1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng giữ nhiệm vụ gì?
    -Tôi là tư lệnh bộ đội Trường Sơn kiêm phó tư lệnh cánh quân phía Đông mà anh Lê Trọng Tấn là tư lệnh. Tấn công Sài Gòn ta huy động gần năm quân đoàn cộng các mũi phối hợp. Đây là lần đầu dùng binh qui mô lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc. Thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh nằm trong quá trình chiến đấu và chiến thắng từng bước cộng lại của suốt cuộc chiến tranh. Do đó, khi đánh vào Sài Gòn thế và lực quân ta đã trở nên áp đảo. Đặc biệt, sau khi thất thủ Buôn Mê Thuột, tan rã Tây Nguyên, Huế, Đà nặng? tư tưởng và ý chí của Mỹ nguỵ hoàn toàn sụp đổ. Trên đường tiến vào Sài Gòn tuy có đánh một số trận ác liệt ở ngoại vi, nhưng khi đại quân tấn công vào trung tâm thì đối phương hầu như ngồi chờ đầu hàng.
    -Trung tướng có mặt ở trung tâm Sài Gòn lúc nào? Ấn tượng của Trung tướng vào thời điểm lịch sử này?
    -Tôi có mặt ở Sài Gòn trưa ngày 1 tháng 5 năm 1975. Khi đi ngang dinh Độc Lập và lướt qua trung tâm thành phố, tôi thầm khâm phục tài thao lược của Bộ thống soái tối cao mà trực tiếp là Bộ chỉ huy chiến dịch. Cuộc tổng tấn công to lớn như vậy mà ta vẫn giữ được trọn vẹn tính mạng và tài sản của nhân dân, thành phố hầu như còn nguyên vẹn, có chăng chỉ một cánh cổng sắt ở dinh Độc Lập bị xe tăng húc đổ.
    Sài Gòn bị chiếm đóng lâu đến thế, nhưng khi quân ta vào tiếp quản thành phố, quân dân hoà hợp rất nhanh chóng, trật tự trị an được lập lại ngay từ đầu. Các tầng lớp nhân dân hồ hởi đón nhận thắng lợi vĩ đại như chính bản thân họ. Giải phóng Sài Gòn là một bức tranh đẹp!
    -Trong tình hình khu vực và thế hiện nay, theo Trung tướng nguy cư chiến tranh xâm lược đối với nước ta có thật sự bị đẩy lùi?
    -Thế giới ngày nay, tuy đa cực nhưng cuộc chiến cục bộ dưới nhiều hình thức vẫn âm ỉ nơi này nơi khác. Cuộc chạy đua vũ trang dưới nhiều hình thức vẫn không ngừng. Trước mắt, nguy cơ chiến tranh lớn có hạn chế, nhưng tương lai thế giới vẫn chưa loại trừ nguy cơ chiến tranh. Nước ta có một vị thế địa-chính trị đặc biệt nên phải coi tọng cả hai nhiệm vụ kinh tế và quốc phòng. Có thể khẳng định ta không đánh ai chứ không dám chắc không ai đánh ta. Tuy nhiên với thế và lực hiện nay, chúng ta đủ khả năng giữ được ổn định để xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
    -Từ người lính trở thành tướng lĩnh cao cấp, từ cán bộ cơ sở trở thành nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng và Chính phủ, từ chiến trường đến công nông trường, có thể nói cuộc đời và sự nghiệp phong phú của Trung tướng thật hiếm có. Đó cũng là một trong những hình ảnh đặc trưng của con người Việt Nam ở thế kỷ XX. Bằng kinh nghiệm sống dày dặn của mình, Trung tướng hình dung ra sao về đất nước trong khoảng ba đến năm mươi năm nữa?
    -Giở lại lịch sử, chúng ta vô cùng tự hào lớp lớp kế thừa truyền thống cha ông từ thời này sang thời khác, một lòng một dạ vì độc lập, tự do, chủ quyền dân tộc. Thời đại Hồ Chí Minh là thời đại vinh quang nhất trong mọi thời đại. Hiện đất nước ta đang tiến bước trên con ngường công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy về kinh tế, trang bị quân sự, khoa học ta còn kém xa các nước tiên tiến, nhưng với đường lối đối nội đối ngoại đúng đắn của Đảng, nền chính trị ổn định, với sự thừa kế son sắt của lớp trẻ, chúng ta tin rằng trong nửa thế kỷ tới đất nước vẫn vững bước đi lên mạnh mẽ. Tuy vậy, chúng ta không thể không cảnh giác với mọi cuồng vọng, bằng mọi hình thức tấn công vào sự ổn định của đất nước.
    Câu chuyện càng lúc càng cuốn hút. Đã hơn năm giờ chiều. Nắng tắt hẳn trên bầu trời Hà Nội. Còn nhiều điều chúng tôi muốn hỏi. Và ông như cũng còn nhiều điều muốn tỏ bày. Chụp chung mấy tấm ảnh kỷ niệm, tiễn chúng tôi ra cổng, vị tướng nắm chặt tay nhắn nhủ: ?oAnh trở về Nam, qua tạp chí Kiến thức ngày nay, cho tôi gửi lời chào thân thiết nhất đến những chiến sĩ Trường Sơn và gia đình, nhất là gia đình những đồng chí đã hy sinh!?.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Dương Cự Tẩm
    Cuối năm 1974, có một vị tướng Quân giải phóng miền Nam được phép rời chiến trường ra Bắc thăm vợ con, sau gần mười một năm xa biền biệt. Quà cáp núi rừng chứa đầy ba lô dã chiến. Lên đường! Đột ngột có lệnh: ở lại, chuẩn bị đánh lớn và mùa xuân 1975. Vị tướng đó chính là Dương Cự Tẩm, một trong những tướng lĩnh kỳ cựu ở chiến trường Nam Bộ, dưới bí danh Năm Thanh. Vốn là một học sinh yêu nước vùng Kinh Bắc, mười bảy tuổi đã đứng cứng đầu trước vành móng ngựa thực dân, hai mươi ba tuổi được Bộ Quốc Phòng biệt phái mang số tiền lớn tương đương một ngàn lượng vàng bí mật sang tla mua vũ khí; sát cánh cùng hoàng thân Suphanuvong trong liên quân Lào-Việt; rồi đưa một cánh quân hải ngoại ngượt Campuchia về tiếp tế Nam Bộ kháng chiến. Kể từ đó, trên mỗi bước đường chinh chiến, hết đánh Pháp đuổi Mỹ đến tiêu diệt tập đoàn diệt chủng Pol Pot-Iêng Sary, tướng Dương Cự Tẩm được tiếp thêm sức mạnh bởi một ?onguồn lực? mới: tình yêu của một cô gái đồng bằng sông Cửu Long suốt đời dành cho ông-người chiến binh đến từ đồng bằng sông Hồng. Ông được thăng quân hàm thiếu tướng năm 1974, lên Trung tướng năm 1984 lúc đang là phó tư lệnh Quân khu 7 và được Nhà nước tặng Huân chương Độc lập hạng nhất.
    -Thưa Trung tướng, giả sử bây giờ một mình trở lại sống giữa điệp ngàn Trường Sơn, thì trong ba lô Trung tướng cái gì nhất định không thể thiếu?
    -Chiếc máy ảnh (cười sảng khoái). Tôi mê chơi ảnh lắm. Cả anh Trần Văn Trà và anh Trần Độ cũng vậy. Mà phong cảnh Trường Sơn thì tuyệt!
    -Bây giờ Trung tướng vẫn còn chơi ảnh.
    -Không bỏ được. Hồi ở Quân khu 9, thấy tôi mê ảnh, anh Đồng Văn Cống đã tặng tôi chiếc máy ảnh Canon không vỏ, trụi lủi. Tôi nhờ một chiến dịch biết nghề ảnh, chỉ giùm cách chụp, tráng phim, pha thuốc, rửa ảnh? Nay có dịp gặp anh em hay về thăm quê, tôi mới chụp.
    -Tuổi thơ là một ?otài sản? quan trọng của cuộc đời mỗi con người. Với Trung tướng, hình ảnh tuổi ấu thơ còn lưu gì trong ký ức của mình, thưa Trung tướng?
