1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Tên thật của Thượng tướng là Trần Khuy, nhưng vì sao Thượng tướng lấy tên là Trần Lương rồi Trần Nam Trung?
    -Trần Lương là bí danh khi tôi về hoạt động ở căn cứ Ba Tơ, một huyện miền núi phía tây Quảng Ngãi. Sau một cuộc họp Tỉnh uỷ ở căn cứ, anh em tự đặt bí danh cho mình. Trương Quang Viên lúc đó đang ngồi cầm con dao, anh em bảo đặt luôn tê Giao-Trương Quang Giao. (Thời kỳ 1954-1955, Trương Quang Giao làm Bí thư Liên khu uỷ 5. Một nhà lãnh đạo có tài, chu đáo, cẩn trọng. Anh ấy là bạn thân thiết của tôi)? Thấy tôi mãi chần chừ, anh em bảo lấy đại tên Trần Lương đi. Bởi thời trẻ, tôi mập mạp, mỗi lần cười híp cả con mắt lại như mắt lươn (cười).
    -Vậy còn tên Trần Nam Trung?
    -Đây là tên khi tôi vào B2 tổ chức, xây dựng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam. Nam Trung tức Nam Trung Bộ.
    -Là một trong những nhà lãnh đạo khởi nghĩa Ba Tơ, Thượng tướng đánh giá như thế nào về cuộc khởi nghĩa này?
    -Ba Tơ là cuộc khởi nghĩa khá thành công trong bốn cuộc khởi nghĩa trong cả nước trước Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám: Bắc Sơn, Đô Lương, Ba Tơ, Nam Kỳ. Là một huyện miền núi phía tây tỉnh Quảng Ngãi, Ba Tơ nằm giáp ranh giữa ba tỉnh? Quảng Ngãi, Kon Tum, Bình Định, với hai trăm người Kinh và hơn mười ngàn người dân tộc Hrê sinh sống. Ba Tơ có một đồn lính khố xanh do tên quan tư Pháp chỉ huy, một nha kiểm lý và một căn ?oan trí? những người cộng sản. Cán bộ nòng cốt ở Ba Tơ có tôi, các anh Trương Quang Giao, Nguyễn Chánh, Trần Quý Hai, Nguyễn Đôn, Phạm Kiệt?
    Ngày 11 tháng 3 năm 1945, khởi nghĩa bùng nổ. Lực lượng vũ trang cách mạng phát động quần chúng ở châu lỵ nổi dậy tuần hành thị uy, đánh chiếm nha kiểm lý, bao vây đồn lính khố xanh. Tên quan tư Pháp bỏ chạy, lính đồn đầu hàng. Ngày hôm sau, đội du kích Ba Tơ chính thức ra mắt nhân dân có mười bảy người và hai mươi tám khẩu súng, sau kết nạp thêm gần ba mươi người. Đội du kích Ba Tơ xây dựng chiến khu, mở rộng địa bàn hoạt động xuống đồng bằng, bắt liên lạc với các tỉnh lân cận.
    Thắng lợi của khởi nghĩa Ba Tơ đã tác động mạnh đến phong trào đấu tranh chống Nhật vừa thay chân ở khu vực Tây Nguyên và Nam Trung Bộ. Tại Hội An, đồng bào biểu tình rầm rộ đòi thả hết tù chính trị. Tại Buôn Mê Thuột, hàng trăm tù chính trị đã thoát khỏi gông cùm. Rồi ở khu ?oan trí? Trà Kê của Phú Yên, không những được tự do mà anh em tù chính trị còn vận động được binh lính buông súng trốn về với nhân dân?
    -Thượng tướng rời miền Trung ra Hà Nội nhận nhiệm vụ mới lúc nào?
    -Năm 1951, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh bị bệnh nặng, Trung ương gọi tôi ra làm phó chủ nhiệm thường trực để giúp anh Thanh. Tôi quen biết anh Nguyễn Chí Thanh từ những năm 1930 khi ở tù chung với anh và anh Tố Hữu tại Buôn Mê Thuột, nên rất hiểu nhau.
    Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, tôi được Trung ương phân công chịu trách nhiệm chỉ đạo và trực tiếp về các địa phương vận động nhân dân đóng góp, vận tải lương thực thực phẩm, quân trang cung cấp kịp thời cho chiến trường?
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Được biết thời kỳ Thượng tướng phụ trách Nam Trung Bộ cũng là thời kỳ gặp phải nhiều khó khăn nhất.
    -À, đó là khoảng thời gian từ năm 1953-1958. Tháng 3 năm 1955, do anh Trương Quang Giao, bí thư Liên khu uỷ bị bệnh nặng, tôi được Trung ương điều từ Tổng cục Chính trị vào làm bí thư Liên khu uỷ 5. Bấy giờ, Ngô Đình Diệm lên thay Bảo Đạ, với sự cố vấn của Mỹ, đã tiến hành chiến dịch ?otố cộng? rộng khắp miền Nam. Hàng vạn chiến sĩ cách mạng đã bị bắt bớ, tra tấn, tù đày, bắn giết. Riêng Nam Trung Bộ, cách mạng tổn thất rất nặng. Bốn mươi phần trăm tỉnh uỷ viên và sáu mươi phần trăm huyện uỷ viên đương chức đã bị bắt và hy sinh. Anh Lê Đài, bí thư Tỉnh uỷ Phú Yên, bị địch bắt tra tấn, sát hại trong nhà tù, chúng còn dựng chứng cứ giả để bôi nhọ anh Lê Đài.
    Dù vậy nhờ có tinh thần yêu nước của vùng đất có truyền thống cách mạng, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng mà trực tiếp là Liên khu uỷ 5, quân và dân Nam Trung Bộ đã từng bước lớn mạnh trong cuộc đấu tranh bền bỉ và gian khổ.
