1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Lê Văn Tri
    Thưa Trung tướng, thời xông pha trận mạc đã kết thúc hơn 20 năm, đất nước đang thay đổi từng ngày, vậy trong ký ức Trung tướng, hình ảnh của một thời binh lửa có còn sống lại?
    -Làm sao có thể quên được biết bao đồng chí đồng đội đã ngã xuống để có được ngày hôm nay! Tôi hay nằm mơ thấy họ, thấy cảnh đánh nhau, ngỡ như mới hôm qua đây thôi.
    Trung tướng nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vào thời điểm nào?
    -Năm 1969. Sau khi học ở Liên Xô 4 năm trở về, tôi làm việc ở Cục tác chiến, rồi chuyển sang làm Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, lúc ấy anh Phùng Thế Tài làm Tư lệnh, anh Đặng Tính làm Chính uỷ. Khi anh Phùng Thế Tài chuyển lên Bộ quốc phòng làm Phó tổng tham mưu trưởng, anh Đặng Tính kiêm luôn Tư lệnh. Sau đó, anh Đặng Tính vào làm Chính uỷ Bộ đội Trường Sơn 559 mà anh Đồng Sĩ Nguyên là Tư lệnh, tôi thay anh Đặng Tính làm Tư lênh Quân chủng, còn Hoàng Phường làm Chính uỷ.
    *Là Tư lệnh trực tiếp đánh trả cuộc không kích 12 ngày đêm của ?othần sấm? B-52 Mỹ tháng 12-1972, xin Trung tướng cho biết vài nét về trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? này?
    -Sau khi dùng đủ mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhất nhưng vẫn chuốc lấy thất bại, quân Mỹ đã đùng đến lực lượng máy bay chiến lược tinh nhuệ B-52 để ném bom rải thảm vùng giải phóng ở miền Nam, rồi tiến hành đánh phá miền Bắc, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với chiến trường. Trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? là diễn biến tất yếu của tình hình đó. Thực sự lúc bấy giờ có nhiều ý kiến khác nhau về sức mạnh của lực lượng B-52 Mỹ. Có người cho rằng ta không đánh nổi. Bộ chính trị cũng đã họp đặt vấn đề vì sao ta không đánh máy bay B-52 và nếu đánh thì đánh bằng cách nào. Vì đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân Mỹ bấy giờ, đã xâm nhập vùng trời Bắc Việt khiêu khích, đánh phá. Và Bộ tư lệnh phòng không-không quân đã đề cuất kế hoạch kiên quyết đánh trả các cuộc tấn công bằng B-52. Kế hoạch này lần lượt được các anh Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp và Bộ chính trị thông qua.
    *Dựa vào đâu mà Trung tướng và Bộ tư lệnh Quân chủng khẳng đinh có thể đánh được B-52?
    -À, đó là quá trình tập luyện của anh em và quan trọng nhất là kinh nghiệm. Trước đo, tôi đã cho lực lượng tên lửa đánh thử và đã bắn rơi B-52 trên sông Mekong. Chính quân Mỹ đi kiểm tra đã khẳng định chiếc B-52 bị rơi đó do bộ đội tên lửa của ta bắn.
    *Trung tướng có thể cho biết cụ thể hơn?
    -Từ năm 1965, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của Chiến tranh đặc biệt, Mỹ huy động quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam, sử dụng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Hồ Chủ tịch tiên đoán Mỹ nhất định sẽ dùng máy bay chiến lược B-52 tấn công Hà Nội. Đại tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lệnh cho Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vạch kế hoạch đánh B-52; đồng thời đưa tên lửa và không quân vào tuyến lửa Quân khu 4, vừa đánh địch bảo vệ giao thông vừa rút kinh nghiệm đánh B-52. Một tổ chuyên môn nghiên cứu cách đánh B-52 cũng được lập do Vũ Xuân Vinh-Tham mưu phó là Tổ trưởng.
    Đêm 20-5-1971, một tổ bay của ta do Đinh Tôn và Vũ Đình Rạng cất cánh từ sân bay dã chiến Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình, đã bắn bị thương một chiếc B-52 trên bầu trời Khe Sanh, Lao Bảo rồi về hạ cánh an toàn. Bộ tư lệnh cho không quân hoạt độn sâu vào Tây Nguyên để có thêm kinh nghiệm đánh B-52. Tháng 4-1972, Mỹ liên tiếp dùng B-52 đánh Vinh, cầu Hàm Rồng và Hải Phòng. Đầu thán 10-1972, Quân chủng tổ chức hội thảo ?oCách đánh B-52 của Quân chủng?, nhất trí rằng ta có khả năng đánh rơi B-52 tại chỗ, dù còn phải khắc phục nhiều khó khăn. Ngày 22-11-1972, một tin bất ngờ: Tiểu đoàn 43 và 44 thuộc Trung đoàn 263 bố trí ở phía tây Nghệ An đã bắn rơi một chiếc B-52 bên bờ sông Mekong, gần địa phận Nakhon Phanom của Thái Lan. Một phái đoàn khoa học quân sự Mỹ đã tới xác nhận. Như thế, lý luận đánh B-52 do Quân chủng đề ra đã được thử nghiệm thực tế một cách thắng lợi.
    *Nhưng thưa Trung tướng, dù sao đây cũng chỉ mới ở mức thử nghiệm. Trong khi đó lực lượng B-52 mà Mỹ huy động lại khá hùng hậu để tập kích Hà Nội và các trung tâm chiến lược khác của miền Bắc. Một cuộc đối đầu không cân sức. Trước thực tế ấy, khi bước vào cuộc chiến, có lúc nào Trung tướng nghĩ rằng quân ta kho đủ sức đánh trả trước hoả lực quá mạnh và tinh nhuệ của đối phương.
    -Tôi luôn luôn tin tưởng vào thắng lợi. Từ tháng 9-1971, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã hoàn thành kế hoạch tác chiến đánh B-52. Ngày 24-11-1972, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và các Tổng tham mưu phó Trần Quí Hai, Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh, Phùng Thế Tài đã chính thức phê chuẩn bản kế hoạch tác chiến, có tầm vóc một chiến dịch phòng không tổng hợp độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, gồm các lực lượng vũ trang Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh phía Bắc mà nòng cốt là lực lượng phòng không-không quân. Mục tiêu bảo vệ chủ yếu là thủ đô Hà Nội, đối tượng tác chiến chủ yếu là B-52. Quyết tâm bắn rơi B-52 tại chỗ với hiệu suất cao. Kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch và phòng tránh-một kinh nghiệm quí báu trong quá trình chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
    Trước đó, tôi và anh Lê Thanh Cảnh-Trưởng phòng tác chiến Quân chủng, người trực tiếp dự thảo kế hoạch trên, đã đến báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp về khả năng bắn rơi B-52 tại chỗ. Đại tướng hỏi rất kỹ từng chi tiết. Chúng tôi báo cáo rằng, mặc dù rada còn bị nhiễu rất nặng, nhưng cơ bản đã tìm ra chỗ yếu của B-52 và hứa với Đại tướng sẽ bắn rơi B-52 tại chỗ với tỉ lệ cao. Kết quả cuối cùng đã chứng minh cho lời hứa ấy. Ngày 30-12-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho pháp chính thức bản thông báo chiến thắng oanh liệt của quân dân ta?
    *Chắc Trung tướng còn nhớ hình ảnh chiếc B-52 đầu tiên rơi trên bầu trời Hà Nội?
    -Ồ, nhớ chứ! Hồi hộp lắm! Lúc 20 giờ 30 ngày 18-12-1972, Tiểu đoàn 59 thuộc Trung đoàn 261 đã bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 đầu tiên mang số hiệu 52122001, ở cánh đồng Chuôm, xã Phú Lỗ thuộc huyện Đông Anh. Khi Trung đoàn trưởng báo cáo lên thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Văn Tiến Dũng và Bộ tư lệnh Quân chủng đều hỏi vặn lại: có phải B-52 đã rơi tại chỗ và bắt được giặc lái không? Và mờ sáng hôm sau, trời rét cóng và sương mù dày đặc, tôi cùng anh Phùng Thế Tài đáp trực thăng tới chỗ chiếc B-52 rơi. Chúng tôi đứng trên chiếc pháo đài bay hình thù rất to đang vỡ tan tành, động cơ bị cháy rụi?
    *Trung tướng nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, nếu Mỹ tiếp tục ném bom sau 12 ngày đêm khủng khiếp đó, thì Bắc Việt sẽ đầu hàng?