    -Tổ tiên tôi vốn theo Nguyễn Công Trứ vào khai hoang ở đất Kim Sơn, Ninh Bình. Cha tôi là một nhà Nha, làm thuốc Đông y. CÒn mấy ông chú tôi theo Tây học. Mẹ tôi là một phụ nữ thuần hậu, chất phác. Mẹ bảo tôi tuổi Tuất, tức sinh năm 1922. Giấy khai sinh tốt nghiệp tiểu học của tôi lại đề sinh năm 1924. Còn tuổi nghỉ hưu thì năm 1921. Lúc nhỏ, tôi học tiểu học ở Kim Sơn, có một năm theo học trường dòng Phát Diệm. Năm 1939, tôi vào học trường kỹ nghệ Hà Nội, được giác ngộ tham gia phong trào cách mạng phản đế tại trường.
    Vì tổ chức bí mật của học sinh yêu nước bị vỡ, năm 1942 tôi bị bắt cùng một nhóm thanh niên học sinh Hà Thành. Trong đó có anh Nguyễn Văn Kha, sau này là Bộ trưởng Bộ Công nghiệp; anh Hoè, sau này làm chủ tịch thành phố Hải Phòng, rồi trưởng Ban Kinh tế Trung ương. Chúng tôi bị chính quyền thực dân đưa ra toà án quân sự. Nhờ Luật sư Phan Anh cãi kịch liệt, với lý do tôi mới mười bảy tuổi, nên chỉ bị đưa đi trại cải tạo trẻ vị thành niên ở Bắc Giang. Năm 1943, tôi bị đưa về quản thúc ở địa phương, gia đình tổ chức cho tôi trốn lên huyện Yên Mô dạy học tư kiếm sống và tiếp tục hoạt động cách mạng.
    -Được biết sau Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám. Trung tướng được phân công mang nửa triệu bạc Đông Dương sang Thái Lan mua vũ khí. Trung tướng có thể kể vài nét về sứ mệnh đặc biệt này?
    -Vâng. Cách mạng thành công, tôi được anh Trần Văn Tuyên phân công phụ trách công đoàn Hà Nội. Lúc đó Trần Văn Tuyên là chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam, anh trực tiếp giới thiệu tôi vào Đảng. Và tôi đã dẫn đầu đoàn đại biểu công nhân thủ đô-đoàn dại biểu quần chúng cách mạng đầu tiên vào Phủ Chủ tịch để tiếp kiến Hồ Chủ tịch. Tiếp theo là một nhiệm vụ mới: tháng 11 năm 1945, tôi cùng các anh Lê Thiệu Huy-sinh viên luật, Hoàng Xuân Bình và Lê Trọng Thời là sinh viên y khoa, được Bộ Quốc phòng cử sang Thái Lan mua vũ khí tiếp tế cho Nam Bộ.
    Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Vũ Anh gọi tôi lên, viết giấy giới thiệu sang ngân hàng nhận nửa triệu đồng tiền Đông Dương, tương đương một ngàn lượng vàng. Trong điều kiện khó khăn của chính quyền non trẻ bấy giờ, đây là số tiền rất lớn. Tôi sang ngân hàng thì hết tiền mặt, chỉ còn có loại 5 hào. Biết làm sao? Tôi phải chạy đến các tiệm bánh quen ở phố Hàng Đào nhờ anh em công nhân vận động chủ tiệm đổi thành tiền loại 10 đồng, 20 đồng để dễ dàng mang đi. Tôi nhớ khi đến tiệm bánh đầu tiên, có hai cô gái khá xinh con ông chủ tiệm, nghe tôi là phái viên Bộ Quốc phòng mà còn quá trẻ, hai cô cứ lấp ló trộm nhìn (cười thích thú). Sau đó, hai cô cũng giúp tôi đắc lực trong việc đi đổi tiền.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Bằng cách nào đoàn mua vũ khí sang được Thái Lan?
    -Vượt qua đất Lào. Trước tiên, chúng tôi hẹn gặp nhau ở Huế. Tôi là đảng viên duy nhất trong đoàn, được phân công giữ tiền và được Bộ Quốc phòng cấp một thẻ ?ohoả tốc? đặc biệt ưu tiên. Muốn sang Thái Lan phải qua Savanakhet. Mà lúc đó, quân Pháp đã trở lại Nam Lào, cắt đứ con đường này. Nhưng theo qui định của quân Đồng Minh, từ vĩ tuyến 17 trở ra thuộc quyền kiểm soát của quân đội Tưởng Giới Thạch, nên dù có trở lại quân Pháp ở Lào vẫn ?odưới cơ? quân Tưởng.
    Bộ chỉ huy quân sự Huế làm cho tôi một căn cước giả và tôi ăn mặc giả người tàu để đi. Tài xế sắp xếp cho tôi ngồi ở trước, bên cạnh một thiếu uý quân Tưởng về Huế công tác, trở sang Lào. Vali tiền tôi để dưới chân. Nhờ có học chữ Nho nên tôi bút đàm với viên thiếu uý quân Tưởng. Anh ta rất thích thú. Xe hành khách hai lăm chỗ ngồi chạy qua những khu rừng toàn cây dầu. Thỉnh thoảng có vài tên lính Pháp mang súng chặn xe kiểm tra, nhưng thấy viên thiếu uý Tưởng, chúng liền gật đầu chào, để xe qua. Đến Savanakhet, ông Nguyễn Văn Tiến, chủ tịch Tổng hội Việt kiều ở Thái Lan sang chờ đón tôi. Thở phào nhẹ nhõm, thế là tôi hoàn thành nhiệm vụ. Tôi giao lại toàn bộ tiền cho ông Tiến. Mấy ngày sau, các anh Bình, Huy, Thời cũng sang.
    -Sao lúc đó Thái Lan có vũ khí mà ta sang mua?
    -À, vì Thái Lan bấy giờ có phong trào du kích chống Nhật do Đảng Seri Thay lãnh đạo. Tổng hội Việt kiều có quan hệ tốt với đảng này. Mỹ đã thả dù vũ khí tiếp tế cho du kích Thái, nhưng Nhật vừa đầu hàng quân Đồng Minh, nên số vũ khí đó không sử dụng.
    -Thưa Trung tướng, vật lực lượng Việt kiều Giải phóng quân mà Trung tướng tham gia chỉ huy đã ra đời như thế nào?
    -Do Trung ương chỉ đạo tổ chức giúp Lào khởi nghĩa giành chính quyền. Vì thiếu cán bộ, ông Nguyễn Văn Tiến đã đề nghị với Hà Nội để tôi ở lại làm chính trị viên Bộ Chỉ huy Việt kiều Giải phóng quân tỉnh Thakhet. Ba anh Huy, Bình, Thời tiếp tục lo việc mua vũ khí. Anh Nguyễn Chánh vốn là lính khố xanh của Pháp, sau Cách mạng tháng Tám, đã đưa lính về gia nhập Giải phóng quân, được phân công làm chỉ huy trưởng ở Thakhet. Nguyễn Chánh hải ngoại này hiện là Trung tướng, khác với Nguyễn Chánh vốn là tư lệnh kiêm chính uỷ Liên khu 5 đã mất.
    -Việc Trung tướng cộng tác với hoàng thân Suphanuvong bắt đầu từ đâu?
    -Khi nhận nhiệm vụ chính trị viên, tôi đã tiếp xúc với hoàng thân. Chính phủ Cách mạng lâm thời do hoàn thân Suphanovong làm chủ tịch đã ra mắt tại Thakhet. Tôi nhớ trong buổi lễ, hoàng thân mặc bộ quân phục kaki vàng, tay chống ba-toong lên duyễn thuyết giữa tiếng hoan hô như sấm dậy. Nhân dân Lào tự hào về vị lãnh tụ của mình lắm! Sau bao năm chịu ách đô hộ của thực dân Pháp, họ đã có người dẫn đường giành lại độc lập cho đất nước.
    -Còn phu nhân hoàng thân Suphanuvong, nghe nói là người Việt, Trung tướng có dịp tiếp xúc?
