1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Necr

    Necr Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    23/08/2003
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    0
    Bài rất hay , mình rất thích . Cám ơn bạn vì bài viết thật bổ ích .
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thượng tướng Nguyễn Minh Châu
    Thưa Thượng tướng, tại sao Nguyễn Minh Châu lại có biệt danh Năm Ngà?
    -Nguyễn Minh Châu là tên khai sinh, còn Năm Chon hay Năm Ngà là những cái tên khác trong kháng chiến. Tôi lấy tên Năm Ngà khi từ ngoài Bắc trở vào Nam đánh Mỹ. Năm là thứ của tôi trong gia đình. Còn Ngà là tên vợ tôi, Huỳnh Thị Ngà.
    *Lúc Thượng tướng ra Bắc thì bà nhà ở đâu?
    -Bà cũng ra Bắc nhưng đi sau một mình với con cái. Tôi chuyển quân đi trước. Bà một mình ôm con lặn lội theo sau. Trên đường bà bị bệnh rất nặng, may nhờ có nhiều anh em quen biết cố chạy chữa đưa ra tới Bắc. Sau đó, tôi vào Nam chiến đấu, rồi sang Campuchia đánh nhau với bọn diệt chủng Pol Pot, nên vợ chồng ít có thời gian gặp nhau.
    *Thượng tướng và bà gặp nhau lần đầu tiên lúc nào?
    -Vào năm 1948, lúc tôi đang chiến đấu ở Bình Thuận. Bà ấy người Hàm Tân, làm cán bộ phụ nữ, mua lúa gạo, thực phẩm tiếp tế cho anh em bộ đội. Gặp nhau rồi có cảm tình với nhau, sau đó tổ chức đám cưới. Cha bà ấy nguyên là địa chủ bị địch bắt ép làm việc nhưng ông cụ không làm, bảo khai báo về cách mạng ông không khai, nên bị chúng xử tử?
    *Thượng tướng, một đời chinh chiến, bây giờ nhìn lại, Thượng tượng có cảm thấy hối tiếc điều gì không?
    -Tôi chả có hối tiếc điều gì cả, mà còn mừng nữa. Thứ nhất là mừng nước nhà đã được thống nhất, độc lập, nhiệm vụ đời tôi đã hoàn thành. Thứ hai là mừng tôi vẫn còn sống cho tới hôm nay. Tôi không phải là người duy tâm, nhưng cứ băn khoăn là chẳng hiểu sao ở chiến trường gian khổ như vậy, đạn bom như vậy mà tôi không chết. Mặc dù tôi là người bị rất nhiều bệnh, nhất là bệnh phổi, phải luôn hít thở sâu kết hợp với thuốc men thường xuyên. Mà lúc đó thuốc men đâu có nhiều. Hơn nữa, tôi là người luôn có mặt ở nơi nguy hiểm. Hễ nghe anh em báo nơi nào khó khăn, căng thẳng là tôi lên đường ngay. Trong khi đó, biết bao đồng đội tôi đã mãi mãi ngã xuống?
    *Hình ảnh nào thời trận mạc để lại trong lòng Thượng tướng ấn tượng sâu đậm nhất?
    -Người lính. Không có ông tướng nào đem lại cho tôi sự khâm phục bằng hình ảnh người lính. Họ hồn nhiên, trong sáng, quả cảm, không hề biết run sợ trước cái chết và chính nhờ sự hy sinh to lớn của hàng vạn người lính mới sản sinh ra được những vị tướng.
    *Thế điều mà Thượng tướng căm ghét nhất trong đời sống thường nhật là gì?
    -Những kẻ ham chức quyền, ích kỷ, ăn cắp, tham nhũng.
    *Một đời xông pha dưới làn tên mũi đạn, có mặt hầu khắp mọi chiến trường, những lúc ngừng nghỉ Thượng tướng có hồi tưởng về hình ảnh thời thơ ấu của mình không? Và tuổi thơi có ảnh hưởng gì đối với sự nghiệp của Thượng tướng?
    -Tuổi thơ tôi là những tháng ngày mồ côi gian nan và bất hạnh. Tôi sinh năm 1921, tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, mới được mấy tháng thì mẹ tôi mất. Điều này lớn lên tôi mới biết. Tôi không kịp nhận biết hình ảnh người mẹ vắn số. Lên 6 tuổi tôi đi học. Cho đến năm 1930-1931, kinh tế thế giới lẫn trong nước khủng hoảng, quê tôi nạn đói hoành hành. Tôi cùng hai người anh phải thôi học, phụ ba tôi làm lụng sống qua ngày. Tới lúc này, ba tôi mới cưới người vợ thứ hai để giúp đỡ, trông nom nhà cửa. Còn tụi tôi đi làm xa, chạy ăn từng bữa, có lúc phải ăn củ nần cả tháng. Khổ về vật chất lẫn tinh thần. Tôi cứ miên man nghĩ: sống như vậy để làm gì? Tôi không thể sống được. Quê tôi có người đến khi sắp già nhắm mắt xuôi tay, chỉ biết từ nhà ra chợ chớ không biết nơi đâu khác. Năm 16 tuổi tôi quyết định bỏ nhà ra đi tìm kế sinh nhai chớ không chịu làm nông nữa. Tôi bỏ học đi được 5-6 tháng thì người nhà kiếm bắt về. Cái khó là tôi không có chỗ dựa quen biết, cũng chẳng có chút tiền bạc. Và chưa có giấy thuế thân thì không đi đâu được. Tôi đợi đến năm 18-19 tuổi, kiếm tiền đóng thuế, lấy giấy thuế thân để tiếp tục ra đi. Nhà tôi ở gần chợ, bạn học ngày xưa đang học trung học thường về chơi, nên cũng biết chút ít tình hình. Thế là tôi dành dụm tiền, trốn xuống Sài Gòn, xin vào hãng Delagat vừa học vừa làm công thợ điện 2 năm. Nhưng mới gần 1 năm, tôi coi lại mình chẳng học được gì, ngoài việc chỉ biết quay cho máy nổ thôi. Tối ngày toàn bị sai vặt, xúc than, gánh nước đổ lò. Tôi thấy không có hy vọng gì, nên xin thôi việc.
    *Thế Thượng tướng gia nhập quân đội lúc nào?