    -Không bao giờ có chuyện đó. Đơn giản: Mỹ đã huy động 193 máy bay B-52 chiếm 48% lực lượng B-52 quân đội Mỹ. Máy bay chiến thuật của không quân và hải quân được huy động tới 1.100 chiếc từ các căn cứ Thái Lan và 6 tàu sân bay ngoài biển Đông. Và đây cũng là lần đầu tiên Mỹ sử dụng tập trung nhất, cao độ nhất các phương tiện chiến tranh điện tử. Sau 12 ngày đêm, có 81 máy bay các loại , trong đó có 31 máy bay B-52 và 5 chiếc F-111 bị bắn rơi. Lực lượng phi côngMỹ khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Nhân dân Mỹ, nhân dân tiến bộ thế giới xuống đường đòi chấm dứt chiến tranh. Trong lúc đó, quân đội Mỹ chỉ có tất cả 400 chiếc B-52, nếu tiếp tục đưa vào Việt Nam thì các vùng chiến lược khác của Mỹ trên thế giớ sẽ bỏ trống ư? Nghĩa là tài sản chiến lược của Mỹ không cho phép. Hơn nữa, số B-52 sống sót từ miền Bắc Việt Nam trở về, đa số đều bị hư hại. Chiếc hỏng ít nhất cũng mất 3 tháng để sửa chữa. Báo chí phương Tây đã công nhận chiến thắng này là ?oĐiện Biên Phủ trên không?. Thực ra, qua tin tình báo, chúng tôi cũng đã biết trước ngày Mỹ nhất định phải ngừng oanh tạc.
    *Có nhiều tin tức không chính thức khác nhau về vấn đề điều chỉnh tên lửa SAM-2 do Liên Xô viện trợ bấy giờ, vậy Trung tướng có nắm được tình hình cải tiến SAM-2 không?
    -Có chứ! Việc cải tiến tên lửa SAM-2 là nhằm khắc phục hiện tượng tên lửa mất điều khiển vì bị nhiều rãnh đạn nặng nên đạn rơi xuống đất; khắc phục một phần nhiễu tạp. Trong chuyện này hoàn toàn không có việc cải tiến nâng cao tầm bắn của SAM-2 như có một số người hiểu nhầm. Việc cải tiến là do xưởng sửa chữa A31 tiến hành, trên cơ sở ý kiến tổng hợp, nhất là các đơn vị đã sử dụng SAM-2 đề xuất. Đội trinh sát điện tử của Quân chủng gồm các đồng chí Vinh, Cần, Thuận do Phan Thu làm Tổ trưởng, có nhiệm vụ vừa trinh sát vừa nghiên cứu các biện pháp chống nhiễu do B-52 gây ra, chứ không phải để cải tiến tên lửa SAM-2.
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Lê Văn Tri
    *Thưa Trung tướng, thời xông pha trận mạc đã kết thúc hơn 20 năm, đất nước đang thay đổi từng ngày, vậy trong ký ức Trung tướng, hình ảnh của một thời binh lửa có còn sống lại?
    -Làm sao có thể quên được biết bao đồng chí đồng đội đã ngã xuống để có được ngày hôm nay! Tôi hay nằm mơ thấy họ, thấy cảnh đánh nhau, ngỡ như mới hôm qua đây thôi.
    *Trung tướng nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vào thời điểm nào?
    -Năm 1969. Sau khi học ở Liên Xô 4 năm trở về, tôi làm việc ở Cục tác chiến, rồi chuyển sang làm Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, lúc ấy anh Phùng Thế Tài làm Tư lệnh, anh Đặng Tính làm Chính uỷ. Khi anh Phùng Thế Tài chuyển lên Bộ quốc phòng làm Phó tổng tham mưu trưởng, anh Đặng Tính kiêm luôn Tư lệnh. Sau đó, anh Đặng Tính vào làm Chính uỷ Bộ đội Trường Sơn 559 mà anh Đồng Sĩ Nguyên là Tư lệnh, tôi thay anh Đặng Tính làm Tư lênh Quân chủng, còn Hoàng Phường làm Chính uỷ.
    *Là Tư lệnh trực tiếp đánh trả cuộc không kích 12 ngày đêm của ?othần sấm? B-52 Mỹ tháng 12-1972, xin Trung tướng cho biết vài nét về trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? này?
    -Sau khi dùng đủ mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhất nhưng vẫn chuốc lấy thất bại, quân Mỹ đã đùng đến lực lượng máy bay chiến lược tinh nhuệ B-52 để ném bom rải thảm vùng giải phóng ở miền Nam, rồi tiến hành đánh phá miền Bắc, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với chiến trường. Trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? là diễn biến tất yếu của tình hình đó. Thực sự lúc bấy giờ có nhiều ý kiến khác nhau về sức mạnh của lực lượng B-52 Mỹ. Có người cho rằng ta không đánh nổi. Bộ chính trị cũng đã họp đặt vấn đề vì sao ta không đánh máy bay B-52 và nếu đánh thì đánh bằng cách nào. Vì đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân Mỹ bấy giờ, đã xâm nhập vùng trời Bắc Việt khiêu khích, đánh phá. Và Bộ tư lệnh phòng không-không quân đã đề cuất kế hoạch kiên quyết đánh trả các cuộc tấn công bằng B-52. Kế hoạch này lần lượt được các anh Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp và Bộ chính trị thông qua.
    *Dựa vào đâu mà Trung tướng và Bộ tư lệnh Quân chủng khẳng đinh có thể đánh được B-52?
    -À, đó là quá trình tập luyện của anh em và quan trọng nhất là kinh nghiệm. Trước đo, tôi đã cho lực lượng tên lửa đánh thử và đã bắn rơi B-52 trên sông Mekong. Chính quân Mỹ đi kiểm tra đã khẳng định chiếc B-52 bị rơi đó do bộ đội tên lửa của ta bắn.
    *Trung tướng có thể cho biết cụ thể hơn?
    -Từ năm 1965, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của Chiến tranh đặc biệt, Mỹ huy động quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam, sử dụng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Hồ Chủ tịch tiên đoán Mỹ nhất định sẽ dùng máy bay chiến lược B-52 tấn công Hà Nội. Đại tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lệnh cho Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vạch kế hoạch đánh B-52; đồng thời đưa tên lửa và không quân vào tuyến lửa Quân khu 4, vừa đánh địch bảo vệ giao thông vừa rút kinh nghiệm đánh B-52. Một tổ chuyên môn nghiên cứu cách đánh B-52 cũng được lập do Vũ Xuân Vinh-Tham mưu phó là Tổ trưởng.
    Đêm 20-5-1971, một tổ bay của ta do Đinh Tôn và Vũ Đình Rạng cất cánh từ sân bay dã chiến Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình, đã bắn bị thương một chiếc B-52 trên bầu trời Khe Sanh, Lao Bảo rồi về hạ cánh an toàn. Bộ tư lệnh cho không quân hoạt độn sâu vào Tây Nguyên để có thêm kinh nghiệm đánh B-52. Tháng 4-1972, Mỹ liên tiếp dùng B-52 đánh Vinh, cầu Hàm Rồng và Hải Phòng. Đầu thán 10-1972, Quân chủng tổ chức hội thảo ?oCách đánh B-52 của Quân chủng?, nhất trí rằng ta có khả năng đánh rơi B-52 tại chỗ, dù còn phải khắc phục nhiều khó khăn. Ngày 22-11-1972, một tin bất ngờ: Tiểu đoàn 43 và 44 thuộc Trung đoàn 263 bố trí ở phía tây Nghệ An đã bắn rơi một chiếc B-52 bên bờ sông Mekong, gần địa phận Nakhon Phanom của Thái Lan. Một phái đoàn khoa học quân sự Mỹ đã tới xác nhận. Như thế, lý luận đánh B-52 do Quân chủng đề ra đã được thử nghiệm thực tế một cách thắng lợi.
    *Nhưng thưa Trung tướng, dù sao đây cũng chỉ mới ở mức thử nghiệm. Trong khi đó lực lượng B-52 mà Mỹ huy động lại khá hùng hậu để tập kích Hà Nội và các trung tâm chiến lược khác của miền Bắc. Một cuộc đối đầu không cân sức. Trước thực tế ấy, kh bước vào cuộc chiến, có lúc nào Trung tướng nghĩ rằng quân ta kho đủ sức đánh trả trước hoả lực quá mạnh và tinh nhuệ của đối phương.
    -Tôi luôn luôn tin tưởng vào thắng lợi. Từ tháng 9-1971, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã hoàn thành kế hoạch tác chiến đánh B-52. Ngày 24-11-1972, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và các Tổng tham mưu phó Trần Quí Hai, Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh, Phùng Thế Tài đã chính thức phê chuẩn bản kế hoạch tác chiến, có tầm vóc một chiến dịch phòng không tổng hợp độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, gồm các lực lượng vũ trang Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh phía Bắc mà nòng cốt là lực lượng phòng không-không quân. Mục tiêu bảo vệ chủ yếu là thủ đô Hà Nội, đối tượng tác chiến chủ yếu là B-52. Quyết tâm bắn rơi B-52 tại chỗ với hiệu suất cao. Kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch và phòng tránh-một kinh nghiệm quí báu trong quá trình chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
    Trước đó, tôi và anh Lê Thanh Cảnh-Trưởng phòng tác chiến Quân chủng, người trực tiếp dự thảo kế hoạch trên, đã đến báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp về khả năng bắn rơi B-52 tại chỗ. Đại tướng hỏi rất kỹ từng chi tiết. Chúng tôi báo cáo rằng, mặc dù rada còn bị nhiễu rất nặng, nhưng cơ bản đã tìm ra chỗ yếu của B-52 và hứa với Đại tướng sẽ bắn rơi B-52 tại chỗ với tỉ lệ cao. Kết quả cuối cùng đã chứng minh cho lời hứa ấy. Ngày 30-12-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho pháp chính thức bản thông báo chiến thắng oanh liệt của quân dân ta?
