1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Sư đoàn 341 chiến đấu bên Lào trận đường 9, công nhận là vãi hàng !
  2. mytam81

    mytam81 Thành viên mới Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    29/07/2005
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    0
    Còn thượng tướng Phạm Ngọc Mậu nữa chứ nhỉ.
    Ông nguyên là phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị
    Chính ủy Binh chủng pháo binh
    Chính ủy đại đoàn công pháo 351 ở Điện Biên Phủ
  3. Red_fanatical

    Red_fanatical Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/11/2004
    Bài viết:
    1.460
    Đã được thích:
    0
    Thì nghe mồm ông ấy quảng cáo thế, em lại nhất trí với bác lần nữa, vãi hàng thật
  4. chuhao

    chuhao Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/06/2004
    Bài viết:
    147
    Đã được thích:
    0
    Có ai biết về tướng Bùi Bá Bổng không?
    Nghe nói đợt vừa rồi được đặc cách phong Thượng tướng từ thiếu tướng đó.
    Vì thành tích "Người cha Việt Nam anh hùng".
  5. boysaigon

    boysaigon Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    12/03/2003
    Bài viết:
    10.485
    Đã được thích:
    0
    Vâng, em biết chứ. Nhưng topic có tựa đề là các tướng lĩnh QĐNDVN mà, nên em cũng nên thắc mác về Tướng Nguyễn Bình chứ ạ. Và cũng mong là có ai có thêm tài liệu nào về ông ấy thì cho em xin. Mí lại, một người có công trạng đầy mình như Nguyễn Bình mà chẳng có công trình nào ghi nhớ ông ấy thế?
  6. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Nhưng topic có tựa đề là các tướng lĩnh QĐNDVN mà
    => Báo cáo bác típ: cái chủ đề này em lập ra ban đầu tên đầy đủ là: "Phỏng vấn các tướng lĩnh QĐNDVN" nhưng sau khi ttvn bị cấm hoạt động cuối năm 2004 thì box LS-VH không được hoạt động. Các bác nhà mình đã lập ra cái Lịch sử-Văn hoá hiện giờ và kéo được một số chủ đề cũ lên. Bác Milou kéo cho em cái chủ đề đó lên và đổi tên luôn. Sau đấy em cũng quen thế, chả đổi lại tên chủ đề nữa.
    Còn về tướng Nguyễn Bình, em nhớ không nhầm thì trong cái LS-VH cũ cũng có chủ đề nói về Trung tướng Nguyễn Bình nhưng giờ hình như là không thể vào được. Sách nói về tướng Nguyễn Bình thì cũng có đấy chứ ạ, tất nhiên là cũng không nhiều lắm.
  7. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Được biết sau Hiệp định Genève-1954, Trung tướng được Trung ương tin cẩn giao nhiệm vụ bí mật ở lại phụ trách quân sự miền Nam. Trung tướng còn nhớ gì về tình hình tế nhị và phức tạp đó?
    -Ngay từ lúc đầu ngừng chiến, địch đã lo ổn định tình hình, tổ chức chính quyền ở vùng cách mạng trước đây. Mỹ tìm cách hất cẳng Pháp, đưa Ngô Đình Diệm lên cai trị miền Nam chia cắt đất nước. Trước tình hình ấy, ta vừa chuyển quân tập kết ra Bắc, đồng thời chuyển một số cán bộ vào hoạt động bí mật để lãnh đạo, chỉ huy phong trào chiến đấu trong lòng địch. Tôi đang phụ trách chuyển quân tập kết, đến chuyến cuối cùng, thì bất ngờ nhận lệnh ở lại. Bởi nhiệm vụ này vốn đã được phân công cho người khác chứ không phải tôi.
    -Giữa lúc chiến hữu và người thân chuyển ra Bắc, Trung tướng đột ngột nhận nhiệm vụ ở lại giữa vòng vây đối phương, tâm trạng Trung tướng lúc ấy thế nào?
