1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề cơ bản về học thuật.

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi luuthuy, 03/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. FNguyen1

    FNguyen1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2004
    Bài viết:
    421
    Đã được thích:
    0
    Chào các bác,
    Để tui viết ra đây định nghĩa theo từ Hán Việt của "Học Thuật" nhé! Theo tự điển Hán Việt Thiều Chửu:
    Học:
    1. Bắt chước, chịu nghe người ta dạy bảo mà bắt chước gọi là học.
    2. Chỗ học. Như học đường, học hiệu tức là trường học bây giờ.
    3. Phàm các sự vật gì vì nghiên cứu mà biết tới giường mối, ngành ngọn của nó đều gọi là học, như học thuật, khoa học.
    Thuật: (chữ thuật có nhiều nghĩa nhưng tui chỉ viết ra những nghĩa thích hợp với chủ đề).
    Thuật (bộ hành)
    1. Nghề thuật, kẻ có nghề riêng đi các nơi kiếm tiền gọi là thuật sĩ.
    2. Phương phép do đó mà suy ra, như bất học vô thuật không học không có phương pháp để làm.
    Thuật (bộ xước)
    3. Bày ra, thuật ra. Chép các điều đã nghe từ trước ra gọi là thuật.
    4. Noi theo.
    5. Phàm làm cho trọn công việc của người đã gây ra, hay biên chép được những lời của người đã nói ra đều gọi là thuật. Luận Ngữ - Thuật nhi bất tác ta truyền thuật (đạo cổ nhân) mà không sáng tác.
    6. Bày tỏ. Bày tỏ trước sau mánh thớ của một việc gì gọi là thuật. Như truyền thuật dùng văn tự chép rõ để truyền cho người xem, khẩu thuật kể miệng.
    Hy vọng với định nghĩ trên đây các bác sẽ hiểu rõ hơn.
    Btw, suffix (tiếp vĩ ngữ) "-ship" trong scholarship có thể được hiểu tương đương với chữ "thuật" hay không? Tra tự điển tiếng Anh thì thấy "-ship" có nghĩa như sau:
    1. the quality, con***ion, or state of being [hardship, friendship].
    2. a. The rank or office of [professorship]
    b. a person having the rank of status of [lordship]
    3. ability or skill as [statesmanship]
    4. all individuals (of the specified class) collectively [readership].
    Chúc vui,
    FN
  2. FNguyen1

    FNguyen1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2004
    Bài viết:
    421
    Đã được thích:
    0
    Chào các bác,
    Tui tham gia chủ đề này nhưng chưa đọc hết các bài viết ở trang trước, nay đọc lại thấy các bác viết "vui" thật! Có bác viết rằng "học thuật không phải là chuyện chép sách", lại có bác cho rằng "Học thuật được coi là một phần của triết học". Trong khi bản chất của việc "học" là bắt chước, là ghi chép (ghi ra sách vở hoặc ghi vào đầu óc cũng đều là học). Cho nên "học thuật" đích thị là việc "chép sách", hay nói đúng hơn là việc ghi nhận. Còn so với triết thì trong khi học là nhận vào, có tính tiếp thu, có tính thụ động thì trái lại triết là đưa ra (suy nghĩ, tư tưởng), là đặt câu hỏi, là trả lời với lý lẽ, lại có tính chủ động. Vì vậy tui nghĩ hai cái này là riêng biệt, không thể "cái này là một phần của cái kia được". Có thể chúng ta đã nhầm lẫn về triết học (cái học về triết) với học thuật chứ không phải bản thân của triết. Nhưng hiểu như thế này thì phải nói ngược lại là "cái học về triết (triết học) là một phần của học thuật" mới đúng!
    Tiện đây xin nhắc các bác nhớ, chúng ta đang nói đến chữ "học" chứ chưa nói đến chữ "hành", nên chẳng thể nói đến chuyện áp dụng vào đâu được. Chữ học còn chưa giải quyết xong thì hành làm sao dám nói. Vì vậy cái chữ học phải thấu (suốt qua) thì hành mới đáo (đến nơi) được.