    *Chắc Trung tướng còn nhớ hình ảnh chiếc B-52 đầu tiên rơi trên bầu trời Hà Nội?
    -Ồ, nhớ chứ! Hồi hộp lắm! Lúc 20 giờ 30 ngày 18-12-1972, Tiểu đoàn 59 thuộc Trung đoàn 261 đã bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 đầu tiên mang số hiệu 52122001, ở cánh đồng Chuôm, xã Phú Lỗ thuộc huyện Đông Anh. Khi Trung đoàn trưởng báo cáo lên thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Văn Tiến Dũng và Bộ tư lệnh Quân chủng đều hỏi vặn lại: có phải B-52 đã rơi tại chỗ và bắt được giặc lái không? Và mờ sáng hôm sau, trời rét cóng và sương mù dày đặc, tôi cùng anh Phùng Thế Tài đáp trực thăng tới chỗ chiếc B-52 rơi. Chúng tôi đứng trên chiếc pháo đài bay hình thù rất to đang vỡ tan tành, động cơ bị cháy rụi?
    *Trung tướng nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, nếu Mỹ tiếp tục ném bom sau 12 ngày đêm khủng khiếp đó, thì Bắc Việt sẽ đầu hàng?
    -Không bao giờ có chuyện đó. Đơn giản: Mỹ đã huy động 193 máy bay B-52 chiếm 48% lực lượng B-52 quân đội Mỹ. Máy bay chiến thuật của không quân và hải quân được huy động tới 1.100 chiếc từ các căn cứ Thái Lan và 6 tàu sân bay ngoài biển Đông. Và đây cũng là lần đầu tiên Mỹ sử dụng tập trung nhất, cao độ nhất các phương tiện chiến tranh điện tử. Sau 12 ngày đêm, có 81 máy bay các loại , trong đó có 31 máy bay B-52 và 5 chiếc F-111 bị bắn rơi. Lực lượng phi côngMỹ khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Nhân dân Mỹ, nhân dân tiến bộ thế giới xuống đường đòi chấm dứt chiến tranh. Trong lúc đó, quân đội Mỹ chỉ có tất cả 400 chiếc B-52, nếu tiếp tục đưa vào Việt Nam thì các vùng chiến lược khác của Mỹ trên thế giớ sẽ bỏ trống ư? Nghĩa là tài sản chiến lược của Mỹ không cho phép. Hơn nữa, số B-52 sống sót từ miền Bắc Việt Nam trở về, đa số đều bị hư hại. Chiếc hỏng ít nhất cũng mất 3 tháng để sửa chữa. Báo chí phương Tây đã công nhận chiến thắng này là ?oĐiện Biên Phủ trên không?. Thực ra, qua tin tình báo, chúng tôi cũng đã biết trước ngày Mỹ nhất định phải ngừng oanh tạc.
    *Có nhiều tin tức không chính thức khác nhau về vấn đề điều chỉnh tên lửa SAM-2 do Liên Xô viện trợ bấy giờ, vậy Trung tướng có nắm được tình hình cải tiến SAM-2 không?
    -Có chứ! Việc cải tiến tên lửa SAM-2 là nhằm khắc phục hiện tượng tên lửa mất điều khiển vì bị nhiều rãnh đạn nặng nên đạn rơi xuống đất; khắc phục một phần nhiễu tạp. Trong chuyện này hoàn toàn không có việc cải tiến nâng cao tầm bắn của SAM-2 như có một số người hiểu nhầm. Việc cải tiến là do xưởng sửa chữa A31 tiến hành, trên cơ sở ý kiến tổng hợp, nhất là các đơn vị đã sử dụng SAM-2 đề xuất. Đội trinh sát điện tử của Quân chủng gồm các đồng chí Vinh, Cần, Thuận do Phan Thu làm Tổ trưởng, có nhiệm vụ vừa trinh sát vừa nghiên cứu các biện pháp chống nhiễu do B-52 gây ra, chứ không phải để cải tiến tên lửa SAM-2.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Trung tướng Lê Văn Tri
    *Thưa Trung tướng, thời xông pha trận mạc đã kết thúc hơn 20 năm, đất nước đang thay đổi từng ngày, vậy trong ký ức Trung tướng, hình ảnh của một thời binh lửa có còn sống lại?
    -Làm sao có thể quên được biết bao đồng chí đồng đội đã ngã xuống để có được ngày hôm nay! Tôi hay nằm mơ thấy họ, thấy cảnh đánh nhau, ngỡ như mới hôm qua đây thôi.
    *Trung tướng nhận nhiệm vụ Tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vào thời điểm nào?
    -Năm 1969. Sau khi học ở Liên Xô 4 năm trở về, tôi làm việc ở Cục tác chiến, rồi chuyển sang làm Phó tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân, lúc ấy anh Phùng Thế Tài làm Tư lệnh, anh Đặng Tính làm Chính uỷ. Khi anh Phùng Thế Tài chuyển lên Bộ quốc phòng làm Phó tổng tham mưu trưởng, anh Đặng Tính kiêm luôn Tư lệnh. Sau đó, anh Đặng Tính vào làm Chính uỷ Bộ đội Trường Sơn 559 mà anh Đồng Sĩ Nguyên là Tư lệnh, tôi thay anh Đặng Tính làm Tư lênh Quân chủng, còn Hoàng Phường làm Chính uỷ.
    *Là Tư lệnh trực tiếp đánh trả cuộc không kích 12 ngày đêm của ?othần sấm? B-52 Mỹ tháng 12-1972, xin Trung tướng cho biết vài nét về trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? này?
    -Sau khi dùng đủ mọi phương tiện chiến tranh hiện đại nhất nhưng vẫn chuốc lấy thất bại, quân Mỹ đã đùng đến lực lượng máy bay chiến lược tinh nhuệ B-52 để ném bom rải thảm vùng giải phóng ở miền Nam, rồi tiến hành đánh phá miền Bắc, hòng ngăn chặn sự chi viện của hậu phương đối với chiến trường. Trận ?oĐiện Biên Phủ trên không? là diễn biến tất yếu của tình hình đó. Thực sự lúc bấy giờ có nhiều ý kiến khác nhau về sức mạnh của lực lượng B-52 Mỹ. Có người cho rằng ta không đánh nổi. Bộ chính trị cũng đã họp đặt vấn đề vì sao ta không đánh máy bay B-52 và nếu đánh thì đánh bằng cách nào. Vì đây là lực lượng tinh nhuệ nhất của quân Mỹ bấy giờ, đã xâm nhập vùng trời Bắc Việt khiêu khích, đánh phá. Và Bộ tư lệnh phòng không-không quân đã đề cuất kế hoạch kiên quyết đánh trả các cuộc tấn công bằng B-52. Kế hoạch này lần lượt được các anh Văn Tiến Dũng, Võ Nguyên Giáp và Bộ chính trị thông qua.
    *Dựa vào đâu mà Trung tướng và Bộ tư lệnh Quân chủng khẳng đinh có thể đánh được B-52?
    -À, đó là quá trình tập luyện của anh em và quan trọng nhất là kinh nghiệm. Trước đo, tôi đã cho lực lượng tên lửa đánh thử và đã bắn rơi B-52 trên sông Mekong. Chính quân Mỹ đi kiểm tra đã khẳng định chiếc B-52 bị rơi đó do bộ đội tên lửa của ta bắn.
    *Trung tướng có thể cho biết cụ thể hơn?
    -Từ năm 1965, trước nguy cơ thất bại hoàn toàn của Chiến tranh đặc biệt, Mỹ huy động quân viễn chinh và chư hầu vào miền Nam, sử dụng không quân và hải quân đánh phá miền Bắc. Hồ Chủ tịch tiên đoán Mỹ nhất định sẽ dùng máy bay chiến lược B-52 tấn công Hà Nội. Đại tướng Bộ trưởng Bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng lệnh cho Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân vạch kế hoạch đánh B-52; đồng thời đưa tên lửa và không quân vào tuyến lửa Quân khu 4, vừa đánh địch bảo vệ giao thông vừa rút kinh nghiệm đánh B-52. Một tổ chuyên môn nghiên cứu cách đánh B-52 cũng được lập do Vũ Xuân Vinh-Tham mưu phó là Tổ trưởng.
