. Hơn ba mươi ngàn người bị thương. (Vị tướng xúc động mạnh khi nhắc đến những con số chừng như khô khốc nhưng hết sức đau thương. Mắt ông ngấn đỏ. Giọng nói như chùng hẳn xuống). Là người chỉ huy rực tiếp cao nhất, tôi hiểu hơn ai hết sự hy sinh to lớn của các chiến sĩ Trường Sơn. Họ đi vào cõi vĩnh hằng cho đất nước vĩnh hằng. Họ là anh hùng của dân tộc anh hùng!
    -Vâng thưa Trung tướng, cái giá vì sự thống nhất Tổ quốc trong hai cuộc kháng chiến vừa qua có lẽ đến các thế hệ sau còn vang vọng! Bây giờ hồi tưởng lại, Trung tướng đánh giá như thế nào? Có một cách nào đó có thể tiết kiệm được thời gian lẫn xương máu không?
    -Tôi nghĩ nếu như từ năm 1967 đường Trường Sơn rải đá theo hai trục Bắc-Nam, xoá bỏ vận tải theo mùa, tập trung và quyết tâm hơn thì tình hình sẽ khác. Hay giá như làm đường kín 800 dưới rừng già Lào sớm hơn chứ không phải tới năm 1972 mới tiến hành, để xe chạy cả ban ngày, thì ta đỡ thiệt hại hơn, mà hiệu quả lại cao hơn. Bởi thời gian là lực lượng. Con đường kín này ta chỉ mới sử dụng một năm thì Hiệp định Paris được ký kết.
    Tuy nhiên, đối với những việc đã qua lẽ thường hay tiếc những thiếu sót, ?ogiá như thế này, giá như thế kia?. Ở đây một cuộc kháng chiến kéo dài ba mươi năm, với hai kẻ thù hùng mạnh nhất của thế giới trong thế kỷ XX. Cả hai cuộc kháng chiến tương quan lực lượng, mức độ có khác nhau nhưng nói chung lúc đầu ta đều yếu về kinh tế, quân sự, trang bị kỹ thuật. Nhưng tại sao ta thắng? Ta thắng vì ta biết kết hợp sức mạnh truyền thống dân tộc và thời đại, có một nền tảng khoa học quân sự chiến tranh nhân dân lỗi lạc, độc đáo; có một đường lối chiến tranh tài trí, thao lược, độc lập, sáng tạo, làm chủ mọi thời cơ của Đảng và Bác Hồ. ?oLấy yếu đánh mạnh? thì phải chịu đựng được trường kỳ, sử dụng tốt vị thế địa chính trị, tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của bạn bè thế giới, vừa đánh vừa giữ gìn lực lượng, không ngừng phát triển, đuổi va vượt sức mạnh đối phương.
    Thắng lợi nào cũng đều phải trả giá. Mười sáu năm chiến đấu trên đường Hồ Chí Minh, Bộ đội Trường Sơn cùng với các chiến trường đã phải trả một giá cực kỳ xứng đáng để phát triển và giành thắng lợi, thống nhất Tổ quốc, giữ được độc lập, tự do, chủ quyền dân tộc. Điều đó là vô giá, không thể tính đắt rẻ.
    -Trung tướng có quan điểm ra sao khi Chính phủ quyết định xây dựng đường Trường Sơn xưa thành đường Quốc lộ Hồ Chí Minh xuyên Bắc-Nam.
    -Đây là quyết định đúng. Một đất nước như nước ta, từ Bắc đến Nam nếu chỉ có duy nhất một con đường Quốc lộ 1 thì sẽ rơi vào thế độc đạo, ngõ cụt. Và phải trả giá khi thiên thai hay chiến tranh xảy ra. Tôi nhớ năm 1972, chúng tôi từng đứng ôm nhau khóc trên đỉnh Bù Lạch, khi binh lực đủ sức tiến đánh Đà Nẵng từ phía Tây nhưng không có đường đủ tiêu chuẩn! Nếu được triển khai, Quốc lộ Hồ Chí Minh Bắc-Nam sẽ cùng với Quốc lộ 1 hợp thành mạn lưới giao thông liên hoàn vững chắc, giảm bớt lưu lượng xe cho Quốc lộ 1, giúp đưa các vùng ở miền núi Tây Nguyên và dọc Trường Sơn vào quỹ đạo phát triển chung của đất nước, nối thông với hai nước bạn láng giềng. Quốc lộ Hồ Chí Minh không chỉ là mục tiêu của thế hệ hôm nay, mà tôi nghĩ đó cũng chính là ước mơ của hàng vạn chiến sĩ đã ngã xuống trên Trg, trong đó có sáu ngàn liệt sĩ hiện vẫn còn nằm biệt tích trong mưa rừng gió núi!
    -Ai cũng biết rằng đường Hồ Chí Minh trên Trường Sơn là sản phẩm của tình đoàn kết ba nước Đông Dương, đặc biệt là với Lào trong thời gian đầu mờ tuyển đường Tây Trường Sơn. Riêng bản thân mình, hình như Trung tướng có nhiều duyên nợ với đất nước Triệu Voi?
    -Vâng, tôi xem Lào như quê hương thứ hai của mình. Năm 1944, khi bị địch truy lùng, tôi bí mật sang hoạt động ở Thái-Lào, chủ yếu là Lào. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung-Hạ lào là một trong các cánh phối hợp, tôi được tham gia Bộ tư lệnh cánh quân này. Đến năm 1965, tôi nhận nhiệm vụ tư lệnh kiêm chính uỷ Bộ đội tình nguyện ở Trung-Hạ Lào, trong một trận chiến đấu tôi đã bị thương trên chiến trường nước bạn. Và khi trở thành tư lệnh đường Trường Sơn, tôi lại có dịp trở lại Lào lần thứ tư. Các bạn Lào đón tôi như đón người thân trở về. Cho đến khi kết thúc chiến tranh, ta đã mượn đất bạn mười một năm để xây dựng tuyến đường Tây Trường Sơn. Một mối quan hệ nghĩa tình đặc biệt khó có trong lịch sử bang giao giữa các nước láng giềng.
    Đồng thời, bộ đội tình nguyện Việt Nam cũng đã sát cánh cùng quân dân nước bạn giải phóng sáu tỉnh Trung-Hạ Lào: Salavan, Savanakhet, Attapw, Sekon, Chambasak, Khăm Muộn. Thời điểm quyết định nhất là năm 1962, ta giải phóng từ biên giới theo Đường 9 đến Mường Phìn tỉnh Savanakhet và dọc Tây Trường Sơn, mở toang cánh cửa biên giới ba nước Đông Dương để mở đường 128.

Chia sẻ trang này