    Nói lan man đến chữ "triết" thì từ Hán-Việt này có nghĩa là khôn, người hiền trí, sáng suốt. Chữ triết trong tiếng Anh (philosophy) cũng có nghĩa là sự yêu thích hoặc tìm tòi kiến thức, phân tích lý lẽ và khôn ngoan. Trong tiếng Anh chữ "philosophy" được định nghĩa khá dài nhưng tựu trung là có ý như trên. Cũng từ chữ "philosophy" này mà phương Tây có một học vị gọi là "Ph. D." từ chữ viết tắt của "Doctor of Philosophy". Chữ Doctor thì có lẽ chúng ta hiểu nhiều về nghĩa của nó, chúng ta thường hiểu là "bác sĩ", "bác" ở đây chính là sự thông suốt, hiểu rộng. Còn philosophy chính là nghĩa như tui đã giải thích ở trên, chứ không phải là "triết". Vì vậy chớ bao giờ nên hiểu Ph. D. là "Bác sĩ Triết"
    Đang nói về bằng Tiến sĩ thì xin nói xọ qua chuyện bằng cấp. Học vị VN có nhiều bằng cấp rất khó hiểu nghĩa, chẳng qua là hồi xưa dùng sao thì bây giờ vẫn cứ y vậy mà dùng lại. Chúng ta chỉ biết gọi như thế, nhưng hiểu hết ý nghĩa đằng sau của nó thật không dễ tí nào, vì những chữ gọi bằng cấp này chỉ có ý nghĩa nhiều với thời xưa chứ thời nay đã không còn hợp thời nữa. Có nhiều cấp bằng bây giờ không dùng nữa như bằng Thành Chung (tốt nghiệp Trung Học ?)
    1. Thành Chung (thành: nên, làm xong; chung: hết, trọn, kết cục). Bằng tiếng Anh tương đương: Diploma (tốt nghiệp)
    2. Tú Tài (Tú: đẹp đẽ; Tài: làm việc giỏi). English: Diploma.
    3. Cử nhân (Cử: đưa lên, đề cử; Nhân: người). English: Undergraduate, tốt nghiệp là BS or BA (Bachelor of Science or B. of Art).
    4. Thạc sĩ (Thạc: to lớn; Sĩ: quan, người); English: MS or MA (Master of Science or M. of Art)
    5. Tiến sĩ (Tiến: dâng lên (vua), tiến cử); English: Ph. D.
    Muốn hiểu theo nghĩa VN thì phải dùng đầu óc tưởng tượng hoặc phải hiểu lịch sử, văn hoá phong kiến lẫn khoa bảng thời xưa. Còn như nghĩa của phương Tây thì có vẻ như thẳng thắn, rõ ràng hơn.
    Chúc vui,
    FN
  3. FNguyen1

    FNguyen1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/10/2004
    Bài viết:
    421
    Đã được thích:
    0
    Chào các bác,
    Tui tham gia chủ đề này nhưng chưa đọc hết các bài viết ở trang trước, nay đọc lại thấy các bác viết "vui" thật! Có bác viết rằng "học thuật không phải là chuyện chép sách", lại có bác cho rằng "Học thuật được coi là một phần của triết học". Trong khi bản chất của việc "học" là bắt chước, là ghi chép (ghi ra sách vở hoặc ghi vào đầu óc cũng đều là học). Cho nên "học thuật" đích thị là việc "chép sách", hay nói đúng hơn là việc ghi nhận. Còn so với triết thì trong khi học là nhận vào, có tính tiếp thu, có tính thụ động thì trái lại triết là đưa ra (suy nghĩ, tư tưởng), là đặt câu hỏi, là trả lời với lý lẽ, lại có tính chủ động. Vì vậy tui nghĩ hai cái này là riêng biệt, không thể "cái này là một phần của cái kia được". Có thể chúng ta đã nhầm lẫn về triết học (cái học về triết) với học thuật chứ không phải bản thân của triết. Nhưng hiểu như thế này thì phải nói ngược lại là "cái học về triết (triết học) là một phần của học thuật" mới đúng!
    Tiện đây xin nhắc các bác nhớ, chúng ta đang nói đến chữ "học" chứ chưa nói đến chữ "hành", nên chẳng thể nói đến chuyện áp dụng vào đâu được. Chữ học còn chưa giải quyết xong thì hành làm sao dám nói. Vì vậy cái chữ học phải thấu (suốt qua) thì hành mới đáo (đến nơi) được.