    Chính nhờ trùi rèn trong máu lửa hai cuộc kháng chiến, mà nhiều chiến dịch trưởng thành ở chiến trường Nam Trung Bộ, về sau trở thành những tướng lĩnh, nhà lãnh đạo cao cấp. Có thể kể tới các anh: Nguyễn Chánh, Hà Văn Lâu, Chu Huy Mân, Trần Quý Hai, Cao Văn Khánh, Nam Long, Đoàn Khuê, Đàm Quang Trung, Nguyễn Bá Phát, Nguyễn Quyết, Nguyễn Đôn, Nguyễn Đường, Nguyễn Minh Châu, Trương Quang Giao, Phạm Kiệt, Giáp Văn Cương, Trần Công Khanh, Lư Giang, Hà Vi Tùng, Nguyễn Thế Lâm, Võ Quang Hồ, Nguyễn Trọng Xuyên, Phạm Hoài Chương, Hồ Xuân Anh, Đặng Vũ Hiệp, Nguyễn Chơn, Phan Hàm, Phan Hạo, Đoàn Huyên?
    -Với tướng Nguyễn Chánh-người được mệnh danh là anh cả lực lượng vũ trang miền Trung, Thượng tướng còn hình dung về ông?
    -Anh Nguyễn Chánh cũng là đồng chí thân thiết của tôi. Một con người sống có đạo đức. Một vị tướng thao lược, xuất sắc toàn diện, được bộ đội vô cùng quí mến. Anh cùng tuổi tôi, quê ở Sơn Tịnh. Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Chánh rời chiến khu Ba Tơ ra Huế nhận nhiệm vụ uỷ trưởng quốc phòng Trung Bộ, trở thành người chỉ huy quân sự đứng đầu miền Trung. Kháng chiến toàn quốc bùng bổ, anh về lai Quảng Ngãi, sát cánh cùng các anh Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh và anh em chúng tôi lãnh đạo chống Pháp.
    Năm 1954 đình chiến, Nguyễn Chánh ra Hà Nội và được phân công làm chính uỷ kiêm tư lệnh Binh chủng Pháo binh rồi chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ở cương vị nào anh cũng cứng tỏ được nặng lực hiếm có của mình. Đầu năm 1958, tôi từ Nam Trung Bộ ra Hà Nội mới hai tin anh đã mất vì một căn bệnh hiểm nghèo. Tôi đau đớn lắm! Anh đóng góp công sức rất lớn đối với Liên khu 5 thời đánh Pháp, với tư cách là uỷ viên Trung ương Đảng được phân công lãnh đạo, chỉ huy trực tiếp trên chiến trường, một chiến trường phức tạp đầy gian khổ, mà cương vị trực tiếp là tư lệnh kiêm chính uỷ.
    -Vâng. Có lẽ vì vậy mà nhân dân Liên khu 5 không bao giờ quên công lao của tướng Nguyễn Chánh. Tên ông đã được đặt tên đường tại nhiều thị xã, thành phố. Thế còn Lư Giang và Hà Vi Tùng, hai vị tướng cũng khá lừng lẫy trận mạc thời Nam tiến, thưa Thượng tướng.
    -À, hai anh chiến đấu chủ yếu ở mặt trận Phú Yên-Khánh Hoà. Hà Vi Tùng gắn bó suốt đời với vùng đất này. Trước khi qua đời ở Nha Trang, Hà Vi Tùng là Thiếu tướng hiệu trưởng Sĩ quan Lục quân 3. Còn Lư Giang về sau ra Bắc, được cử làm tư lệnh Quân khu Thủ đô. Anh được thăng hàm Trung tướng và mất cách đây vài năm. Có thể nói, trong đoàn quân Nam tiến vào Trung Bộ thời đánh Pháp, đã xuất hiện nhiều cán bộ chỉ huy tài năng, bản lĩnh trận mạc. Điển hình nhất là Nguyễn Bá Phát, một con người tài ba, dũng cảm, đảm lược mà tôi rất quí.
    -Vậy còn tướng Trần Quý Hai và tướng Cao Văn Khánh, cũng từng sát cánh với Thượng tướng ở chiến khu Ba Tơ?
    -Trần Quý Hai cũng là người tốt. Tôi với anh ấy có nhiều kỷ niệm. Quê Trần Quý Hai ở vùng biển Dung Quất. Sau khởi nghĩa Ba Tơ, anh phụ trách việc liên lạc với các tỉnh phía Bắc miền Trung, hoạt động hết sức năng nổ. Trước khi mất, Trần Quý Hai từng được đề bạt làm phó tổng tham mưu trưởng, rồi thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Xuất thân là người không biết chữ, nhưng một cô nữ sinh viên lại rất mê anh và trở thành bạn trăm năm. Nhờ chị, anh bắt đầu học và rất giỏi tiếng Pháp.
    Cao Văn Khánh cũng có người vợ rất giỏi vốn là con quan thượng thư Bộ lại Thái Quang Toản của triều Nguyễn. Hồi ở Khu 5, tôi là chính uỷ còn Cao Văn Khánh là tư lệnh. Cũng chính tôi là người đề nghị rút anh Khánh ra Hà Nội công tác, rồi sau đó thay anh Vương Thừa Vũ làm tư lệnh Đại đoàn 308-Quân Tiên phong. Về sau Cao Văn Khánh được giao nhiệm vụ phó tổng tham mưu trưởng phụ trách huấn luyện. Trên mọi cương vị, anh đều thể hiện được trách nhiệm và tài năng của mình.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thuộc thế hệ những nhà cách mạng đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi, chắc Thượng tướng có biết ông Nguyễn Nghiễm?