    -Có. Phong cách hoàng thân ảnh hưởng đậm văn hoá phương Tây, nên đi đâu cũng có ?obà đầm? bên cạnh. Ông quí mến bà lắm. Bà hoàng vốn là người gốc Huế. Khi xuất hiện trước công chúng, tóc bà cũng bới cao như phụ nữ Lào, mặc saron. Trong buổi đại lễ lập nước, khi hoàng thân đăng đàn, và cũng lên đứng cạnh ông. Sau buổi lễ, ông bà đã mở tiệc chiêu đãi.
    -Trung tướng còn nhớ gì về hoạt động của lực lượng liên quân Lào-Việt lúc bấy giờ?
    -Cuối tháng 9 năm 1945, sau khi gây hấn ở Nam Bộ, quân Pháp đã trở lại chiếm đóng Campuchia và các tỉnh Hạ Lào. Sau Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, từ Nam Lào quân Pháp tập trung lực lượng lớn tấn công lên phía Trung và Bắc bằng máy bay, xe tăng, cơ giới. Các thành phố, thị xã Viêng Chăn, Savanakhet và Thakhet bị bao vây. Liên quân Lào-Việt được thành lập từ cuối năm 1945, đã chống trả ngoan cường. Nhưng do quân Pháp quá mạnh, liên quân chống giữ một thời gian thì phòng tuyến bị chọc thủng.
    Đêm 23 tháng 3 năm 1946, liên quân đánh yểm trợ cho đồng bào rút lui, làm vườn không nhà trống, vượt sông Mêkông sang Thái Lan. Sau vạn Việt kiều ở ba tỉnh lớn của Lào cũng cùng di cư. Địch tập kích, hoàng thân Suphanuvong bị thương nặng khi qua sông. Anh Lê Thiệu Huy trúng đạn hy sinh ngay trên chiếc canô có hoàng thân. Chuyến vượt sông này quân cách mạng bị tổn thất khá nặng. Đồng bào di cư cũng bị chết rất nhiều. Chính phủ Thái Lan yêu cầu quân giải phóng phải giao nộp vũ khí. Nhưng nhờ Tổng hội Việt kiều ngoại giao tối với chính quyền địa phương, nên chỉ giao nộp tượng trưng, còn phần lớn vũ khí được phân tán cất giấu.
    Tháng 5 năm 1946, có lệnh tập hợp lực lượng quân giải phóng chiến đấu ở Lào. Tôi cùng các anh Nguyễn Chánh, Lê Quốc Sản, Đỗ Huy Rừa được giao nhiệm vụ tổ chức, huấn luyện. Tại chiến khu Noong Kè, trong vòng mười ngày, chúng tôi đã lựa chọn và tập trung được hơn 400 chiến sĩ trong số những người tình nguyện từ các cơ sở Việt kiều, thành Chi đội Trần Phú. Anh Nguyễn Chánh là chi đội trưởng, tôi làm chính trị viên, hai anh Lê Quốc Sản và Đỗ Huy Rừa làm chi đội phó. Chi đội được tổ chức thành bốn đại đội, hoạt động dưới danh nghĩ công nhân làm đường để che mắt chính quyền Thái Lan ở Trung ương.
    Qua Tổng hội Việt kiều, chúng tôi cũng nhận thầu xây dựng một con đường dài mười cây số từ Noong Kè ra Phnôm. Ban ngày làm đường, ban đêm bí mật ra cánh đồng đã gặt để tập luyện. Hậu cần đều do con Việt kiều ở Thái tiếp tế.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Trung tướng đánh giá thế nào về sự đóng góp của Việt kiều Thái-Lào lúc đó cũng như trong suốt hai cuộc kháng chiến đối với Tổ quốc?
    -Rất lớn. Cả sức người lẫn của cải vật chất. Việt kiều Thái-Lào đã ghi thêm những trang sử vàng vào lịch sử truyền thống yêu nước của dân tộc. Sự hình thành khối người Việt ở Thái-Lào có đặc điểm lịch sử riêng, mà nổi rõ nhất là dân tị nạn sau khi phong trào Cần Vương thất bại, đến Xô viết Nghệ-Tĩnh bị đàn áp dã man và công nhân khai thác mỏ ở Lào, phu làm đường nối ba nước Đông Dương. Vì vậy, lòng căm thù ngoại xâm và tinh thần yêu nước luôn nung nấu trong họ.
    Phong trào cách mạng của Việt kiều Lào-Thái có mối liên hệ chặt chẽ với trong nước. Nhiều nhà cách mạng đã sang Thái Lan bí mật hoạt động trong sự che chở, giúp đỡ của Việt kiều. Mùa thu năm 1928 đến cuối năm 1929, Bác Hồ dưới bí danh Thầu Chín cũng từng hoạt động trong cơ sở Việt kiều ở đây. Từ năm 1941, các tổ chức Việt kiều phát triển mạnh, với Tổng hội Việt kiều là cơ quan lãnh đạo cao nhất. Đầu năm 1945, theo chỉ thị của Trung ương, Xứ uỷ Thái-Lào được sự giúp đỡ của Đảng Seri Thay-một đảng chính trị có xu hướng độc lập, dân chủ và chống phát xít Nhật, có chính sách thân thiện với Việt kiều, đã tổ chức thành lập chiến khu Sakon với lực lượng vũ trang lấy tên Việt Nam độc lập quân. Đây là chiến khu bí mật nhưng đã thu hút khá đông nam nữ thanh niên Việt kiều yêu nước, làm nòng cốt xây dựng Việt kiều giải phóng quân ở Lào sau này.
    -Thưa Trung tướng, khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, có tất cả mấy cánh quân hải ngoại xuất phát từ Thái Lan về tiếp tế Nam Bộ?
    -Gồm bốn đơn vị. Thứ nhất là Bộ đội Độc lập số 1, còn gọi là Hải ngoại 1. Đây là lực lượng vũ trang của cộng đồng người Việt ở Campuchia, chủ yếu là vùng Battambang, được xây dựng cuối năm 1945 tại chiến khu Biển Hồ-lúc này còn thuộc quyền kiểm soát của Thái Lan. Tháng 8 năm 1946, Hải ngoại 1 có hơn 100 quân, do các anh Huỳnh Văn Vàng (Dương Tấn) là chỉ huy trưởng, Ngô Thất Sơn làm chỉ huy phó và Đặng Văn Duyệt làm bí thư chi bộ. Đơn vị hành quân theo hướng Siêm Riệp-Kompong Thom-Kompong Chàm về Tây Ninh. Cuối năm 1947, do yêu cầu mới, anh Ngô Thất Sơn được chỉ định làm chỉ huy trưởng Hải ngoại 1, đến đầu năm 1949 anh bị địch phục kích bắt rồi hy sinh trong tù.
    Đơn vị thứ hai là Bộ đội Quang Trung, thành lập tháng 10 năm 1946 tại chiến khu Tippơdây. Quân số lúc đầu gần 50 người sau lên hơn 100. Tháng 11 năm 1946, ông Nguyễn Đức Quỳ-đại diện Chính phủ ta sang Thái Lan và ông Trần Văn Giàu giao nhiệm vụ anh Hoàng Xuân Bình làm chỉ huy quân sự đưa Bộ đội Quang Trung về Nam Bộ chiến đấu. Hoàng Xuân Bình cùng 15 người bí mật đưa vũ khí bằng đường xe lửa từ Bangkok sang Tippơdây. Ngày 15 tháng 11 năm 1946, Bộ đội Quang Trung làm lễ xuất phát, với các nhiệm vụ chính: mở đường mới về Nam Bộ qua vùng phía tây Biển Hồ, chuyển về Nam Bộ một số vũ khí đạn dược, hộ tống một số cán bộ cần về nước làm nhiệm vụ, kết hợp gây thanh thế cho lực lượng Issarak-Quân giải phóng nhân dân Campucha. Hành quân theo hướng Battambang-Pursat-Kômpng Chnăng-Kongpong Spư-Tà Keo về Châu Đốc. Ban chỉ huy gồm có các anh: Phạm Văn Thuận làm tổng chỉ huy kiêm chính trị viên, Hoàng Xuân Bình phụ trách chỉ huy trưởng quân sự, Võ Hoành và Hoàng Ngọc Cừ làm chính trị viên phó. Nguyễn Trọng Thường và anh Giao làm phó chỉ huy quân sự, Trần Ngọc Quế chỉ huy trung đội chiến đấu.