    -Năm 1942-1943, Nhật vào nước ta, tuyên truyền đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập cho Việt Nam. Tôi tưởng thật, đăng ký vào học 3 tháng quân trường, rồi xin chuyển làm thợ mong học được cái nghề. Nhưng làm mới được 1 tháng, tôi nghe ngóng tình hình, biết là bọn Nhật giả dối, nên tôi rủ một người bạn làm chung bỏ trốn. Được 4 ngày thì quân Nhật tình cờ bắt gặp, đưa chúng tôi về xí nghiệp súng đạn ở Xóm Chiếu làm lại. Và 3-4 tháng sau tôi lại tìm cách trốn nữa. Tôi xuống Sáu Kho ở Tân Thuận, Nhà Bè xin việc. Cuối năm 1943, tôi được đồng chí Công, một người cộng sản hoạt động bí mật, tuyên truyền giáo dục cách mạng. Tôi cùng với một người bạn tên Đức quê ở Bình Định, tham gia dán truyền đơn, khẩu hiệu. Một thằng dán, một thằng canh. Rồi đồng chí Công giao thêm nhiệm vụ quan sát kho tàng súng đạn của quân Nhật, ăn cắp mang về. Hai đứa tôi mang về được nhiều lắm. Anh Đức là người hết sức dạn dĩ, dũng cảm. Nhưng chẳng may, trong một lần ăn cắp súng, anh đã bị bắt đưa vào tù, rồi bị tra tấn đến chết. Điều ân hận là tôi không biết rõ quê hương và gia đình người thanh niên miền Trung yêu nước và quả cảm ấy!
    Thế rồi năm 1945, tôi bị mất liên lạc với đồng chí Công (sau này trở thành Trung đoàn trưởng, đã hy sinh). Tôi tiếp tục tổ chức một số anh em đi cướp súng của Nhật. Chúng tôi trở thành một đơn vị tổ chức hẳn hoi. Đầu tiên có mấy người, anh em cử tôi làm Tiểu đội trưởng, sau đông hơn thì tôi làm Trung đội trưởng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, các anh cử tôi ra giữ mặt trận Thị Nghè của Sài Gòn đánh nhau với quân Pháp.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thượng tướng Nguyễn Minh Châu
    Thưa Thượng tướng, tại sao Nguyễn Minh Châu lại có biệt danh Năm Ngà?
    -Nguyễn Minh Châu là tên khai sinh, còn Năm Chon hay Năm Ngà là những cái tên khác trong kháng chiến. Tôi lấy tên Năm Ngà khi từ ngoài Bắc trở vào Nam đánh Mỹ. Năm là thứ của tôi trong gia đình. Còn Ngà là tên vợ tôi, Huỳnh Thị Ngà.
    *Lúc Thượng tướng ra Bắc thì bà nhà ở đâu?
    -Bà cũng ra Bắc nhưng đi sau một mình với con cái. Tôi chuyển quân đi trước. Bà một mình ôm con lặn lội theo sau. Trên đường bà bị bệnh rất nặng, may nhờ có nhiều anh em quen biết cố chạy chữa đưa ra tới Bắc. Sau đó, tôi vào Nam chiến đấu, rồi sang Campuchia đánh nhau với bọn diệt chủng Pol Pot, nên vợ chồng ít có thời gian gặp nhau.
    *Thượng tướng và bà gặp nhau lần đầu tiên lúc nào?
    -Vào năm 1948, lúc tôi đang chiến đấu ở Bình Thuận. Bà ấy người Hàm Tân, làm cán bộ phụ nữ, mua lúa gạo, thực phẩm tiếp tế cho anh em bộ đội. Gặp nhau rồi có cảm tình với nhau, sau đó tổ chức đám cưới. Cha bà ấy nguyên là địa chủ bị địch bắt ép làm việc nhưng ông cụ không làm, bảo khai báo về cách mạng ông không khai, nên bị chúng xử tử?
    *Thượng tướng, một đời chinh chiến, bây giờ nhìn lại, Thượng tượng có cảm thấy hối tiếc điều gì không?
    -Tôi chả có hối tiếc điều gì cả, mà còn mừng nữa. Thứ nhất là mừng nước nhà đã được thống nhất, độc lập, nhiệm vụ đời tôi đã hoàn thành. Thứ hai là mừng tôi vẫn còn sống cho tới hôm nay. Tôi không phải là người duy tâm, nhưng cứ băn khoăn là chẳng hiểu sao ở chiến trường gian khổ như vậy, đạn bom như vậy mà tôi không chết. Mặc dù tôi là người bị rất nhiều bệnh, nhất là bệnh phổi, phải luôn hít thở sâu kết hợp với thuốc men thường xuyên. Mà lúc đó thuốc men đâu có nhiều. Hơn nữa, tôi là người luôn có mặt ở nơi nguy hiểm. Hễ nghe anh em báo nơi nào khó khăn, căng thẳng là tôi lên đường ngay. Trong khi đó, biết bao đồng đội tôi đã mãi mãi ngã xuống?
    *Hình ảnh nào thời trận mạc để lại trong lòng Thượng tướng ấn tượng sâu đậm nhất?
    -Người lính. Không có ông tướng nào đem lại cho tôi sự khâm phục bằng hình ảnh người lính. Họ hồn nhiên, trong sáng, quả cảm, không hề biết run sợ trước cái chết và chính nhờ sự hy sinh to lớn của hàng vạn người lính mới sản sinh ra được những vị tướng.
    *Thế điều mà Thượng tướng căm ghét nhất trong đời sống thường nhật là gì?
    -Những kẻ ham chức quyền, ích kỷ, ăn cắp, tham nhũng.
    *Một đời xông pha dưới làn tên mũi đạn, có mặt hầu khắp mọi chiến trường, những lúc ngừng nghỉ Thượng tướng có hồi tưởng về hình ảnh thời thơ ấu của mình không? Và tuổi thơi có ảnh hưởng gì đối với sự nghiệp của Thượng tướng?
    -Tuổi thơ tôi là những tháng ngày mồ côi gian nan và bất hạnh. Tôi sinh năm 1921, tại huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh, mới được mấy tháng thì mẹ tôi mất. Điều này lớn lên tôi mới biết. Tôi không kịp nhận biết hình ảnh người mẹ vắn số. Lên 6 tuổi tôi đi học. Cho đến năm 1930-1931, kinh tế thế giới lẫn trong nước khủng hoảng, quê tôi nạn đói hoành hành. Tôi cùng hai người anh phải thôi học, phụ ba tôi làm lụng sống qua ngày. Tới lúc này, ba tôi mới cưới người vợ thứ hai để giúp đỡ, trông nom nhà cửa. Còn tụi tôi đi làm xa, chạy ăn từng bữa, có lúc phải ăn củ nần cả tháng. Khổ về vật chất lẫn tinh thần. Tôi cứ miên man nghĩ: sống như vậy để làm gì? Tôi không thể sống được. Quê tôi có người đến khi sắp già nhắm mắt xuôi tay, chỉ biết từ nhà ra chợ chớ không biết nơi đâu khác. Năm 16 tuổi tôi quyết định bỏ nhà ra đi tìm kế sinh nhai chớ không chịu làm nông nữa. Tôi bỏ học đi được 5-6 tháng thì người nhà kiếm bắt về. Cái khó là tôi không có chỗ dựa quen biết, cũng chẳng có chút tiền bạc. Và chưa có giấy thuế thân thì không đi đâu được. Tôi đợi đến năm 18-19 tuổi, kiếm tiền đóng thuế, lấy giấy thuế thân để tiếp tục ra đi. Nhà tôi ở gần chợ, bạn học ngày xưa đang học trung học thường về chơi, nên cũng biết chút ít tình hình. Thế là tôi dành dụm tiền, trốn xuống Sài Gòn, xin vào hãng Delagat vừa học vừa làm công thợ điện 2 năm. Nhưng mới gần 1 năm, tôi coi lại mình chẳng học được gì, ngoài việc chỉ biết quay cho máy nổ thôi. Tối ngày toàn bị sai vặt, xúc than, gánh nước đổ lò. Tôi thấy không có hy vọng gì, nên xin thôi việc.