    -Ồ, sao lại không biết! Nguyễn Nghiêm là bí thư Tỉnh uỷ Quảng Ngãi đầu tiên, là người giác ngộ, dẫn sắt tôi vào con đường cách mạng. Ông vốn là nhà Nho nổi tiếng, trở thành nhà lãnh đạo cách mạng đầy uy tín. Tôi nhớ lần đầu tiên gặp ông, ông hỏi: ?oEm có phải là em của anh Trần Cừ không??. Tôi thưa: ?oDạ, anh Trần Cừ là anh con ông bác?. Trần Cừ cũng là người có uy tín bấy giờ, có thể nói cùng với Nguyễn Nghiễm là hai vị thủ lĩnh cách mạng trong tỉnh Quảng Ngãi. Nhưng Trần Cừ theo quan điểm cực đoan, mắc nhiều sai lầm.
    Lần gặp gỡ đầu tiên ấy, Nguyễn Nghiêm đã nhờ tôi chuyển thư bí mật cho Trần Cừ, mong gặp gỡ để trao đổi, thống nhất quan điểm, cách hành động. Và tôi cũng đã chuyển thư của Trần Cừ lại cho Nguyễn Nghiêm. Tôi nhớ trong trong thư hai ông đều xưng hô ?oThưa tiên sinh? rất trân trọng? Về sau, Nguyễn Nghiêm bị truy nã gắt gao, rồi bị thực dân Pháp bắt bêu đầu bên bờ sông Trà Khúc nhằm thị uy phong trào cách mạng. Khi ấy ông mới hai mươi tám tuổi. Ông là người cộng sản đầu tiên ở miền Trung bị thực dân Pháp tử hình.
    -Xin Thượng tướng cho biết nhiệm vụ chính của mình khi vào Nam nhận chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trong Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam.
    -Cuối năm 1959, tôi nhận lệnh vào Nam. Tháng 5-1961, tôi trở vào Nam lần hai cùng Đoàn Phương Đông 1 do anh Trần Văn Quang làm trưởng đoàn, tôi làm chính uỷ vượt Trường Sơn. Tôi trực tiếp lo tổ chức, xây dựng Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam, tập hợp lực lượng yêu nước khác nhau, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân đánh Mỹ, do Luật sư Nguyễn Hữu Thọ đứng đầu. Tôi là uỷ viên Thường vụ Trung ương, Cục phụ trách Bộ Quốc phòng trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt nam, còn Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát làm Chủ tịch, anh Trần Bửu Kiếm rồi chị Trần Thị Bình thay nhau làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, anh Phùng Văn Cung làm bộ trưởng Bộ Nội vụ?
    Cuối năm 1960, khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được thành lập, ta chưa có đủ bộ đội chủ lực. Nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng là lãnh đạo phong trào du kích và đấu tranh quần chúng. Có thể nói, đây là lực lượng quan trọng có vai trò rất lớn trong sự nghiệp cách mạng miền Nam. Đây cũng là nền tảng cho sự ra đời các đơn vị bộ đội chủ lực sau này.
    -Sau ngày đất nước thống nhất, Thượng tướng được phân công làm gì?
    -Lo tổ chức hiệp thương hai miền, tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Các anh ở Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề nghị tôi phụ trách một bộ trong Chính phủ. Tôi nói rằng: Suốt đời chỉ lo đánh nhau trên chiến trường, làm công tác chính trị, dân vận nên tôi đâu biết gì về kinh tế mà làm bộ trưởng. Tôi không nhận. Các anh đã tạo điều kiện cho tôi nghỉ ngơi một thời gian, đi thăm các nước bạn bè anh em trên thế giới đã từng giúp đỡ mình thời đánh Mỹ. Sau đó, tôi được phân công làm chủ nhiệm Uỷ ban Thanh tra Chính phủ cho đến khi nghỉ hưu.
    -Suốt đời hoạt động cách mạng, vậy còn thời gian nào Thượng tướng dành cho tình cảm riêng tư và gia đình, thưa Thượng tướng?
    -Thời tôi vào Nam chiến đấu, Trung ương rất ưu ái đối với gia đình tôi. Bởi con cái tôi còn nhỏ, nhà tôi thì ốm đau thường xuyên. Tôi rời Hà Nội từ cuối năm 1959, mãi đến năm 1973 ra đón Chủ tịch Fidel Castro, mới có dịp ghé thăm nhà. Chúng tôi sinh được hai trai hai gái. Đám cưới các con, tôi đều vắng mặt, nhờ anh em ở Trung ương lo giùm. Đất nước thống nhất, tôi mới có dịp đoàn tụ gia đình. (Nghe ông nói tôi liền nhẩm tính: mười bốn năm. Vâng, đúng mười bốn năm vị tướng xa vợ con, lại là mười bốn năm ở vào thời kỳ đẹp nhất, xuân nhất của đời người! Và tôi lại tự hỏi: Phải chăng đây cũng chính là một chiến thắng, chiến đặc biệt trong những chiến thắng, chiến thắng chính mình?).
    -Thượng tướng còn nhớ lần đầu tiên gặp bà nhà?
    -(Cười hồn nhiên) Hồi đó, tôi ở tù Buôn Mệ Thuột mới về. Ông Nguyễn Công Phương là nhà Nho có uy tín ở Quảng Ngãi, tham gia cách mạng và là cán bộ tỉnh uỷ, về sau là chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Liên Việt Nam Trung Bộ; tôi thường lui tới hội họp tại nhà ông. Tôi ?ophát hiện? ông Phương có cô cháu gọi bằng cậu, tên Đoàn Thị Mỹ, nết na dễ thương. Đem lòng yên mến, rồi qua ông Phương, chúng tôi quen nhau, được gia đình đồng ý cho làm lễ thành hôn. Ông nhạc của tôi cũng từng tham gia phong trào yêu nước Đông Du, Duy Tân nên rất có cảm tình với cách mạng. Khi chúng tôi đặt vấn đề ?otrăm năm?, ông cụ đồng ý ngay.