    Đơn vị thứ ba là Chi đội Trần Phú. Ngày 20 tháng 12 năm 1946 đơn vị hq bằng xe bus chở hành khách từ That-Phanôm đến tập kết ở khu rừng gần Mường Đêk, Đông Nam Thái Lan. Có ba cán bộ được tăng cường cho đơn vị: anh Sơn Ngọc Minh-cán bộ cách mạng Campuchia, anh Trần Văn Sáu-uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ Trà Vinh sang Thái Lan mua vũ khí và anh Lê Quán Trung (Hải Nam). Đến ngày 26 tháng 12, Chi đội Trần Phú làm lễ xuất phát. Tiến về biên giới Thái-Campuchia, vượt qua dãy núi Đăng Rek về biên giới dựng đứng, đơn vị hành quân về hướng phum Présenke trên bờ sông Mêkông thuộc tỉnh Kompong Chàm để về Tây Ninh.
    Ban chỉ huy Chi đội Trần Phú lúc này gồm các anh: Nguyễn Chánh làm tư lệnh trưởng, Lê Quốc Sản và Đỗ Huy Rừa làm tư lệnh phó, Trần Văn Sáu là chính trị viên, Hải Nam và Dương Cự Tẩm làm chính trị viên phó, Sơn Ngọc Minh làm cố vấn. Chi đội tổ chức thành ba đại đội chiến đấu, một phân đội đại liên, một phân đội trinh sát, một phân đội vận tải và đoàn bộ, gồm tất cả 426 người. Chiến sĩ nhỏ nhất là em Ngọc mới mười ba tuổi. Quân phục màu xanh lá cây, nón sắt, dép da, dây nịt gọn gàng. Vũ khí trang bị phần lớn là các loại súng liên thanh mới. Mỗi người đều mang vác khá nặng.
    Đơn vị thứ tư là Tiểu đoàn Hải ngoại Cửu Long 2. Quân số gần 300 người được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1947 tại chiến khu Prakpong thuộc tỉnh Pracchin-Boari của Thái Lan, gồm phần lớn là con em Việt kiều ở Lào, có bốn người là cán bộ du kích Mã Lai và sáu người Campuchia. Ban chỉ huy gồm có các anh: tiểu đoàn trưởng Dương Quang Đông, chính trị viên Trương Văn Kỉnh và tiểu đoàn phó Bông Văn Dĩa. Bộ đội Cửu Long 2 được trang bị vũ khí mới, nhiều đạn dược, tập kết về chiến khu Mai Ruột, vùng biên giới Nam Thái Lan giáp Pailin của Campuchia. Ngày 7 tháng 11 năm 1947, đơn vị được lệnh hành quân về Hà Tiên của Khu 9, qua địa bàn Battambang-Kompông Spư. Trước khi lên đường, bộ đội Cửu Long 2 đã gây tiếng vang bằng trận đánh tiêu diệt đồn Sam Lop thuộc căn cứ Pailin do một trung đội quân Pháp chiếm đóng.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Riêng Chi đội Trần Phú mà Trung tướng tham gia chỉ huy, sau khi về nước, đã có những hoạt động gì?
    -Về tới Tây Ninh, chứng kiến cảnh nồi dao xáo thịt do bọn Cao Đài ********* gây ra, xóm làng đầy cảnh tang tóc, chi đội đã đề nghị tỉnh uỷ cho phép lấy danh nghĩa một đơn vị hải ngoại mới về nước, ra lời kêu gọi đoàn kết gởi đến các chức sắc, tín đồ Cao Đài. Vì lý do chính trị, đơn vị ký tên Chi đội Hải ngoại 4. Điều này cũng nhằm thông báo là chiến trường Nam Bộ đã có 4 đơn vị hải ngoại về nước. Tháng 3 năm 1947, Hải ngoại 4 đã tham gia Liên quân B với Chi đội 11 bộ đội Hoàng Thọ, hành quân chiến đấu ở Gò Dầu và Trảng Bàng thuộc Tây Ninh. Đặc biệt, có một phân đội đi bảo vệ hai anh Nguyễn Chánh và Trần Văn Sáu về Bộ tư lệnh Quân khu 7 để trình diện và nhận nhiệm vụ, đã tham gia hai trận đánh ?otrình làng? vang dội tại giồng Dinh và giồng Thổ Địa. Cả hai trận chống quân Pháp nhảy dù đều thắng lớn, tiêu diệt gần hai đại đội địch thu nhiều súng đạn. Sau đó, Chi đội Hải ngoại 4 được phân về hoạt động ở Quân khu 8.
    -Bắt đầu từ đây, cuộc đời Trung tướng gắn chặt với chiến trường Nam Bộ?
    -Vâng. Năm 1954 đình chiến, tôi ra Bắc làm chủ nhiệm chính trị Sư đoàn 332 đi tiễu phỉ ở biên giới Lạng Sơn trong hai năm. Sau thời gian công tác ở Tổng cục Chính trị, năm 1962 đi Chiến dịch Nậm Thà bên Lào làm chủ nhiệm chính trị chiến dịch mà anh Bằng Giang là tư lệnh, anh Trần Độ làm chính uỷ. Tháng 7 năm 1964 tôi bí mật vượt biển vào Nam, đổ bộ lên Bến Tre, cùng các anh Lê Văn Ngọc, Lê Văn Lựu? Về Bộ chỉ huy Miền, tôi được cử làm cục phó Cục Chính trị Quân giải phóng miền Nam. Đến năm 1967 tôi về làm chính uỷ Sư đoàn 7 còn anh Nguyễn Hoà làm tư lệnh.
    Để chuẩn bị cho cuộc tấn công xuân Mậu Thân 1968, tôi được điều xuống Quân khu 9 làm phó chính uỷ khu do anh Đồng Văn Cống làm tư lệnh, tham gia mặt trận tiền phương ở Cần Thơ. Năm 1969, tôi về làm chính uỷ Quân khu 8, đi chiến trường, nghiên cứu chống bình định trọng điểm của địch ở Mỹ Tho. Năm 1974, tôi lại lên làm chính uỷ Quân khu 7, chuẩn bị cho cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975. Có thể nói, cuộc đời chiến đấu của tôi trải gần hết chiến trường Nam Bộ.
    -Nghe nói, cuối năm 1974, Trung tướng được nghỉ phép ra Bắc, nhưng khi vừa lên đường thì có lệnh ở lại tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đúng không, thưa Trung tướng?
    -Đúng vậy. Đang chờ xe, tôi được anh Lê Đức Anh-phó tư lệnh kiêm tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Miền, gọi về báo chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Lúc đó, tôi thực sự bần thần. Đã gần mười một năm xa vợ con. Rất thèm một chút không khí gia đình riêng tư. Anh Lê Đức Anh chỉ nó có nhiệm vụ mới, chứ không cho biết cụ thể, vì bí mật quân sự. Anh khuyên tôi nên ở lại, vì tôi đã lăn lộn ở chiến trường Nam Bộ bao năm, nếu không có mặt thì không hay, khi có khả năng đánh lớn.
    -Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Trung tướng tham gia cánh quân nào?
    -Cánh quân phía Đông. Nhiệm vụ của tôi là đón Quân đoàn 2 và chọn người dẫn đường đưa xe tăng tiến vào dinh Độc Lập.
    -Trung tướng còn giữ kỷ niệm gì về những ngày đầu tiên tiếp quản Sài Gòn?
    -Bất ngờ nhất là tôi gặp vợ và con trai cũng vào tiếp quản thành phố. Vợ tôi sau khi vào Đà Nẵng tiếp quản các cơ sở công nghiệp, tiếp tục vào Sài Gòn làm nhiệm vụ. Con trai tôi cũng vào Đà Nẵng bằng đường thuỷ rồi bay vô Sài Gòn tiếp quản ngành không quân. Điều thú vị là cả vợ và con tôi cũng hoàn toàn bất ngờ khi gặp nhau tại Sài Gòn.
    -Khi chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, Trung tướng có ra trận?
    -Có chứ! Tôi và anh Năm Ngà cùng làm phó tư lệnh Quân khu 7 phụ trách chung hai mặt trận tiền phương của quân khu: Siêm Riệp do anh Hồ Quang Hoá làm tư lệnh và Kompong Chàm do anh Đặng Quang Long làm tư lệnh, cùng tiến vào giải phóng Campuchia khỏi ách diệt chủng.