    -Vừa ngậm ngùi, vừa tự hào. Bước chân xuống ghe, nhìn cảnh vợ con đứng trên bờ chuẩn bị ra Bắc, lòng làm sao không bùi ngùi cho được. Tôi nhớ đêm hôm trước, hình như linh tính báo rằng ba không cùng ra Bắc, nên thằng Hoàng con tôi khóc dữ, mẹ dỗ mãi mới thôi (cười). Biết ở lại phải đối mặt với vô vàn khó khăn, nguy hiểm, nhưng tôi cảm thấy toại nguyện. Vì tình cảm của mình đối với dân bấy giờ thật khó tả, có lúc nghĩ đến cảnh dân phải ở lại trong lòng địch tôi rơi cả nước mắt. Ngay đêm đó, tôi vào căn cứ ở chung bộ phận với các anh Ba Duẩn, Sáu Dân, Tám Cao, Ba Bụng, Cao Đăng Chiếm?
    -Như thế cả hai cuộc kháng chiến, Trung tướng đều không rời chiến trường miền Nam?
    -Vâng. Do tình hình mới, tôi bắt tay nghiên cứu tài liệu, xây dựng các lực lượng vũ trang, công tác binh vận, thanh niên. Hoạt động vừa có tính hợp pháp, bán hợp pháp, lại bất hợp pháp. Mặc dù nằm giữa lòng địch, bị khủng bố và tàn sát dã man, nhưng lực lượng cách mạng vẫn tồn tại và từng bước phát triển. Sau phong trào Đồng Khởi năm 1960, Trung ương mới tăng cường anh Trần Văn Quang vào Nam cùng tôi phụ trách về quân sự. Đến khi anh Quang ra Bắc, anh Trần Văn Trà, anh Nguyễn Chí Thanh, anh Lê Trọng Tấn và một số đồng chí khác được cử vào chiến trường. Bộ chỉ huy các lực lượng võ trang giải phóng miền Nam được thành lập, tôi được cử làm phó tư lệnh Miền và tiếp tục cầm quân tham gia tác chiến. Có hai lần tôi xa chiến trường. Lần thứ nhất từ cuối năm 1963 đến 1965, tôi sang Trung Quốc học. Lần thứ hai là cuối năm 1974, tôi ra Hà Nội làm thường trực Ban Chỉ đạo Quân sự miền Nam, trong ban gồm có anh Võ Nguyên Giáp, anh Văn Tiến Dũng và một số cán bộ quân sự khác.
    -Có thể nói, cách mạng miền Nam thời kỳ 1954-1960, nghĩa là trước khi phong trào Đồng Khởi bùng nổ và các đoàn công tác từ miền Bắc vào, đã gặp nhiều gay go, tổn thất. Với tư cách người chỉ huy quân sự đứng đầu miền Nam lúc đó, Trung tướng có thể phác hoạ sơ lược về tình hình và hoạt động quân sự thời kỳ này?
    -Năm 1954-1956 là giai đoạn còn đấu tranh thực hiện Hiệp định Genève. Ở Nam Bộ, có chỉ đạo chung là xây dựng lực lượng võ trang mật và tranh thủ các giáo phái. Tuy nhiên ở các địa phương việc chỉ đạp và xây dựng không đồng nhất. Có nơi hoạt động tốt. Có nơi không xây dựng được. Thậm chí có nơi liệng súng xuống sông để chỉ đơn thuần đấu tranh chính trị. Hoạt động của các lực lượng võ trang bấy giờ là tự vệ, bảo vệ cán bộ, bảo vệ dân và võ trang tuyên truyền, bằng phương pháp khống chế bọn ác ôn và chính quyền của địch ở nông thôn. Thời gian này ở Nam Bộ sơ khai hình thành trở lại ba căn cứ: U Minh, Đồng Tháp và chiến khu Đ.
    Mặc dù bị chính quyền Ngô Đình Diệm khủng bố, tàn sát dã man, nhưng thế và lực cách mạng vẫn chuyển biến nhanh. Thế chính trường như có hai nhánh chính quyền hình thành ở nông thôn mà nhất là Khu 9, nhiều nơi thế lực cách mạng mạnh hơn địch.
    -Nghe nói thời kỳ này, Trung tướng có đề xuất với ông Lê Duẩn việc cướp chính quyền. Điều này có hay không, thưa Trung tướng?