    Nụ cười tươi rói nở trên môi vị lão tướng. Nụ cười lạc quan trên gương mặt phúc hậu. Tôi chợt nhớ đến lời của một cựu binh nói về tướng Trần Nam Trung rằng: Ông là Mười Hậu chứ không phải Hai Hậu. Bởi ông hiền lành quá, chơn chất quá! Qua câu chuyện với chị Thi-người con dâu hiện sống cùng ông bà, tôi còn được biết, từ khi chồng chị-anh Trần Đẳng đột ngột qua đời, tướng Trần Nam Trung cũng ngã bệnh, có lúc tưởng chừng không qua khỏi. Nhờ tập vật lý trị liệu, ông dần khoẻ ra. Mắt dần tỏ. Tai dần thính. Nhưng việc đi lại rất khó khăn. Cây gậy và chiếc ghế xếp trở thành ?obạn? thường trực của ông. Dù vậy, vị lão tướng vẫn không ngừng theo dõi tin tức qua báo chí và truyền hình.
    Một nguồn cung cấp thông tin quan trọng khác là từ hai cô cháu nội là Hà-Phượng luon bên cạnh. Lâu lâu, người bạn đời cũng gần tuổi bát tuần, bà Đoàn Thị Mỹ mới rời căn phòng trên lầu xuống với ông. Thấy bà, ông cười! Ông thường nằm mơ gặp lại đồng đội thời chinh chiến, rồi ôn tồn kể cho hai cô cháu nội bé bỏng nghe. Thỉnh thoảng, bạn bè nhớ ông đến thăm, ông vui hẳn lên?
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Nguyễn Hữu Xuyến
    Tướng Nguyễn Hữu Xuyến là nhà chỉ huy quân sự có mặt xuyên suốt chiến trường Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến. Vốn là một ?ođô vật nhí? vùng Kinh Bắc, đơn độc lưu lạc với nhiều nghề mưu sinh khác nhau tận phương Nam, Nguyễn Hữu Xuyến đã dấn thân vào con đường cách mạng, bị địch bắt đày đi Côn Đảo, rồi trở thành một trong những nhà cầm quân nổi tiếng thời đánh Pháp ở miền Tây Nam Bộ, nhất là Sa Đéc-thánh địa của ?oBộ đội Ông Xuyến?. Hiệp định Genève năm 1954 ký kết. Chuyển quân ra Bắc. Giờ chót, Nguyễn Hữu Xuyến được lệnh ?onằm? lại , nắm quyền chỉ huy trưởng quân sự bí mật toàn miền Nam. Một sự tín nhiệm cao của Trung ương, đồng thời cũng là một sứ mạng đặc biệt vừa tế nhị vừa nguy hiểm giữa lòng đối phương! Bộ chỉ huy các lực lượng võ trang giải phóng miền Nam được thành lập, Nguyễn Hữu Xuyến được cử làm phó tư lệnh. Đất nước thống nhất, trên cương vị mới, tướng Tám Kiến Quốc Huy tổ chức xây dựng lại Quân khu 9, nơi mà ba mươi năm trước ông đã khởi đầu binh nghiệp. Nguyễn Hữu Xuyến được phong Thiếu tướng năm 1974, thăng Trung tướng năm 1982? và được tặng thưởng Huân Hồ Chí Minh. Đằng sau thân hình vạm vỡ, uy nghi của tướng Xuyến, tôi bắt gặp một trái tim giàu súc cảm, một khối óc còn ẩn chứa nhiều tư liệu sống về lịch sử một thời giữ nước.
    Tuổi Mẹo, Trung tướng Nguyễn Hữu Xuyến sinh tháng 10 năm 1915 tại làng Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây chính là cái nôi của nhà Lý, hiện có đền thờ Lý Bát Đế cùng nhiều di tích liên quan đến triều đại phong kiến đầy hiển hách này. Vùng ?olinh kiệt? Tiên Sơn còn là nơi sản sinh nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng và các tướng lĩnh: Lê Quang Đạo, Phạm Văn Trà? Gia đình Nguyễn Hữu Xuyến làm nghề nông kiêm thủ công nhưng vẫn không đủ ăn. Vì quá nghèo khổ, bố mẹ cùng người anh cả dắt díu nhau vào Nam tìm kế sinh nhai. Những người con nhỏ còn lại nương nhờ bà con họ hàng nuôi giúp. Nguyễn Hữu Xuyến ở chăn trâu cho người anh con ông bác họ và được cắp sách đến trường làng một thời gian ngắn. Ham học, vừa chăn trâu Nguyễn Hữu Xuyến vừa cố gắng tìm cách tự học và đọc được nhiều sách như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Tam quốc diễn nghĩa, Thủy Hử?
    Năm 1940, nghe tin mẹ bệnh mất, Nguyễn Hữu Xuyến liền lên tàu vào Nam. Đến Sài Gòn gặp được cha và các anh chị em, viếng mộ mẹ, Nguyễn Hữu Xuyến bắt đầu cuộc sống tự lập. Chàng trai làng Đình Bảng lang bạt từ Sài Gòn sang Phnôm Pênh rồi Sa Đéc, Cần Thơ với nhiều nghề mưu sinh: sơn guốc, may quần áo, bán hàng, giặt ủi? Đủ cả. Cuộc sống vô gia cư của một con người giàu nghị lực đã đưa Nguyễn Hữu Xuyến đến với cách mạng. Ông hoạt động bí mạt và được kết nạp vào Đảng Cộng sản ở Sa Đéc.
    Cuối năm 1941, do cơ sở bị lộ, Nguyễn Hữu Xuyến bị địch bắt giam, đưa lên bót Catinat-Sài Gòn. Ở đây ông bị tra tấn sáu tháng trời, trước lúc bị đày đi Côn Đảo. Nơi trường học cách mạng ở chốn lao tù xa xôi, ông được gặp nhiều nhà cách mạng đàn anh nổi tiếng thuộc nhiều đảng phái khác nhau. Cách mạng tháng Tám thành công, ông cùng các chính trị phạm được đón về đất liền. Nhờ kinh nghiệm tổ chức đấu tranh ở Côn Đảo, Nguyễn Hữu Xuyến được hai người bạn tù bây giờ là cán bộ hàng đầu tỉnh Sa Đéc, ông Phạm Văn Lầu-chủ tịch và bà Sáu Ngài-bí thư, đề nghị về Sa Đéc phụ trách công tác quân sự địa phương, rồi kết hợp chỉ huy bộ đội chủ lực.
