1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các tướng lĩnh QĐND Việt Nam

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi ptlinh, 26/07/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    To kienvn: bác làm gì mà viết chữ to thế, bi giờ làm gì còn việc phải đọc báo chữ to nữa đâu!
    Em trả lời bác những gì em biết về tướng Nguyễn Nam Khánh:
    Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, quê Quảng Ngãi là một vị tướng từng giữ các chức vụ cao trong quân đội như:
    -Cục phó Cục Tuyên huấn
    -Chủ nhiệm chính trị Quân khu 5
    -Phó chủ nhiệm kiêm bí thư Đảng uỷ Tổng cục Chính trị QĐNDVN
    Còn một số thông tin khác được cho là nhạy cảm và chưa được kiểm chứng thì em không dám post đâu, em vừa được nếm mùi thế nào là treo cây 20 tiếng bên box Hỏi đáp TH rùi! Bác có nhu cầu thì dùng PM với em!
  2. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thiếu tướng Bùi Cát Vũ
    *Thưa ông, Bùi Cát Vũ trước hết là một nhà văn hay một vị tướng?
    -Tôi tham gia làm báo, viết văn từ hồi còn thiếu niên, mà làm cách mạng, làm người lính cũng rất sớm. và sau này, trên mỗi chặng đường chiến đấu, tôi không bao giờ ngưng ngòi bút của mình. Thời gian ở trong rừng, nhất là mỗi dịp xuân về Tết đến, tôi đều có bài viết được đọc trên Đài tiếng nói Việt Nam.
    *Là một nhà quân sự chuyên nghiệp bận rộn trăm công nghìn việc, nhưng bút lực không bao giờ ngừng nghỉ, cho ra đời những tác phẩm có giá trị gắn liền với những chặng đường lịch sử của dân tộc, như ?oQuên hương?, ?oĐường vào Sài Gòn?, ?oTrong rừng sâu chiến khu Đ?, ?oĐường vào Phnôm Pênh?, từng được giải thưởng cao nhất cả văn học quân đội, ông suy nghĩ gì mỗi khi ngồi trước trang bản thảo của mình?
    -Mỗi tác phẩm đến với độc giả, thính giả với tôi là một tấm huân chương chiến công thầm lặng. Khi đứng trước sự kiện lịch sử lớn lao của nhân dân, của bản thân mình, tôi nghĩ rằng đến cây gỗ mục cũng phải rung động huống chi tôi là con người, mà lai là người biết viết, ham viết nữa! Cái máu ấy nó đeo đẳng tôi từ thuở nhỏ. Mà những cái hay, cái đẹp của con người của đất nước của tình đồng đội, nếu không viết thì không ai biết và cũng chẳng để lại được gì cho đời sau.
    *Cho đến bây giờ, ông còn nhớ tác phẩm đầu tay của mình?
    -Nhớ chứ. Đó là truyện ngắn ?oPhía sau ánh đèn điện? tôi viết năm 15 tuổi khi đi phát hành báo Dân chúng, được ông Trần Thanh Mại góp ý, về viết lại, đổi tựa thành ?oGió bụi Sài Gòn? và đăng trên báo này. Gần đây, thấy rất cần sách văn học cho thiếu nhi, tôi đã viết một cuốn truyện cũng lấy tên là ?oGió bụi Sài Gòn? và được giải thưởng cuộc thi ?oVăn học thiếu nhi vì tương lai đất nước? của hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, rồi lại được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam 1993.
    *Hình ảnh nhân vật chính trong ?oGió bụi Sài Gòn? có phải là hình ảnh cậu bé Bùi Cát Vũ ngày xưa, thưa ông?
    -Đúng vậy, ?oGió bụi Sài Gòn? là một cuốn tự truyện. Nhưng tên thật củat tôi không phải là A mà là Bê. Tên A là tên của người em trai kế tôi, người em chịu nhiều hy sinh để tôi có điều kiện ăn học, Quê tôi ở xã Hưng Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Tôi tuổi Tý, sinh năm 1924 trong một gia đình nông dân nghèo, cha mẹ tôi phải đi làm mướn cho người ta, còn 3 đứa em thì nhỏ. Cha tôi mất lúc tôi mới 11 tuổi. Mẹ tối lúc ấy mới 30 tuổi, nhưng vì khổ quá, không hề hình dung nổi tuổi trẻ của mình. Dù nghèo nhưng tôi rất hiếu học và học giỏi. Học xong ở trường làng, tôi thi tiểu học đỗ đầu tỉnh, được học bổng 5 đồng tiền Đông Dương 1 tháng. Do quên khai sinh, nên đứa em kế tôi khau cùng tuổi với tôi, như anh em sinh đôi, nhưng kỳ thực thì nó nhỏ hơn tôi 1 tuổi. Và nó cũng thi đậu cùng lớp với tôi nhưng không có học bổng. Hai anh em ở trọ trong một ngôi chùa, quét lá, tụng kinh gõ mõ để có cơm ăn học. Còn tiền học bổng 5 đồng để dành sắm quần áo, sách vở, bút mực. Học hết 3 năm, lãnh bằng sơ học Pháp-Việt, tôi thi vào trường trung học Mỹ Tho, được học bổng toàn phần. Mấy năm trước đó tỉnh tôi không có học sinh thi đậu bổng lên trung học, nên khi nghe tin tôi đậu, cả trường rất phấn khởi, nhất là ông thanh tra Durant đích thân bồi dưỡng cho tôi và thầy Trung-người thầy dạy tôi suốt 3 năm trường làng và còn nuôi tôi gần hai năm cuối tiểu học.
    *Thế ông bắt đầu làm báo từ khi nào?
    -Được công văn gọi đi học, mẹ con tôi chưa trọn mừng vui thì bỗng như từ chín tầng mây rơi xuống đất. Bởi bên cạnh đó, còn có tờ kê khai những trang phục đồ lề qui định mang theo. Mẹ tôi ngồi đứng không yên, đốt nhang khấn vái ba tôi, khấn vái tổ tiên, mong những người khuất mặt, chia sẻ nỗi lòng của mẹ. Mấy hôm sau, thằng em theo người thầy dạy đờn lên Châu Đốc, ca cải lương kiếm sống. Còn tôi chờ thư từ Sài Gòn, để đi học vẽ. Và bắt đầu từ đây, tôi phải trải qua nhiều nghề khác nhau, lây lất sống trên đất Sài Gòn. Trước khi tập làm báo, tôi sống lang thang khắp nơi, không nhà không cửa, ngủ gầm cầu, vỉa hè, làm phụ hồ, bán báo?
    *Thời gian làm báo đem lại cho ông những kinh nghiệm gì?
    -Dù chỉ một năm, nhưng nó rất quan trọng trong cuộc đời của tôi. Tôi được sống và viết lách chung với những bậc thầy như Nguyễn Văn Nguyễn, Trần Thanh Mại. Tôi học được ở các vị ấy rất nhiều, từ cách lấy tin tức, đến viết phóng sự, truyện ngắn? Rồi khi tờ báo Dân chúng bị đóng cửa, vào tù, tôi được tiếp xúc với nhiều bậc trí thức lớn nữa: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Tạp, Tạ Thu Thâu, Dương Bạch Mai? Mặc dù có những quan điểm khác nhau, nhưng đó là những trí thức yêu nước chân chính, biết được nỗi nhục mất nước và tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
    *Rồi sau đó, ông đi vào con đường binh nghiệp?
    -Được sự bênh vự của Luật sư Trịnh Đình Thảo và Trạng sư Loye người Pháp chuyên cãi không lấy tiền cho những người làm cách mạng, tôi được tại ngoại hầu tra, buộc về quê quán, chờ ngày xử án toà sẽ gọi. Trở lại quê nhà một thời gian, tôi được anh Dương Quang Đông, thông qua anh Nguyễn Văn Nguyễn, đã liên lạc với tôi. Đó là thời điểm sau Nam Kỳ khởi nghĩa. Cướp chính quyền, giải giáp quân Pháp, Dương Quang Đông được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chánh tỉnh, Nguyễn Duy Khâm làm Chủ tịch Uỷ ban hành chánh, còn tôi làm Giám đốc Cộng hoà vệ binh. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, tôi lên Sài Gòn, Biên Hoà bắt liên lạc với chiến khu của Nguyễn Bình, Huỳnh Văn Nghệ?
    *Được biết ông cùng với tướng Huỳnh Văn Nghệ đã trực tiếp chỉ huy trận La Ngà nổi tiếng. Xin ông cho biết sơ lược về trận đánh lịch sử này?
    -À, đó là vào năm 1947, anh Huỳnh Văn Nghệ làm chỉ huy trưởng, còn tôi là chỉ huy phó. Đây là trận đánh là rung động cả nước Pháp và thế giới. Ta phục kích đoàn xe lửa và đường quốc lộ 20 (Sài Gòn-Đà Lạt), bắt sống nhiều quân Pháp, thu được nhiều vũ khí, quân trang quân dụng. Có 3 Đại tá Pháp bị tử trận. Đặc biệt trong đó có một viên đại tá dòng dõi hoàng tộc là De Sérigué. Sau đó, do nghi ngờ bị ta bắt sống, nên vợ De Sérigué làm đơn kiện khắp nơi. Bà ta cũng viết thư cho Huỳnh Văn Nghệ, đề nghị gởi cho bà một lá thư có bút tích của chồng để làm tin, bao nhiều tiền bà ta cũng trả? Sau trận La Ngà, Trung tướng Nguyễn Bình trao cho Huỳnh Văn Nghệ Huân chương Độc lập hạng nhì, còn tôi hạng ba.
    *Thưa ông, thời chống Mỹ những nhiệm vụ chính nào ông được giao trong quân đội?