    Đêm 20-5-1971, một tổ bay của ta do Đinh Tôn và Vũ Đình Rạng cất cánh từ sân bay dã chiến Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình, đã bắn bị thương một chiếc B-52 trên bầu trời Khe Sanh, Lao Bảo rồi về hạ cánh an toàn. Bộ tư lệnh cho không quân hoạt độn sâu vào Tây Nguyên để có thêm kinh nghiệm đánh B-52. Tháng 4-1972, Mỹ liên tiếp dùng B-52 đánh Vinh, cầu Hàm Rồng và Hải Phòng. Đầu thán 10-1972, Quân chủng tổ chức hội thảo ?oCách đánh B-52 của Quân chủng?, nhất trí rằng ta có khả năng đánh rơi B-52 tại chỗ, dù còn phải khắc phục nhiều khó khăn. Ngày 22-11-1972, một tin bất ngờ: Tiểu đoàn 43 và 44 thuộc Trung đoàn 263 bố trí ở phía tây Nghệ An đã bắn rơi một chiếc B-52 bên bờ sông Mekong, gần địa phận Nakhon Phanom của Thái Lan. Một phái đoàn khoa học quân sự Mỹ đã tới xác nhận. Như thế, lý luận đánh B-52 do Quân chủng đề ra đã được thử nghiệm thực tế một cách thắng lợi.
    *Nhưng thưa Trung tướng, dù sao đây cũng chỉ mới ở mức thử nghiệm. Trong khi đó lực lượng B-52 mà Mỹ huy động lại khá hùng hậu để tập kích Hà Nội và các trung tâm chiến lược khác của miền Bắc. Một cuộc đối đầu không cân sức. Trước thực tế ấy, kh bước vào cuộc chiến, có lúc nào Trung tướng nghĩ rằng quân ta kho đủ sức đánh trả trước hoả lực quá mạnh và tinh nhuệ của đối phương.
    -Tôi luôn luôn tin tưởng vào thắng lợi. Từ tháng 9-1971, Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không-Không quân đã hoàn thành kế hoạch tác chiến đánh B-52. Ngày 24-11-1972, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và các Tổng tham mưu phó Trần Quí Hai, Vương Thừa Vũ, Cao Văn Khánh, Phùng Thế Tài đã chính thức phê chuẩn bản kế hoạch tác chiến, có tầm vóc một chiến dịch phòng không tổng hợp độc đáo của nghệ thuật quân sự Việt Nam, gồm các lực lượng vũ trang Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh phía Bắc mà nòng cốt là lực lượng phòng không-không quân. Mục tiêu bảo vệ chủ yếu là thủ đô Hà Nội, đối tượng tác chiến chủ yếu là B-52. Quyết tâm bắn rơi B-52 tại chỗ với hiệu suất cao. Kết hợp chặt chẽ giữa đánh địch và phòng tránh-một kinh nghiệm quí báu trong quá trình chống chiến tranh phá hoại của Mỹ.
    Trước đó, tôi và anh Lê Thanh Cảnh-Trưởng phòng tác chiến Quân chủng, người trực tiếp dự thảo kế hoạch trên, đã đến báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp về khả năng bắn rơi B-52 tại chỗ. Đại tướng hỏi rất kỹ từng chi tiết. Chúng tôi báo cáo rằng, mặc dù rada còn bị nhiễu rất nặng, nhưng cơ bản đã tìm ra chỗ yếu của B-52 và hứa với Đại tướng sẽ bắn rơi B-52 tại chỗ với tỉ lệ cao. Kết quả cuối cùng đã chứng minh cho lời hứa ấy. Ngày 30-12-1972, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã cho pháp chính thức bản thông báo chiến thắng oanh liệt của quân dân ta?
    *Chắc Trung tướng còn nhớ hình ảnh chiếc B-52 đầu tiên rơi trên bầu trời Hà Nội?
    -Ồ, nhớ chứ! Hồi hộp lắm! Lúc 20 giờ 30 ngày 18-12-1972, Tiểu đoàn 59 thuộc Trung đoàn 261 đã bắn rơi tại chỗ chiếc B-52 đầu tiên mang số hiệu 52122001, ở cánh đồng Chuôm, xã Phú Lỗ thuộc huyện Đông Anh. Khi Trung đoàn trưởng báo cáo lên thì Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thượng tướng Văn Tiến Dũng và Bộ tư lệnh Quân chủng đều hỏi vặn lại: có phải B-52 đã rơi tại chỗ và bắt được giặc lái không? Và mờ sáng hôm sau, trời rét cóng và sương mù dày đặc, tôi cùng anh Phùng Thế Tài đáp trực thăng tới chỗ chiếc B-52 rơi. Chúng tôi đứng trên chiếc pháo đài bay hình thù rất to đang vỡ tan tành, động cơ bị cháy rụi?
    *Trung tướng nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, nếu Mỹ tiếp tục ném bom sau 12 ngày đêm khủng khiếp đó, thì Bắc Việt sẽ đầu hàng?
    -Không bao giờ có chuyện đó. Đơn giản: Mỹ đã huy động 193 máy bay B-52 chiếm 48% lực lượng B-52 quân đội Mỹ. Máy bay chiến thuật của không quân và hải quân được huy động tới 1.100 chiếc từ các căn cứ Thái Lan và 6 tàu sân bay ngoài biển Đông. Và đây cũng là lần đầu tiên Mỹ sử dụng tập trung nhất, cao độ nhất các phương tiện chiến tranh điện tử. Sau 12 ngày đêm, có 81 máy bay các loại , trong đó có 31 máy bay B-52 và 5 chiếc F-111 bị bắn rơi. Lực lượng phi côngMỹ khủng hoảng tinh thần trầm trọng. Nhân dân Mỹ, nhân dân tiến bộ thế giới xuống đường đòi chấm dứt chiến tranh. Trong lúc đó, quân đội Mỹ chỉ có tất cả 400 chiếc B-52, nếu tiếp tục đưa vào Việt Nam thì các vùng chiến lược khác của Mỹ trên thế giớ sẽ bỏ trống ư? Nghĩa là tài sản chiến lược của Mỹ không cho phép. Hơn nữa, số B-52 sống sót từ miền Bắc Việt Nam trở về, đa số đều bị hư hại. Chiếc hỏng ít nhất cũng mất 3 tháng để sửa chữa. Báo chí phương Tây đã công nhận chiến thắng này là ?oĐiện Biên Phủ trên không?. Thực ra, qua tin tình báo, chúng tôi cũng đã biết trước ngày Mỹ nhất định phải ngừng oanh tạc.
    *Có nhiều tin tức không chính thức khác nhau về vấn đề điều chỉnh tên lửa SAM-2 do Liên Xô viện trợ bấy giờ, vậy Trung tướng có nắm được tình hình cải tiến SAM-2 không?
    -Có chứ! Việc cải tiến tên lửa SAM-2 là nhằm khắc phục hiện tượng tên lửa mất điều khiển vì bị nhiều rãnh đạn nặng nên đạn rơi xuống đất; khắc phục một phần nhiễu tạp. Trong chuyện này hoàn toàn không có việc cải tiến nâng cao tầm bắn của SAM-2 như có một số người hiểu nhầm. Việc cải tiến là do xưởng sửa chữa A31 tiến hành, trên cơ sở ý kiến tổng hợp, nhất là các đơn vị đã sử dụng SAM-2 đề xuất. Đội trinh sát điện tử của Quân chủng gồm các đồng chí Vinh, Cần, Thuận do Phan Thu làm Tổ trưởng, có nhiệm vụ vừa trinh sát vừa nghiên cứu các biện pháp chống nhiễu do B-52 gây ra, chứ không phải để cải tiến tên lửa SAM-2.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Thưa Trung tướng, còn trận ném bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất do Trung tướng chỉ huy được xem như là hiệu lệnh cho cuộc tổng công kích giải phóng Sài Gòn vào mùa xuân năm 1975. Xin Trung tướng cho biết vài nét cơ bản về trận đánh lịch sử này?