    Chín năm chống Pháp, Nguyễn Hữu Xuyến làm chi đội trưởng Chi đội 18, chỉ huy trưởng Liên trung đoàn 109-111, đến năm 1951 ông được đề bạt làm tham mưu trưởng Phân liên khu miền Tây Nam Bộ mà tướng Lê Hiến Mai, tức Dương Quốc Chính là tư lệnh, tướng Phan Trọng Tuệ là chính uỷ. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Hữu Xuyến, nhiều trận đánh vang dội đồng bằng sông Cửu Long đã diễn ra. Chẳng hạn các trận tấn công nhà thờ Cù lao Giêng, chi khu quân sự Gò Quao, tiêu diệt Tiểu đoàn Tidoa-Néon ở Cổ Cò-trận giao thông chiến đầu tiên ở miền Nam, đánh chìm tàu biển trên sông Cửu Long, rồi chùng chỉ huy các chiến dịch Cầu Ké, Trà Vinh, An Biên-U Minh Thượng?
    Năm 1954, đất nước bị chia cắt. Giờ cuối trước khi tập kết ra Bắc, Bí thư Trung ương Cục miền Nam Lê Duẩn đề nghị Nguyễn Hữu Xuyến ở lại làm trưởng ban quân sự, bí mật xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Ông trở thành vị tướng bám trụ chiến trường Nam Bộ xuyên suốt hai cuộc chiến tranh vệ quốc đầy gian khổ đau thương nhưng cũng vô cùng oanh liệt. Vượt trên mọi hàm tước, tướng Xuyến được xem là vị chỉ huy kiên cường, bản lĩnh, dạn dày trận mạc và sâu nặng nghĩa tình. Ông có nhiều công lao to lớn đối với Nam Bộ, được quân lính tin yêu, đồng đội nể trọng. Ở tuổi bát tuần, vị tướng mang biệt danh Tám Kiến Quốc lừng lẫy, hưu trí cùng ?ongười đẹp Sa Đéc? năm xưa, bà Nguyễn Thị Hai và con chá ở gần chợ Vườn Chuối, Thành phố Hồ Chí Minh. Một sáng tháng Bảy, tôi đến gặp ông?
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Trung tướng, một ngày bình thường của Trung tướng bây giờ là gì?
    -Thực hiện ba mục tiêu mà tôi đề ra khi về hưu. Thứ nhất là theo dõi, nắm bắt kịp thời tình hình đất nước lẫn thế giới để mình không trở thành người lạc hậu. Hai là giáo dục con cháu trong gia đình nên người có ích cho xã hội. Ba là bảo vệ sức khoẻ cho tốt ở tuổi già.
    -Trung tướng vui lòng cho biết một trong những kinh nghiệm nuôi dạy con cháu của mình?
    -Nếu có điều kiện thì ba tháng họp gia đình một lần, định kỳ thì sáu tháng họp một lần. Mục đích là liên hoan họp mặt và có vấn đề nào cần bàn bạc thì đưa ra trao đổi môt cách dân chủ để tìm sự nhất trí. Trong gia đình, ai có năng khiếu mặt nào, phải tập trung giúp đỡ, tạo điều kiện phát huy hết khả năng, để phục vụ tốt cho xã hội. Chúng tôi có bốn đứa con, một trai ba gái, nay đều là bác sĩ, kỹ sư.
    -Còn về đời sống vợ chồng, thưa Trung tướng?
    -Phải biết tôn trọng và luôn chủng cố niềm tin lẫn nhau, mới có hạnh phúc. Trước khi là vợ chồng, thường thấy các mặt đều tốt đẹp. Nhưng khi đã thành hôn rồi lại dễ phát hiện những khác biệt của nhau. Nguyên nhân có thể do tính cách hoặc sự chênh lệch về trình độ văn hoá, thu nhập kinh tế không đáp ứng nhu cầu và đặc biệt là nhận thức về chính trị khác nhau. Nếu không biết cách giúp đỡ, xây dựng, tìm sự hoà hợp thì hôn nhân dễ đi đến tan vỡ.
    -Đối với bà nhà, Trung tướng yêu quý đức tính nào nhất?
    -Hiền thục, biết cách đối nhân xử thế. Bà là hậu phương vững chắc của tôi!
    -Về vấn đề bảo vệ sức koẻ, Trung tướng có tích luỹ được kinh nghiệm nào không?
    -Tôi nhớ một nhà bác học đã nói rằng, nếu con người giữ gìn được sức khoẻ từ lúc mới lọt lòng cho đến già, không chết vì bệnh lý, thì có thể sống đến hai trăm tuổi về mặt sinh lý. Tôi cũng nhớ một bác sĩ Liên Xô cũ đã viết: Trong con người, bảo vệ được cái não tốt là yếu tố quyết định nhất trong sức khoẻ con người, vì não là trung tâm điều khiển hoạt động của con người. Còn theo một bác sĩ Mỹ, bảo vệ được ngũ tạng là yếu tố quyết định nhất, vì chúng là cơ quan thu nhận thức ăn và điều tiết tất cả các bộ phận cơ thể con người.
    Theo tôi, các lý thuyết trên đầu có cơ sở đúng đắn. Dựa vào đó mà mỗi người tìm cho mình cách tập luyện phù hợp để bảo vệ sức khoẻ.
    -Theo Trung tướng, ở thời điểm nào trong cuộc đời, con người có thể xác định hướng đi tốt cho mình?