    -Năm 1954, tôi ra Bắc học tập, làm luận án phó tiến sĩ về pháo binh. Trở vào miền Nam chiến đấu, tôi được cử giữ chức Tư lệnh pháo binh Miền. Khi Quân đoàn 4 được thành lập, tôi được cử làm Phó tư lệnh còn anh Hoàng Cầm làm Tư lệnh. Năm 1975 tham gia cánh quân phía Đông vào giải phóng Sài Gòn. Đến năm 1970 cùng Quân đoàn 4 sang giải phóng Phnôm Pênh. Tôi là người đầu tiên điện đàm về cho Trung ương, mà trực tiếp là đồng chí Lê Đức Thọ, báo tin bộ đội ta đã có mặt ở Hoàng cung Campuchia, đẩy lùi hoàn toàn tập đoàn diệt chủng Pol Pot. Năm 1981 tôi về nhận chức Phó tư lệnh Quân khu 7 cho đến khi về hưu hồi năm 1990. Thật tình thì sau khi miền Nam được giải phóng, tôi nhiều lần xin về nghỉ hưu để giành phần đời còn lại cho công việc viết lách. Nhưng các anh ở trên không đồng ý.
    *Vì sao thời chống Mỹ, ông lại có biệt danh là ?oTrùm đại bác Đông Dương??
    -Anh em gọi vui đấy mà. Bởi bấy giờ tôi là Tư lệnh pháo binh Miền nhiều lần chỉ huy kéo pháo vượt Trường Sơn sang biên giới Lào-Campuchia phối hợp với bạn đánh Mỹ.
    *Trong câu chuyện về cuộc đời 50 năm binh nghiệp nghiệp của mình, ông thường nhắc đến các vị tướng lĩnh, sĩ quan cấp trên và đồng đội. Riền về Nguyễn Bình và Huỳnh Văn Nghệ, ông còn nhớ những kỷ niệm gì về họ không?
    -Kỷ niệm thì nhiều lắm. Sau trận La Ngà, anh Nguyễn Bình bấy giờ đang đóng quân ở Đồng Tháp Mười kêu tôi xuống báo cáo kinh nghiệm. Bởi tôi là người nghiên cứu, chế tạo mình lõm đánh xe tăng, thiết giáp, đánh đoàn xe lửa của địch thu nhiều vũ khí. Đấy là lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Bình. Tôi nhận thấy anh em làm việc xung quanh rất khoái Nguyễn Bình và gọi anh một cách thân mật: Anh Ba! Sau này, khi Nguyễn Bình được thụ phong Trung tướng, tôi cũng có dự. Trong buổi lễ ấy, đồng chí Lê Duẩn chủ trì. Một điều mà ai cũng biết, là bấy giờ hàm Trung tướng của anh Nguyễn Bình chỉ đứng sau Đai tướng Võ Nguyên Giáp. Nguyễn Bình là một vị tướng tài ba, có công rất lớn trong việc thống nhất các đội quân hỗn tạp của Nam Bộ về một mối, trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.
  3. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thiếu tướng Bùi Cát Vũ
    *Thưa ông, Bùi Cát Vũ trước hết là một nhà văn hay một vị tướng?
    -Tôi tham gia làm báo, viết văn từ hồi còn thiếu niên, mà làm cách mạng, làm người lính cũng rất sớm. và sau này, trên mỗi chặng đường chiến đấu, tôi không bao giờ ngưng ngòi bút của mình. Thời gian ở trong rừng, nhất là mỗi dịp xuân về Tết đến, tôi đều có bài viết được đọc trên Đài tiếng nói Việt Nam.
    *Là một nhà quân sự chuyên nghiệp bận rộn trăm công nghìn việc, nhưng bút lực không bao giờ ngừng nghỉ, cho ra đời những tác phẩm có giá trị gắn liền với những chặng đường lịch sử của dân tộc, như ?oQuên hương?, ?oĐường vào Sài Gòn?, ?oTrong rừng sâu chiến khu Đ?, ?oĐường vào Phnôm Pênh?, từng được giải thưởng cao nhất cả văn học quân đội, ông suy nghĩ gì mỗi khi ngồi trước trang bản thảo của mình?
    -Mỗi tác phẩm đến với độc giả, thính giả với tôi là một tấm huân chương chiến công thầm lặng. Khi đứng trước sự kiện lịch sử lớn lao của nhân dân, của bản thân mình, tôi nghĩ rằng đến cây gỗ mục cũng phải rung động huống chi tôi là con người, mà lai là người biết viết, ham viết nữa! Cái máu ấy nó đeo đẳng tôi từ thuở nhỏ. Mà những cái hay, cái đẹp của con người của đất nước của tình đồng đội, nếu không viết thì không ai biết và cũng chẳng để lại được gì cho đời sau.
    *Cho đến bây giờ, ông còn nhớ tác phẩm đầu tay của mình?
    -Nhớ chứ. Đó là truyện ngắn ?oPhía sau ánh đèn điện? tôi viết năm 15 tuổi khi đi phát hành báo Dân chúng, được ông Trần Thanh Mại góp ý, về viết lại, đổi tựa thành ?oGió bụi Sài Gòn? và đăng trên báo này. Gần đây, thấy rất cần sách văn học cho thiếu nhi, tôi đã viết một cuốn truyện cũng lấy tên là ?oGió bụi Sài Gòn? và được giải thưởng cuộc thi ?oVăn học thiếu nhi vì tương lai đất nước? của hội nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh, rồi lại được giải thưởng của hội nhà văn Việt Nam 1993.
    *Hình ảnh nhân vật chính trong ?oGió bụi Sài Gòn? có phải là hình ảnh cậu bé Bùi Cát Vũ ngày xưa, thưa ông?
    -Đúng vậy, ?oGió bụi Sài Gòn? là một cuốn tự truyện. Nhưng tên thật củat tôi không phải là A mà là Bê. Tên A là tên của người em trai kế tôi, người em chịu nhiều hy sinh để tôi có điều kiện ăn học, Quê tôi ở xã Hưng Mỹ, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Tôi tuổi Tý, sinh năm 1924 trong một gia đình nông dân nghèo, cha mẹ tôi phải đi làm mướn cho người ta, còn 3 đứa em thì nhỏ. Cha tôi mất lúc tôi mới 11 tuổi. Mẹ tối lúc ấy mới 30 tuổi, nhưng vì khổ quá, không hề hình dung nổi tuổi trẻ của mình. Dù nghèo nhưng tôi rất hiếu học và học giỏi. Học xong ở trường làng, tôi thi tiểu học đỗ đầu tỉnh, được học bổng 5 đồng tiền Đông Dương 1 tháng. Do quên khai sinh, nên đứa em kế tôi khau cùng tuổi với tôi, như anh em sinh đôi, nhưng kỳ thực thì nó nhỏ hơn tôi 1 tuổi. Và nó cũng thi đậu cùng lớp với tôi nhưng không có học bổng. Hai anh em ở trọ trong một ngôi chùa, quét lá, tụng kinh gõ mõ để có cơm ăn học. Còn tiền học bổng 5 đồng để dành sắm quần áo, sách vở, bút mực. Học hết 3 năm, lãnh bằng sơ học Pháp-Việt, tôi thi vào trường trung học Mỹ Tho, được học bổng toàn phần. Mấy năm trước đó tỉnh tôi không có học sinh thi đậu bổng lên trung học, nên khi nghe tin tôi đậu, cả trường rất phấn khởi, nhất là ông thanh tra Durant đích thân bồi dưỡng cho tôi và thầy Trung-người thầy dạy tôi suốt 3 năm trường làng và còn nuôi tôi gần hai năm cuối tiểu học.
    *Thế ông bắt đầu làm báo từ khi nào?
    -Được công văn gọi đi học, mẹ con tôi chưa trọn mừng vui thì bỗng như từ chín tầng mây rơi xuống đất. Bởi bên cạnh đó, còn có tờ kê khai những trang phục đồ lề qui định mang theo. Mẹ tôi ngồi đứng không yên, đốt nhang khấn vái ba tôi, khấn vái tổ tiên, mong những người khuất mặt, chia sẻ nỗi lòng của mẹ. Mấy hôm sau, thằng em theo người thầy dạy đờn lên Châu Đốc, ca cải lương kiếm sống. Còn tôi chờ thư từ Sài Gòn, để đi học vẽ. Và bắt đầu từ đây, tôi phải trải qua nhiều nghề khác nhau, lây lất sống trên đất Sài Gòn. Trước khi tập làm báo, tôi sống lang thang khắp nơi, không nhà không cửa, ngủ gầm cầu, vỉa hè, làm phụ hồ, bán báo?
    *Thời gian làm báo đem lại cho ông những kinh nghiệm gì?
    -Dù chỉ một năm, nhưng nó rất quan trọng trong cuộc đời của tôi. Tôi được sống và viết lách chung với những bậc thầy như Nguyễn Văn Nguyễn, Trần Thanh Mại. Tôi học được ở các vị ấy rất nhiều, từ cách lấy tin tức, đến viết phóng sự, truyện ngắn? Rồi khi tờ báo Dân chúng bị đóng cửa, vào tù, tôi được tiếp xúc với nhiều bậc trí thức lớn nữa: Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Nguyễn Văn Tạp, Tạ Thu Thâu, Dương Bạch Mai? Mặc dù có những quan điểm khác nhau, nhưng đó là những trí thức yêu nước chân chính, biết được nỗi nhục mất nước và tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
    *Rồi sau đó, ông đi vào con đường binh nghiệp?