    Nói lan man đến chữ "triết" thì từ Hán-Việt này có nghĩa là khôn, người hiền trí, sáng suốt. Chữ triết trong tiếng Anh (philosophy) cũng có nghĩa là sự yêu thích hoặc tìm tòi kiến thức, phân tích lý lẽ và khôn ngoan. Trong tiếng Anh chữ "philosophy" được định nghĩa khá dài nhưng tựu trung là có ý như trên. Cũng từ chữ "philosophy" này mà phương Tây có một học vị gọi là "Ph. D." từ chữ viết tắt của "Doctor of Philosophy". Chữ Doctor thì có lẽ chúng ta hiểu nhiều về nghĩa của nó, chúng ta thường hiểu là "bác sĩ", "bác" ở đây chính là sự thông suốt, hiểu rộng. Còn philosophy chính là nghĩa như tui đã giải thích ở trên, chứ không phải là "triết". Vì vậy chớ bao giờ nên hiểu Ph. D. là "Bác sĩ Triết"
    Đang nói về bằng Tiến sĩ thì xin nói xọ qua chuyện bằng cấp. Học vị VN có nhiều bằng cấp rất khó hiểu nghĩa, chẳng qua là hồi xưa dùng sao thì bây giờ vẫn cứ y vậy mà dùng lại. Chúng ta chỉ biết gọi như thế, nhưng hiểu hết ý nghĩa đằng sau của nó thật không dễ tí nào, vì những chữ gọi bằng cấp này chỉ có ý nghĩa nhiều với thời xưa chứ thời nay đã không còn hợp thời nữa. Có nhiều cấp bằng bây giờ không dùng nữa như bằng Thành Chung (tốt nghiệp Trung Học ?)
    1. Thành Chung (thành: nên, làm xong; chung: hết, trọn, kết cục). Bằng tiếng Anh tương đương: Diploma (tốt nghiệp)
    2. Tú Tài (Tú: đẹp đẽ; Tài: làm việc giỏi). English: Diploma.
    3. Cử nhân (Cử: đưa lên, đề cử; Nhân: người). English: Undergraduate, tốt nghiệp là BS or BA (Bachelor of Science or B. of Art).
    4. Thạc sĩ (Thạc: to lớn; Sĩ: quan, người); English: MS or MA (Master of Science or M. of Art)
    5. Tiến sĩ (Tiến: dâng lên (vua), tiến cử); English: Ph. D.
    Muốn hiểu theo nghĩa VN thì phải dùng đầu óc tưởng tượng hoặc phải hiểu lịch sử, văn hoá phong kiến lẫn khoa bảng thời xưa. Còn như nghĩa của phương Tây thì có vẻ như thẳng thắn, rõ ràng hơn.
    Chúc vui,
    FN
  4. luuthuy

    luuthuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    2.109
    Đã được thích:
    1
    To các bác
    tôi thấy thình thoảng ngồi phân tích từ chữ của một thuật ngữ cũng hay. Nó giúp chúng ta hình dung ra đuợc việc mà đôi khi ta cứ làm mà ko hiểu bản chất.
    Hiểu bản chất rồi thì sẽ giúp chúng ta ứng dụng sẽ tốt hơn. Cám ơn các bác đã chỉ dạy nhiều.
  5. luuthuy

    luuthuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    2.109
    Đã được thích:
    1
    To các bác
    tôi thấy thình thoảng ngồi phân tích từ chữ của một thuật ngữ cũng hay. Nó giúp chúng ta hình dung ra đuợc việc mà đôi khi ta cứ làm mà ko hiểu bản chất.
    Hiểu bản chất rồi thì sẽ giúp chúng ta ứng dụng sẽ tốt hơn. Cám ơn các bác đã chỉ dạy nhiều.
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Dựa vào căn bản các bài viết về khái niệm Học Thuật;
    Tôi xin tặng các Bạn Trích dẩn sau đây từ 2 học giả am tường về triết học cả Đông lẩn Tây nhưng dưới 2 quan điểm (Tây & Đông):
    1- Vài định nghỉa "Khái niệm và ý niệm trong khoa học và THƯC TIểN xã hội", GS Lê Thành Khôi (*)
    Tóm tắt:
    -Người ta thường phân biệt khoa học tự nhiên và khoa học Nhân văn và xã hội.
    Khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên cần có khái niệm, ý niệm và giả thuyết để phân tích và tiến dần. Khái niệm (concept) có tính cách trừu tượng hơn ý niệm notion). Khái niệm đối lập trực giác (intuition). Trực giác thấu ngay toàn bộ cụ thể.