    -Từ mười sáu đến ba mươi lăm tuổi. Nhưng chín chắn nhất là khoảng tuổi từ ba mươi đến ba lăm. Từ tuổi bốn mươi trở lên, có người vẫn tìm được cơ hội thay đổi cuộc đời mình. Nhưng cũng chỉ là cá biệt.
    -Bây giờ nếu trở lại từ đâu thì Trung tướng sẽ chọn cho mình nghề gì?
    -Nghề? lính (cười). Với tôi, không gì đáng tự hào hơn hình ảnh người lính, nhất là người lính trong chiến tranh giải phóng dân tộc. Họ không nghĩ gì cho riêng mình. Họ xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Trung tướng, một đời chinh chiến, hình ảnh bố mẹ và tuổi thơ còn đọng lại gì trong ký ức Trung tướng?
    -(Gương mặt lão tướng ra chiều trầm tư). Tôi nhớ mãi kỷ niệm lúc năm tuổi, hai lần mẹ tôi đưa tôi xuống Hải Dương thăm người bà nuôi mẹ, để gửi chú Ngoạn-em tôi. Khi đi qua núi Bà Lý Chiêu Hoàng, mẹ ghé nghỉ chân và mua bánh cho tôi ăn. Vì nghèo khổ, nợ nần mà bố mẹ bỏ vào Nam. Từ đó, tôi không bao giờ gặp được mẹ nữa! Trong tâm trí tôi luôn hiện lên rất rõ hình ảnh cái nhà, cái sân, cái bếp, cái cối giã gạo để gần cổng đi vào. Cả hình ảnh hai nhà hàng xóm bên cạnh nữa. Cùng một ngõ có nhà cụ Hiếu, trước đi lính Pháp được hàm cửu phẩm. Cụ có người con ******* là cô Hiếu, đẹp lắm, nhưng lớn tuổi chưa có chồng, sau phải đi làm vợ lẽ cho tên cai tổng làng Sặt. Vì ở nhờ, tôi chỉ được đi học hơn ba năm trường làng. Học trò bấy giờ có người gần mười tám tuổi cùng học lớp sơ học, tóc để chỏm. Tôi nghỉ học ở nhà cắt cỏ, chăn trâu, làm ruộng, nhuộm hàng. Nhờ có sức khoẻ và gan góc, một mình tôi chăn bầy trâu hàng chục con.
    -Trung tướng còn nhớ người thầy đầu tiên của mình?
    -Nhớ chứ! Đó là thầy giáo Khang, là người duy nhất trong làng lúc đó học đến trung học. Thầy Khang là ông giáo tốt, nhưng vì nhà nghèo, học trò ít, dạy học không đủ nuôi sống gia đình, nên sau đó thầy bỏ dạy vào Nam kiếm sống.
    -Ngoài những điều bất hạnh, thời thơ ấu ở vùng văn hoá Kinh Bắc có lưu lại hình ảnh đẹp nào trong lòng Trung tướng?
    -Nhờ tài đánh đáo giỏi, nên tôi hay đánh được tiền, mua quà (cười). Cứ đến tháng giêng, tháng hai, tháng ba bạn bè rủ nhau đi chơi hội các làng: hội đền Lý Bát Đế, hội làng Đồng Kỵ, hội Lim-với từng đoàn trai gái riêng biệt hát đối đáp quan họ trên khắp các ngọn đồi. Đến tháng tư thì đi xem hội Gióng. Đây là hội tưởng nhớ vị anh hùng Thánh Gióng đánh giặc cứu nước. Bấy giờ, cứ tới hội này, trai các làng thường đi từng đoàn và hay đánh nhau. Quan lính trên huyện, trên phủ về xem, họ cũng đánh.
    Tôi cũng thường rủ bạn bè đi học võ, học vật; tôi nổi tiếng vật giỏi cả vùng. Bạn bè đủ hạng, nhất là con nhà nghèo, rất yêu mến tôi, chiều tối hay rủ nhau sang xóm khác chơi vật, chơi hát đối đáp, đặc biệt là hát trống quân: ?oThình thùng thình, mong ai đừng sớm có chồng, thình thùng thình, ngày mai ta hẹn ra đồng gặp nhau??. Vui lắm! Hồn nhiên lắm!
    -Vốn xuất thân là một cán bộ hoạt động chính trị, sau Cách mạng tháng Tám mới chuyển sang chỉ huy quân sự. Vậy thời gian đầu Trung tướng có gặp nhiều khó khăn?
    -Đây là qui luật tất yếu ở các nước bị trị, khi người dân muốn thoát khỏi ách nô lệ ngoại bang. Đấu tranh quân sự chính là bước phát triển cao của đấu tranh chính trị, vào thời điểm quyết liệt nhất, phải dùng đến lực lượng võ trang. Buổi đầu cầm quân đánh giặc, ai không gặp khó khăn, nhưng càng đánh càng có kinh nghiệm; đồng thời tôi cũng luôn học tập, nghiên cứu về lý luận quân sự để áp dụng những điều phù hợp vào thực tiễn. Bởi quân sự là vấn đề khoa học về chiến tranh, đối kháng giữa người với người, mà bên nào cũng muốn thắng.
    -Chắc Trung tướng còn nhớ trận đầu tiên mà mình cầm quân.
    -Trận tấn công nhà thờ Cù lao Giêng. Năm 1945, lúc Pháp chưa tái chiếm được Sa Đéc, bọn Nhật vẫn đi lại hoành hành tự do. Một số tên lính Nhật không chịu rút, muốn ở ẩn lại chờ thời cơ. Do đó, trận tấn công nhà thờ Cù lao Giêng có cả quân Nhật và Pháp. Lực lượng của ta gồm bộ đội, du kích từ ba tỉnh Long Xuyên, Châu Đốc, Sa Đéc bao vây tấn công ba ngày đêm. Địch có hỏa lực mạnh, phòng thủ tương đối chặt. Một số tổ xung kích của ta lọt được vào trung tâm nhà thờ, nhưng đều bị hy sinh. Lực lượng ba tỉnh bị tiêu hao, có đơn vị hết đạn, nên bộ chỉ huy mặt trận rút lui. Còn lại ba tư lệnh của ba tỉnh ở ba hướng tấn công liền họp lại, bầu ban chỉ huy thay thế và bàn cách đánh tiếp.