    -Là vị tướng nhiều kinh nghiệm về công tác chính trị, Trung tướng đánh giá thế nào về vai trò của chính trị trong quân đội? Và theo Trung tướng có nên tách chính trị ra khỏi quân đội như nhiều quốc gia đã làm?
    -Quân đội mỗi nước có đặc thù riêng. Đối với quân đội ta, chính trị phải luôn gắn liền với công tác quân sự, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực tế lịch sử cho thấy, nếu không có sự lãnh đạo của Đảng thì quân đội khó vượt qua những khó khăn mà đôi lúc tưởng chừng như tan rã. Và nếu không có Đảng lãnh đạo thì không có một đội ngũ cán bộ cốt cán là đảng viên trong quân đội, luon gánh lấy những nhiệm vụ nặng nề nhất, thử thách nhất.
    -Trong chiến tranh có hiện tượng tham nhũng không, thưa Trung tướng?
    -Có, nhưng chẳng đáng kể. Tham ô chỉ xảy ra ở những anh giữ kho quân trang, quân dụng, nói chung là bên hậu cần. Nhưng cũng dừng lại ở mức lặt vặt thôi. Bởi điều kiện đâu cho phép. Thứ nhất là anh rất dễ lộ diện giữa cuộc sống gian khổ và như thế, không thể tồn tại trên chiến trường. Thứ hai là trong rừng làm gì có hàng quán để ăn chơi xa xỉ, với lại chuyện sống chết luôn kề bên thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới chuyện thủ lợi riêng mình.
    -Hồi ấy, là một chính uỷ quân khu, những buổi tiếp khách sang nhất của Trung tướng gồm những gì?
    -Một, hai con gà đã ngon lành. Sang hơn nữa thì nhờ anh em cần vụ chạy kiếm con cầy.
    Được ptlinh sửa chữa / chuyển vào 10:59 ngày 13/03/2006
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Ở chiến trường như thế, còn trong đời sống gia đình, theo Trung tướng làm thế nào để bảo vệ được hạnh phúc vợ chồng, nuôi dạy con cái nên người?
    -Tôi chiến đấu xa nhà có lúc hàng chục năm trời, nên nuôi dạy con cái đều do bà nhà lo hết. Bây giờ khi da mồi tóc bạc mới có dịp gần gũi chăm sóc nhau. Kinh nghiệm cho thấy để cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhất thiết phải thực sự làm chủ, bởi điều đó còn quan hệ đến vd thu nhập, chi tiêu?
    -Trung tướng còn nhớ kỷ niệm lần đầu gặp bà nhà trong hoàn cảnh nào?
    -À, trong buổi lễ thương binh-xã hội lần đầu tiên do tỉnh Sa Đéc tổ chức vào ngày 27 tháng 7 năm 1947. Tôi đang là chính trị viên Trung đoàn 109 đóng ở đây. Trong Ban chỉ huy Hội Phụ nữ tỉnh Sa Đức lúc đó có mấy cô khá xinh. Tôi để ý một cô tên Mau, Vũ Thị Mau, trông gọn gàng, hoạt bát mà lại rất có ?ouy? với những cô khác. Anh em bộ đội thấy vậy? cắp đôi. Tôi nhớ một lần hai chúng tôi gặp nhau ở sở chỉ huy trung đoàn đóng tại nhà dân, cô ấy hỏi:
    -Anh quê ở đâu?
    Tôi đùa:
    -Quê tôi là bộ đội!
    Cô ấy ngầm giận mãi. Sau này tôi mới biết (cười).
    -Đám cưới ông bà được tổ chức ở đâu?
    -Ban chỉ huy Trung đoàn 109 đứng ra tổ chức tại xã Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp, nhân hội nghị Xứ ủy diễn ra ở đây năm 1949. Các anh Lê Duẩn, Phan Trọng Tuệ, Trần Văn Trà, Ung Văn Khiêm cùng nhiều anh chị Xứ uỷ đã đến dự. Vui lắm! Trung đoàn trưởng Đặng Văn Thông xin được một ít tiền bên tỉnh, đã tổ chức bữa ăn mặn đàng hoàng. Khi làm lễ, đồng chủ hôn là uỷ viên xã hội tỉnh đã nghiêm trang hỏi: Tên anh là gì? Tên chị là gì? Anh có yêu chị không? Chị có yêu anh không?... Còn có cả giấy hôn thú mà bây giờ bà ấy còn giữ.
    -Hình như bà nhà còn có tên Mai Thanh?
    -Vâng, đó là bí danh hồi kháng chiến. Ra Bắc, bà ấy đi học và làm việc bên ngành công nghiệp dệt. Sau này trở thành phó giám đốc Nhà máy dệt 8/3. Chúng tôi có ba con hai trai, một gái. Con trai lớn bây giờ là Đại tá giám đốc Phân viện Kỹ thuật Quốc phòng.
    -Hỏi nhỏ ông: thời còn học sinh ở quê nhà, ông có mối tình nào đáng nhớ không?
    -(Ngập ngừng) Có một kỷ niệm khá vui mà tôi nhớ mãi. Khi còn học ở thị xã Bắc Ninh, ông đốc học rất thương tôi và hay rủ tôi về nhà chơi. Ông đốc học có cô con gái dễ thương lắm, hợp tính, nên thường trò chuyện. Chúng tôi có tình cảm với nhau, nhưng tôi cũng chẳng biết đó là tình bạn hay tình yêu. Đến khi tôi tham gia cách mạng, bị bắt, mãn hạn tù về lại nhà. Một trưa nọ, bất ngờ có một cô gái mặc áo dài màu hồng nữ sinh đến nhà tôi, trông rất xinh đẹp. Làng xó ai cũng trầm trồ. Tôi đang ở trần, lom khom phơi rơm. Ngẩng đầu lên, nhìn tận măt, thì ra? cô Liên, con gái ông đốc học, lặn lội từ thị xã về làng hơn ba mươi cây số để thăm tôi!
    Vào nhà, hỏi thăm nhau một lúc thì cô ấy chào về. Cô ấy xưng tôi, nhưng gọi tôi bằng anh. Tôi rất xúc động. Người trong làng thì xầm xì với nhau: cô ấy thích tôi! Tiếc rằng, vì nhiệm vụ cách mạng, tôi rời quê hương ra đi, không có dịp đến thăm thầy và cho đến bây giờ tôi cũng chưa có dịp gặp lại được cô Liên. Cô ấy bây giờ cũng thành bà cụ, nghe đâu lúc sống ở Hà Nội lúc thì cũng vô Sài Gòn cùng con cháu.
    -Thế còn lúc ở Thái Lan và Lào, Trung tướng có làm bạn với cô gái Thái hay Lào??
    -Khi Chi đội Trần Phú được thành lập, đóng trong khuôn viên một ngôi trường của người Thái. Trường có một thầy hiệu trưởng và một cô giáo sống nội trú. Tôi làm công tác chính trị, hay giao thiệp. Cô giáo tỏ ra mến tôi và thường rủ tôi đi picnic, mời về nhà cô ấy chơi. Tôi cũng cảm thấy mình có một tình cảm đặc biệt, nhưng không thể thổ lộ được. Cô ấy da ngăm ngăm, có duyên, hình dáng gần giống người Lào. Tôi đâu biết tiếng Thái, nên nhờ cậu Ba Đen là bạn đồng đội đi theo phiên dịch. Chẳng biết Ba Đen có thêm bớt gì không, nhưng cứ nói ra thì cả ba cười ngất?
    Kỷ niệm thời thanh xuân như làm vị tướng trẻ lại. Trông ông hết sức hồn nhiên. Khuôn mặt phúc hậu càng hồng hào hơn. Cử chỉ càng thanh thoát hơn. Tôi ngỡ như mái tóc bạc phơ của lão tướng phút chốc trở nên xanh thẳm cùng ký ức của ông. Châm nước trà mời tôi, Trung tướng hạ giọng: ?oTổ quốc là thiêng liêng. Tình yêu và gia đình đối với mỗi con người cũng không thể thiếu. Suốt đời chiến đấu vì độc lập tự do cho dân tộc, tôi may mắn hơn nhiều anh em khác là có được một gia đình yên ấm, hạnh phúc!?. Hoà vào cảm xúc của vị tướng, tôi đọc bốn câu lục bát ứng khẩu tặng ông:
    Đặc phái viên thành kiều bào
    Lập liên quân giúp bạn Lào giải vây
    Viện binh Nam Bộ đánh Tây
    Mê hò sông Hậu vướng dây tơ hồng

    Trung tướng Dương Cự Tẩm nở tràng cười sảng khoái, đứng lên nắm chặt lấy tay tôi.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đoạn đầu hơi bị lạc đề chút ít nhưng phần sau có nói đến ông Lê Thiệu Huy-Tham mưu trưởng Liên quân Việt-Lào!