    Khái niệm lấy ra một phương diện nhất định để làm nổi bật lên.
    Nhưng vì chỉ giữ một số mặt của một hiện tượng, khái niệm loại trừ một số mặt khác.
    Khái niệm thống nhất, nhưng cũng đơn giản hoá, rút gọn thực tế phức tạp, cho nên nhiều khi nên dùng ý niệm thì hơn, vì ý niệm gần sự sống hơn.
    -Vấn đề dùng khái niệm và ý niệm trong khoa học xã hội phức tạp hơn nhiều là ở trong khoa học tự nhiên vì mổi người có chủ quan của mình, có nhiều cách định nghỉa và hiểu biết một khái niệm. Vả lại một khái niệm có thể hợp sự thật ở một nơi mà không hợp ở một nơi khác.
    -Dịch khái niệm cũng có vấn đề vì một ngôn ngữ bao giờ cũng liên hệ với một văn hoá. Ngoài ra còn vấn đề chính trị: ít khi một khái niệm hay ý niệm hoàn toàn trung lập mà được dùng để thống trị và tuyên truyền trong và ngoài nước.
    Dịch một khái niệm gây một số vấn đề. Vấn đề thứ nhất là người dịch có khi không hiểu đúng nội dung.
    Dịch chữ không /{Vô} trong đạo Phật là néant/{Null} tức là không hiểu đạo Phật, phải dịch là vide hay vacuité/{Void}. Lúc nước Nhật mở cửa ở thế kỷ 19 họ dịch chữ education là Kyo iku (giáo dục), từ đó sang Trung Quốc và Việt Nam.
    Chữ education từ hai chữ la tinh: educare nghỉa là nuôi dưỡng, và educere: đưa từ một nơi đến nơi khác. Đó là hai khuynh hướng có từ lâu và nhiều khi xung đột, một là cho trẻ em đủ kiến thức, hai là dạy dổ cho nó phát triển tất cả khả năng để thành người. Khái niệm Âu bao hàm ý con người có thể tự học, tự hình thành. Trong quan niệm A'' đông cổ điển giáo là dạy, nghỉa là người trên dạy người dưới, người dưới không thể giáo người trên được.
    -Vấn đề chính là khái niệm phải gần với sự thật, phải hợp với sự thật.
    Hai bên(Khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên) cùng có một mục đích: tìm hiểu sự thật, và một quy tắc chung: không nói hay viết cái gì mà không có minh chứng.
    -Sự thật là gì ? Có phải là cái mắt thấy tai nghe không ? Không phải.
    Tai có thể nghe tin đồn nhảm. Mắt chỉ thấy bề ngoài: trong bao nhiêu thế kỷ người ta tưởng rằng quả đất đứng im, mặt trời xoay chung quanh, vì không nhìn thấy quả đất quay mà nhìn thấy mặt trời quay.
    -Sự thật tự nhiên {Bản thể} có thể chứng minh được một cách khách quan.
    -Sự thật lịch sử k0 phải ai ai cũng nhận (lúc mà có đủ bằng chứng) tuy rằng có thể giảng nghỉa khác nhau: chẳng hạn ở thế kỷ 20 hai đại chiến thế giới, cách mạng Nga, sự nổi dậy của các thuộc địa v.v..
    Trong lịch sử có những nhà triết học đã xây khái niệm trong óc mình để tìm một chân lý muôn thuở. Trong tư tưởng của Hegel, nhà nước "xấu" là nhà nước không hợp với khái niệm của mình.
    Trừu tượng hoá có thể đưa đến những phán xét có kết quả thảm hại khi mà nhân danh một lý tưởng hay một ý niệm, một giới cầm quyền huỷ diệt một thực tại "không đúng" hay "có lổi".
    Trong khoa học xã hội thì vấn đề phức tạp hơn nhiều. Xã hội con người phức tạp hơn tự nhiên. Mà mổi người có thể có thuyết của mình.
    Hơn nữa nói đến xã hội thì không thể không nói đến chính trị. Chính trị nhiều khi chi phối tư tưởng. Cho nên có rất ít môn mà đạt được sự nhất trí. Môn đó phải rất ít tính chính trị. Môn mà có ít nhất là dân số học. Ơ? đâu cũng nhận những khái niệm về dân số và tính như nhau tỷ lệ sinh tử, tăng lên, v.v.