    -Được sự bênh vự của Luật sư Trịnh Đình Thảo và Trạng sư Loye người Pháp chuyên cãi không lấy tiền cho những người làm cách mạng, tôi được tại ngoại hầu tra, buộc về quê quán, chờ ngày xử án toà sẽ gọi. Trở lại quê nhà một thời gian, tôi được anh Dương Quang Đông, thông qua anh Nguyễn Văn Nguyễn, đã liên lạc với tôi. Đó là thời điểm sau Nam Kỳ khởi nghĩa. Cướp chính quyền, giải giáp quân Pháp, Dương Quang Đông được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chánh tỉnh, Nguyễn Duy Khâm làm Chủ tịch Uỷ ban hành chánh, còn tôi làm Giám đốc Cộng hoà vệ binh. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ, tôi lên Sài Gòn, Biên Hoà bắt liên lạc với chiến khu của Nguyễn Bình, Huỳnh Văn Nghệ?
    *Được biết ông cùng với tướng Huỳnh Văn Nghệ đã trực tiếp chỉ huy trận La Ngà nổi tiếng. Xin ông cho biết sơ lược về trận đánh lịch sử này?
    -À, đó là vào năm 1947, anh Huỳnh Văn Nghệ làm chỉ huy trưởng, còn tôi là chỉ huy phó. Đây là trận đánh là rung động cả nước Pháp và thế giới. Ta phục kích đoàn xe lửa và đường quốc lộ 20 (Sài Gòn-Đà Lạt), bắt sống nhiều quân Pháp, thu được nhiều vũ khí, quân trang quân dụng. Có 3 Đại tá Pháp bị tử trận. Đặc biệt trong đó có một viên đại tá dòng dõi hoàng tộc là De Sérigué. Sau đó, do nghi ngờ bị ta bắt sống, nên vợ De Sérigué làm đơn kiện khắp nơi. Bà ta cũng viết thư cho Huỳnh Văn Nghệ, đề nghị gởi cho bà một lá thư có bút tích của chồng để làm tin, bao nhiều tiền bà ta cũng trả? Sau trận La Ngà, Trung tướng Nguyễn Bình trao cho Huỳnh Văn Nghệ Huân chương Độc lập hạng nhì, còn tôi hạng ba.
    *Thưa ông, thời chống Mỹ những nhiệm vụ chính nào ông được giao trong quân đội?
    -Năm 1954, tôi ra Bắc học tập, làm luận án phó tiến sĩ về pháo binh. Trở vào miền Nam chiến đấu, tôi được cử giữ chức Tư lệnh pháo binh Miền. Khi Quân đoàn 4 được thành lập, tôi được cử làm Phó tư lệnh còn anh Hoàng Cầm làm Tư lệnh. Năm 1975 tham gia cánh quân phía Đông vào giải phóng Sài Gòn. Đến năm 1970 cùng Quân đoàn 4 sang giải phóng Phnôm Pênh. Tôi là người đầu tiên điện đàm về cho Trung ương, mà trực tiếp là đồng chí Lê Đức Thọ, báo tin bộ đội ta đã có mặt ở Hoàng cung Campuchia, đẩy lùi hoàn toàn tập đoàn diệt chủng Pol Pot. Năm 1981 tôi về nhận chức Phó tư lệnh Quân khu 7 cho đến khi về hưu hồi năm 1990. Thật tình thì sau khi miền Nam được giải phóng, tôi nhiều lần xin về nghỉ hưu để giành phần đời còn lại cho công việc viết lách. Nhưng các anh ở trên không đồng ý.
    *Vì sao thời chống Mỹ, ông lại có biệt danh là ?oTrùm đại bác Đông Dương??
    -Anh em gọi vui đấy mà. Bởi bấy giờ tôi là Tư lệnh pháo binh Miền nhiều lần chỉ huy kéo pháo vượt Trường Sơn sang biên giới Lào-Campuchia phối hợp với bạn đánh Mỹ.
    *Trong câu chuyện về cuộc đời 50 năm binh nghiệp nghiệp của mình, ông thường nhắc đến các vị tướng lĩnh, sĩ quan cấp trên và đồng đội. Riền về Nguyễn Bình và Huỳnh Văn Nghệ, ông còn nhớ những kỷ niệm gì về họ không?
    -Kỷ niệm thì nhiều lắm. Sau trận La Ngà, anh Nguyễn Bình bấy giờ đang đóng quân ở Đồng Tháp Mười kêu tôi xuống báo cáo kinh nghiệm. Bởi tôi là người nghiên cứu, chế tạo mình lõm đánh xe tăng, thiết giáp, đánh đoàn xe lửa của địch thu nhiều vũ khí. Đấy là lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Bình. Tôi nhận thấy anh em làm việc xung quanh rất khoái Nguyễn Bình và gọi anh một cách thân mật: Anh Ba! Sau này, khi Nguyễn Bình được thụ phong Trung tướng, tôi cũng có dự. Trong buổi lễ ấy, đồng chí Lê Duẩn chủ trì. Một điều mà ai cũng biết, là bấy giờ hàm Trung tướng của anh Nguyễn Bình chỉ đứng sau Đai tướng Võ Nguyên Giáp. Nguyễn Bình là một vị tướng tài ba, có công rất lớn trong việc thống nhất các đội quân hỗn tạp của Nam Bộ về một mối, trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp.
  4. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Vâng, các nhà báo và sử gia Pháp cũng từng trận trọng gọi ?oNguyễn Bình-ông tướng một mắt?, ?oLưu Bá Thừa Việt Nam?, người có toàn quyền tổ chức, chỉ huy về quân sự ở Nam Bộ. Một vi tướng gương mẫu thông minh, mạo hiểm, hào hiệp,?
    -Và anh cũng sống hết sức tình nghĩa với anh em, đồng đội, và rất trân trọng trí thức, văn nghệ sĩ. Khi mới vào Nam Bộ, Nguyễn Bình nhiều lần vào tận nội thành Sài Gòn điều nghiên tình hình. Anh ấy muốn đem chiến tranh vào ngay hang ổ địch. Xung quanh cuộc đời Nguyễn Bình có rầt nhiều giai thoai. Chẳng hạn, có lần anh đi dọc đường Catinat, nay là Đồng Khởi, từ bót mật thám kế nhà thờ Đức Bà tới khách sạn Majestic, rồi ghé vào tiệm hớt tóc. Anh ngồi giữa hai tên sĩ quan Pháp đúng vào lúc chúng đang trao đổi với nhau rằng: nghe nói tướng Nguyễn Bình đã vào Sài Gòn?
    Khi Trung tướng Nguyễn Bình được lệnh trở ra Bắc, tôi cũng có mặt trong buổi lễ tiễn đữa. Lúc ấy dân Sài Gòn vô căn cứ tiễn anh đi đông lắm. Nam có nữ có, già có trẻ có, họ mang cả bộ phận nhà hàng vô để nấu nướng, chiêu đãi. Dân địa phương thì đem bò, gà, vịt?
    Lúc ấy, chị Hoàng Thị Thanh, vợ anh Nguyễn Bình được đưa từ ngoài Bắc vào để gặp anh. Vợ chồng sum họp không được bao lâu thì anh được lệnh phải ra đi. Chị ở lại Sài Gòn. Đêm tiễn Nguyễn Bình, anh Huỳnh Văn Nghệ đọc bài thơ Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông rất hay, rất thống thiết. Bài thơ nói về tích Hạng Võ biệt Ngu Cơ. Chị Hoàng Thị Thanh tựa vai anh khóc nức nở. Có ai ngờ đó là lần cuối cùng anh chị được sống bên nhau?
    Tôi rất mừng là thời gian gần đây, hình ảnh Trung tướng Nguyễn Bình đã xuất hiện trở lại một cách xứng đáng với tầm vóc của anh. Đó cũng là niềm an ủi cho chị Hoàng Thị Thanh và các cháu. Nghe nói ở quê nhà anh ngoài Hưng Yên, bia liệt sĩ cũng đã được dựng lên trang trọng lắm!
    *Thật ra, sau khi Trung tướng Nguyễn Bình hy sinh ngày 29-9-1951 thì tới 29-2-1952, tức chỉ 5 tháng sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 84-SL truy tặng Huân chương Quân công hạng nhất cho Trung tướng.
    -Đúng vậy. Và Nguyễn Bình chính là người lính đầu tiên của quân đội ta được truy tặng phần thưởng cao quý ấy!
    *Với Trung tướng Nguyễn Bình là thế, còn với tác giả hai câu thơ nổi tiếng ?oTừ độ mang gươm đi mở bờ cõi, Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long?-tướng Huỳnh Văn Nghệ thì sao thưa ông?
    -Huỳnh Văn Nghệ không chỉ là vị chỉ huy quân sự tài ba, mà còn là nhà thơ được kính trọng. Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi với anh luôn chiến đấu bên nhau. Sau trận La Ngà (1-3-1948), được tặng Huân chương Quân công; Huỳnh Văn Nghệ còn được Quốc hội và Mặt trận tổ quốc Việt Nam gởi vào tặn chiếc áo trấn thủ màu nhung đỏ đính cờ. Và có lẽ, chúng tôi là những người lính đầu tiên được tặng Huân chương Quân công trong lịch sử quân đội ta.
    Sau khi thống nhất các lực lượng võ trang Nam Bộ, anh Nguyễn Bình được phong làm Tư lệnh Nam Bộ, kiêm Tư lệnh Quân khu 7, còn anh Huỳnh Văn Nghệ làm Phó tư lệnh Quân khu 7. Lúc bấy giờ, Bảy Viễn là Tư lệnh của Liên khu Bình Xuyên cũng được phong làm Phó tư lệnh Quân khu 7. Nhưng, mặc dù có lệnh của Trung ương lẫn Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, Bảy Viễn vẫn không chịu về làm phó cho Nguyễn Bình. Đám tay chân của Bảy Viễn, nhất là Lại Văn Sang (mật thám phòng nhì Pháp) kiềm Bảy Viễn rằng: ?oNguyễn Bình nó ?ođiệu hổ ly sơn? anh đó, để lựa lúc anh đi vắng nó sẽ lấy lực lượng của anh! bảy Viễn ái ngại, không chịu về.