    -Có. Lúc đó anh Lê Duẩn là người lãnh đạo trực tiếp cao nhất của cách mạng miền Nam. Bằng lực lượng võ trang ngầm nổi, trong ngoài, kết hợp với phong trào quần chúng, tôi đã đề nghị với Đảng mà trực tiếp là anh Lê Duẩn, cho cướp chính quyền. Nhưng anh trả lời chưa đủ điều kiện. Vì lúc đó, chỉ có lực lượng ở Khu 9 là mạnh, còn Khu 8 và Khu 7 lực lượng còn yếu. Ngoài Khu 5 trừ một bộ phận nhỏ ở Trà Bồng, thì lực lượng chưa có gì. Từ đề nghị này mà về sau, có cán bộ lãnh đạo cao cấp cứ mãi nhắc nhở đề phòng việc bạo động non cướp chính quyền.
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Vậy còn tình hình chung từ năm 1956-1960?
    -Cuối năm 1956, địch ra sức xây dựng chính quyền đều khắp vùng căn cứ cách mạng, tiến hành bình định, lập ấp chiến lược, tăng cường khủng bố, đàn áp. Hầu hết các lực lượng võ trang giáo phái thân Pháp ra đầu hàng Mỹ, chỉ còn lại một bộ phận nhỏ được giác ngộ ở lại bưng biền với cách mạng. Miền Tây bị tổn thất khá nặng. Tuy nhiên ở miền Đông từ cuối năm 1957 trở đi, ta xây dựng được căn cứ và lực lượng võ trang mạnh dần. Thành phần bao gồm cả cán bộ, chiến sĩ từ Khu 9 và Khu 8 lên cộng với người ở Khu 7. Đồng thời, còn có cả lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài được sát nhập vào lực lượng giải phóng. Nhờ đó lực lượng chính trị ở miền Đông được củng cố và mạnh dần lên, có tác dụng duy trì thế chính trị chung trong tình hình cả miền Nam khó khăn.
    Cho đến phong trào Đồng Khởi năm 1960, lực lượng quần chúng nổi dậy là chủ yếu, nhưng vai trò quân sự hỗ trợ cũng rất đắc lực.
    -Đánh chiếm tỉnh lỵ Phước Thành năm 1961 có thể nói là hoạt động quân sự gây tiếng vang lớn thời kỳ đầu chống Mỹ mà nhiều người thường nhắc. Vốn trực tiếp chỉ huy trận đánh này, xin Trung tướng kể lại một số diễn tiến chính.
    -Tỉnh lỵ Phước Thành là một đặc khu mới xây dựng của địch lúc ấy, để chế áp cách mạng ở chiến khu Đ và vùng rừng núi miền Đông. Ta sử dụng ba tiểu đoàn cộng ba đại đội để tấn công và chặn viện. Quân ta dùng chiến thuật kỳ tập bằng đặc công tiến trước và kết hợp chiến thuật tập kích tấn công của các tiểu đoàn tiếp theo, hình thành thế tấn công vào năm khu vực bằng năm cánh quân hợp vây, chia cắt địch ra từng mảnh ngay từ đầu để chúng không ứng cứu nhau được, mà trọng điểm là khu vực cơ quan đầu não tỉnh.
    Trận đánh mang yếu tố bí mật, bất ngờ chỉ sau hai giờ, ta đã làm chủ toàn bộ tỉnh lỵ Phước Thành, bắt sống tỉnh phó, giải thoát bốn trăm tù chính trị, tiêu diệt và bắt gọn hơn một ngàn tên địch của ba tiểu đoàn bảo an, một tiểu đoàn cộng hoà, một tiểu đoàn công an, thu toàn bộ vũ khí trong đó có cả xe thiết giáp và pháo 105. Quân tiếp viện của địch ở các hướng cũng bị đẩy lùi. Về sau dùng máy bay yểm trợ chiếm lại, nhưng địch vẫn phải bỏ hẳn tỉnh lỵ Phước Thành, xoá tên tỉnh này khỏi bàn đồ hành chính.