    -Đây là trận đánh rất đáng nhớ trong cuộc đời cầm súng của tôi. Một trận đánh đầy tự hào sau ?oĐiện Biên Phủ trên không?, để tôi cùng đồng đội hoàn thành nhiệm vụ góp phần vào sự nghiệp thống nhất Tổ quốc sau 20 năm bị chia cắt. Tôi nhớ như in vào tối 25-4-1975, Bộ Quốc phòng đánh điện gọi tôi đúng 8 giờ sáng hôm sau lên nhận nhiệm vụ. Khi tôi lên mới biết rằng tối qua, Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, từ chiến trường đã gọi điện về Hà Nội cho Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đề nghị: ?oCho không quân ta dùng máy bay vừa lấy được của địch ném bom vào sào huyệt quân nguỵ ở Sài Gòn ngày 28-4, chỉ đánh vào ngày này, chậm nữa không được?. Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi tôi hiện ta thu được bao nhiêu máy bay A-37 của địch có thể dùng được. Tôi báo cáo rằng, tại Đà Nẵng có một chiếc, phi công ta đang sử dụng học chuyển loại, còn sân bay Phù Cát ở Bình Định thì có 5 chiếc nguyên vẹn, chưa cho bay thử. Đại tướng rất vui mừng và cho biết Bộ chính trị đã đồng ý cho không quân ném bom xuống sào huyệt địch, nhưng chỉ được dùng máy bay chiếm được của địch mà thôi. Ngay chiều hôm đó, tôi nhận điện khẩn từ Đà Nẵng: ?oĐồng chí Văn Tiến Dũng đã cho Nguyễn Thành Trung ra tới sân bay này?. Xem báo cáo tôi rất mừng liền điện đề nghị anh Dũng: ?oCho đồng chí Hoàng Ngọc Diêu, Phó tư lệnh Quân chủng hiện đang ở trong Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh sáng 28 ra sân bay Thành Sơn để tôi hiểu rõ ý định của anh?. Sáng 28-4, chúng tôi chuyển gấp 5 chiếc A-37 vào sân bay Thành Sơn-Phan Rang tiếp cận mục tiêu. Phi đội gồm các phi công Từ Đễ, Nguyễn Văn Lục, Hoàng Mai Vượng, Hán Văn Quảng, do Nguyễn Thành Trung làm Phi đội trưởng. Nguyễn Thành Trung vốn là điệp báo của ta ở trong không quân địch, đã lái A-37 (?-chắc là ông nhà báo viết nhầm, F-5E mới đúng chứ) ném bom xuống dinh Độc Lập vào ngày 8-4-1975. Bên cạnh dó còn có Trần Văn On là một phi công nguỵ tình nguyện ở lại, tôi bố trí cho bay cùng Hoàng Mai Vượng trong chiếc cuối cùng. Đúng 17 giờ tôi phất cờ lệnh. 5 chiếc A-37 xuất phát. Trong tình trạng không có rada dẫn đường, các phi công phải tự ?omò mẫm? bay đi. Họ cũng không được liên lạc với nhau khi chưa tới mục tiêu. Bên cạnh việc sẵn sàng ứng phó với sự đánh trả của không quân và pháo phòng không của địch, các phi công còn phải tránh lưởi lửa của quân ta bắn nhầm dọc đường. Một điều tối quan trọng khác, là không được thả bom nhầm vào phái đoàn quân sự ta đang trú ở trại David-Tân Sơn Nhất. Sau khi các phi công bay đi, tôi đứng ngồi không yên, cho đến khi nghe được giọng nói của Nguyễn Thành Trung nhắc Từ Đễ nhớ bật đèn pha để hạ cánh. Cả 5 chiếc A-37 đều hạ cánh an toàn, sau khi hoàn thành xuất sắc việc ném bom các mục tiêu. Hơn 20 máy bay địch bị phá huỷ. Tân Sơn Nhất hoàn toàn hỗn loạn sau trận bom. Các cánh quân áp sát giải phóng Tân Sơn Nhất?
    *Nghe Trung tướng kể chuyện như được nghe người lính già thời Trần kể chuyện Nguyên Phong. Một đời chinh chiến, hình ảnh quê hương và tuổi thơ hiện còn đọng lại gì trong ký ức Trung tướng?
    -Tuổi thơi tôi gian khổ lắm, cơ cực lắm! Tôi sinh năm Đinh Dậu, 1921 hưng giấy khai sinh đi học thì đề 13-9-1922. Quê tôi ở Hà Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Đây là nơi đã sinh ra hai vị đại khoa thời Nguyễn, nhà thơ Lưu Trọng Lưu, và cũng là quê hương võ tướng Lê Mô Khởi trong phong trào Cần Vương cùng hai vị tướng lĩnh khác của quân đội ta hiện nay? Bố mất năm 13 tuổi. Một ông anh của tôi làm thuê ở đồn điền B?Tlao, Lâm Đồng. Một ông anh khác làm thuê ở Sài Gòn. Còn một ông anh ở nhà thì mất. Từ đó tôi phải nghỉ học, sau khi đậu bằng yếu lược, ở nhà cùng đứa em gái theo mẹ đi buốn bán kiếm sống. Rồi tôi vào Sài Gòn với ông anh và cùng đi làm thuê. Năm 1939, hai anh em trở lại quê, tôi vào Đồng Hới vừa đi dạy thêm vừa học. Đúng ra là 3 năm, nhưng chỉ sau 1 năm học tôi thi đậu bằng primaire và thi vào trường kỹ nghệ Huế học cùng lớp với anh Hoàng Văn Thái, còn học lớp trước có anh Trần Văn Trà, Trần Sâm? Tôi rất mê thể thao, chơi bóng rổ giỏi, nên học 3 năm trường kỹ nghệ xong, tôi học tiếp thể dục thể thao 1 năm rồi về làm huấn luyện viên thể thao ở Đồng Hới. Một thời gian sau, do mâu thuẫn dẫn đến xô xát với con của quan tuần vũ, án sát nên tôi bị cách chức huấn luyện viên và phạt 6 tháng tù. Tôi liền trốn vào Biên Hoà làm thuê kiếm sống.
    *Trung tướng tham gia cách mạng từ lúc nào?
    -Tháng 6-1945, tôi gia nhập Thanh niên tiền phong ở Biên Hoà, mà thủ lĩnh là anh Huỳnh Văn Nghệ. Tháng 8-1945, tôi tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn. Khi cuộc kháng chiến ở Nam Bộ bùng nổ, tôi quay về Quảng Bình, tham gia Giải phóng quân thuộc Chi đội Lê Trực của tỉnh.
    *Đời lính của Trung tướng trải qua các chiến trường nào?
    -Chủ yếu là Bình Trị Thiên-Lào. Năm 1954, cấp trên điều tôi về làm Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn pháo cao xạ 367 tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi chưa từng biết cao xạ là gì và lần đầu tiên nhận trọng trách ở mặt trận ?ođất đối không? thật hết sức khó khăn. Sau chiến thắng Điện Biên, tôi được đưa sang Trung Quốc học 2 năm, rồi Liên Xô 4 năm. Cuộc đời tôi có thể tóm lược thế này: đi từ tầm vông vạt nhọn của những ngày Cách mạng tháng Tám đến máy bay, tên lửa; từ người lính trở thành sĩ quan cấp tướng và đồng thời vừa là bộ đội chủ lực vừa dân quân. Trong kháng chiến chống Pháp, tôi là Tỉnh đội trưởng Quảng Bình, nhưng phụ trách cả khối chủ lực? Trước khi chuẩn bị nghỉ hưu năm 1988, tôi được phân công làm Chủ nhiệm Tổng cục kỹ thuật của Bộ Quốc phòng.
    *Trong lòng Trung tướng, vị tướng nào của thế giới và Việt Nam đem lại cho Trung tướng sự nể phục?
    -Jukov của Liên Xô, ông tướng cầm quân rất giỏi trong Thế chiến thứ hai. Ở Việt Nam, là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng.
    *Thế còn Đại tướng Nguyễn Chí Thanh?
    -Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thì khỏi nói rồi. Anh ấy không phải là một nhà quân sự chuyên nghiệp. Anh ấy giỏi tất cả mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế? Nguyễn Chí Thanh từng là thủ trưởng trực tiếp của tôi, giúp đỡ chỉ bảo tôi nhiều điều. Tôi với Đại tướng có nhiều kỷ niệm, thể hiện qua những lần gặp gỡ để lại dấu ấn trong cuộc đời tôi.
    *Trung tướng còn nhớ kỷ niệm lần đầu gặp Đại tướng?
    -Tháng 6-1949, anh ấy đến thăm Tiểu đoàn bộ 274 đóng ở Minh Cầm thuộc huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Bấy giờ tôi là Tỉnh đội phó kiêm Tiểu đoàn trưởng 274. Anh Nguyễn Chí Thanh đã dặn rằng: Nam Quảng Bình có mạnh thì Quảng Bình mới mạnh. Muốn vậy, phải rời chiến khu, đưa lực lượng về đồng bằng bám sát dân, sống chết với dân, ra sức xây dựng làng kháng chiến thì mới đánh Pháp thắng lợi được. Theo chỉ thị của anh Thanh, tron gvòng 3 tháng trời, tiểu đoàn đã rời chiến khu về đồng bằng, và đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
    Lần thú hai tôi gặp anh Thanh tại Chiến khu Việt Bắc tháng 7-1953. Anh ấy giao nhiệm vụ mới cho tôi: rời chiến trường Bình Trị Thiên về tổ chức và xây dựng Trung đoàn pháo cao xạ 367. Tôi có ghi vào nhật ký lời anh Thanh dặn: ?oBây giờ về với đơn vị chính qui hiện đại, nên ngoài việc rèn luyện ý chí chiến đấu còn phải ra sức học tập quân sự và giữ gìn xe với pháo cho tốt?.
    *Thế lần cuối cùng Trung tướng gặp Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào thời điểm?