    Trước tình hình ấy, Huỳnh Văn Nghệ quyết định xuống thuyền đi một mình vào rừng Sác làm thuyết khách, không mang theo bất kỳ thứ vũ khí nào. Lại Văn Sang cho bố trí quân lính với vũ khí hạng nặng, hùng hùng hổ hổ hòng uy hiếp tinh thần Huỳnh Văn Nghệ. Cuối cùng anh cũng vô tới nơi nó chuyện với Bảy Viễn. Bảy Viễn vốn rất phục Huỳnh Văn Nghệ là một tướng giỏi, có trận đánh Bàu Cá, La Ngà nổi tiếng. Khi hai người đang ngồi nói chuyện thì Lại Văn Sang cứ viết giấy thúc ép Bảy Viễn: ?oAnh gật đầu một cái là tôi bắt Huỳnh Văn Nghệ ngay. Nó vô dụ anh đó?? Bảy Viễn mới giận mà nói rằng:?Người ta dám vô tân sào huyệt của mình bằng hai bàn tay trắng, nếu bắt người ta thì hèn quá!?. Rồi Bảy Viễn sai bày tiệc nhậu. Giữa buổi tiệc Bảy Viễn mới nói: ?oTôi phục anh trận Bàu Cá, La Ngà chỉ có một chi đội mà đánh thắng lẫy lừng, làm chấn động cả thế giới? (lúc ấy trong tay Bảy Viễn có mấy chi đội). Trong Nam Bộ này tôi chưa thấy ai đánh giặc giỏi như vậy. Mà anh lại còn làm thơ nữa. Nhưng đó là tài trí, còn tài mọn mà anh cũng hơn tôi nữa thì tôi tâm phục và sẽ về cùng với anh. Bây giờ hãy bắn súng lục với tôi đi, nếu giỏi hơn, tôi phục anh một trăm phần trăm, chớ giờ thì mới sáu bảy mươi phần thôi?.
    Huỳnh Văn Nghệ mới nói: ?oAnh bắn thế nào tôi không biết, chớ tôi thì ném đồng xu lên trên, đồng xu rớt xuống, tôi bắn trúng lỗ đồng xu đó!
    Bảy Viễn ngạc nhiên: ?oNếu quả thật như vậy thì tôi chịu thua anh. Tôi chỉ bắn được cái chén, cái lon hoặc cái đĩa, vòng tròn cách 10-20 thước mà thôi?.
    Trước sự chứng kiến của Bảy Viễn, Lại Văn Sang và tay chân Bảy Viễn, Huỳnh Văn Nghệ lấy đồng xu ném lên, đồng xu rớt xuống đất, anh lấy súng lại kề vô lỗ đồng xu bắn. Lúc này, Bảy Viễn mới giựt mình, cười: ?oThế là tôi thua trí anh rồi!?. Nhờ đó mà Bảy Viễn mới cho quân đưa Huỳnh Văn Nghệ ra khỏi rừng Sác đàng hoàng, rồi sau đó mới chịu kéo quân về Đồng Tháp Mười lãnh chức Phó tư lệnh Quân khu 7 dưới trướng Trung tướng Nguyễn Bình?
    *Huỳnh Văn Nghệ và tận ?ohang cọp? Bảy Viễn để thuyết khách. Còn ?oVõ Tòng chiến khu Đ? Bùi Cát Vũ đả hổ như thế nào, thưa ông?
    -Cũng là chuyện khá ly kỳ đây. Sau trận La Ngà, tại chiến khu Đ có con cọp ăn xác lính Pháp mãi thành nghiện món thịt người. Con cọp này có một chân chỉ ba móng, rất tinh quái và liều lĩnh. Lại có tin đồn là biệt kích giả dạng thú dữ, để khủng bố tinh thần đồng bào và bộ đội. Chỉ một hời gian ngắn, nó đã ăn thịt tới 106 người. Thật kinh khủng. Lần nọ, chị Bảy Cao, Hội trưởng phụ nữ xã Lạc An, đi công tác cùng hia cán bộ nữa và vào ngủ trọ nhà đồng bào. Chỉ Bảy có dáng người cao lớn, nằm trong cùng sát vách chủ nhà. Thế mà nửa đêm cọp vào bắt mất chị không gây ra một tiếng động. Phát hiện lần theo dấu vết, chỉ tìm thấy còn lại một phần xương thịt hằn vết xước cọp cào cùng vài mảnh quần áo rách nát.
    Bấy giờ, ở Chiến khu Đ xảy ra chuyện bi hài thế này: Có hai ông thầy chùa không chịu làm gác tránh cọp, ma lại còn gởi kinh thông điệp cho nhân dân rằng ?ongài? ba móng chỉ về ?orước? những người tới số. Nếu ai chịu tụng kinh gõ mõ thì ?ongài? sẽ không bắt. Chẳng may, mấy tuần sau chính một trong hai ông thầy chùa kia đã bị ?ongài? về ?orước? mấy. Ông thầy còn lại mếu máo sợ cọp bắt liền lập cập chạy vào một đơn vị bộ đội xin ở nhờ.
    Trước tình hình ấy, tôi được Tư lệnh Nguyễn Văn Lung trực tiếp giao nhiệm vụ trừ khử con cọp tinh quái. Mới vừa nhận lệnh thì một đêm nọ ở Binh công xưởng do tôi làm giác đốc lại có một người bị cọp về bắt lúc đang làm việc. Đó là anh Sáu Lùn, giữ lò than. Theo dấu máu, chúng tôi tìm được phần xác còn lại của anh Sáu mà con cọp để giành bữa trưa. Tôi quyết định lấy dây cột chặt xác anh Sáu lai, rồi cùng hai đồng chí nữa trèo lên chạc cây ngồi rình. Nhìn xác anh Sáu phơi trong nắng, tôi ứa nước mắt, thầm khấn: ?oAnh Sáu ơi! Anh có không thiêng thì dụ nó về đây để tôi trả thù cho anh!?. Đúng như lời khấn, con ác thú xuất hiện. Một con cọp lông vàng, dài khoảng 3 mét, phần dưới cổ và bụng trắng như bông. Mò đến cách xác anh Sáu chừng 5-6 mét, nó thu mình ngồi trong tư thế thủ, rồi lừ lừ ngước lên nhìn lên chạc cây chúng tôi ngồi. Đoàng! Cây súng Calip hai nòng của anh Sáu Mẹo, một tay thợ săn lão luyện nổ vang trời. Một vệt sáng màu vàng vụt qua trước mặt tôi. Con cọp biến mất. Thế là hụt rồi. Quá tức giận, đem thi thể anh Sáu về chôn cất, nước mắt chúng tôi cứ chực trào ra. Tối hôm đó, cọp lại mò về đơn vị tôi vồ hụt một con heo. Tôi cho gài hai quả mìn tự tạo vào con heo để nhử, vì đoán thế nào nó cũng mò về tìm miếng mồi cũ. Không sai. Và hai trái mìn phát nổ. Nhưng cũng chẳng hề hấn gì conh ranh thú này. Thật cay đắng!
    Cuối cùng, với bốn quả mìn hạng nặng gài vào một xác người chết bị cọp vồ do người thân chấp nhận hiến, chúng tôi đã hạ thủ được con cọp dữ. Khi ruột gan của nó đã bung ra ngoài rồi, vậy mà nó vẫn còn gầm thét cố kéo lê gần cả 100 mét nữa mới chịu gụ xuống bằng một loạt đạn cuối cùng vào đầu. Nỗi sợ cọp bắt ở Chiến khu Đ từ đó mới hoàn toàn được giải toả.
    *Thưa ông, chyện cuộc đời, chuyện đồng đội phong phú, sôi động như vậy, còn chuyện tình cảm riêng tư của mình có kỷ niệm nào đáng nhớ không?
    -Thế hệ chúng tôi lúc đó lớn lên trong hoàn cảnh mấy nước, được giác ngộ cách mạng, nên lấy việc chung làm hạnh phúc, ít nghĩ đến chuyện riêng tư. Tôi còn nhớ trận phục kích đầu tiên mà tôi bị thương, khi nhìn thấy bọn lính Pháp-Anh đi mặt mày lấm la lấm lét trên đường thì tôi sướng lắm! Bởi trước đây gặp chúng tôi là tôi cúi xuống thôi, không dám ngó thẳng mặt. Nhưng bây giờ thì chúng biết sợ mình. Chúng đánh với mình cũng giống như trong Đại chiến thế giới lần thứ hai mà tôi thấy qua phim ảnh: đội nón sắt, mang giày da, mặc quân phục, tay xách súng, mắt lom lom sợ hãi. Nghĩ bao nhiêu đó, tôi sướng muốn chết rồi. Tự hào lắm! Nên không nghĩ đến chuyện gia đình nữa. Lúc đó, tôi 23-24 tuổi. Tôi cũng còn nhớ trên đường hành quân đi đánh trận Bàu Cá năm 1947, vì mệt nên khi được lệnh nằm xuống, là nằm co rúm lại liền. Đất uớt, sợ vắt chui vào lỗ tai nên đầu người nọ gối lên mông người kia. Có khi gối phải mông? phụ nữ, nhung tôi chẳng có rung động gì và lắm lúc cũng chẳng nghĩ họ là? phụ nữ nữa, mà là phụ nữ đẹp mới chết kia chớ!