    *Thế Thượng tướng gia nhập quân đội lúc nào?
    -Năm 1942-1943, Nhật vào nước ta, tuyên truyền đánh đổ thực dân Pháp, giành độc lập cho Việt Nam. Tôi tưởng thật, đăng ký vào học 3 tháng quân trường, rồi xin chuyển làm thợ mong học được cái nghề. Nhưng làm mới được 1 tháng, tôi nghe ngóng tình hình, biết là bọn Nhật giả dối, nên tôi rủ một người bạn làm chung bỏ trốn. Được 4 ngày thì quân Nhật tình cờ bắt gặp, đưa chúng tôi về xí nghiệp súng đạn ở Xóm Chiếu làm lại. Và 3-4 tháng sau tôi lại tìm cách trốn nữa. Tôi xuống Sáu Kho ở Tân Thuận, Nhà Bè xin việc. Cuối năm 1943, tôi được đồng chí Công, một người cộng sản hoạt động bí mật, tuyên truyền giáo dục cách mạng. Tôi cùng với một người bạn tên Đức quê ở Bình Định, tham gia dán truyền đơn, khẩu hiệu. Một thằng dán, một thằng canh. Rồi đồng chí Công giao thêm nhiệm vụ quan sát kho tàng súng đạn của quân Nhật, ăn cắp mang về. Hai đứa tôi mang về được nhiều lắm. Anh Đức là người hết sức dạn dĩ, dũng cảm. Nhưng chẳng may, trong một lần ăn cắp súng, anh đã bị bắt đưa vào tù, rồi bị tra tấn đến chết. Điều ân hận là tôi không biết rõ quê hương và gia đình người thanh niên miền Trung yêu nước và quả cảm ấy!
    Thế rồi năm 1945, tôi bị mất liên lạc với đồng chí Công (sau này trở thành Trung đoàn trưởng, đã hy sinh). Tôi tiếp tục tổ chức một số anh em đi cướp súng của Nhật. Chúng tôi trở thành một đơn vị tổ chức hẳn hoi. Đầu tiên có mấy người, anh em cử tôi làm Tiểu đội trưởng, sau đông hơn thì tôi làm Trung đội trưởng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, các anh cử tôi ra giữ mặt trận Thị Nghè của Sài Gòn đánh nhau với quân Pháp.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Đây có phải là trận đánh đầu tiên trong đời binh nghiệp của Thượng tướng?
    -Vâng. Chúng tôi đánh nhau với quân Pháp 5 trận. Cuối cùng, chúng bao vây ráo riết, theo lệnh của Uỷ ban kháng chiến hành chánh miền Đông Nam Bộ, các đơn vị khác rút hết, tôi đánh thêm 3 ngày cho dân kịp tản cư, rồi mới cho anh em nhảy xuống sông rút lui an toàn. Từ mặt trận Thị Nghè, tôi mới hiểu thế nào đánh giặc. Thứ nhất là về nghệ thuật chỉ huy: phải biết rõ tình hình địch, hiểu rõ chỗ yếu chỗ mạmh của mình, để tìm cách đánh phù hợp. Thứ hai là hợp đồng tác chiến: trước lực lượng đông đảo và ý đồ lấn chiếm của địch, một mình không thể thắng nổi địch, mà phải hợp đồng tác chiến với các đơn vị bạn. Thứ ba là phải bám trụ đánh địch. Lúc ấy, bộ đội ta đang quyết chiến như thế nhưng nhiều đơn vị lại rút lui. Tôi không chịu rút vì nghĩ rằng chỉ có nước rút tới? biên giới phía Bắc, nghĩa là chịu mất nước mà thôi.
    *Sau khi tạm thời rút lui khỏi Sài Gòn, Thượng tướng đưa quân về đâu?
    -Tôi chuyển quân về Xuân Lộc, vừa lúc quân Pháp tới, tôi lại tổ chức phòng thủ. Uỷ ban kháng chiến hành chánh miền Đông ra lệnh lui về Phan Thiết, giao bộ đội tiếp viện cho mặt trận Khánh Hoà. Xong nhiệm vụ, từ Phan Thiết tôi trở về Biên Hoà tập hợp anh em ốm đau còn lại, trang bị súng đạn, chiến đấu trở lại. Lúc ấy được 40-50 người, anh em cử tôi làm Trung đội trưởng, hoạt động độc lập. Tình hình hết sức phức tạp. Súng đạn thiếu thốn. Không có sự chỉ đạo thống nhất. Đơn vị tôi bị quân Bình Xuyên tước súng hoài.
    Cuối cùng, tôi gia nhập đoàn quân Nam tiến. Tôi làm Đại đội trưởng Đại đội Hoàng Hoa Thám làm chủ vùng Hàm Thuận. Nhưng rồi bị bế tắc về chiến thuật, vì lực lượng võ trang quá yếu. Tôi nghĩ đến cách đánh lấy đồn mà ít tiêu hao về lực lượng và vật chất kỹ thuật nhất. Sau khi nghiên kỹ lưỡng, tôi cho đánh đồn Phú Hài ở lầu ông Hoàng, Phan Thiết. Đây là trận đánh rất có ý nghĩa về mặt chiến thuật, làm thay đổi cả tình hình quân sự trong tỉnh lúc ấy.
    *Thượng tướng có thể giải thích rõ hơn ý nghĩa trận đánh này?