    Chúng tôi đưa đội hình áp sát nhà thờ, cho nhiều đội xung kích bắt thang trèo vào bên trong để tấn công, đồng thời kết hợp chiến thuật hoả công. Do nhà thờ cấu trúc và bố trí như một cứ điểm lớn, nên nếu chỉ dùng mìn, lựu đạn và sức người thì không thể phá vỡ nổi. Vì vậy, chúng tôi dùng chiến thuật hoả công, đưa xăng dầu vào đốt hành lang nhà thờ chính được năm phút, địch sợ bị cháy rụi nên kéo cờ trắng ra hàng, ta bắt sống hơn 20 tên Nhật, 10 tên Pháp, với gần 100 súng các loại? Đánh chiếm nhà thờ Cù lao Giêng là trận thắng đầu tiên vang dội cả đồng bằng sông Cửu Long.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Trung tướng có thể kể sơ lược thêm vài trận đánh tiêu biểu khác thời chống Pháp mà Trung tướng trực tiếp chỉ huy.
    -Năm 1947, tại Sa Đéc ta bắt đầu kiểm soát toàn bộ vùng nông thôn, chuyển mọi hoạt động quân sự sang thế chủ động, tự do về tác chiến. Ngay từ đầu năm Tết âm lịch, ta mở trận giao thông chiến tại Cổ Cò-Mỹ Tho, với sự phối hợp lực lượng của hai tỉnh Sa Đéc, Mỹ Tho và toàn bộ học sinh trường quân chính của Khu 9. Quân ta phục kích đoạn đường dài mười hai cây số, hình thành thế trận: dẫn địch vào sâu khu trung tâm, bao vây nhiều lớp và chặn viện nhiều chặng. Tiểu đoàn Tidoa-Néonah của Pháp thắng Đức trong Thế chiến thứ hai, đã bị quân ta tiêu diệt hoàn toàn, với mười lăm xe cơ giới, trong đó có tám xe thiết giáp. Viện binh của địch ở hai đầu đều bị đánh chặn. Cánh viện binh từ Sài Gòn xuống phá vỡ được tuyến phòng thủ thứ nhất nhưng bị tuyến phòng thủ thứ hai của ta chặn đứng.
    Trận Cổ Cò là trận giao thông chiến đầu tiên của Nam Bộ và có lẽ cũng là trận giao thông chiến đầu tiên trong cả nước. Tiếng súng vừa dứt, đồng bào các ngả kéo đến đông nghịt chúc mừng và uý lạo bộ đội. Tôi còn ghi lại mấy câu thơ của ông già Ba ở ngay Cổ Cò tặng bộ đội hôm đó rằng:
    Xưa nay Việt Nam lắm anh hùng Tết thắng giặc Tàu nhắc Quang Trung
    Xuân đánh bại Tây trận Cổ Cò
    Diệt ?oanh hùng Néon?, thật anh hùng Hoa xuân nở khắp non sông
    Mừng Tết Cổ Cò lập công đánh Pháp
    -Nếu như Cổ Cò là trận giao thông chiến đầu tiên thì Cầu Kè được xem là chiến dịch đầu tiên ở Nam Bộ đã giành thắng lợi vang dội. Là vị chỉ huy trực tiếp, xin Trung tướng cho biết những điểm chính của Chiến dịch Cầu Kè?
    -Năm mà ta và địch ở vào thế giằng co quyết liệt nhất là năm 1949. Địch hòng quét sạch, đẩy ta ra khỏi từng khu vực. Ta cũng chuyển thế tân công ở từng vùng để tiến đến giải phóng từng phần. Cuộc chiến đấu diễn ra liên tục, nổi bật là hai trận chống càn của địch đánh vào căn cứ của ta, bằng đường bộ và đường sông. Cho đến cuối năm 1949, ta mở Chiến dịch Cầu Kè thuộc tỉnh Trà Vinh với mục đích tiêu diệt, bức hàng, bức rút một số đồn bót ở địa phương và diệt viện của địch; đồng thời xây dựng lại tình đoàn kết đang bị chia rẽ giữa người Việt và người Việc gốc Khmer.
    Lực lượng gồm hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh phối hợp với Liên trung đoàn 109-111 cùng Tiểu đoàn 307 vừa được tăng cường. Sau mười ngày, ta bức hàng bức rút hai mươi cứ điểm, đồn bót và diệt hai cánh địch viện bằng đường bộ và đường sông, hơn một trăm quân Pháp và lình lê dương Marốc bị bắt, thu nhiều vũ khí đạn dược. Chiến dịch Cầu Kè là chiến dịch tấn công mở vùng, mở mảng đầu tiên ở Nam Bộ đã giành thắng lợi. Và nếu tôi không lầm, hình như trên toàn quốc lúc này chưa mở chiến dịch tấn công nào.
    -Tiếng súng Nam Bộ đã khởi đầu cho cuộc kháng chiến toàn quốc chín năm chống Pháp. Trung tướng từng là một trong những vị chỉ huy quân sự am tường và trực tiếp trên chiến trường. Theo Trung tướng có điểm khác biệt nào giữa Nam Bộ với các chiến trường khác lúc bấy giờ?