    *Vậy ông ?onghĩ? đến bà nhà từ lúc nào?
    -Duyên số đây. Trong hàng ngũ kháng chiến lúc đó, có hai cô y tá học hệ Pháp ở Sài Gòn là Trần Thị An và chị Tư Tương. Hai chị rất giỏi tiếng Pháp lại ân cần đảm đang hết lòng với bộ đội. Anh em thương binh từ mặt trận trở về gặp hai bà này chăm sóc thì họ mừng lắm. Các anh trong chiến khu muốn ghép chị Trần Thị An cho tôi. Bấy giờ tôi là Giám đốc Binh công xưởng mà ham đi đánh giặc lắm. Và trận nào không có tôi thì anh em không tin. Đơn giản là vì trình độ văn hóa, kỹ thuật của anh em không có, nên chỉ cần để lựu đạn phải sương cũng đã lép rồi. Trong trận Bàu Cá, tôi đang phục kích ngoài trận địa, thì ah em bố trí cho mấy chị đem cơm vắt ra, trong đó có chị này nè (ông đưa tay chỉ về hướng bà Trần Thị An đang ngồi thái rau, bà quay lại cười: ?Cái ông này sao mà nhớ dai quá?). Lúc đó, chiến sĩ nam giới thiếu gì, nhưng các anh cố ý như thế. Sau này, bác sĩ Võ Cương mới nói: ?oCơm vắt là của chị An đó. Chị nhường lại cho anh đó!?. Chúng tôi dần thân thiết, thương yêu nhau và được đơn vị tổ chức đám cưới ngay trong Chiến khu Đ, bên bờ sông Đồng Nai?
    *Ông bà được bao nhiêu người con?
    -Ba đứa, hai trai một gái. Tôi cứ nói chơi với anh em hoài: nếu có thêm đứa nữa thì tan nhà nát cửa.
    *Vì sao?
    -Bởi vì năm 1945 chúng tôi đã chia tay rồi. Tôi ra ngoài Bắc. Bả ôm ba đứa con từ chiến khu về quê Cần Giuộc dạy học, khai với chính quyền cũ là chồng tử trận, để tránh tai mắt địch, âm thầm đợi tôi cho tới ngày giải phóng. Ba đứa con đều sinh trong chiến khu, nên năm nay tụi nó phải 40 tuổi trở lên, còn nếu nhỏ hơn thì nó không phải là con mình?
    Dạ đến đây xem xin tạm dừng việc post bài về các tướng vì quyển sách này là tập 1, mới có 7 vị tướng! Các bác để em tìm tiếp tập sau rùi sẽ post lên hầu các bác tiếp hay là có bác nào có tài liệu thì post lên tiếp sức cho em với! Cám ơn các bác trước! Chúc các bác zui zẻ, cạch với em cái nào
  5. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    *Vâng, các nhà báo và sử gia Pháp cũng từng trận trọng gọi ?oNguyễn Bình-ông tướng một mắt?, ?oLưu Bá Thừa Việt Nam?, người có toàn quyền tổ chức, chỉ huy về quân sự ở Nam Bộ. Một vi tướng gương mẫu thông minh, mạo hiểm, hào hiệp,?
    -Và anh cũng sống hết sức tình nghĩa với anh em, đồng đội, và rất trân trọng trí thức, văn nghệ sĩ. Khi mới vào Nam Bộ, Nguyễn Bình nhiều lần vào tận nội thành Sài Gòn điều nghiên tình hình. Anh ấy muốn đem chiến tranh vào ngay hang ổ địch. Xung quanh cuộc đời Nguyễn Bình có rầt nhiều giai thoai. Chẳng hạn, có lần anh đi dọc đường Catinat, nay là Đồng Khởi, từ bót mật thám kế nhà thờ Đức Bà tới khách sạn Majestic, rồi ghé vào tiệm hớt tóc. Anh ngồi giữa hai tên sĩ quan Pháp đúng vào lúc chúng đang trao đổi với nhau rằng: nghe nói tướng Nguyễn Bình đã vào Sài Gòn?
    Khi Trung tướng Nguyễn Bình được lệnh trở ra Bắc, tôi cũng có mặt trong buổi lễ tiễn đữa. Lúc ấy dân Sài Gòn vô căn cứ tiễn anh đi đông lắm. Nam có nữ có, già có trẻ có, họ mang cả bộ phận nhà hàng vô để nấu nướng, chiêu đãi. Dân địa phương thì đem bò, gà, vịt?
    Lúc ấy, chị Hoàng Thị Thanh, vợ anh Nguyễn Bình được đưa từ ngoài Bắc vào để gặp anh. Vợ chồng sum họp không được bao lâu thì anh được lệnh phải ra đi. Chị ở lại Sài Gòn. Đêm tiễn Nguyễn Bình, anh Huỳnh Văn Nghệ đọc bài thơ Tiếng địch sông Ô của Phạm Huy Thông rất hay, rất thống thiết. Bài thơ nói về tích Hạng Võ biệt Ngu Cơ. Chị Hoàng Thị Thanh tựa vai anh khóc nức nở. Có ai ngờ đó là lần cuối cùng anh chị được sống bên nhau?
    Tôi rất mừng là thời gian gần đây, hình ảnh Trung tướng Nguyễn Bình đã xuất hiện trở lại một cách xứng đáng với tầm vóc của anh. Đó cũng là niềm an ủi cho chị Hoàng Thị Thanh và các cháu. Nghe nói ở quê nhà anh ngoài Hưng Yên, bia liệt sĩ cũng đã được dựng lên trang trọng lắm!
    *Thật ra, sau khi Trung tướng Nguyễn Bình hy sinh ngày 29-9-1951 thì tới 29-2-1952, tức chỉ 5 tháng sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 84-SL truy tặng Huân chương Quân công hạng nhất cho Trung tướng.
    -Đúng vậy. Và Nguyễn Bình chính là người lính đầu tiên của quân đội ta được truy tặng phần thưởng cao quý ấy!
    *Với Trung tướng Nguyễn Bình là thế, còn với tác giả hai câu thơ nổi tiếng ?oTừ độ mang gươm đi mở bờ cõi, Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long?-tướng Huỳnh Văn Nghệ thì sao thưa ông?
    -Huỳnh Văn Nghệ không chỉ là vị chỉ huy quân sự tài ba, mà còn là nhà thơ được kính trọng. Buổi đầu kháng chiến chống Pháp, tôi với anh luôn chiến đấu bên nhau. Sau trận La Ngà (1-3-1948), được tặng Huân chương Quân công; Huỳnh Văn Nghệ còn được Quốc hội và Mặt trận tổ quốc Việt Nam gởi vào tặn chiếc áo trấn thủ màu nhung đỏ đính cờ. Và có lẽ, chúng tôi là những người lính đầu tiên được tặng Huân chương Quân công trong lịch sử quân đội ta.
    Sau khi thống nhất các lực lượng võ trang Nam Bộ, anh Nguyễn Bình được phong làm Tư lệnh Nam Bộ, kiêm Tư lệnh Quân khu 7, còn anh Huỳnh Văn Nghệ làm Phó tư lệnh Quân khu 7. Lúc bấy giờ, Bảy Viễn là Tư lệnh của Liên khu Bình Xuyên cũng được phong làm Phó tư lệnh Quân khu 7. Nhưng, mặc dù có lệnh của Trung ương lẫn Uỷ ban kháng chiến hành chánh Nam Bộ, Bảy Viễn vẫn không chịu về làm phó cho Nguyễn Bình. Đám tay chân của Bảy Viễn, nhất là Lại Văn Sang (mật thám phòng nhì Pháp) kiềm Bảy Viễn rằng: ?oNguyễn Bình nó ?ođiệu hổ ly sơn? anh đó, để lựa lúc anh đi vắng nó sẽ lấy lực lượng của anh! bảy Viễn ái ngại, không chịu về.
    Trước tình hình ấy, Huỳnh Văn Nghệ quyết định xuống thuyền đi một mình vào rừng Sác làm thuyết khách, không mang theo bất kỳ thứ vũ khí nào. Lại Văn Sang cho bố trí quân lính với vũ khí hạng nặng, hùng hùng hổ hổ hòng uy hiếp tinh thần Huỳnh Văn Nghệ. Cuối cùng anh cũng vô tới nơi nó chuyện với Bảy Viễn. Bảy Viễn vốn rất phục Huỳnh Văn Nghệ là một tướng giỏi, có trận đánh Bàu Cá, La Ngà nổi tiếng. Khi hai người đang ngồi nói chuyện thì Lại Văn Sang cứ viết giấy thúc ép Bảy Viễn: ?oAnh gật đầu một cái là tôi bắt Huỳnh Văn Nghệ ngay. Nó vô dụ anh đó?? Bảy Viễn mới giận mà nói rằng:?Người ta dám vô tân sào huyệt của mình bằng hai bàn tay trắng, nếu bắt người ta thì hèn quá!?. Rồi Bảy Viễn sai bày tiệc nhậu. Giữa buổi tiệc Bảy Viễn mới nói: ?oTôi phục anh trận Bàu Cá, La Ngà chỉ có một chi đội mà đánh thắng lẫy lừng, làm chấn động cả thế giới? (lúc ấy trong tay Bảy Viễn có mấy chi đội). Trong Nam Bộ này tôi chưa thấy ai đánh giặc giỏi như vậy. Mà anh lại còn làm thơ nữa. Nhưng đó là tài trí, còn tài mọn mà anh cũng hơn tôi nữa thì tôi tâm phục và sẽ về cùng với anh. Bây giờ hãy bắn súng lục với tôi đi, nếu giỏi hơn, tôi phục anh một trăm phần trăm, chớ giờ thì mới sáu bảy mươi phần thôi?.