    Trong thế kỷ 16-17 công giáo Âu cho rằng người Â''n Mỹ (Amérindiens) không phải là "người" vì "không có hồn", cho nên giết họ, lấy của của họ, không tôn trọng lời hứa với họ, thì không "phạm tội". Gần đây hơn "cách mạng văn hoá" ở Trung Quốc, "chiến dịch chống mê tín dị đoan" ở Việt Nam, đã phá hoại bao nhiêu chùa chiền, bao nhiêu tượng đẹp không thể làm lại được. Ở Afghanistan, chính quyền taliban đã phá tượng Phật cổ 1700 năm lấy cớ là đạo Hồi cấm thờ tượng.
    Trong những khoa học xã hội khác, ít khi có sự thống nhất. Một khái niệm hay ý niệm cùng một chữ mà bao nhiêu nghỉa khác nhau.
    2- Khái niệm và ý niệm trong Tư Duy:
    Theo GS Cao Xuân Huy (**) , tư duy / tư tưởng con người theo 1 quá trình tam đoạn gồm:
    1 giai đoạn sơ bộ, 1 giai đoạn phân tích & 1 giai đoạn tổng hợp chung kết.
    Tiến trình "tổng-phân-hợp" vốn là đặc điểm chung của tư duy loài người,.
    Để nhận thức, con người vừa "dị biệt hóa" các khái niệm, lại vừa "đồng nhất hoá" các khái niệm đi liền theo đó. Khuynh hướng đồng nhất hoá bắt buộc người ta phải quy hai cái đó vào một, tìm Phạm trù gì là chung cho các bộ phận, tức là khái niệm gì chung cho cả 2 khái niệm Học, Thuật; (theo đề tài của chúng ta) làm cho đối tượng có tính nhất quán...
    I. Cái bi kịch của sự đồng nhất hóa (**)
    Theo GS Cao Xuân Huy:
    Hoạt động đồng nhất hóa của tư duy kết thúc bước đầu ở Khái niệm , nhưng sự đồng nhất quá là 1 nhu cầu rất gay gắt của tư duy mà Khái niệm chưa thỏa mãn được 1 cách đầy đủ, cho nên tư duy còn phải bước lên mà lập thành những Khái niệm bao quát về chủng loại rộng hơn những Khái niệm về cá thể
    và cuối cùng là những phạm trù:
    Mọi Khái niệm có 1 nội hàm có hạn, nó k0 thể tri túc được, nó phải có điều kiện tồn tại của nó. Do đó tư duy của con người phải đi tìm nguyên nhân của sự vật, tức là liên hệ 1 sự vật gọi là kết quả với nguyên nhân đã được cải hoàn dưới 1 hình thứ mớị...
    Lúc bấy gio tư duy moi được thỏa mãn- Sự thoả mãn ấy gọi là ''hiểu biết'', là ''lý giảí, là ''lãnh hộí'' vv...
    Trái lại, nếu nó chưa liên hệ được kết quả với nguyên nhân thì nó cãm thấy băn khoăn khó chịu, bị cái gì thúc đẩy đi tìm cho được Cái nhu cầu đồng nhất của tư duy là thiết thân là gay gắt như vậy .
    Nó dựa chủ yếu vào Khái niệm và lôgích hình thức.
    Nó từ đặt cho mình cái nhiệm vụ phải phát hiện ra cái tiêu chuẩn của chân lý để tư tưởng cho đúng, nhận thức hiện tượng cho đúng, và hành động trong thực tẽ 1 cách có hiệu quả. A là A, A k0 phải là (Phi A) đó là nguyên lý đồng nhất, đó là tiêu chuẩn của chân lý.
    Vi dựa trên lôgích hình thức để kết tinh cái nhu cầu đồng nhất hoá, mà lôgích bài xích cái gì là tiền hậu bất nhất, cái gì là mâu thuẫn, cái gì là điên đảo.
    Nhưng nó lại dựa vào khái niệm mà nêu ra nguyên lý đồng nhất; ở đây nếu sự vật biết mỉa mai thì quả là 1 điều mỉa mai của sự vật.