    Trận Phước Thành có tác động rất lớn ở miền Đông. Nó gây hoang mang dao động dây chuyền đối với địch. Quân ta tiếp tục khuếch trương chiến quả, bao vây uy hiếp các đơn vị của địch ở ven rừng, đánh chiếm và bức rút hàng chục đồn bót và chi khu, phá các ấp chiến lược, giải phóng hàng chục ngàn dân, mở rộng vùng giải phóng.
    -Nghĩa là theo Trung tướng, sau trận Phước Thành, cục diện chiến trường dần chuyển biến qua thế có lợi cho ta?
    -Vâng, nhất là kể từ năm 1962, khi hàng loạt cuộc tấn công của ta diễn ra khắp nơi. Các lực lượng biệt động ở thành thị cũng bắt đầu hoạt động gây được tiếng vang trên cơ sở tấn công địch ở chiến trường miền Đông, lần lần các chiến trường khác chuyển động mạnh. Trước hết là Khu 9, rồi đến Khu 5. Riêng Khu 8 sau trận thắng vang dội Ấp Bắc đầu năm 1963 đã thật sự mạnh đều lên và có thể nói, sau chiến thắng Ấp Bắc, quân ta đã nắm lại quyền chủ động tấn công trên toàn miền Nam. Điều đó có tác động lớn đến việc ?othay ngựa giữa dòng? của Mỹ khi lật đổ Ngô Đình Diệm và chế độ độc tài gia đình trị của ông ta.
    -Về cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, có nhiều ý kiến trái ngược nhau cả phía đối phương lẫn phía ta về kết quả của nó. Riêng Trung tướng có nhận định thế nào, thưa Trung tướng?
    -Đúng như anh nói, lúc đầu phía đối phương công nhận họ thua, sau họ bảo thắng. Còn ta cũng có người cho rằng không thắng vì không dứt được điểm nào, mà còn bị tổn thất khá nặng. Theo tôi, cuộc tấn công Tết Mậu Thân-1968 cho thấy sự đánh giá đúng về mặt chủ quan của địch, tạo được một bước chuyển biến về chiến lược có lợi cho ta, đem lại kinh nghiệm quý cho các cuộc tấn công chiến lược về sau.
    Mặt khác nó cũng chỉ ra rằng, sức tấn công quân sự của ta còn có hạn, nên không thúc đẩy được phong trào nổi dậy của quần chúng giành chính quyền. Chẳng hạn, tại Tây Ninh, nếu ta có được một trung đoàn thì sẽ đánh chiếm toàn bộ tỉnh lỵ một cách nhanh gọn. Bởi lúc ấy chỉ với một lực lượng ít ỏi, chủ yếu là bộ đội địa phương, nhưng ta vẫn chiếm, bao vây một số điểm quan trọng, làm chủ thị xã Tây Ninh hai đêm hai ngày. Tại các đô thị khác cũng vậy.
    Một điểm cũng đáng chú ý là bấy giờ thế và lực của đối phương vẫn còn mạnh. Địch nhanh chóng khôi phục lực lượng, còn ta thì cần thời gian dài hơn. Nhưng nhờ thắng lợi Mậu Thân 1968, ta đã buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán, rút quân về nước, để ta có điều kiện đánh nguỵ nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
    -Với tầm nhìn bao quát: của một vị tướng có mặt xuyên suốt trên chiến trường, theo Trung tướng, sự tài tình về nghệ thuật chỉ huy trong chống Mỹ thể hiện ở những điểm nào?
    -Thể hiện ở các cuộc tấn công chiến lược; cách đánh giá chính xác tình hình địch ta; nghệ thuật chỉ huy quân sự ở từng trận đánh với thế tấn công bất ngờ, chuyển từ bị động sang chủ động, từ yếu lên mạnh đến mạnh tuyệt đối để hoàn toàn áp đảo đối phương, kết thúc chiến tranh.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Nghe Trung tướng kể chuyện, cứ ngỡ như những ngày hào hùng và bi tráng mới thoáng qua. Theo Trung tướng, trong hai cuộc chiến đấu vừa qua, phụ nữ có vai trò như thế nào?
    -Vai trò của người phụ nữ không chỉ thể hiện trên chiến trường mà cả ở hậu phương, trong từng gia đình. Chính vì vậy mà nhiều bà mẹ Việt Nam đã được phong tặng anh hùng. Trên thế giới không nước nào có nhiều bà mẹ anh hùng như thế!