    -Trận đánh Phú Hài thiên về tâm lý, nắm lấy sơ hở của địch, bất ngờ đánh phủ đầu để địch trở tay không kịp. Đồn Phú Hài nằm trên núi, án ngữ cả một vùng. Dân đến kiếm cá kiếm cua đều bị chúng giết. Tôi bàn với anh em bằng mọi cách phải tiêu diệt chúng. Lợi dụng thế núi hiểm và sương mù dày đặc, lính gác không trông thấy, tôi cho ém quân chờ sáng. Đồn Phú Hài có một quy luật là bọn chỉ huy sáng nào cũng đến đây kiểm tra. Tôi tổ chức thêm ở ngoài đồn một vòng vây để yểm trợ. Đầu tiên, là uy hiếp lính gác để chúng buông súng cho anh em giữ. Xâm nhập vào đồn, vận động tâm lý chiến, giả thư cấp chỉ huy, đề nghị cho kiểm tra và giao đồn. Đồn Phú Hài là đồn bị quân ta lấy đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận. Sau này anh em gọi đó là ?Chiến thuật kỳ tập?.
    Đầu năm 1954, tôi từ Trung đoàn 108 được điều về khôi phục củng cố lại Trung đoàn 96, hoạt động liên tục trên đường 19, đánh thắng nhiều trận ở Hà Tam, Măng Giang. Trung đoàn được giao nhiệm vụ sẵn sàng đánh phá tiểu khu An Khê và tiêu diệt địch rút chạy trên đường 19. Trung đoàn đã đánh nhiều trận trên đoạn Măng Giang-An Khê, nhưng đoạn suối Dăkpơ thì chưa đánh trận nào. Tuy hiểm trở, nhưng đoạn đường Dăkpơ lại nằm giữa hai cứ điểm của địch. Quân Pháp luôn tăng cường trinh sát bằng không quân, biệt kích thám báo. Từ quan sát hiện trường tôi chọn đoạn suối Dăkpơ về phía đông để làm yếu điểm phục kích chờ địch. Đoạn này dài 800 mét do Tiểu đoàn 79 phụ trách. Còn đoạn phía tây suối Dăkpơ do Tiểu đoàn 40 phụ trách. Những đơn vị khác cũng bố trí ở những điểm có thể phát huy tối đa khả năng tác chiến.
    Sáng ngày 24-6-1954, khi nghe tin đoàn xe hơn 200 chiếc của địch rời An Khê xuống đến Kà Tung, cách Dăkpơ khoảng 7 kilômét, tôi cho tổ chức cuộc họp chớp nhoáng với Ban tham mưu và ra quyết định cụ thể cho từng đơn vị. Trận đánh bắt đầu vào lúc 12 giờ 30?T ngày 24-6 và kết thúc vào 12 giờ ngày 25-6-1954. Chiến sự hết sức ác liệt. Dù bị đánh bất ngờ nhưng địch tỏ ra cũng ngoan cố, tìm mọi cách kháng cự. Sau khi địch hoàn toàn buông vũ khí, tôi đích thân đi quan sát toàn trận địa. Kết quả có trên 900 quân Pháp bị chết, còn bị thương nằm rải rác 600 tên. Tên quan năm sắp được phong tướng Baroux, chỉ huy Binh đoàn 100 cùng 1280 tên khác bị ta bắt sống. 375 xe các loại bị cháy, bị hư hỏng. 229 xe còn nguyên hoặc hư hỏng ít? Trung đoàn 96 tiêu diệt hoàn toàn cánh quân địch rút chạy và giải phóng tiểu khu An Khê. Trong khí đó, Binh đoàn cơ động 42 của địch do quan năm Sockel chỉ huy từ Pleiku xuống đón Binh đoàn 100, đã bị Trung đoàn 108 của ta lúc này do anh Đoàn Khuê chỉ huy, chặn đánh tơi bời, không thực hiện được ý đồ của chúng. Quan năm Sockel cũng sợ tôi dữ lắm. Hồi ở Bình Thuận nó suýt chết với tôi mấy lần.
    *Như vậy, trong chín năm chống Pháp, có hai tên quan năm sắp được phong tướng bị quân ta bắt sống.
    -Đúng vậy. Nếu như ở Điện Biên Phủ bộ đội ta đã bắt sống De Castrie thì ở Tây Nguyên đã bắt sống Baroux.
    *Thưa Thượng tướng, thời chống Mỹ Thượng tướng gắn bó với chiến trường nào?
    -Cũng ở Nam Trung Bộ. Năm 1963 tôi trở vào Nam, làm Tư lệnh Quân khu 6. Sau Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968, tôi về làm Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Miền. Tôi thì khoái trực tiếp đánh nhau, không muốn nhận chức Tham mưu trưởng, nhưng các anh ở trên thì muốn giúp đỡ bồi dưỡng cho tôi. Tôi và Ban tham mưu giúp Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền làm kế hoạch Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 của B2 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau khi giải phóng Sài Gòn, tôi về làm Phó tư lệnh Quân khu 7. Rồi tôi cùng anh em tiến vào giải phóng Phnôm Pênh năm 1979, sau đó làm Trưởng ban quân sự ở Campuchia. Trở về nước, tôi nhận chức Phó tổng thanh tra quân đội cho đến khi xin nghỉ chữa bệnh.
    *Thượng tướng còn nhớ gì về những trận đánh của cánh quân tây nam 232 do Thượng tướng chỉ huy tiến vào giải phóng Sài Gòn?
    -Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh chuẩn bị bắt đầu, Đoàn 232 được thành lập, do tôi làm Tư lệnh, anh Trần Văn Phác làm Chính uỷ, anh Hai Nghiêm và Út Liêm làm Phó tư lệnh, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Phó tư lệnh Miền Lê Đức Anh. Lực lượng chính của Đoàn 232 gồm có Sư đoàn 5 và 302, Trung đoàn bộ binh 16, hai trung đoàn đặc công?, rồi được bổ sung thêm Sư đoàn 9 của Quân đoàn 4. Sau cùng, phối thuộc sư đoàn thiếu của Quân khu 8. Mục tiêu của Đoàn 232 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là đánh chiếm Biệt khu Thủ đô và Tổng nha cảnh sát Sài Gòn. Muốn vậy, trước tiên phải đột phá tuyến phòng thủ thứ nhất từ dòng sông Vàm Cỏ Đông tới biên giới Campuchia với các tiểu khu, chi khu dày đặc như Long An, Hậu Nghĩa, Bến Lức, Đức Hoà, Thủ Thừa? Tiếp theo là đập tan tuyến phòng thủ thứ hai của địch gồm các chiến đoàn nguỵ phòng ngự hướng tây nam, cắt đứt lộ 14 (nay là Quốc lộ 1), giải phóng dân, hỗ trợ nhân dân nổi dậy. Cuối cùng là phải tiêu diệt hệ thống phòng thủ ven đô của địch. Tại đây, cuộc chiến hết sức gay go ác liệt. Sư đoàn 9 làm nhiệm vụ mũi nhọn, thần tốc đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, phối hợp với Quân đoàn 3 đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Sư đoàn thiếu của Quân khu 8 thì đánh Chợ Gạo, hai chi khu Cần Giuộc, Cần Đước, vượt cầu Nhị Thiên Đường và cầu chũ Y đánh chiếm Tổng nha cảnh sát và Tổng khi xăng dầu Nhà Bè. Nhiệm vụ cuối cùng sau khi đã hoàn thành các mục tiêu của Sư đoàn 302 là đánh địch phản kích, còn Sư đoàn 5 là chặn địch từ Sài Gòn chạy về miền Tây và từ miền Tây kéo lên Sài Gòn. Trong quá trình chấp hành nhiệm vụ, tuy địch yếu, nhưng chúng tôi đều phải vượt qua những đàm lầy, đồn bót dày đặc, khắc phục rất nhiều khó khăn. Nhất là đơn vị xe cơ giới gần 600 chiếc, không bến bãi đường sá, phải vượt sông, đầm lầy, nhưng cuối cùng cũng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.