    -Vào buổi chiều trước khi anh ấy mất. Tôi nhớ như in ngày 4-7-1967, tôi đến nhà riêng của anh ở phố Lý Nam Đế, Hà Nội để báo cáo tình hình chiến sự. Lúc đó tôi là Cục phó Cục tác chiến của Bộ tổng tham mưu. Sẵn dịp, tôi đề nghị với anh Thanh hãy nói với anh Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng cho tôi vào Nam chiến đấu. Anh hẹn sau 3 ngày sẽ trả lời. Chiều ngày 5-7-1967, trên đường đi làm về, thấy xe anh cũng vừa rời công sở chạy ngang qua, tôi đưa tay lên chào, anh cười chào lại. Sáng hôm sau, 6-7-1967, tôi vừa tới cơ quan thì nghe tin anh Nguyễn Chí Thanh qua đời. Quá đau đớn, đột ngột. Tôi không thể nào tin ở tai mình nữa.
    *Thưa Trung tướng, xung quanh cái chết của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có nhiều tin đồn khác nhau?
    -Anh Thanh mất vị bệnh tim tại Hà Nội. Sự thật là thế. Anh ấy ra đi là một tổn thất lớn cho đất nước. Bác Hồ từng nói Nguyễn Chí Thanh là một trong những ngôi sao sáng của Đảng. Đối với những người lính chúng tôi, anh Thanh là một người anh lớn, một người thầy. Anh ấy là một danh tướng, một nhà lãnh đạo có tư tưởng lớn: luôn bám sát dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc.
    *Còn với Chính uỷ, kiêm Tư lệnh Đặng Tính thì sao? Trung tướng nhớ gì về hình ảnh vị chính uỷ khá nổi tiếng từng một thời sát cánh bên nhau?
    -Theo tôi, Đặng Tính cũng là một con người đặc biệt. Có 3 điều tôi muốn nói về anh. Thứ nhất, Đặng Tính là người mà tất cả mọi chiến sĩ, nhân viên cơ quan đều biết mặt. Anh ấy luôn đi sâu sát đơn vị, nắm bắt tình hình, đề ra chủ trương, biện pháp kịp thời và đúng đắn. Thứ hai, Đặng Tính là người có bản tính hiền lành, điềm đạm và hết sức khiêm tốn, không bao giờ đề cập đến thành tích của mình. Thứ ba, Đặng Tính là vị lãnh đạo rất dân chủ và hết lòng thương yêu giúp đỡ cán bộ cấp dưới? Anh cũng làm thơ khá hay đấy!
    *Chính uỷ Đặng Tính hy sinh trong hoàn cảnh nào?
    -Lúc anh đi thị sát chiến trường Hạ Lào. Lẽ ra, nếu anh rời Trường Sơn về thẳng Hà Nội thì không bị hy sinh. Bởi lúc ấy anh đã nắm trong tay quyết định của Trung ương cử về làm Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị. Đặng Tính là người tài giỏi cả về quân sự lẫn chính trị.
    *Vâng. Đã có khá nhiều giai thoại độc đáo và những lời ca ngợi về năng lực, phẩm cách của Chính uỷ Đặng Tính. Tiếc rằng, ông ra đi quá sớm. Nếu không, ông có thể trở thành một lãnh đạo cần thiết cho đất nước.
    -Tôi cũng tin như thế!
    *Trung tướng có thường tiếp xúc với Trung tướng Vương Thừa Vũ-nguyên Tư lệnh chiến trường Bình Trị Thiên.
    -Vương Thừa Vũ là một trong những vị tướng rất nổi tiếng, dạn dày trận mạc. Trước khi làm Tư lệnh chiến trường Bình Trị Thiên, Vương Thừa Vũ là Tư lệnh Quân khu 4. Sau này, anh ấy trở thành Phó tổng tham mưu trưởng. Tôi với anh ấy cũng thường gặp nhau nhưng không thân. Vương Thừa Vũ là một nhà chiến thuật quân sự tầm cỡ của quân đội ta.
    *Khi ở khu 4, chắc Trung tướng có quen tướng Nguyễn Sơn?
    -Có. Khi tôi làm Tỉnh đội trưởng Quảng Bình, có ra xin súng ở Bộ tư lệnh Quân khu 4, do Nguyễn Sơn làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ. Trong một trận đánh do tôi chỉ huy thắng lớn, Nguyễn Sơn viết thư khen ngợi và nhắc nhở rằng chỉ huy thì lo chỉ huy chứ không được trực tiếp chiến đấu. Khi sang thăm Trung Quốc, anh Nguyễn Sơn lúc ấy đang ở Bắc Kinh, mời tôi cùng các nah Đàm Quang Trung và Lê Tự Đồng đến nhà riêng ăn cơm. Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Nguyên Bác, tự Hồng Thuỷ, người Hà Nội, được phong tướng cả ở quân đội ta lẫn quân đội Trung Quốc, nên mọi người hay gọi là ?oLưỡng quốc tướng quân?. Nghe nói ông thông thạo tiếng Trung Quốc lẫn cả tiếng Pháp, Nga, Anh. Ông là vị tướng đầy tài năng, với rất nhiều giai thoại được truyền tụng. Ông cũng là người có tâm hồn nghệ sĩ, kiến thức uyên thâm, được giới văn nghệ sĩ, trí thức mến mộ. Vì vậy, thời Nguyễn Sơn đứng đầu khu 4, đã tập hợp được nhiều tài năng văn hóa các nơi về đây...
    *Thưa Trung tướng, thời trẻ liên tục đi Nam về Bắc, làm sao Trung tướng quen được bà nhà?
    -Chuyện thế này, tôi với bà ấy cùng làng, nên hiểu rõ nhau từ hỏ. Hai gia đình lại rất thân. Lớn lên, tôi vào bộ đội, còn bà ấy làm công tác phụ nữ ở địa phương. Nhưng chúng tôi vẫn luôn ?theo dõi? nhau! Tôi với bà ấy thời chống Pháp cứ đi nghịch chiều hoài: khi tôi hành quân vào, thì bà ấy lại đi công tác ra và ngược lại. Khi tôi làm Tỉnh đội trưởng Quảng Bình thì bà ấy làm ở Hội phụ nữ tỉnh. Với sự giúp đỡ của gia đình và hai cơ quan, chúng tôi đã làm đám cưới một cách đơn giản. Bà ấy là ?ođiểm tựa? để tôi hoàn thành nhiệm vụ trong hai cuộc kháng chiến. Chúng tôi sinh được 4 đứa con, giờ đều trưởng thành?
    *Với thế hệ trẻ ngày nay, ngoài những vấn để có tính chất chung, theo Trung tướng, giới trẻ cần chú ý đến mọt vấn đề cụ thể gì?
    -Rèn luyện thể lực. Người Việt Nam mình nhỏ con quá. Đây là một chiến lược quốc gia. Người Nhật, người Hàn Quốc trước đây họ cũng nhỏ con như mình nhưng bây giờ đã khác!
    *Xin cảm ơn Trung tướng đã dành thời gian cho buổi trò chuyện thân tình hôm nay! Kính chúc Trung tướng và gia đình luôn mạnh khỏe!
    -Cám ơn anh! Qua Kiến thức ngày nay cho tôi gởi lời chào thăm hỏi đến tất cả đồng đội, đồng bào, chiến sĩ nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12.
    Bác Mod nào xoá hộ em bớt một bài về tướng Lê Văn Tri với, mạng củ chuối quá!
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Thưa Trung tướng, còn trận ném bom xuống sân bay Tân Sơn Nhất do Trung tướng chỉ huy được xem như là hiệu lệnh cho cuộc tổng công kích giải phóng Sài Gòn vào mùa xuân năm 1975. Xin Trung tướng cho biết vài nét cơ bản về trận đánh lịch sử này?