    Những điều chưa biết quanh tấm bằng tiến sĩ toán học đầu tiên của Việt Nam
    Ngày nay, tên tuổi nhà toán học Lê Văn Thiêm đã trở nên nổi tiếng đối với giới khoa học trong và ngoài nước. Ông là người Việt Nam đầu tiên đỗ bằng tiến sĩ toán học tại Pháp năm 1948. Cùng với các nhà khoa học lớn như giáo sư Tạ Quang Bửu, giáo sư Trần Đại Nghĩa? ông đã có công tiên phong trong việc đặt nền móng xây dựng nền khoa học và giáo dục hiện đại cho đất nước. Đã có hẳn một giải thưởng toán học đầy uy tín mang tên ông? Thế nhưng, ít ai biết rằng xung quanh tấm bằng tiến sĩ đầu tiên ấy của ông lại còn chưa cả một câu chuyện đáng tự hào và cảm động về tình yêu Tổ quốc, tình bạn, sự hy sinh và tinh thần học hỏi.
    Của hồi môn của dòng họ Lê ở làng cổ Ngu Lâm, nay là xã Trung Lễ, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh truyền lại cho con cháu chỉ gồm ba thứ: cái nghèo-rất nghèo, sự đỗ đạt và tinh thần bất khuất. Họ Lê xuất thân khoa bảng nhiều đến nỗi suốt thời phong kiến, người đời đã nôm na gọi tên làng quê của họ thành làng Kẻ Ngù, nói lái chữ ?oCụ Nghè?.
    Sang đầu thế ky XX, dòng dõi cự tộc của họ Lê ở Trung Lễ lại càng phát triển rực rỡ hơn. Khoa thi Canh Tý (1900), ông Lê Văn Nhiễu đậu cử nhân; 16 năm sau, em ruột ông là Lê Văn Huân lại giật Giải Nguyên. Cụ Giải Huân sau đó đã cùng các chí sĩ như ông nghè Ngô Đức Kế, cụ Huỳnh Thúc Kháng, cụ Đặng Nguyên Cẩn tham gia Duy Tân hội để hoạt động cách mạng, bị Pháp đày ra Côn Lôn suốt 10 năm (1908-1917). Được trả tự do, cụ Giải Huân lai tiếp tục hoạt động cứu nước, sáng lập và làm Chủ tịch Đảng Tân Việt (một trong những đản tiền thân của ********************** sau này). Bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà lao Vinh (Nghệ An), cụ đã mổ bụng cắt ruột tự sát vào năm 1929.
    Ông cử Lê Văn Nhiễu sau khi đỗ đạt cũng không ra làm quan mà lui về làng vừa cày ruộng vừa lấy nghề gõ đầu trẻ làm sinh kế. Ông cưới bà Phan Thị Đại, chị của cụ Phan Đình Phùng, sinh được hơn 10 người con, trong đó tất cả những người con trai (đều lấy họ Lê Văn theo thứ tự gồm các ông Kỷ, Luân, Tích, Xước, Duy, Nựu, Thiêm) đều khét tiếng vì học giỏi. Khoa thi năm 1918, người con trai cả là Lê Văn Kỷ lai nối gót cha chú đậu Tiến sĩ Đệ tam giáp trong khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn, sau đó xoay sang học nghề thuốc, trở thành y sĩ Tây y. Triều đình bỏ lệ khoa cử, những người em kế ông nghè Kỷ đều chọn con đường làm Cách mạng cứu nước để ?otu thần?. Người con thứ hai trong gia đìnhlà ông Lê Văn Luân đã trở thành Bí thư huyện uỷ đầu tiên của Đảng bộ Đảng Cộng sản huyện Đức Thọ. Sau Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931, ông Luân bị thực dân Pháp bắt. Chúng đã dùng cưa thợ mộc cưa đôi đầu ông, cưa sống, mà không hề gây mê để xem bộ óc lãnh đạo, tổ chức của người Cộng sản này ?olớn? đến mức nào!
    Sinh ngày 29-3-1918, người con út Lê Văn Thiêm lớn lên vào đúng giai đoạn lịch sử của đất nước và gia đình đầy những biến động đau thương nhất.
    Điều đó càng hun đúc thêm trong lòng cậu bé một ngọn lửa yêu nước và khao khát học tập.
    Sau phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, nhân dân hai tỉnh Hà Tĩnh-Nghệ An bị khủng bố đẫm máu.Làng Trung Lễ bị Pháp đốt sạch, toàn bộ tre pheo, cây cối trong làng đều bị chặt sát gốc. Bốn góc làng, thực dân Pháp cho dựng lên 4 chòi canh cao ngất nghểu để giám sát mọi động tĩnh. Cả tên làng cũng bị chúng đỏi thành Lạc Thiện, hòng xoá đi một ký ức bất khuất. Cha mẹ đều đã mất, gia đình bị o ép vì có anh là lãnh tụ Cộng sản, Lê Văn Thiêm không còn sự lựa chọn nào khác, đành bỏ làng theo anh Cả-ông nghè Lê Văn Kỷ vào Quy Nhơn để có thể theo đòi việc học. Chỉ trong 4 năm 1933-1937, anh đã học đuổi và hoàn tất chương trình tiểu học (cấp 1) và cao đẳng tiểu học (cấp 2) tại Trường Collège de Quy Nhon gồm cả thảy 9 lớp. Năng lực xuất chúng của anh đã khiến các giáo sư người Pháp phải kinh ngạc. Vì vậy, giáo sư Casimir Michel, Hiệu trưởng nhà trường đã quân sự đưa cái tên Lê Văn Thiêm đặt lên vị trí thứ nhất trong danh sách khen thưởng, dù tổng kế học tập, điểm của anh chỉ xếp hàng thứ 6. Để giải thích quyết định có một không hai của mình, vị giáo sư này chỉ nhận xét đúng một câu: ?oAnh ấy sẽ tiến xa hơn tôi?. Không phụ lòng tin và sự ưu ái của người thầy tri kỷ, chỉ sau đúng 3 tháng, Lê Văn Thiêm đã thi đỗ tú tài 1 (tương đương lớp 11) thay vì phải mất đúng 2 năm đèn sách như tất cả mọi người. Năm sau, Lê Văn Thiêm tốt nghiệp tú tài toàn phần và ghi danh vào lớp học P.C.B (lý-hoá-sinh) để chuẩn bị trở thành một sinh viên ngành Y của Trường đại học Đông Dương. Đến năm 1939, với thành tích á khoa kỳ thi tốt nghiệp P.B.C, anh giành được học bổng sang Pháp du học.
    Sang Pháp, anh bỏ con đường y khoa, xin vào Trường đại học Sư phạm (École Normale Supérieure). Chỉ 2 năm sau, Lê Văn Thiêm đã lấy xong bằng cử nhân hạng ưu của trường này. Lúc này, Chiến tranh thế giới thứ II đã bắt đầu lan rộng, thay vì tiếp tục học lên thạc sĩ Toán, Lê Văn Thiêm lại cùng một số bạn bè tìm đường sang Đức, xin theo học các ngành như pháo binh, hoá học quân sự? với hy vọng sẽ hữu ích hơn cho đất nước trong thời buổi chiến tranh. Bị Chính phủ Hitler từ chối, Lê Văn Thiêm đành tự tìm thầy hướng dẫn để quay lại nghiên cứu toán học. Anh lấy xong bằng tiến sĩ chuyên gành toán về giải tích phức (1944) tại Đức, đúng vào lúc Đức Quốc xã đang liên tục đại bại trên các chiến trường. Con đường khoa học đã đẩy anh sang Đức, trở thành một trong số rất ít người Việt Nam may mắn được chứng kiến sự sụp đổ của Đức Quốc xã. Sau đó, anh trở về Pháp và ba năm sau-1948, dưới sự hướng dẫn của giáo sư Georges Valiron-chuyên viên giỏi nhất về hàm số giải tích một biến số phức của Pháp đương thời, anh đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án tiến sĩ khoa học quốc gia trước một hội đồng gồm các chuyên gia hàng đầu về môn giải tích hàm biến phức của nước Pháp.