    *Thượng tướng có mặt ở dinh Độc Lập lúc nào?
    -Khoảng hơn 12 giờ. Sau đó tôi làm công tác quân quản, truy quét tàn quân địch ở ngoại ô Sài Gòn.
    *Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Thượng tướng gần gũi, thân thiết với ai nhất?
    -Bạn tri kỷ thì có anh Hai Nghiêm, đã mất rồi. Tôi cũng là người gần gũi với anh Lê Trọng Tấn nhiều nhất, cả trước khi anh qua đời. Anh là vị tướng tài, tính tình cường trực, nên anh em ai cũng quí mến. Về mặt chiến lược, anh Lê Trọng Tấn là một vị tướng giỏi.
    *Còn với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh?
    -Tôi biết Đại tướng Nguyễn Chí Thanh từ khi còn ở miền Bắc. Lúc ấy, tôi phát động thành công phong trào ba nhất trong quân đội: chiến thuật, kỹ thuật và nghệ thuật chỉ huy. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh xuống kiểm tra, chấp nhận và nhân rộng điển hỉnh trong toàn quân. Tướng Nguyễn Chí Thanh cũng với tướng Võ Nguyên Giáp, Lê Trọng Tấn, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh? là những vị tường tài ba của quân đội ta.
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Đây có phải là trận đánh đầu tiên trong đời binh nghiệp của Thượng tướng?
    -Vâng. Chúng tôi đánh nhau với quân Pháp 5 trận. Cuối cùng, chúng bao vây ráo riết, theo lệnh của Uỷ ban kháng chiến hành chánh miền Đông Nam Bộ, các đơn vị khác rút hết, tôi đánh thêm 3 ngày cho dân kịp tản cư, rồi mới cho anh em nhảy xuống sông rút lui an toàn. Từ mặt trận Thị Nghè, tôi mới hiểu thế nào đánh giặc. Thứ nhất là về nghệ thuật chỉ huy: phải biết rõ tình hình địch, hiểu rõ chỗ yếu chỗ mạmh của mình, để tìm cách đánh phù hợp. Thứ hai là hợp đồng tác chiến: trước lực lượng đông đảo và ý đồ lấn chiếm của địch, một mình không thể thắng nổi địch, mà phải hợp đồng tác chiến với các đơn vị bạn. Thứ ba là phải bám trụ đánh địch. Lúc ấy, bộ đội ta đang quyết chiến như thế nhưng nhiều đơn vị lại rút lui. Tôi không chịu rút vì nghĩ rằng chỉ có nước rút tới? biên giới phía Bắc, nghĩa là chịu mất nước mà thôi.
    *Sau khi tạm thời rút lui khỏi Sài Gòn, Thượng tướng đưa quân về đâu?
    -Tôi chuyển quân về Xuân Lộc, vừa lúc quân Pháp tới, tôi lại tổ chức phòng thủ. Uỷ ban kháng chiến hành chánh miền Đông ra lệnh lui về Phan Thiết, giao bộ đội tiếp viện cho mặt trận Khánh Hoà. Xong nhiệm vụ, từ Phan Thiết tôi trở về Biên Hoà tập hợp anh em ốm đau còn lại, trang bị súng đạn, chiến đấu trở lại. Lúc ấy được 40-50 người, anh em cử tôi làm Trung đội trưởng, hoạt động độc lập. Tình hình hết sức phức tạp. Súng đạn thiếu thốn. Không có sự chỉ đạo thống nhất. Đơn vị tôi bị quân Bình Xuyên tước súng hoài.
    Cuối cùng, tôi gia nhập đoàn quân Nam tiến. Tôi làm Đại đội trưởng Đại đội Hoàng Hoa Thám làm chủ vùng Hàm Thuận. Nhưng rồi bị bế tắc về chiến thuật, vì lực lượng võ trang quá yếu. Tôi nghĩ đến cách đánh lấy đồn mà ít tiêu hao về lực lượng và vật chất kỹ thuật nhất. Sau khi nghiên kỹ lưỡng, tôi cho đánh đồn Phú Hài ở lầu ông Hoàng, Phan Thiết. Đây là trận đánh rất có ý nghĩa về mặt chiến thuật, làm thay đổi cả tình hình quân sự trong tỉnh lúc ấy.
    *Thượng tướng có thể giải thích rõ hơn ý nghĩa trận đánh này?
    -Trận đánh Phú Hài thiên về tâm lý, nắm lấy sơ hở của địch, bất ngờ đánh phủ đầu để địch trở tay không kịp. Đồn Phú Hài nằm trên núi, án ngữ cả một vùng. Dân đến kiếm cá kiếm cua đều bị chúng giết. Tôi bàn với anh em bằng mọi cách phải tiêu diệt chúng. Lợi dụng thế núi hiểm và sương mù dày đặc, lính gác không trông thấy, tôi cho ém quân chờ sáng. Đồn Phú Hài có một quy luật là bọn chỉ huy sáng nào cũng đến đây kiểm tra. Tôi tổ chức thêm ở ngoài đồn một vòng vây để yểm trợ. Đầu tiên, là uy hiếp lính gác để chúng buông súng cho anh em giữ. Xâm nhập vào đồn, vận động tâm lý chiến, giả thư cấp chỉ huy, đề nghị cho kiểm tra và giao đồn. Đồn Phú Hài là đồn bị quân ta lấy đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp ở Bình Thuận. Sau này anh em gọi đó là ?Chiến thuật kỳ tập?.