    Huỳnh Văn Nghệ mới nói: ?oAnh bắn thế nào tôi không biết, chớ tôi thì ném đồng xu lên trên, đồng xu rớt xuống, tôi bắn trúng lỗ đồng xu đó!
    Bảy Viễn ngạc nhiên: ?oNếu quả thật như vậy thì tôi chịu thua anh. Tôi chỉ bắn được cái chén, cái lon hoặc cái đĩa, vòng tròn cách 10-20 thước mà thôi?.
    Trước sự chứng kiến của Bảy Viễn, Lại Văn Sang và tay chân Bảy Viễn, Huỳnh Văn Nghệ lấy đồng xu ném lên, đồng xu rớt xuống đất, anh lấy súng lại kề vô lỗ đồng xu bắn. Lúc này, Bảy Viễn mới giựt mình, cười: ?oThế là tôi thua trí anh rồi!?. Nhờ đó mà Bảy Viễn mới cho quân đưa Huỳnh Văn Nghệ ra khỏi rừng Sác đàng hoàng, rồi sau đó mới chịu kéo quân về Đồng Tháp Mười lãnh chức Phó tư lệnh Quân khu 7 dưới trướng Trung tướng Nguyễn Bình?
    *Huỳnh Văn Nghệ và tận ?ohang cọp? Bảy Viễn để thuyết khách. Còn ?oVõ Tòng chiến khu Đ? Bùi Cát Vũ đả hổ như thế nào, thưa ông?
    -Cũng là chuyện khá ly kỳ đây. Sau trận La Ngà, tại chiến khu Đ có con cọp ăn xác lính Pháp mãi thành nghiện món thịt người. Con cọp này có một chân chỉ ba móng, rất tinh quái và liều lĩnh. Lại có tin đồn là biệt kích giả dạng thú dữ, để khủng bố tinh thần đồng bào và bộ đội. Chỉ một hời gian ngắn, nó đã ăn thịt tới 106 người. Thật kinh khủng. Lần nọ, chị Bảy Cao, Hội trưởng phụ nữ xã Lạc An, đi công tác cùng hia cán bộ nữa và vào ngủ trọ nhà đồng bào. Chỉ Bảy có dáng người cao lớn, nằm trong cùng sát vách chủ nhà. Thế mà nửa đêm cọp vào bắt mất chị không gây ra một tiếng động. Phát hiện lần theo dấu vết, chỉ tìm thấy còn lại một phần xương thịt hằn vết xước cọp cào cùng vài mảnh quần áo rách nát.
    Bấy giờ, ở Chiến khu Đ xảy ra chuyện bi hài thế này: Có hai ông thầy chùa không chịu làm gác tránh cọp, ma lại còn gởi kinh thông điệp cho nhân dân rằng ?ongài? ba móng chỉ về ?orước? những người tới số. Nếu ai chịu tụng kinh gõ mõ thì ?ongài? sẽ không bắt. Chẳng may, mấy tuần sau chính một trong hai ông thầy chùa kia đã bị ?ongài? về ?orước? mấy. Ông thầy còn lại mếu máo sợ cọp bắt liền lập cập chạy vào một đơn vị bộ đội xin ở nhờ.
    Trước tình hình ấy, tôi được Tư lệnh Nguyễn Văn Lung trực tiếp giao nhiệm vụ trừ khử con cọp tinh quái. Mới vừa nhận lệnh thì một đêm nọ ở Binh công xưởng do tôi làm giác đốc lại có một người bị cọp về bắt lúc đang làm việc. Đó là anh Sáu Lùn, giữ lò than. Theo dấu máu, chúng tôi tìm được phần xác còn lại của anh Sáu mà con cọp để giành bữa trưa. Tôi quyết định lấy dây cột chặt xác anh Sáu lai, rồi cùng hai đồng chí nữa trèo lên chạc cây ngồi rình. Nhìn xác anh Sáu phơi trong nắng, tôi ứa nước mắt, thầm khấn: ?oAnh Sáu ơi! Anh có không thiêng thì dụ nó về đây để tôi trả thù cho anh!?. Đúng như lời khấn, con ác thú xuất hiện. Một con cọp lông vàng, dài khoảng 3 mét, phần dưới cổ và bụng trắng như bông. Mò đến cách xác anh Sáu chừng 5-6 mét, nó thu mình ngồi trong tư thế thủ, rồi lừ lừ ngước lên nhìn lên chạc cây chúng tôi ngồi. Đoàng! Cây súng Calip hai nòng của anh Sáu Mẹo, một tay thợ săn lão luyện nổ vang trời. Một vệt sáng màu vàng vụt qua trước mặt tôi. Con cọp biến mất. Thế là hụt rồi. Quá tức giận, đem thi thể anh Sáu về chôn cất, nước mắt chúng tôi cứ chực trào ra. Tối hôm đó, cọp lại mò về đơn vị tôi vồ hụt một con heo. Tôi cho gài hai quả mìn tự tạo vào con heo để nhử, vì đoán thế nào nó cũng mò về tìm miếng mồi cũ. Không sai. Và hai trái mìn phát nổ. Nhưng cũng chẳng hề hấn gì conh ranh thú này. Thật cay đắng!
    Cuối cùng, với bốn quả mìn hạng nặng gài vào một xác người chết bị cọp vồ do người thân chấp nhận hiến, chúng tôi đã hạ thủ được con cọp dữ. Khi ruột gan của nó đã bung ra ngoài rồi, vậy mà nó vẫn còn gầm thét cố kéo lê gần cả 100 mét nữa mới chịu gụ xuống bằng một loạt đạn cuối cùng vào đầu. Nỗi sợ cọp bắt ở Chiến khu Đ từ đó mới hoàn toàn được giải toả.
    *Thưa ông, chyện cuộc đời, chuyện đồng đội phong phú, sôi động như vậy, còn chuyện tình cảm riêng tư của mình có kỷ niệm nào đáng nhớ không?
    -Thế hệ chúng tôi lúc đó lớn lên trong hoàn cảnh mấy nước, được giác ngộ cách mạng, nên lấy việc chung làm hạnh phúc, ít nghĩ đến chuyện riêng tư. Tôi còn nhớ trận phục kích đầu tiên mà tôi bị thương, khi nhìn thấy bọn lính Pháp-Anh đi mặt mày lấm la lấm lét trên đường thì tôi sướng lắm! Bởi trước đây gặp chúng tôi là tôi cúi xuống thôi, không dám ngó thẳng mặt. Nhưng bây giờ thì chúng biết sợ mình. Chúng đánh với mình cũng giống như trong Đại chiến thế giới lần thứ hai mà tôi thấy qua phim ảnh: đội nón sắt, mang giày da, mặc quân phục, tay xách súng, mắt lom lom sợ hãi. Nghĩ bao nhiêu đó, tôi sướng muốn chết rồi. Tự hào lắm! Nên không nghĩ đến chuyện gia đình nữa. Lúc đó, tôi 23-24 tuổi. Tôi cũng còn nhớ trên đường hành quân đi đánh trận Bàu Cá năm 1947, vì mệt nên khi được lệnh nằm xuống, là nằm co rúm lại liền. Đất uớt, sợ vắt chui vào lỗ tai nên đầu người nọ gối lên mông người kia. Có khi gối phải mông? phụ nữ, nhung tôi chẳng có rung động gì và lắm lúc cũng chẳng nghĩ họ là? phụ nữ nữa, mà là phụ nữ đẹp mới chết kia chớ!
    *Vậy ông ?onghĩ? đến bà nhà từ lúc nào?
    -Duyên số đây. Trong hàng ngũ kháng chiến lúc đó, có hai cô y tá học hệ Pháp ở Sài Gòn là Trần Thị An và chị Tư Tương. Hai chị rất giỏi tiếng Pháp lại ân cần đảm đang hết lòng với bộ đội. Anh em thương binh từ mặt trận trở về gặp hai bà này chăm sóc thì họ mừng lắm. Các anh trong chiến khu muốn ghép chị Trần Thị An cho tôi. Bấy giờ tôi là Giám đốc Binh công xưởng mà ham đi đánh giặc lắm. Và trận nào không có tôi thì anh em không tin. Đơn giản là vì trình độ văn hóa, kỹ thuật của anh em không có, nên chỉ cần để lựu đạn phải sương cũng đã lép rồi. Trong trận Bàu Cá, tôi đang phục kích ngoài trận địa, thì ah em bố trí cho mấy chị đem cơm vắt ra, trong đó có chị này nè (ông đưa tay chỉ về hướng bà Trần Thị An đang ngồi thái rau, bà quay lại cười: ?Cái ông này sao mà nhớ dai quá?). Lúc đó, chiến sĩ nam giới thiếu gì, nhưng các anh cố ý như thế. Sau này, bác sĩ Võ Cương mới nói: ?oCơm vắt là của chị An đó. Chị nhường lại cho anh đó!?. Chúng tôi dần thân thiết, thương yêu nhau và được đơn vị tổ chức đám cưới ngay trong Chiến khu Đ, bên bờ sông Đồng Nai?
    *Ông bà được bao nhiêu người con?
    -Ba đứa, hai trai một gái. Tôi cứ nói chơi với anh em hoài: nếu có thêm đứa nữa thì tan nhà nát cửa.
    *Vì sao?