    Vậy là, đúng 30 năm sau ngày người anh cả Lê Văn Kỷ giật giải Tiến sĩ trong khoa thi Nho học cuối cùng của thời phong kiến, người em út Lê Văn Thiêm của dòng học Lê vọng tộc này lại thành công trong kỳ tích ?omở đầu? nền khoa học hiện đại Việt Nam-trở thành người Việt Nam đầu tiên giành được học vị Tiến sĩ toán học.
    Bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, tên tuổi Lê Văn Thiêm nhanh chóng trở nên vang dội trong giới khoa học, đặc biệt là toán học của nước Pháp và toàn thế giới, bởi công trình của ông đã mở ra một hướng nghiên cứu mới trong lý thuyết hàm biến phức. Tuy học rất giỏi nhưng Lê Văn Thiêm vẫn luôn nể phục một người đồng hương khác, đó là Lê Thiệu Huy, cháu gọi ông bằng chú nhưng chỉ kém ông 2 tuổi (sinh năm 1920).
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thật ra, chính danh Lê Thiệu Huy phải mang họ Trần Lê. Theo dân gian làng Trung Lễ truyền miệng, họ Trần cũng là một họ lớn của xứ Kẻ Ngù có đông người đỗ đại khoa. Đến đời cụ Trần Lê Thước, vì thi trượt mấy lần, ông quyết đổi ra họ Lê để ?ođổi vận?. Quả nhiên sau đó ông giật Giải Nguyên (không rõ khoa thi). Sau ông học thêm Tây học và trở thành một học giả nổi tiếng của thế kỷ XX về văn học và sử học, có nhiều học trò thành đạt như Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Hoàng Minh Giám? Về vai vế, cụ Lê Thước là con cô, còn tiến sĩ Lê Văn Thiêm là con cậu. Lê Thiệu Huy là con đầu của vị giáo sư danh tiếng này. Tuy ít tuổi hơn, nhưng trên con đường học vấn, Lê Thiệu Huy đã đi trước Lê Văn Thiêm một quãng dài. Từ bé đến lớn, Lê Thiệu Huy luôn bỏ xa các bạn đồng môn, và thường học vượt cấp một năm hai-ba lớp, trong khi kết quả học tập chưa một lần bị rớt xuống hạng nhì. Năm 1939, mới 19 tuổi, Lê Thiệu Huy đã tốt nghiệp một lúc 3 bằng cử nhân loại ưu tại Paris-một thành tích vang dội mà trước anh, trong lịch sử đại học, chưa một sinh viên Pháp nào từng dám mơ vươn tới nổi. Một nhà toán học lừng danh thời bấy giờ là giáo sư Brachet, người Pháp gốc Do Thái đã phải ngợi khen: ?oTôi chưa bao giờ thấy có sinh viên nào xuất chúng hơn mơ sẽ gặp người thứ hai tài ba đến vậy?.
    Cùng là những sinh viên ?okhét tiếng? ở Pháp, hai chú cháu Lê Văn Thiêm-Lê Thiệu Huy đã nhanh chóng trở thành một đôi bạn rất thân, cùng có chung một đam mê khám phá những phức tạp của ngành khoa học toán. Thời gian này, họ đã thường thành xuyên bàn luận với nhau về một bài toán cổ đã tồn tại hàng trăm năm mà chưa có lời giải, đó là bài toán ngược của phân phối giá trị các hàm hình-công trình sau này đưa Lê Văn Thiêm đến với tấm bằng tiến sĩ.
    Nhưng Chiến tranh thế giới nổ ra đã chia hai người hai ngả. Lê Thiệu Huy tìm đường về nước tham gia cách mạng. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, anh được Bác Hồ cử sang Lào giúp bạn xây dựng quân đội kháng Pháp và trở thành Tham mưu trưởng Liên quân Việt-Lào-một tướng quân thực thụ-khi mới 26 tuổi.
    Mùa xuân 946, mặt trận Thà Khẹt (Lào) bị vỡ, Chính phủ kháng chiến của Hoàng thân Xuphanuvông phải vượt sông Mê Kông thoát sang Thái Lan lánh nạn. Lê Thiệu Huy đi chung với Hoàng thân trên cùng một chuyến đò. Sau lưng họ, đạn quân Pháp đuổi theo như vãi trấu. Trong tình thế hiểm nghèo, Tham mưu trưởng Lê Thiệu Huy đã lấy thân mình chắn đạn cho Hoàng thân-Chủ tịch Xuphanuvông thoát hiểm. Anh hy sinh ngay trong vòng tay của Hoàng thân vào ngày 26-3-1946. Nghe tin con hy sinh, cụ Lê Thước đã đau đớn viết bài thơ Khóc con với những câu đầy bi thương nhưng rất hào hùng:
    Treo gươm nghĩa kiệt
    soi ba nước
    Uống kiếp tài hoa
    mới nửa đời
    Phơi phới trời Tây
    hồn cố quốc
    Quân thù chưa giết
    hận chưa nguôi.

    Để tỏ lòng tri ân của Chính phủ và nhân dân Lào với liệt sĩ Lê Thiệu Huy, năm 1957, Hoàng thân Xuphanuvông đã viết một bức thư dài gửi vụ Lê Thước, kể lại chi tiết cái chết hào hùng của người Tham mưu trưởng, đồng thời chia buồn cùng gia đình anh. Cũng trong năm 1957, Chính phủ ta cũng truy tặng anh Huân chương Quân công hạng ba. Năm 1991, Chính phủ Lào lại truy tặng liệt sĩ Lê Thiệu Huy Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Lào-Huân chương Độc lập hạng nhất.
    Còn Lê Văn Thiêm, anh lại tiếp tục theo đuổi việc học tập. Đang ở Paris, nhận được tin bạn đã hy sinh, Lê Văn Thiêm hết sức đau đớn, càng quyết tâm bằng mọi giá phải hoàn tất giấc mơ khoa học của cả hai người, trả luôn phần nợ sách đèn của bạn. Ông đã thu thập tài liệu giải thành công bài toán cổ mà hai người đã từng đeo đẳng, cuối cùng biến nó trở thành tấm bằng tiến sĩ toán học đầu tiên cho Tổ quốc Việt Nam vào năm 1948. Khi công trình này được in (bằng tiếng Đức), nhà toán học 30 tuổi này đã kính cẩn cho in lên trang đầu dòng chữ:
    Mainem Freund
    LE-THIEU-HUY
    (Gefallen aufdem Mekong, furfden Vietnam in Fruhling 1946) in Verehrung zugeeinget
    (Kính tặng bạn thân Lê Thiệu Huy đã hy sinh cho Tổ quốc Việt Nam trên sông Mê Kông, mùa xuân năm 1946).

    Ngày nay, tại Nhà bảo tàng xã Trung Lễ, khách vào thăm sẽ thấy có 3 bảo vật đặt cạnh nhau: Bản gốc luận án tiến sĩ của Lê Văn Thiêm có nhan đề ?oCommentarii Mathematici helvetic? với dòng chữ đề tặng người bạn thân ở trang đầu; tấm huân chương ***g chân dung liệt sĩ Lê Thiệu Huy và bài thơi Khóc con của cụ Lê thước. Đó là ba nét son lịch sử góp phần làm giàu thêm kho tàng văn hoá rực rỡ của Việt Nam, dù chúng vẫn lặng lẽ nằm yên ở một làng vùng chiêm trũng xa khuất.