    Đầu năm 1954, tôi từ Trung đoàn 108 được điều về khôi phục củng cố lại Trung đoàn 96, hoạt động liên tục trên đường 19, đánh thắng nhiều trận ở Hà Tam, Măng Giang. Trung đoàn được giao nhiệm vụ sẵn sàng đánh phá tiểu khu An Khê và tiêu diệt địch rút chạy trên đường 19. Trung đoàn đã đánh nhiều trận trên đoạn Măng Giang-An Khê, nhưng đoạn suối Dăkpơ thì chưa đánh trận nào. Tuy hiểm trở, nhưng đoạn đường Dăkpơ lại nằm giữa hai cứ điểm của địch. Quân Pháp luôn tăng cường trinh sát bằng không quân, biệt kích thám báo. Từ quan sát hiện trường tôi chọn đoạn suối Dăkpơ về phía đông để làm yếu điểm phục kích chờ địch. Đoạn này dài 800 mét do Tiểu đoàn 79 phụ trách. Còn đoạn phía tây suối Dăkpơ do Tiểu đoàn 40 phụ trách. Những đơn vị khác cũng bố trí ở những điểm có thể phát huy tối đa khả năng tác chiến.
    Sáng ngày 24-6-1954, khi nghe tin đoàn xe hơn 200 chiếc của địch rời An Khê xuống đến Kà Tung, cách Dăkpơ khoảng 7 kilômét, tôi cho tổ chức cuộc họp chớp nhoáng với Ban tham mưu và ra quyết định cụ thể cho từng đơn vị. Trận đánh bắt đầu vào lúc 12 giờ 30?T ngày 24-6 và kết thúc vào 12 giờ ngày 25-6-1954. Chiến sự hết sức ác liệt. Dù bị đánh bất ngờ nhưng địch tỏ ra cũng ngoan cố, tìm mọi cách kháng cự. Sau khi địch hoàn toàn buông vũ khí, tôi đích thân đi quan sát toàn trận địa. Kết quả có trên 900 quân Pháp bị chết, còn bị thương nằm rải rác 600 tên. Tên quan năm sắp được phong tướng Baroux, chỉ huy Binh đoàn 100 cùng 1280 tên khác bị ta bắt sống. 375 xe các loại bị cháy, bị hư hỏng. 229 xe còn nguyên hoặc hư hỏng ít? Trung đoàn 96 tiêu diệt hoàn toàn cánh quân địch rút chạy và giải phóng tiểu khu An Khê. Trong khí đó, Binh đoàn cơ động 42 của địch do quan năm Sockel chỉ huy từ Pleiku xuống đón Binh đoàn 100, đã bị Trung đoàn 108 của ta lúc này do anh Đoàn Khuê chỉ huy, chặn đánh tơi bời, không thực hiện được ý đồ của chúng. Quan năm Sockel cũng sợ tôi dữ lắm. Hồi ở Bình Thuận nó suýt chết với tôi mấy lần.
    *Như vậy, trong chín năm chống Pháp, có hai tên quan năm sắp được phong tướng bị quân ta bắt sống.
    -Đúng vậy. Nếu như ở Điện Biên Phủ bộ đội ta đã bắt sống De Castrie thì ở Tây Nguyên đã bắt sống Baroux.
    *Thưa Thượng tướng, thời chống Mỹ Thượng tướng gắn bó với chiến trường nào?
    -Cũng ở Nam Trung Bộ. Năm 1963 tôi trở vào Nam, làm Tư lệnh Quân khu 6. Sau Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968, tôi về làm Tham mưu trưởng Bộ tư lệnh Miền. Tôi thì khoái trực tiếp đánh nhau, không muốn nhận chức Tham mưu trưởng, nhưng các anh ở trên thì muốn giúp đỡ bồi dưỡng cho tôi. Tôi và Ban tham mưu giúp Trung ương Cục và Bộ tư lệnh Miền làm kế hoạch Tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân 1975 của B2 và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sau khi giải phóng Sài Gòn, tôi về làm Phó tư lệnh Quân khu 7. Rồi tôi cùng anh em tiến vào giải phóng Phnôm Pênh năm 1979, sau đó làm Trưởng ban quân sự ở Campuchia. Trở về nước, tôi nhận chức Phó tổng thanh tra quân đội cho đến khi xin nghỉ chữa bệnh.
    *Thượng tướng còn nhớ gì về những trận đánh của cánh quân tây nam 232 do Thượng tướng chỉ huy tiến vào giải phóng Sài Gòn?
    -Khi Chiến dịch Hồ Chí Minh chuẩn bị bắt đầu, Đoàn 232 được thành lập, do tôi làm Tư lệnh, anh Trần Văn Phác làm Chính uỷ, anh Hai Nghiêm và Út Liêm làm Phó tư lệnh, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Phó tư lệnh Miền Lê Đức Anh. Lực lượng chính của Đoàn 232 gồm có Sư đoàn 5 và 302, Trung đoàn bộ binh 16, hai trung đoàn đặc công?, rồi được bổ sung thêm Sư đoàn 9 của Quân đoàn 4. Sau cùng, phối thuộc sư đoàn thiếu của Quân khu 8. Mục tiêu của Đoàn 232 trong Chiến dịch Hồ Chí Minh là đánh chiếm Biệt khu Thủ đô và Tổng nha cảnh sát Sài Gòn. Muốn vậy, trước tiên phải đột phá tuyến phòng thủ thứ nhất từ dòng sông Vàm Cỏ Đông tới biên giới Campuchia với các tiểu khu, chi khu dày đặc như Long An, Hậu Nghĩa, Bến Lức, Đức Hoà, Thủ Thừa? Tiếp theo là đập tan tuyến phòng thủ thứ hai của địch gồm các chiến đoàn nguỵ phòng ngự hướng tây nam, cắt đứt lộ 14 (nay là Quốc lộ 1), giải phóng dân, hỗ trợ nhân dân nổi dậy. Cuối cùng là phải tiêu diệt hệ thống phòng thủ ven đô của địch. Tại đây, cuộc chiến hết sức gay go ác liệt. Sư đoàn 9 làm nhiệm vụ mũi nhọn, thần tốc đánh chiếm Biệt khu Thủ đô, phối hợp với Quân đoàn 3 đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Sư đoàn thiếu của Quân khu 8 thì đánh Chợ Gạo, hai chi khu Cần Giuộc, Cần Đước, vượt cầu Nhị Thiên Đường và cầu chũ Y đánh chiếm Tổng nha cảnh sát và Tổng khi xăng dầu Nhà Bè. Nhiệm vụ cuối cùng sau khi đã hoàn thành các mục tiêu của Sư đoàn 302 là đánh địch phản kích, còn Sư đoàn 5 là chặn địch từ Sài Gòn chạy về miền Tây và từ miền Tây kéo lên Sài Gòn. Trong quá trình chấp hành nhiệm vụ, tuy địch yếu, nhưng chúng tôi đều phải vượt qua những đàm lầy, đồn bót dày đặc, khắc phục rất nhiều khó khăn. Nhất là đơn vị xe cơ giới gần 600 chiếc, không bến bãi đường sá, phải vượt sông, đầm lầy, nhưng cuối cùng cũng hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.
    *Thượng tướng có mặt ở dinh Độc Lập lúc nào?