    -Bởi vì năm 1945 chúng tôi đã chia tay rồi. Tôi ra ngoài Bắc. Bả ôm ba đứa con từ chiến khu về quê Cần Giuộc dạy học, khai với chính quyền cũ là chồng tử trận, để tránh tai mắt địch, âm thầm đợi tôi cho tới ngày giải phóng. Ba đứa con đều sinh trong chiến khu, nên năm nay tụi nó phải 40 tuổi trở lên, còn nếu nhỏ hơn thì nó không phải là con mình?
    Dạ đến đây xem xin tạm dừng việc post bài về các tướng vì quyển sách này là tập 1, mới có 7 vị tướng! Các bác để em tìm tiếp tập sau rùi sẽ post lên hầu các bác tiếp hay là có bác nào có tài liệu thì post lên tiếp sức cho em với! Cám ơn các bác trước! Chúc các bác zui zẻ, cạch với em cái nào
  6. kienvn

    kienvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2004
    Bài viết:
    192
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bạn! Chỉ vì tò mò thôi chứ không vì mục đích ... nhạy cảm
    Chẳng là, mình thấy "bọn hải ngoại " có "khai thác" về vị tướng này nên muốn tìm hiểu thêm cho trung thực. Hôm 6/8/2004, qua BBC mình có được lão BT cho biết thêm về ông tướng "trở cờ" -lời BT- này, nên đã biết đôi phần...
    Cám ơn bạn lần nữa...
  7. kienvn

    kienvn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/05/2004
    Bài viết:
    192
    Đã được thích:
    0
    Cám ơn bạn! Chỉ vì tò mò thôi chứ không vì mục đích ... nhạy cảm
    Chẳng là, mình thấy "bọn hải ngoại " có "khai thác" về vị tướng này nên muốn tìm hiểu thêm cho trung thực. Hôm 6/8/2004, qua BBC mình có được lão BT cho biết thêm về ông tướng "trở cờ" -lời BT- này, nên đã biết đôi phần...
    Cám ơn bạn lần nữa...
  8. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    Thiếu tướng Trần Văn Danh
    Ngành tình báo luôn đóng vai trong hết sức quan trọng. Và ở đó, đã sản sinh những nhà tình báo mà sự nghiệp của họ đôi khi như huyền thoại. Một trong những nhà tình báo Việt Nam nổi tiếng ấy là Trần Văn Danh, người đứng đầu ngành quân báo miền Nam thời chống Mỹ. Frank Snepp, một nhân vật cao cấp của CIA Sài Gòn trước năm 1975, trong cuốn Khoảng cách thời gian vừa phải xuất bản năm 1977 ở New York cũng đã nói rằng Trần Văn Danh là một trong bốn nhà tình báo quan trọng hàng đầu của *********. Từ một học sinh yêu nước của Mười tám thôn Vườn Trầu-Hóc Môn, Trần Văn Danh trở thành chiến sĩ quân báo quả cảm ở miền Đông Nam Bộ, rồi dần được giao các nhiệm vụ: tham mưu phó phụ trách tình báo chiến lược, đặc công và biệt động của Bộ tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, phó trưởng Đoàn đại biểu Liên hiệp Quân sự bốn bên của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, ông chỉ huy lực lượng đặc công và biệt động Sài Gòn, vừa mở đường cho các cánh quân vừa hạn chế nguy cở đổ nát của thành phố khi đại quân tiến vào. Từ tướng tình báo, Trần Văn Danh trở thành tướng kinh tế khi được phân công tiếp quản và xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh, rồi đứng đầu kế hoạch xây dựng công trình thủy điện Trị An. Ông được Nhà nước phong Anh hùng Lao động năm 1990 và thưởng Huân chương Độc lập hạng nhất. Vẫn với phong thái của một nhà tình báo, nhìn thẳng vào mắt chúng tôi, ông nói:
    -Thật ra, cuộc đời tôi không có gì đáng nói nhiều đâu. Điều mà tôi mong muốn là báo chí hãy đề cập đến hàng vạn đồng bào, chiến sĩ đã ngã xuốn cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Bởi cuộc chiến tranh của chúng ta là cuộc chiến tranh nhân dân, mọi thành bại do nhân dân quyết định.
    -Nhưng thưa thiếu tướng, cá nhân cũng đóng vai trò quan tọng.
    -Đồng ý. Tuy nhiên, chủ nghĩa cá nhân thì thật tai hại.
    -Vâng, có lẽ vì vậy mà trong báo cáo của ************* tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa IX mới đây, cho rằng chủ nghĩa cá nhân là nguy cơ ?obao trùm lên trên bốn nguy cơ? của đất nước mà Đại hội Đảng giữa nhiệm kỳ Khóa VII đã chỉ rõ. Thưa Thiếu tướng, Thiếu tướng có suy nghĩ gì về tình hình đất nước hiện nay?
    -Chính sách mở cửa đưa nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao, là điều đáng mừng. Tuy nhiên, nạn mafia, buôn lậu, nhất là hàng loạt vụ tham nhũng làm tổn hại hàng ngàn tỉ đồng của Nhà nước, làm mất lòng tin nhân dân, kiềm chế sự phát triển của đất nước, là điều đáng lo ngại.
    -Lăn lộn từ chiến trường lửa đạn đến chiến trường kinh tế, nay đã ở tuổi ?ocổ lai hy?, trái tim Thiếu tướng vẫn còn hết sức nhạy cảm trước thời cuộc, trước vận mệnh quốc gia. Riêng về bản thân mình, có khi nào nằm hồi tưởng lại, kỷ niệm tuổi ấu thơ chợt hiện về trong tâm khảm Thiếu tướng không?
    -Tuổi thơ của tôi ư? Nhiều lúc tôi không dám nghĩ đến. Mà càng nghĩ thì càng buồn, càng thương cho người mẹ nghèo bất hạnh của tôi. Mẹ tôi người Bến Tre, đi làm cô mụ và gặp cha tôi ở Hóc Môn, Sài Gòn. Cha tôi làm Hương cả trong làng, đã có vợ lớn. Ông nội tôi rất khắt khe. Vì vậy, mẹ con tôi phải sống cách ly rất xa, bà vừa đi bán hàng rong vừa trồng rau nuôi heo để nuôi sáu đứa con nhỏ, trong đó chỉ có một mình tôi là con trai. Khổ cực lắm! Chị em tôi ngày ngày vào rừng Thới Tam Thôn mót củi giúp mẹ. Tôi tuổi Hợi, sinh năm 1923, do luật phát không cho phép nên khai sinh tôi lấy họ mẹ. Mẹ tôi là Trần Thị Thảnh. Còn tôi là Trần Văn Ba. Vì vậy, sau này anh em hay gọi tôi là Ba Trần.
    -Thế còn Trần Văn Danh?
    -Đó là một tên khác khi tôi vào Đảng. Hồi tôi học lớp nhứt ở thị trấn Hóc Môn, thấy tôi tên Ba, một ông thầy nói: Mầy tên Ba, mỗi lần kêu tao phải nói ?oBa ơi!?. Ông bảo tôi đổi tên thành Bá. Do đó, tên đi học của tôi là Trần Văn Bá (cười).
    -Sau này lớn lên Thiếu tướng có gặp lại cha.
    -Có chứ. Năm mười tám tuổi, tôi đến tuổi đóng thuế thân, cha tôi thừa nhận là con, từ đó khai sinh mới có tên cha. Chẳng qua, vì lễ giáo mà mẹ con tôi phải sống riêng, chứ cha tôi rất thương và luôn tìm cách đến thăm. Về sau, cha tôi trở thành một cơ sở cách mạng, đã được Chính phủ tặng bằng khen có công với nước. Khi tôi được mười hai tuổi, cha tôi hay sai tôi bí mật đi rải truyền đơn kêu gọi ủng hộ Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày tôi lên đường vào chiến khu, ông động viên tôi hãy yên tâm chuyện gia đình lo cố gắng đánh giặc.
  9. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thiếu tướng còn nhớ gì về thời tuổi trẻ của mình giữa Mười tám thôn Vườn Trầu nổi tiếng?
    -Cuộc sống người nông dân cực kỳ cơ cực, đói khổ. Phong trào yêu nước, cách mạng ở quê tôi luôn âm ỉ, sôi sục. Năm mười sáu tuổi, tôi thi đậu trường Bá Nghệ, nay là Trường kỹ thuật Cao Thắng. Tôi rất thích nghề xây dựng. Tôi mua sách Pháp về toán, lý, hóa để tự học thêm. Vừa học tôi vừa làm thêm kiếm sống. Ban ngày thì lãnh mẫu mã từ văn phòng các kiến trúc sư về vẽ, tính toán; trong đó có ?ohàng? của Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát. Ban đêm còn đi làm thêm nghề cơ khí. Nhưng rồi Nhật đảo chánh Pháp, trường Bá Nghệ đóng cửa, tôi quay về Hóc Môn.
    Trước đó, một chiều sau khi ăn cơm ở Chợ Quán, tôi đạp xe về nhà. Đến ngang rạp Nguyễn Văn Hảo, nay là rạp Công Nhân, tôi phải xuống xe dắt bộ vì lính Nhật tắm chật đường bên các vòi nước ở lề đường. Chúng tám trần truồng như nhộng. Thấy vậy, tôi nói: ?oNghe nước Nhật tự xưng là cường quốc, sao chẳng văn minh chút nào, tắm ở truồng?. Ngỡ chỉ nói với người đi đường, bọn Nhật không nghe được, vì chúng không biết tiếng Việt. Không ngờ, có một tên trong bọn đang tắm kêu tôi lại bằng tiếng Việt rất sõi và hỏi tôi vừa nói gì. Tôi cũng nói lại y như vậy. Nó mới cười mỉa mai: ?oTắm truồng không có gì xấu. Mất nước mới là nhục?! Tôi tức đến tái mặt, muốn đấm thẳng vào mặt nó. Chính điều này giúp tôi hiểu ra nhiều lẽ, nhen nhóm trong tôi lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Đúng, mất nước đúng là nỗi nhục lớn nhất!