    -Đây là trận đánh rất đáng nhớ trong cuộc đời cầm súng của tôi. Một trận đánh đầy tự hào sau ?oĐiện Biên Phủ trên không?, để tôi cùng đồng đội hoàn thành nhiệm vụ góp phần vào sự nghiệp thống nhất Tổ quốc sau 20 năm bị chia cắt. Tôi nhớ như in vào tối 25-4-1975, Bộ Quốc phòng đánh điện gọi tôi đúng 8 giờ sáng hôm sau lên nhận nhiệm vụ. Khi tôi lên mới biết rằng tối qua, Thượng tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, từ chiến trường đã gọi điện về Hà Nội cho Đại tướng Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đề nghị: ?oCho không quân ta dùng máy bay vừa lấy được của địch ném bom vào sào huyệt quân nguỵ ở Sài Gòn ngày 28-4, chỉ đánh vào ngày này, chậm nữa không được?. Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi tôi hiện ta thu được bao nhiêu máy bay A-37 của địch có thể dùng được. Tôi báo cáo rằng, tại Đà Nẵng có một chiếc, phi công ta đang sử dụng học chuyển loại, còn sân bay Phù Cát ở Bình Định thì có 5 chiếc nguyên vẹn, chưa cho bay thử. Đại tướng rất vui mừng và cho biết Bộ chính trị đã đồng ý cho không quân ném bom xuống sào huyệt địch, nhưng chỉ được dùng máy bay chiếm được của địch mà thôi. Ngay chiều hôm đó, tôi nhận điện khẩn từ Đà Nẵng: ?oĐồng chí Văn Tiến Dũng đã cho Nguyễn Thành Trung ra tới sân bay này?. Xem báo cáo tôi rất mừng liền điện đề nghị anh Dũng: ?oCho đồng chí Hoàng Ngọc Diêu, Phó tư lệnh Quân chủng hiện đang ở trong Bộ tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh sáng 28 ra sân bay Thành Sơn để tôi hiểu rõ ý định của anh?. Sáng 28-4, chúng tôi chuyển gấp 5 chiếc A-37 vào sân bay Thành Sơn-Phan Rang tiếp cận mục tiêu. Phi đội gồm các phi công Từ Đễ, Nguyễn Văn Lục, Hoàng Mai Vượng, Hán Văn Quảng, do Nguyễn Thành Trung làm Phi đội trưởng. Nguyễn Thành Trung vốn là điệp báo của ta ở trong không quân địch, đã lái A-37 (?-chắc là ông nhà báo viết nhầm, F-5E mới đúng chứ) ném bom xuống dinh Độc Lập vào ngày 8-4-1975. Bên cạnh dó còn có Trần Văn On là một phi công nguỵ tình nguyện ở lại, tôi bố trí cho bay cùng Hoàng Mai Vượng trong chiếc cuối cùng. Đúng 17 giờ tôi phất cờ lệnh. 5 chiếc A-37 xuất phát. Trong tình trạng không có rada dẫn đường, các phi công phải tự ?omò mẫm? bay đi. Họ cũng không được liên lạc với nhau khi chưa tới mục tiêu. Bên cạnh việc sẵn sàng ứng phó với sự đánh trả của không quân và pháo phòng không của địch, các phi công còn phải tránh lưởi lửa của quân ta bắn nhầm dọc đường. Một điều tối quan trọng khác, là không được thả bom nhầm vào phái đoàn quân sự ta đang trú ở trại David-Tân Sơn Nhất. Sau khi các phi công bay đi, tôi đứng ngồi không yên, cho đến khi nghe được giọng nói của Nguyễn Thành Trung nhắc Từ Đễ nhớ bật đèn pha để hạ cánh. Cả 5 chiếc A-37 đều hạ cánh an toàn, sau khi hoàn thành xuất sắc việc ném bom các mục tiêu. Hơn 20 máy bay địch bị phá huỷ. Tân Sơn Nhất hoàn toàn hỗn loạn sau trận bom. Các cánh quân áp sát giải phóng Tân Sơn Nhất?
    *Nghe Trung tướng kể chuyện như được nghe người lính già thời Trần kể chuyện Nguyên Phong. Một đời chinh chiến, hình ảnh quê hương và tuổi thơ hiện còn đọng lại gì trong ký ức Trung tướng?
    -Tuổi thơi tôi gian khổ lắm, cơ cực lắm! Tôi sinh năm Đinh Dậu, 1921 hưng giấy khai sinh đi học thì đề 13-9-1922. Quê tôi ở Hà Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Đây là nơi đã sinh ra hai vị đại khoa thời Nguyễn, nhà thơ Lưu Trọng Lưu, và cũng là quê hương võ tướng Lê Mô Khởi trong phong trào Cần Vương cùng hai vị tướng lĩnh khác của quân đội ta hiện nay? Bố mất năm 13 tuổi. Một ông anh của tôi làm thuê ở đồn điền B?Tlao, Lâm Đồng. Một ông anh khác làm thuê ở Sài Gòn. Còn một ông anh ở nhà thì mất. Từ đó tôi phải nghỉ học, sau khi đậu bằng yếu lược, ở nhà cùng đứa em gái theo mẹ đi buốn bán kiếm sống. Rồi tôi vào Sài Gòn với ông anh và cùng đi làm thuê. Năm 1939, hai anh em trở lại quê, tôi vào Đồng Hới vừa đi dạy thêm vừa học. Đúng ra là 3 năm, nhưng chỉ sau 1 năm học tôi thi đậu bằng primaire và thi vào trường kỹ nghệ Huế học cùng lớp với anh Hoàng Văn Thái, còn học lớp trước có anh Trần Văn Trà, Trần Sâm? Tôi rất mê thể thao, chơi bóng rổ giỏi, nên học 3 năm trường kỹ nghệ xong, tôi học tiếp thể dục thể thao 1 năm rồi về làm huấn luyện viên thể thao ở Đồng Hới. Một thời gian sau, do mâu thuẫn dẫn đến xô xát với con của quan tuần vũ, án sát nên tôi bị cách chức huấn luyện viên và phạt 6 tháng tù. Tôi liền trốn vào Biên Hoà làm thuê kiếm sống.
    *Trung tướng tham gia cách mạng từ lúc nào?
    -Tháng 6-1945, tôi gia nhập Thanh niên tiền phong ở Biên Hoà, mà thủ lĩnh là anh Huỳnh Văn Nghệ. Tháng 8-1945, tôi tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn. Khi cuộc kháng chiến ở Nam Bộ bùng nổ, tôi quay về Quảng Bình, tham gia Giải phóng quân thuộc Chi đội Lê Trực của tỉnh.
    *Đời lính của Trung tướng trải qua các chiến trường nào?
    -Chủ yếu là Bình Trị Thiên-Lào. Năm 1954, cấp trên điều tôi về làm Trung đoàn trưởng đầu tiên của Trung đoàn pháo cao xạ 367 tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ. Tôi chưa từng biết cao xạ là gì và lần đầu tiên nhận trọng trách ở mặt trận ?ođất đối không? thật hết sức khó khăn. Sau chiến thắng Điện Biên, tôi được đưa sang Trung Quốc học 2 năm, rồi Liên Xô 4 năm. Cuộc đời tôi có thể tóm lược thế này: đi từ tầm vông vạt nhọn của những ngày Cách mạng tháng Tám đến máy bay, tên lửa; từ người lính trở thành sĩ quan cấp tướng và đồng thời vừa là bộ đội chủ lực vừa dân quân. Trong kháng chiến chống Pháp, tôi là Tỉnh đội trưởng Quảng Bình, nhưng phụ trách cả khối chủ lực? Trước khi chuẩn bị nghỉ hưu năm 1988, tôi được phân công làm Chủ nhiệm Tổng cục kỹ thuật của Bộ Quốc phòng.
    *Trong lòng Trung tướng, vị tướng nào của thế giới và Việt Nam đem lại cho Trung tướng sự nể phục?
    -Jukov của Liên Xô, ông tướng cầm quân rất giỏi trong Thế chiến thứ hai. Ở Việt Nam, là Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Đại tướng Văn Tiến Dũng.
    *Thế còn Đại tướng Nguyễn Chí Thanh?
    -Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thì khỏi nói rồi. Anh ấy không phải là một nhà quân sự chuyên nghiệp. Anh ấy giỏi tất cả mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, kinh tế? Nguyễn Chí Thanh từng là thủ trưởng trực tiếp của tôi, giúp đỡ chỉ bảo tôi nhiều điều. Tôi với Đại tướng có nhiều kỷ niệm, thể hiện qua những lần gặp gỡ để lại dấu ấn trong cuộc đời tôi.
    *Trung tướng còn nhớ kỷ niệm lần đầu gặp Đại tướng?
    -Tháng 6-1949, anh ấy đến thăm Tiểu đoàn bộ 274 đóng ở Minh Cầm thuộc huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình. Bấy giờ tôi là Tỉnh đội phó kiêm Tiểu đoàn trưởng 274. Anh Nguyễn Chí Thanh đã dặn rằng: Nam Quảng Bình có mạnh thì Quảng Bình mới mạnh. Muốn vậy, phải rời chiến khu, đưa lực lượng về đồng bằng bám sát dân, sống chết với dân, ra sức xây dựng làng kháng chiến thì mới đánh Pháp thắng lợi được. Theo chỉ thị của anh Thanh, tron gvòng 3 tháng trời, tiểu đoàn đã rời chiến khu về đồng bằng, và đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc.
    Lần thú hai tôi gặp anh Thanh tại Chiến khu Việt Bắc tháng 7-1953. Anh ấy giao nhiệm vụ mới cho tôi: rời chiến trường Bình Trị Thiên về tổ chức và xây dựng Trung đoàn pháo cao xạ 367. Tôi có ghi vào nhật ký lời anh Thanh dặn: ?oBây giờ về với đơn vị chính qui hiện đại, nên ngoài việc rèn luyện ý chí chiến đấu còn phải ra sức học tập quân sự và giữ gìn xe với pháo cho tốt?.
    *Thế lần cuối cùng Trung tướng gặp Đại tướng Nguyễn Chí Thanh vào thời điểm?