    -Khoảng hơn 12 giờ. Sau đó tôi làm công tác quân quản, truy quét tàn quân địch ở ngoại ô Sài Gòn.
    *Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Thượng tướng gần gũi, thân thiết với ai nhất?
    -Bạn tri kỷ thì có anh Hai Nghiêm, đã mất rồi. Tôi cũng là người gần gũi với anh Lê Trọng Tấn nhiều nhất, cả trước khi anh qua đời. Anh là vị tướng tài, tính tình cường trực, nên anh em ai cũng quí mến. Về mặt chiến lược, anh Lê Trọng Tấn là một vị tướng giỏi.
    *Còn với Đại tướng Nguyễn Chí Thanh?
    -Tôi biết Đại tướng Nguyễn Chí Thanh từ khi còn ở miền Bắc. Lúc ấy, tôi phát động thành công phong trào ba nhất trong quân đội: chiến thuật, kỹ thuật và nghệ thuật chỉ huy. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh xuống kiểm tra, chấp nhận và nhân rộng điển hỉnh trong toàn quân. Tướng Nguyễn Chí Thanh cũng với tướng Võ Nguyên Giáp, Lê Trọng Tấn, Trần Văn Trà, Lê Đức Anh? là những vị tường tài ba của quân đội ta.
  6. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác ptlinh đang post về cụ Năm Ngà thì em xin post ảnh cụ.
    [​IMG]
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 20:16 ngày 31/07/2004
  7. chiangshan

    chiangshan Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/02/2003
    Bài viết:
    5.574
    Đã được thích:
    12
    Bác ptlinh đang post về cụ Năm Ngà thì em xin post ảnh cụ.
    [​IMG]
    Được chiangshan sửa chữa / chuyển vào 20:16 ngày 31/07/2004
  8. 9981

    9981 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    37
    Đã được thích:
    0
    Nếu các bác có ảnh các tướng mà post lên thì hay lắm. Tìm mãi chả thấy cái ảnh nào của ĐT Nguyen Chi Thanh cả.
  9. 9981

    9981 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    15/04/2004
    Bài viết:
    37
    Đã được thích:
    0
    Nếu các bác có ảnh các tướng mà post lên thì hay lắm. Tìm mãi chả thấy cái ảnh nào của ĐT Nguyen Chi Thanh cả.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Lê Văn Tri
    Thưa Trung tướng, thời xông pha trận mạc đã kết thúc hơn 20 năm, đất nước đang thay đổi từng ngày, vậy trong ký ức Trung tướng, hình ảnh của một thời binh lửa có còn sống lại?
    -Làm sao có thể quên được biết bao đồng chí đồng đội đã ngã xuống để có được ngày hôm nay! Tôi hay nằm mơ thấy họ, thấy cảnh đánh nhau, ngỡ như mới hôm qua đây thôi.
    Trung tướng nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vào thời điểm nào?
    -Năm 1969. Sau khi học ở Liên Xô 4 năm trở về, tôi làm việc ở Cục tác chiến, rồi chuyển sang làm Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, lúc ấy anh Phùng Thế Tài làm Tư lệnh, anh Đặng Tính làm Chính uỷ. Khi anh Phùng Thế Tài chuyển lên Bộ quốc phòng làm Phó tổng tham mưu trưởng, anh Đặng Tính kiêm luôn Tư lệnh. Sau đó, anh Đặng Tính vào làm Chính uỷ Bộ đội Trường Sơn 559 mà anh Đồng Sĩ Nguyên là Tư lệnh, tôi thay anh Đặng Tính làm Tư lênh Quân chủng, còn Hoàng Phường làm Chính uỷ.
    *Là Tư lệnh trực tiếp đánh trả cuộc không kích 12 ngày đêm của ?othần sấm? B-52 Mỹ tháng 12-1972, xin Trung tướng cho biết vài nét về trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? này?
    -Sau khi dùng đủ mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhất nhưng vẫn chuốc lấy thất bại, quân Mỹ đã đùng đến lực lượng máy bay chiến lược tinh nhuệ B-52 để ném bom rải thảm vùng giải phóng ở miền Nam, rồi tiến hành đánh phá miền Bắc, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với chiến trường. Trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? là diễn biến tất yếu của tình hình đó. Thực sự lúc bấy giờ có nhiều ý kiến khác nhau về sức mạnh của lực lượng B-52 Mỹ. Có người cho rằng ta không đánh nổi. Bộ chính trị cũng đã họp đặt vấn đề vì sao ta không đánh máy bay B-52 và nếu đánh thì đánh bằng cách nào. Vì đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân Mỹ bấy giờ, đã xâm nhập vùng trời Bắc Việt khiêu khích, đánh phá. Và Bộ tư lệnh phòng không-không quân đã đề cuất kế hoạch kiên quyết đánh trả các cuộc tấn công bằng B-52. Kế hoạch này lần lượt được các anh Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp và Bộ chính trị thông qua.
    *Dựa vào đâu mà Trung tướng và Bộ tư lệnh Quân chủng khẳng đinh có thể đánh được B-52?
    -À, đó là quá trình tập luyện của anh em và quan trọng nhất là kinh nghiệm. Trước đo, tôi đã cho lực lượng tên lửa đánh thử và đã bắn rơi B-52 trên sông Mekong. Chính quân Mỹ đi kiểm tra đã khẳng định chiếc B-52 bị rơi đó do bộ đội tên lửa của ta bắn.
    *Trung tướng có thể cho biết cụ thể hơn?
    -Từ năm 1965, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của Chiến tranh đặc biệt, Mỹ huy động quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam, sử dụng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Hồ Chủ tịch tiên đoán Mỹ nhất định sẽ dùng máy bay chiến lược B-52 tấn công Hà Nội. Đại tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lệnh cho Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vạch kế hoạch đánh B-52; đồng thời đưa tên lửa và không quân vào tuyến lửa Quân khu 4, vừa đánh địch bảo vệ giao thông vừa rút kinh nghiệm đánh B-52. Một tổ chuyên môn nghiên cứu cách đánh B-52 cũng được lập do Vũ Xuân Vinh-Tham mưu phó là Tổ trưởng.
    Đêm 20-5-1971, một tổ bay của ta do Đinh Tôn và Vũ Đình Rạng cất cánh từ sân bay dã chiến Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình, đã bắn bị thương một chiếc B-52 trên bầu trời Khe Sanh, Lao Bảo rồi về hạ cánh an toàn. Bộ tư lệnh cho không quân hoạt độn sâu vào Tây Nguyên để có thêm kinh nghiệm đánh B-52. Tháng 4-1972, Mỹ liên tiếp dùng B-52 đánh Vinh, cầu Hàm Rồng và Hải Phòng. Đầu thán 10-1972, Quân chủng tổ chức hội thảo ?oCách đánh B-52 của Quân chủng?, nhất trí rằng ta có khả năng đánh rơi B-52 tại chỗ, dù còn phải khắc phục nhiều khó khăn. Ngày 22-11-1972, một tin bất ngờ: Tiểu đoàn 43 và 44 thuộc Trung đoàn 263 bố trí ở phía tây Nghệ An đã bắn rơi một chiếc B-52 bên bờ sông Mekong, gần địa phận Nakhon Phanom của Thái Lan. Một phái đoàn khoa học quân sự Mỹ đã tới xác nhận. Như thế, lý luận đánh B-52 do Quân chủng đề ra đã được thử nghiệm thực tế một cách thắng lợi.