    -Có điều chiến tranh đã đi qua hơn hai mươi năm, nhiều bà mẹ đã mãi mãi ra đi không kịp nhận vinh dự mà Nhà nước phong tặng!
    -Đây cũng là điều cần suy nghĩ. Nhưng muộn còn hơn không. Theo tôi, trong việc phong tặng cho các bà mẹ cũng cần phải chú ý đến một thực tế: có những bà mẹ liệt sĩ, đồng thời bản thân còn trực tiếp tham gia hoạt động cách mạng, chịu cảnh tù đày, tra tấn. Đó là những bà mẹ anh hùng. Còn những bà mẹ có con là liệt sĩ, nhưng bản thân không trực tiếp hoạt động cách mạng, thì đó là bà mẹ Việt Nam yêu nước.
    -Đã có bà mẹ Việt Nam anh hùng sao không có ông cha Việt Nam anh hùng, thưa Trung tướng?
    -(Cười) Tôi cũng nghĩ cần có danh hiệu này.
    Tôi đề nghị mượn Trung tướng mấy tấm ảnh tư liệu. Ông bước vào nhà trong. Vừa lúc người bạn đời của Trung tướng, bà Nguyễn Thị Hai, bước ra châm thêm bình nước. Không bỏ lỡ cơ hội, tôi chuyển câu chuyện sang bà. Đã ở tuổi bảy mươi sáu nhưng trông bà còn khoẻ và hoạt bát lạ thường. Tôi hỏi:
    -Thưa bà, cả đời sống với nhau, điều gì làm bà vừa lòng và điều gì làm bà không ưng ý đối với ông nhà?
    -Ông nhà tôi là con người hiền hậu, chất phác. Là tướng nhưng không tỏ vẻ là tướng, mà luôn sống giản dị. Tuy là vợ chồng, nhưng thời gian chúng tôi sống bên nhau rất ít. Cả đời ông ấy gắn với chiến trường, chỉ nghĩ chuyện đánh giặc, ít nghĩ chuyện gia đình. Đến bây giờ, cả việc lớn việc nhỏ thường cũng tự tôi lo liệu.
    -Chắc bà còn nhớ thời điểm ông bà thành hôn với nhau?
    -Tôi đến với ông ấy hoàn toàn do quyết định của cha tôi. Quê tôi ở Gò Công, cha tôi hay xuống Cần Thơ buôn bán và gặp ông nhà tôi. Thấy ông đơn côi, làm ăn thực thà, cha tôi đem lòng yêu quý. Qua một người cô ở Cần Thơ, chúng tôi ?coi mắt? nhau và? Vậy thôi. Không có chuyện được tìm hiểu, yêu thương trước khi cưới như bây giờ.
    Năm 1941 chúng tôi có đứa con đầu, ông ấy bị địch bắt đày đi Côn Đảo. Ở nhà, bà nội tôi cứ đòi đem tôi gả cho người khác (cười). Nhưng cha tôi nhất quyết không chịu. Vì lúc đó, đi Côn Đảo chẳng biết ngày về. Và khi ông ấy trở về thì tiếp tục hoạt động cách mạng, rồi đi đánh giặc suốt tới ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cứ mỗi lần gặp nhau, chỉ trong thời gian ngắn, chúng tôi lại có? một đứa con (cười)! Cứ thế. Bốn đứa bây giờ đều trưởng thành. Tôi nhớ khi tập kết ra Bắc năm 1954, tôi đòi ở lại miền Nam với ổng nhưng ổng không cho. Đợt ấy gần chín năm sau mới gặp lại. Ra Hà Nội, một mình tôi vừa nuôi con, vừa làm việc để? đợi ông!
    Nghe phu nhân Trung tướng Nguyễn Hữu Xuyến tâm sự, tôi càng thấm thía nỗi thống khổ do hai chữ ?ochiến tranh" đem lại. Nó không chỉ là nỗi đau chung của một dân tộc, mà còn ?obắn? vào từng gia đình. Và ở đó, người phụ nữ luôn âm thầm chịu đựng bao nỗi mất mát: xa chồng, xa con, mất chồng mất con và theo tôi, nỗi đau lớn nhất trong những nỗi đau: sự mỏi mòn chờ đợi trong tuổi thanh xuân!