    -Vào buổi chiều trước khi anh ấy mất. Tôi nhớ như in ngày 4-7-1967, tôi đến nhà riêng của anh ở phố Lý Nam Đế, Hà Nội để báo cáo tình hình chiến sự. Lúc đó tôi là Cục phó Cục tác chiến của Bộ tổng tham mưu. Sẵn dịp, tôi đề nghị với anh Thanh hãy nói với anh Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng cho tôi vào Nam chiến đấu. Anh hẹn sau 3 ngày sẽ trả lời. Chiều ngày 5-7-1967, trên đường đi làm về, thấy xe anh cũng vừa rời công sở chạy ngang qua, tôi đưa tay lên chào, anh cười chào lại. Sáng hôm sau, 6-7-1967, tôi vừa tới cơ quan thì nghe tin anh Nguyễn Chí Thanh qua đời. Quá đau đớn, đột ngột. Tôi không thể nào tin ở tai mình nữa.
    *Thưa Trung tướng, xung quanh cái chết của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh có nhiều tin đồn khác nhau?
    -Anh Thanh mất vị bệnh tim tại Hà Nội. Sự thật là thế. Anh ấy ra đi là một tổn thất lớn cho đất nước. Bác Hồ từng nói Nguyễn Chí Thanh là một trong những ngôi sao sáng của Đảng. Đối với những người lính chúng tôi, anh Thanh là một người anh lớn, một người thầy. Anh ấy là một danh tướng, một nhà lãnh đạo có tư tưởng lớn: luôn bám sát dân, dựa vào dân, lấy dân làm gốc.
    *Còn với Chính uỷ, kiêm Tư lệnh Đặng Tính thì sao? Trung tướng nhớ gì về hình ảnh vị chính uỷ khá nổi tiếng từng một thời sát cánh bên nhau?
    -Theo tôi, Đặng Tính cũng là một con người đặc biệt. Có 3 điều tôi muốn nói về anh. Thứ nhất, Đặng Tính là người mà tất cả mọi chiến sĩ, nhân viên cơ quan đều biết mặt. Anh ấy luôn đi sâu sát đơn vị, nắm bắt tình hình, đề ra chủ trương, biện pháp kịp thời và đúng đắn. Thứ hai, Đặng Tính là người có bản tính hiền lành, điềm đạm và hết sức khiêm tốn, không bao giờ đề cập đến thành tích của mình. Thứ ba, Đặng Tính là vị lãnh đạo rất dân chủ và hết lòng thương yêu giúp đỡ cán bộ cấp dưới? Anh cũng làm thơ khá hay đấy!
    *Chính uỷ Đặng Tính hy sinh trong hoàn cảnh nào?
    -Lúc anh đi thị sát chiến trường Hạ Lào. Lẽ ra, nếu anh rời Trường Sơn về thẳng Hà Nội thì không bị hy sinh. Bởi lúc ấy anh đã nắm trong tay quyết định của Trung ương cử về làm Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị. Đặng Tính là người tài giỏi cả về quân sự lẫn chính trị.
    *Vâng. Đã có khá nhiều giai thoại độc đáo và những lời ca ngợi về năng lực, phẩm cách của Chính uỷ Đặng Tính. Tiếc rằng, ông ra đi quá sớm. Nếu không, ông có thể trở thành một lãnh đạo cần thiết cho đất nước.
    -Tôi cũng tin như thế!
    *Trung tướng có thường tiếp xúc với Trung tướng Vương Thừa Vũ-nguyên Tư lệnh chiến trường Bình Trị Thiên.
    -Vương Thừa Vũ là một trong những vị tướng rất nổi tiếng, dạn dày trận mạc. Trước khi làm Tư lệnh chiến trường Bình Trị Thiên, Vương Thừa Vũ là Tư lệnh Quân khu 4. Sau này, anh ấy trở thành Phó tổng tham mưu trưởng. Tôi với anh ấy cũng thường gặp nhau nhưng không thân. Vương Thừa Vũ là một nhà chiến thuật quân sự tầm cỡ của quân đội ta.
    *Khi ở khu 4, chắc Trung tướng có quen tướng Nguyễn Sơn?
    -Có. Khi tôi làm Tỉnh đội trưởng Quảng Bình, có ra xin súng ở Bộ tư lệnh Quân khu 4, do Nguyễn Sơn làm Tư lệnh kiêm Chính uỷ. Trong một trận đánh do tôi chỉ huy thắng lớn, Nguyễn Sơn viết thư khen ngợi và nhắc nhở rằng chỉ huy thì lo chỉ huy chứ không được trực tiếp chiến đấu. Khi sang thăm Trung Quốc, anh Nguyễn Sơn lúc ấy đang ở Bắc Kinh, mời tôi cùng các nah Đàm Quang Trung và Lê Tự Đồng đến nhà riêng ăn cơm. Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Nguyên Bác, tự Hồng Thuỷ, người Hà Nội, được phong tướng cả ở quân đội ta lẫn quân đội Trung Quốc, nên mọi người hay gọi là ?oLưỡng quốc tướng quân?. Nghe nói ông thông thạo tiếng Trung Quốc lẫn cả tiếng Pháp, Nga, Anh. Ông là vị tướng đầy tài năng, với rất nhiều giai thoại được truyền tụng. Ông cũng là người có tâm hồn nghệ sĩ, kiến thức uyên thâm, được giới văn nghệ sĩ, trí thức mến mộ. Vì vậy, thời Nguyễn Sơn đứng đầu khu 4, đã tập hợp được nhiều tài năng văn hóa các nơi về đây...
    *Thưa Trung tướng, thời trẻ liên tục đi Nam về Bắc, làm sao Trung tướng quen được bà nhà?
    -Chuyện thế này, tôi với bà ấy cùng làng, nên hiểu rõ nhau từ hỏ. Hai gia đình lại rất thân. Lớn lên, tôi vào bộ đội, còn bà ấy làm công tác phụ nữ ở địa phương. Nhưng chúng tôi vẫn luôn ?theo dõi? nhau! Tôi với bà ấy thời chống Pháp cứ đi nghịch chiều hoài: khi tôi hành quân vào, thì bà ấy lại đi công tác ra và ngược lại. Khi tôi làm Tỉnh đội trưởng Quảng Bình thì bà ấy làm ở Hội phụ nữ tỉnh. Với sự giúp đỡ của gia đình và hai cơ quan, chúng tôi đã làm đám cưới một cách đơn giản. Bà ấy là ?ođiểm tựa? để tôi hoàn thành nhiệm vụ trong hai cuộc kháng chiến. Chúng tôi sinh được 4 đứa con, giờ đều trưởng thành?
    *Với thế hệ trẻ ngày nay, ngoài những vấn để có tính chất chung, theo Trung tướng, giới trẻ cần chú ý đến mọt vấn đề cụ thể gì?
    -Rèn luyện thể lực. Người Việt Nam mình nhỏ con quá. Đây là một chiến lược quốc gia. Người Nhật, người Hàn Quốc trước đây họ cũng nhỏ con như mình nhưng bây giờ đã khác!
    *Xin cảm ơn Trung tướng đã dành thời gian cho buổi trò chuyện thân tình hôm nay! Kính chúc Trung tướng và gia đình luôn mạnh khỏe!
    -Cám ơn anh! Qua Kiến thức ngày nay cho tôi gởi lời chào thăm hỏi đến tất cả đồng đội, đồng bào, chiến sĩ nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12.
    Bác Mod nào xoá hộ em bớt một bài về tướng Lê Văn Tri với, mạng củ chuối quá!
  6. su51

    su51 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    13
    Đã được thích:
    0
  7. su51

    su51 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2004
    Bài viết:
    13
    Đã được thích:
    0
  8. kienvn

    kienvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2004
    Bài viết:
    192
    Đã được thích:
    0
    Có bác nào biết về Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh không?
    Xin làm ơn cho biết về "tình yêu sự nghiệp" của vị tướng này ...
    Chân thành cám ơn trước.
  9. kienvn

    kienvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2004
    Bài viết:
    192
    Đã được thích:
    0
    Có bác nào biết về Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh không?
    Xin làm ơn cho biết về "tình yêu sự nghiệp" của vị tướng này ...
    Chân thành cám ơn trước.
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    To kienvn: bác làm gì mà viết chữ to thế, bi giờ làm gì còn việc phải đọc báo chữ to nữa đâu!
    Em trả lời bác những gì em biết về tướng Nguyễn Nam Khánh:
    Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, quê Quảng Ngãi là một vị tướng từng giữ các chức vụ cao trong quân đội như:
    -Cục phó Cục Tuyên huấn
    -Chủ nhiệm chính trị Quân khu 5
    -Phó chủ nhiệm kiêm bí thư Đảng uỷ Tổng cục Chính trị QĐNDVN
    Còn một số thông tin khác được cho là nhạy cảm và chưa được kiểm chứng thì em không dám post đâu, em vừa được nếm mùi thế nào là treo cây 20 tiếng bên box Hỏi đáp TH rùi! Bác có nhu cầu thì dùng PM với em!

Chia sẻ trang này