    *Nhưng thưa Trung tướng, dù sao đây cũng chỉ mới ở mức thử nghiệm. Trong khi đó lực lượng B-52 mà Mỹ huy động lại khá hùng hậu để tập kích Hà Nội và các trung tâm chiến lược khác của miền Bắc. Một cuộc đối đầu không cân sức. Trước thực tế ấy, khi bước vào cuộc chiến, có lúc nào Trung tướng nghĩ rằng quân ta kho đủ sức đánh trả trước hoả lực quá mạnh và tinh nhuệ của đối phương.
    -Tôi luôn luôn tin tưởng vào thắng lợi. Từ tháng 9-1971, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã hoàn thành kế hoạch tác chiến đánh B-52. Ngày 24-11-1972, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và các Tổng tham mưu phó Trần Quí Hai, Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh, Phùng Thế Tài đã chính thức phê chuẩn bản kế hoạch tác chiến, có tầm vóc một chiến dịch phòng không tổng hợp độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, gồm các lực lượng vũ trang Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh phía Bắc mà nòng cốt là lực lượng phòng không-không quân. Mục tiêu bảo vệ chủ yếu là thủ đô Hà Nội, đối tượng tác chiến chủ yếu là B-52. Quyết tâm bắn rơi B-52 tại chỗ với hiệu suất cao. Kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch và phòng tránh-một kinh nghiệm quí báu trong quá trình chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
    Trước đó, tôi và anh Lê Thanh Cảnh-Trưởng phòng tác chiến Quân chủng, người trực tiếp dự thảo kế hoạch trên, đã đến báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp về khả năng bắn rơi B-52 tại chỗ. Đại tướng hỏi rất kỹ từng chi tiết. Chúng tôi báo cáo rằng, mặc dù rada còn bị nhiễu rất nặng, nhưng cơ bản đã tìm ra chỗ yếu của B-52 và hứa với Đại tướng sẽ bắn rơi B-52 tại chỗ với tỉ lệ cao. Kết quả cuối cùng đã chứng minh cho lời hứa ấy. Ngày 30-12-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho pháp chính thức bản thông báo chiến thắng oanh liệt của quân dân ta?
    *Chắc Trung tướng còn nhớ hình ảnh chiếc B-52 đầu tiên rơi trên bầu trời Hà Nội?
    -Ồ, nhớ chứ! Hồi hộp lắm! Lúc 20 giờ 30 ngày 18-12-1972, Tiểu đoàn 59 thuộc Trung đoàn 261 đã bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 đầu tiên mang số hiệu 52122001, ở cánh đồng Chuôm, xã Phú Lỗ thuộc huyện Đông Anh. Khi Trung đoàn trưởng báo cáo lên thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Văn Tiến Dũng và Bộ tư lệnh Quân chủng đều hỏi vặn lại: có phải B-52 đã rơi tại chỗ và bắt được giặc lái không? Và mờ sáng hôm sau, trời rét cóng và sương mù dày đặc, tôi cùng anh Phùng Thế Tài đáp trực thăng tới chỗ chiếc B-52 rơi. Chúng tôi đứng trên chiếc pháo đài bay hình thù rất to đang vỡ tan tành, động cơ bị cháy rụi?
    *Trung tướng nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, nếu Mỹ tiếp tục ném bom sau 12 ngày đêm khủng khiếp đó, thì Bắc Việt sẽ đầu hàng?
    -Không bao giờ có chuyện đó. Đơn giản: Mỹ đã huy động 193 máy bay B-52 chiếm 48% lực lượng B-52 quân đội Mỹ. Máy bay chiến thuật của không quân và hải quân được huy động tới 1.100 chiếc từ các căn cứ Thái Lan và 6 tàu sân bay ngoài biển Đông. Và đây cũng là lần đầu tiên Mỹ sử dụng tập trung nhất, cao độ nhất các phương tiện chiến tranh điện tử. Sau 12 ngày đêm, có 81 máy bay các loại , trong đó có 31 máy bay B-52 và 5 chiếc F-111 bị bắn rơi. Lực lượng phi côngMỹ khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Nhân dân Mỹ, nhân dân tiến bộ thế giới xuống đường đòi chấm dứt chiến tranh. Trong lúc đó, quân đội Mỹ chỉ có tất cả 400 chiếc B-52, nếu tiếp tục đưa vào Việt Nam thì các vùng chiến lược khác của Mỹ trên thế giớ sẽ bỏ trống ư? Nghĩa là tài sản chiến lược của Mỹ không cho phép. Hơn nữa, số B-52 sống sót từ miền Bắc Việt Nam trở về, đa số đều bị hư hại. Chiếc hỏng ít nhất cũng mất 3 tháng để sửa chữa. Báo chí phương Tây đã công nhận chiến thắng này là ?oĐiện Biên Phủ trên không?. Thực ra, qua tin tình báo, chúng tôi cũng đã biết trước ngày Mỹ nhất định phải ngừng oanh tạc.
    *Có nhiều tin tức không chính thức khác nhau về vấn đề điều chỉnh tên lửa SAM-2 do Liên Xô viện trợ bấy giờ, vậy Trung tướng có nắm được tình hình cải tiến SAM-2 không?
    -Có chứ! Việc cải tiến tên lửa SAM-2 là nhằm khắc phục hiện tượng tên lửa mất điều khiển vì bị nhiều rãnh đạn nặng nên đạn rơi xuống đất; khắc phục một phần nhiễu tạp. Trong chuyện này hoàn toàn không có việc cải tiến nâng cao tầm bắn của SAM-2 như có một số người hiểu nhầm. Việc cải tiến là do xưởng sửa chữa A31 tiến hành, trên cơ sở ý kiến tổng hợp, nhất là các đơn vị đã sử dụng SAM-2 đề xuất. Đội trinh sát điện tử của Quân chủng gồm các đồng chí Vinh, Cần, Thuận do Phan Thu làm Tổ trưởng, có nhiệm vụ vừa trinh sát vừa nghiên cứu các biện pháp chống nhiễu do B-52 gây ra, chứ không phải để cải tiến tên lửa SAM-2.

Chia sẻ trang này