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Đại tướng Võ Nguyên Giáp
    Có những người chúng ta chưa từng gặp bao giờ nhưng hình ảnh, sự nghiệp, nhân cách của họ luôn sống động trong tiềm thức, quen thuộc đến mức ngỡ như người thân. Đối với tôi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những hình ảnh ấy. Là một tài năng quân sự lỗi lạc tên tuổi vang lừng thế giới, một Đại tướng Tổng Tư lệnh được tôn vinh như anh cả của Quân đội Nhân dân Việt Nam, một nhà văn hóa, khoa học uyên thâm, và hơn hết ông là biểu tượng của một nhân cách sống! Trong hồi ký của Thống tướng Westmoreland, nguyên tổng chỉ huy quân viễn chinh Mỹ trên chiến trường Đông Dương, khi đề cập đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ông ta nói rằng: Mọi đức tính tạo thành một thống soái quân sự lớn, như sự quyết đoán, sức mạnh tinh thần, khả năng tập trung suy nghĩ và hành động, trí thông minh, tất cả đều có ở tướng Giáp-một vị thống soái vĩ đại! Còn tướng Marcel Bigeard thuộc Học viện Quân sự quốc phòng Pháp, nguyên thiếu tá tham chiến mặt trận Điện Biên Phủ, cũng thán phục: Ông Giáp đã chỉ huy quân đội Việt Nam chiến đấu giành thắng lợi trong một thời gian đặc biệt lâu dài, trong suốt ba mươi năm, một kỳ tích chưa từng thấy! Vâng, không chỉ hom nay mà muôn đời sau, tôi tin rằng cuộc đời và sự nghiệp đầy huyền thoại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là tấm gương là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam!
    Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà cách mạng trẻ tuổi xuất thân từ nhà giáo Võ Nguyên Giáp đã trực tiếp thành lập và chỉ huy Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân với lực lượng ban đầu chỉ gồm ba mươi mốt người và một ít vũ khí: một khẩu tiểu liên, hai súng lục, mười bốn hoả mai, mười bảy súng trường. Chín năm sau, đội quân ấy đã lớn thành sáu sư đoàn bộ binh chiến lược, làm chấn động địa cầu khi buộc quân Pháp phải đầu hàng tại mặt trận Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954, dẫn đến việc ký kết Hiệp định Genève, một nửa đất nước được giải phóng. Rồi hai mươi năm tiếp theo, những sư đoàn bộ binh đã phát triển thành một đội quân hùng mạnh gồm đủ các quân binh chủng, đánh bại hoàn toàn quân viễn chinh Mỹ xâm lược, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa xuân năm 1975 với sự đầu hàng vô điều kiện của Tống thống Việt Nam Cộng hoà Dương Văn Minh, giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
    Đúng là một kỳ tích ?ochưa từng thấy?! Trong đó, phần đóng góp của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp rất to lớn. Tôi nhớ trong một buổi trò chuyện, khi đề cập đến vấn đề cá nhân trong lịch sử, Thiếu tướng-Viện sĩ Trần Đại Nghĩa có nói rằng: ?oTất nhiên, tập thể quyết định sự thành bại của lịch sử. Nhưng cá nhân đóng vai trò hết sức quan trọng. Trận Điện Biên Phủ chẳng hạn, nếu như không có vai trò của anh Võ Nguyên Giáp thì tôi tin cục diện sẽ khác đi và chiến thắng không lừng lẫy như thế?. Vai trò ấy biểu hiện cụ thể ra sao?
    Ngược dòng lịch sử, chúng ta biết rằng đầu năm 1953, tướng Navare lập ở Tây Bắc một tập đoàn cứ điểm mạnh với mười hai tiểu đoàn tinh nhuệ, mà theo lời nhà báo Robert Guilain thì ?ongay cả trong Chiến tranh thế giới thứ hai vừa qua, quân đội Pháp cũng chưa bao giờ dựng lên một hệ thống phòng ngự dã chiến lớn mạnh như ở Điện Biên Phủ?. Các nhà quân sự Pháp, Mỹ, Anh đến tận nơi thị sát và cũng cho rằng Điện Biên Phủ là pháo đài bất khả xâm phạm!