    -Cũng từ đó Thiếu tướng bắt đầu tham gia hoạt động cách mạng?
    -Vâng. Tháng 7 năm 1945, tôi tham gia tổ chức bí mật Thanh niên Cứu quốc. Sau đó, đi cướp chính quyền ở Hóc Môn rồi kéo về trung tâm thành phố. Trên đường đi, ngang bót Đội Có, địch bắn chết chú Tám Thôi-anh bà Hồ Thị Bi. Một thời gian sau, Pháp tái chiếm Nam Bộ, đưa quân lên Hóc Môn. Lực lượng cách mạng tạm thời phân tán. Tôi gia nhập đội trinh sát Quân khu 7, chiến đấu ở miền Đông Nam Bộ, chiến trường mà tôi gắn bó gần cả cuộc đời.
    -Nghĩa là Thiếu tướng trở thành chiến sĩ tình báo một cách ngẫu nhiên không hề có định hướng trước.
    -Tính tôi thích mạo hiểm, cộng với lòng căm thù giặc, tôi không hề biết run sợ trước cái chết. Địa bàn miền Đông, trong đó có Sài Gòn-Chợ Lớn, tôi nắm trong tay từng kênh rạch, con hẻm. Năm 1949, tôi được đề bạt làm tham mưu phó kiêm Trưởng ban quân báo tỉnh Thủ-Biên. Khi tập kết ra Bắc, tôi là phó chính ủy Trung đoàn 556, trung đoàn có nhiều đóng góp trong suốt chín năm đánh Pháp ở miền Đông Nam Bộ.
    -Thiếu tướng trở lại chiến trường miền Nam khi nào?
    -Gần sáu năm sau. Ra Bắc, tôi được gắn quân hàm Thiếu tá và đi học văn hóa lẫn ghiệp vụ chuyên môn tình báo. Đến tháng 12 năm 1960, tôi vượt Trường Sơn về Nam. Trước khi lên đường, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn có đến thăm đoàn và chỉ thị rằng: ?oCác đồng chí ra Bắc đã học tập tốt, nay nhanh chóng về Nam cùng các đồng chí trước đây ở lại cùng tổ chức quần chúng nổi dậy, lôi kéo binh lính địch, chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Hiện nay chúng ta vẫn còn một cái nhục là nhục mất nước?.
    Trên đường, tôi bị viêm phổi nặng, cứ ngỡ không qua khỏi. Đường đi lúc đó muôn vàn khó khăn. Bởi đoàn chúng tôi gần như tiền trạm. Có một kỷ niệm vui mà tôi nhớ mãi. Khi đoàn đến vùng sông Re thuọc Quảng Nam, vì đói quá tôi đem một bộ đồ bà ba đen ra buôn người dân tộc đổi một chó về làm thịt. Người Bắc rất thích thịt chó, còn người Nam trước đây ít ăn. Anh em trạm giao liên có cho tôi một lon thịt heo nhưng do không có muối ướp nên bị hôi. Tôi đem thịt chó còn lại trộn với thịt heo để dành. Sang ngày hôm sau, mở lon thịt ra thị thật bất ngờ: thịt heo không còn mùi hôi nữa! Nghĩa là nhờ một chất đạm đặc biệt trong thịt chó đã khử mùi hôi của thịt heo. Một phát hiện thú vị. Tôi liền đi khoe với anh em (cười sảng khoái)?
  10. ptlinh

    ptlinh Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    27/06/2003
    Bài viết:
    3.355
    Đã được thích:
    3
    -Thưa Thiếu tướng, Thiếu tướng gặp ai đầu tiên và nhận nhiệm vụ gì khi trở lại Nam Bộ?
    -Người đầu tiên tôi gặp là anh Mười Cúc-Nguyễn Văn Linh. Tôi về Nam một thời gian thì Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Quân sự Miền, do anh Trần Văn Quang làm trưởng ban. Tôi được phân công làm trưởng ban tình báo chiến lược trực thuộc Ban Quân sự Miền, sau được đề bạt làm phó tham mưu trưởng Miền phụ trách tình báo, đặc công, biệt động. Công việc của tôi dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Quân ủy và Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, mà cụ thể là các anh Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, rồi Phạm Hùng, Trần Văn Trà.
    -Thiếu tướng đánh giá thế nào về vai trò của công tác tình báo trong toàn cuộc chiến?
    -Qua bảy năm thực hiện Hiệp định Genevè, lực lượng tình báo của ta bị thất bại rất nặng. Chính quyền Ngô Đình Diệm triệt phá và bắn giết, bỏ tù hàng loạt cán bộ tình báo. Do đó, khi tôi trở về Nam cũng là lúc ta bắt tay xây dựng lại ngành tình báo. Bằng cách tăng cường cán bộ từ Ban Địch tình. Lợi dụng sơ hở của địch do mâu thuẫn nội bộ của chúng, ta đã giải thoát cán bộ tình báo đang bị tù đày, bố trí hoạt động trở lại. Từ đó, tìm cách đưa các chiến sĩ tình báo len vào các cơ quan đầu não của địch để khai thác tin tức, tư liệu như: Tòa Đại sứ Mỹ, Phủ Tổng thống, Bộ Tổng tham mưu, Đặc ủy Trung ương tình báo, Hạm đội 7,? Có thể nói, ngành tình báo đã cung cấp những tin tức kịp thời phục vụ đắc lực cho việc chỉ đạo chiến lược của Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền, Trung ương Cục và Bộ Chính trị Trung ương Đảng trong việc chỉ đạo chiến tranh.
    Như bắt được ?omạch?, câu chuyện giữa vị tướng và tôi càng lúc càng thân tình, cởi mở. Nụ cười ?olộ diện? nhiều hơn trên khuôn mặt cương nghị ẩn dưới chiếc mũ diềm đen và cặp kính màu mà theo ông nó giúp che chắn, bảo vệ cơ thể tốt hơn. Có lẽ phần nào nhờ vậy, ở giữa tuổi thất tuần, trông ông vẫn rất ?ophong độ?. Nếu chưa biết ông mà tình cờ gặp, khó ai ngờ rằng đây là con người từng nhiều năm nằm rừng ngủ núi, cả thời chiến lẫn thời bình. Trong giờ ?ogiải lao? giữa câu chuyện, vị tướng cho tôi xem một số tấm ảnh kỷ niệm thời còn trẻ. Ông bảo:
    -Tôi được khen là người có thân hình khỏe đẹp. Tôi ghiền chơi thể thao lắm, nhất là bóng đá. Chỉ khi ra trận thì thôi, chứ lúc ở chỉ huy sở, tôi tranh thủ tập luyện và lao động chân tay.
    -Đầu năm 1973, Thiếu tướng là phó trưởng Đoàn đại biểu Quân sự Chính phủ cách mạng miền Nam trong Ban Liên hiệp Quân sự bốn bên Trung ương vào Tân Sơn Nhất thực thi Hiệp định Paris. Thiếu tướng còn nhớ thành phần của đoàn khi đó gồm những ai? Và ấn tướng nào đáng nhớ khi đặt chân trở về Sài Gòn?
    -Chúng tôi vào Sài Gòn tham gia Ban Liên hiệp Quân sự bốn bên thật giống như Quan Công thời Tam Quốc đi dự hội Bàn Đào. Xung quanh kẻ địch luôn tìm cách bao vây, uy hiếp tứ bề (cười). Một ngày đầu tháng Giêng năm 1973, tại Sở chỉ huy Miền, sau khi nhận chỉ hụy của Trung ương, tôi với anh Trần Văn Trà cùng bàn bạc chọn nhân sự, phân công nhiệm vụ, chuẩn bị tài liệu, phương tiện thông tin liên lạc, dự kiến tình huống bất trắc? Tôi thay anh Trà chỉ huy thực hiện mọi công việc. Còn anh Trà lo Bộ Tư lệnh Miền để bàn phối hợp đấu tránh giữa chiến trường với bàn hội nghị.
    Anh Trần Văn Trà là trưởng đoàn, lúc đó mang quân hàm Trung tướng. Các phó trưởng đoàn gồm Đại tá Võ Đông Giang, Đại tá Đặng Văn Thu tức Đoàn Huyên sau này là Thiếu tướng, và tôi. Để giữ bí mật theo yêu cầu của Trung ương, lúc đó tôi lấy tên là Trần Quốc Minh, mang quân hàm Đại tá. Đoàn còn có các ủy viên gồm các anh: Nguyễn Văn Sĩ, Nguyễn Văn Hoàn, Dương Đình Thảo, Nguyễn Văn Tòng, Nguyễn Văn Tư cùng nhiều đồng chí ở các bộ phận khác. Ngoài nhiệm vụ phó trưởng đoàn, tôi còn phụ trách trưởng Tiểu ban hai bên.
    Theo thỏa thuận, ngày 28 tháng 11 năm 1973, đoàn vào Sài Gòn bằng máy bay Mỹ lên đón tại sân bay Thiện Ngôn ở phía Bắc Tây Ninh. Nơi đây vốn là căn cứ của một chiến đoàn Mỹ chuyển giao cho quân đội Sài Gòn và bị ta đánh chiếm trong chiến dịch Nguyễn Huệ hồi năm 1972. Bên cạnh đó, đề phòng sự phản trắc của địch, ta chuẩn bị thêm một địa điểm khác cho đoàn. Đó là sân bay Lộc Ninh ở phía Bắc Bình Long, sát biên giới cam, cũng được giải phóng năm 1972.

Chia sẻ trang này