    -Nam Bộ là chiến trường mang tính chất đấu tranh du kích ở hậu phương địch. Giữa chủ động tấn công và bị động chống càn xảy ra liên tiếp. Mỗi đơn vị hàng năm phải đánh cả trăm trận. Người chỉ huy quân sự luôn phải tự lực cao, có sức sáng tạo lớn, mới không bị động, đòi hỏi người chỉ huy phải biết cách đánh, biết xây, biết bảo vệ và phát triển lực lượng dựa vào phong trào cách mạng quần chúng; đồng thời phải hiểu biết cặn kẽ tình hình địch-ta.
    Thời chống Pháp ở Nam Bộ chưa có nhiều kinh nghiệm, chưa có trường quân sự chính qui. Chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thực tế chiến trường, mà tìm ra cách đánh phù hợp, đề ra chiến thuật. Trên cơ sở đó, bắt đầu mở các chiến dịch, từ chiến dịch tấn công đến chiến dịch chống càn, từ chiến dịch đánh độc lập đến chiến dịch phối hợp với toàn quốc. Và Nam Bộ là nơi mở các chiến dịch sớm hơn tất cả các chiến trường. Tuy nhiên, dưới con mắt của một vài nhà quân sự chính qui hiện đại, họ lại xem cách đánh trên là đánh du kích không khoa học!
  8. Red_fanatical

    Red_fanatical Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2004
    Bài viết:
    1.460
    Đã được thích:
    0
    Hôm nọ đi xe ôm ông sư trưởng sư 341 từng chiến đấu bên Lào trận đường 9, vãi hàng
  9. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Các bác cho em hõi tí ạ, sao trong danh sách các tướng được phỏng vấn em thấy không có tên tướng Nguyễn Bình ạ? Theo em được biết thì Tướng Nguyễn Bình có công rất lớn trong việc thống nhất các lực lượng giang hồ hảo hán ở SG - Gia Định thành lực lượng Bình Xuyên, nhưng lại được nhắc đến chút ít trong bài phỏng vấn Tướng Tô Ký. Công ông lớn, nhưng em thấy không có công trình nào nhắ đến ông như: Đường xá, bia, đền hay địa danh nào hết. Chẳng hay ông có vấn đề gì không ạ?
    Em search trên Wikipedia cũng chỉ có thế này:
    "Nguyễn Bình tên thật là Nguyễn Phương Thảo, quê ở làng An Phú, xã Tinh Tiến, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên.
    Thời trẻ, ông lên Hải Phòng làm thủy thủ trên tàu viễn dương chạy tuyến Việt Nam - Pháp.
    Được Trần Huy Liệu vận động, ông tham gia cách mang, gia nhập Việt Nam Quốc dân đảng, phụ trách quân sự. Sau thất bại của khởi nghĩa Yên Bái, lực lượng Việt Nam Quốc dân đảng bị phân hóa. Cả Trần Huy Liệu và Nguyễn Phương Thảo đều bị thực dân Pháp bắt giam và đày đi Côn Đảo. Do tư tưởng thiên tả, 2 người bị nhóm cực hữu trong đảng kết án tử hình nhưng đều may mắn thoát nạn. Riêng Nguyễn Phương Thảo bị đâm mù một mắt.
    Năm 1936, ông được trả tự do, về Hải Phòng hoạt động cách mạng và xây dựng căn cứ riêng. Cũng trong thời gian này, ông đổi tên thành Nguyễn Bình, với ý nghĩa Bình thiên hạ, chính thức ly khai Việt Nam Quốc dân đảng. Từ năm 1943, ảnh hưởng của Nguyễn Bình từ Bần Yên Nhân, tỉnh Hưng Yên mở rộng sang vùng Kiến An, Hải Phòng, đến An Lão, Hải An, Thủy Nguyên, tỉnh lị Kiến An và thị xã Đồ Sơn.
    Tháng 6 năm 1945, Nguyễn Bình thành lập chiến khu Đông Triều và đảm nhận nhiệm vụ tư lệnh. Khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, ông chỉ huy du kích đánh chiếm tỉnh lỵ Quảng Yên và cướp vũ khí ở một số huyện.
    Khi thực dân Pháp đánh chiếm rộng ra toàn Nam Bộ, Nguyễn Bình được Chủ tịch chính phủ Hồ Chí Minh cử vào Nam lo việc thống nhất các lực lượng vũ trang. Tháng 12 năm 1945 ông được cử làm Khu trưởng Khu 7 Nam Bộ, lập tổng hành dinh ở Làng An (Biên Hòa), sau bị địch truy quét nên chuyển về xã An Phú (Gia Định) rồi xã An Thành, phái nam Bến Cát. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bình, tình trạng cát cứ dần giảm bớt, các quân phiệt cát cứ bị giải tán và hạn chế, các đơn vị bộ đội được phiên chế thống nhất thành các chi đội Vệ quốc đoàn. Ông còn lập các ban Công tác thành làm nhiệm vụ phá hoại sau lưng địch. Năm 1946 ông gia nhập **********************.
    Ngày 20 tháng 1 năm 1948, ông được Chính phủ phong quân hàm Trung tướng và cử làm tổng chỉ huy chiến trường Nam Bộ. Cùng đợt có Võ Nguyên Giáp được phong Đại tướng, Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Khi Bộ tư lệnh Nam Bộ được thành lập vào tháng 10 năm 1948, ông làm Tư lệnh.
    Ngày 29 tháng 9 năm 1951, trên đường đi công tác ra Bắc, ông bị quân Pháp phục kích và tử trận trên đất Campuchia. Sau này hài cốt của ông được chuyển về Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhất và Anh hùng lực lượng vũ trang."
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Các bác cho em hõi tí ạ, sao trong danh sách các tướng được phỏng vấn em thấy không có tên tướng Nguyễn Bình ạ?
    => Dạ, báo cáo bác, Trung tướng Nguyễn Bình đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp còn những cuộc phỏng vấn này của tác giả Phan Hoàng thực hiện vào những năm 1997-1998 thì làm sao có cuộc phỏng vấn Trung tướng Nguyễn Bình được.

Chia sẻ trang này