    Bộ chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ được thành lập do Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trực tiếp làm chỉ huy trưởng. Lực lượng gồm hai mươi bảy tiểu đoàn. Khí thế bộ đội rất cao. Mọi sự chuẩn bị tốt nhất cho trận đánh đã sẵn sàng. Ngày nổ súng được qui định là 25 tháng 1 năm 1954. Nhưng sau đó, do địch nghe trộm vô tuyến điện phát hiện được nên thời gian nổ súng hoãn lại hai mươi bốn tiếng.
    Trước lúc lên đường ra mặt trận, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến chào Hồ Chủ tịch. Khi nghe Đại tướng đề cập đến sự trắc trở thông tin do mặt trận xa, sẽ khó thường xuyên xin được ý kiến của lãnh tụ tối cao và Thường vụ Trung ương Đảng, Hồ Chủ tịch đã tin tưởng ủy thác: ?oTướng quân tại ngoại. Trao cho chú toàn quyền quyết định?, rồi căn dặn: ?oTrận này quan trọng. Chắc thắng mới đánh?.
    Suốt đêm 25 tháng 1, ở Sở chỉ huy chiến dịch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không sao chợp mắt được. Nhớ đến lời căn dặn mà cũng chính là mệnh lệnh bất di bất dịch của Hồ Chủ tịch, vị chỉ huy trưởng như nằm trên đống lửa khi chưa tìm thấy yếu tố chắc thắng cho trận đánh. Mệnh lệnh nổ súng đã được phát đi, khó hoãn lại, vì ảnh hưởng đến tinh thần bộ đội. Vốn liếng của tám năm kháng chiến, tựu trung là các đại đoàn chủ lực, đều được huy động cho trận quyết chiến này. Nếu thất bại thì? thật khó lường. Đánh hay hoãn?
    Mờ sáng hôm sau, Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh triệu tập cuộc họp Đảng ủy Mặt trận. Ông quyết định hoãn cuộc tấn công, chuẩn bị lại theo phương châm?đánh chắc tiến chắc?. Quyết định khó khăn này được sự tán đồng của trưởng đoàn cố vấn quân sự nước bạn. Dù ai nấy ngạc nhiên đến sững sờ, nhưng sau hai cuộc họp, trước những ý kiến thuyết phục của Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp, cuối cùng Bộ chỉ huy chiến dịch cũng đã nhất trí hoãn cuộc tấn công. Các đơn vị bộ đội được lệnh kéo pháo ra, trở về vị trí tập kết, nhận nhiệm vụ mới lên đường hành quân chiến đấu. Sau đó, Bộ chỉ huy chiến dịch nhận được thư của Tổng bí thư Trường Chinh cho biết, Hồ Chủ tịch và Thường vụ Trung ương Đảng nhất trí rằng quyết định thay đổi phương châm chiến dịch là hoàn toàn đúng đắn và, sẽ động viên toàn dân dốc sức chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ giành thắng lợi.
    Sau khi hoàn thành trận địa bao vây và tiến công, Chỉ huy trưởng Võ Nguyên Giáp ấn định ngày nổ súng là 13 tháng 3 năm 1954. Đúng giờ hẹn, mệnh lệnh được phát ra, cả tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ nhanh chóng biến thành chảo lửa. Sau năm mươi lăm ngày đêm anh dũng chiến đấu, dưới sự chỉ huy tài tình của Chuẩn uý Võ Nguyên Giáp và Bộ chỉ huy chiến dịch, quân dân ta đã làm nên chiến thắng vĩ đại, gây chấn động thế giới. Hơn mười sáu ngàn quân viễn chinh Pháp bị tiêu diệt và bắt sống. Tướng Chỉ huy trưởng De Castrie phất cờ trắng đầu hang. Chiến thắng Điện Biên Phủ mở ra một trang mới cho lịch sử dân tộc và cả nhân loại.

Chia sẻ trang này