    Nguyễn Hồng Lam
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thượng tướng Trần Nam Trung
    Gương mặt phúc hậu. Trán rộng. Mắt nhỏ sáng. Thân hình vạm vỡ. Phong cách điềm đạm chân chất, nhiệt thành như một lão nông lực điền nhưng vẫn không mất vẻ oai phong của một vị tướng dày dạn trận mạc. Hai Hậu-Trần Nam Trung, cái tên quen thuộc, nhất là đối với nhân dân miền Nam và đối phương thời đánh Mỹ. Trước khi được giao trọng trách bí mật vào Nam ?ochiêu hiền mộ sĩ? tổ chức xây dựng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt nam, tướng Trần Nam Trung từng là một trong những ?othủ lĩnh? du kích Ba Tơ, rồi phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, bí thư Liên khu uỷ 5. Cuộc đời chiến đấu của ông phần lớn gắn liền với chiến trường Nam Trung Bộ. Tướng Trần Nam Trung từng là trợ thủ đắc lực beê cạnh tướng Nguyễn Chí Thanh, góp phần xây dựng Bộ thống soái của quân đội vững mạnh, trực tiếp vận động và chỉ huy việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho mặt trận Điện Biên Phủ. Rồi lại sát cánh cùng tướng Nguyễn Chí Thanh ở miền Nam, tướng Trần Nam Trung là uỷ viên Trung ương Cục, Quân uỷ Miền và các lực lượng vũ trang từng bước hoàn thành sự nghiệp giải phóng đất nước. Sứ mệnh thực thi vẻ vang, không màng địa vị, chức quyền, ông nhanh chóng thu xếp hành trang lui về sum họp cùng gia đình trong phần đời còn lại?
    Quảng Ngãi là một trong những ?ođịa linh? đã sản sinh nhiều ?onhân kiệt? mà tên tuổi sáng ngời sử sách. Từ nơi đây, Trương Định đã được sinh ra và lớn lên trước khi trở thành vị anh hùng vẫy vùng sông nước Cửu Long, được dân phong Bình Tây đại nguyên soái làm giặc Pháp ?othất điên bát đảo?. Quê hương núi Ấn sông Trà còn là nơi ?ochôn nhau cắt rốn? của chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, các tướng lĩnh Nguyễn Chánh, Trần Văn Trà, Trần Nam Trung, Phạm Kiệt và bao nhà yêu nước, cách mạng khác.
    Thượng tướng Trần Nam Trung tên thật là Trần Khuy, còn có tên thường gọi khác là Trần Lương quê ở xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức cùng quê với Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Ông cầm tinh Con Hổ sinh năm Giáp Dần-1914, năm mà hàng loạt ?ohổ tướng? khác cùng chào đời như: Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Chánh, Lê Trọng Tấn, Huỳnh Văn Nghệ? Nhờ tác động mạnh của tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội, qua sự dìu dắt giới thiệu của người anh họ là Trần Cừ, năm mười bảy tuổi chàng trai họ Trần đã tham gia Liên đoàn Cộng sản đảng ở Nghệ An, về sau đổi thành tổ chức An Nam Cộng sản đảng. Từ đó, Trần Nam Trung dấn thân vào con đường cách mạng, trải qua tra tấn ngục tù, trở thành một nhà lãnh đạo chính trị cao cấp của Đảng, Chính phủ và quân đội mà dấu chân in khắp mợi miền dầu sôi lửa bỏng.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trong ngôi nhà ở đường Tú Xương, quận 3 lão tướng hồn hậu tiếp chuyện chúng tôi. Cầm tấm ảnh ông chụp chung với Chủ tịch Fidel Castro Ruz, tôi hỏi:
    -Thưa Thượng tướng, Thượng tướng còn nhớ gì về kỷ niệm đón Chủ tịch Fidel Castro Ruz vào thăm đất lửa Quảng Trị?
    -Đó là vào tháng 9 năm 1973. Bấy giờ tôi là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thay mặt Chính phủ Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt nam ra đón Chủ tịch Fidel từ Hà Nội vào thăm vùng đất mới giải phóng. Thật xúc động. Đây là một sự động viên tinh thần to lớn mà Fidel và những người bạn chiến đấu Cuba từ hàng vạn dặm mang đến cho quân dân ta, giữa lúc cuộc chiến đấu đang ở thời kỳ gian khổ nhất, quyết liệt nhất.
    -Tổng tư lệnh Fidel là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên thời chiến tranh đã vượt qua vĩ tuyến 17?
    -Đúng vậy. Có thể nói, đây là một sự kiện lịch sử. Vừa gặp nhau, tôi và Fidel ôm nhau trong nỗi mừng vui nghẹn ngào. Fidel đã dừng lại rất lâu để ngước nhìn lá cờ Giải phóng bay trong gió Khi cùng ngồi lên xe đi thăm vùng giải phóng, Fidel nhìn chăm chăm từng dấu tích tàn khốc của chiến tranh vừa mới xảy ra. Thỉnh thoảng, Fidel lại đề nghị dừng xe, xuống đi bộ để dễ quan sát cảnh vật và thăm hỏi bộ đội, đồng bào. Thật vui khi Fidel bất ngờ rẽ vào bãi xe tăng chiến lợi phẩm, rồi trèo đứng hiên ngang trên một chiếc xe tăng Mỹ.
    Lúc đó, tôi sợ địch bất ngờ bắn tỉa. Bởi đồn lính của chúng còn chốt khá gần. Và Fidel còn đến tận các căn cứ quân sự mà quân ta và mới chiếm, lắng nghe bộ đội kể chuyện vô hiệu hoá hàng rào điện tử McNamara của địch, cùng những chiến công mới vừa lập được. Mỗi lần nghe xong một câu chuyện, Fidel vui mừng nói: ?oMỗi chiến thắng của Việt Nam trước đế quốc Mỹ cũng là chiến thắng của nhân dân Cuba?.
    -Theo Thượng tướng, chuyến vượt vĩ tuyến 17 của Chủ tịch Fidel vào lúc cuộc chiến còn ác liệt như vậy, có mạo hiểm không?
    -Tất nhiên là mạo hiểm. Nhưng nó đã thể hiện sự dũng cảm, tình cảm sâu sắc, một cách ?ochia lửa? của lãnh tụ Fidel và những người bạn Cuba hết lòng vì Việt Nam. Thật sự thì Trung ương và chúng tôi cũng rất lo lắng, bằng mọi cách phải tổ chức thành công tốt đẹp chuyến thăm đặc biệt này. Anh em công binh rà mìn ngay tại chỗ Fidel đột xuất đến thăm. Anh em cảnh vệ luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu? Tôi nhớ mãi hình ảnh Tổng Tư lệnh Fidel trong bộ quân phục cùng màu sắc với các chiến sĩ Quân giải phóng, ngực đeo huy hiệu ?oChiến sĩ Điện Biên Phủ", bước đi giữa rừng cờ hoa và tiếng hoan hô của nhân dân Quảng Trị vang dậy núi đồi; rồi Fidel hoà vào đội ngũ Quân giải phóng, tay đỡ ngọn cờ truyền thống từ tay một chiến sĩ ta, giương cao cùng bước trong đoàn quân?
    -Thưa Thượng tướng, từ người lính trở thành vị tướng lãnh đạo cao cấp của quân đội, cả đời lăn lộn trên chiến trường, bây giờ đã ở tuổi bát tuần, Thượng tướng có dịp nào ngồi hồi tưởng lại khoảng trời tuổi thơ cùng người thân và bè bạn?
    -Mỗi lần gặp lại bà con hay bạn bè đồng hương Quảng Ngãi, tôi lại nhớ những kỷ niệm xưa. Gia đình tôi làm nông. Cha tôi là một nông dân chất phác, có chút học thức và am hiểu về lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc. Dòng họ Trần của tôi di cư từ Nghệ An vào. Còn mẹ tôi vốn là con gái nhà giàu ở miền Trung du, sống rất có tâm hồn. Mẹ tôi hát hay, múa giỏi, là cây văn nghệ nghiệp dư sáng giá nên thời trẻ và được nhiều chàng trai chú ý. Nhưng cha tôi đã may mắn (cười)?
    Sau khi đậu Sơ học yếu lược, tôi lên học trường tỉnh. Nhưng rồi cha tôi quyết định đưa tôi về quê, thuê thầy dạy chữ Nho, mong giữ gia phong, sợ tôi bị Tây hoá. Ông thầy có nhiều ảnh hưởng đối với tôi, khi dạy cho tôi văn thơ yêu nước của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và phong trào Đông Kinh nghĩa thục.

Chia sẻ trang này