    Vi lôgích bài xích cái gì là tiền hậu bất nhất, cái gì là mâu thuẫn, cái gì là điên đảo, mà ngay từ bước đầu tiên của nó là khái niệm, nó đã rơi vào cái mâu thuẫn đó:
    Phản ánh sự vật cụ thể bằng những khái niệm tổng quát thì tức là Phản ánh cái gì cụ thể, cá biệt, tương đối, bằng những cái gì là trừu tượng, phổ biến, tuyệt đối. Nói 1 cách khác khái niệm hoá 1 vật cụ thể thì chẳng khác gì bạn thế hóa 1 hiện tượng, chẳng khác gì nói À là phi A.
    Cũng bởi nguyên lý đồng nhất hoá mà chủ thể & KháCh Thể tồn tại trong 1 quan hệ đối kháng tuyệt vọng làm cho nhận thức luận hãm vào đường cùng.
    II- mâu thuẫn của phương thức ?odị biệt hóa" (**)
    phương thức ?odị biệt?o bộc lộ những mâu thuẫn lúng túng mà kết quả là dẫn đến những cuộc khủng hoảng tư duy & tư tưởng gay gắt . Ðã nói đồng nhất hoá thì tất yếu phải xoá bỏ sự khác nhau giữa các vật cá biệt để đặt chúng trong những mối liên hệ hợp lý. Song đầu óc duy lý đã không còn cho phép nhà ?odị biệt?o thực hiện sự xoá bỏ ấy. Họ đã đi quá sâu vào những đặc tính khác biệt giữa mọi sự vật Họ đả dần dần tuyệt đối hoá mọi sự vật .
    Vì cái khuynh hướng tuyệt đối hoá tính đồng nhất của các bộ phận cho nên nhà tư tưởng chủ biệt gặp phải 1 sự đối kháng
    k0 1 chút khả năng nhân nhượng dung hoà : A là A; A ko thể là phi A được.
    Xóa bỏ chúng đi là vi phạm mâu thuẫn lôgich, là đánh đồng số lượng và chất lượng, thời gian và không gian, chủ thể và khách thể, vô sinh và hữu sinh... Khủng hoảng của mọi triết học, tư duy bắt nguồn từ đây .
    Cả 2 phương thức đều có nhu cầu dị biệt hóa & đồng nhất hoá,
    Cả 2 phương thức trên tuy đi ngược hướng với nhau, nhưng chúng vẫn quyện vào nhau trong mỗi người, mỗi nhà tư tưỡng,
    (mỗi lối tư duy), mỗi nền văn hoá, mỗi thời đại, chỉ có cái tỹ trọng
    , cái liều lượng của 2 phương thức ấy trong mỗi người, mỗi nhà tư tưỡng,(mỗi lối tư duy), mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá, mỗi thời đại vv... là có khác nhau .
    _____
    (*) GS Lê Thành Khôi: (1923- *)
    * Nhà sử học lão thành , Giáo sư danh dự Đại học Sorbonne, Paris.
    Ông Khôi vốn người Hà Nội sang Pháp du học rồi lưu trú tại đó. GS Lê Thành Khôi là chuyên gia cố vấn cho Cơ quan Giáo dục Khoa học Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO) về phát triển giáo dục cho 41 quốc gia trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế khác.

    Công trình của ông bao gồm 20 quyển sách đa số bằng tiếng Pháp và là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hoá Việt Nam, trong đó có tác phẩm Le Vietnam, Histoire et Civilisation (Paris, 1955), không những đã trở thành kinh điển cho giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam mà còn là cuốn sách gối đầu giường của biết bao người nuớc ngoài quan tâm đến Việt Nam, đặc biệt của thế hệ 68 tại phương Tây.
    (**) Giáo sư Cao Xuân Huy (1900-1983)
    Giáo sư khoa Triet Đông Dai Hoc Van Khoa HN, Ban Han Nom Vien VH, DH Su Pham va DH Y Duoc Khoa HN, Vien Dong Y VietNam HN.
    Công trình duy nhất của ông là Quyển ( "Tư Tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu", Cao Xuân Huy, Nhà Xuất Bản Văn Học 1995 {do học trò của ông là GS Nguyễn Huệ Chi sưu tập lại} ; đoạt Giãi thưởng HCM đợt I)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 09:47 ngày 06/12/2004
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.562
    Đã được thích:
    49
    Dựa vào căn bản các bài viết về khái niệm Học Thuật;
    Tôi xin tặng các Bạn Trích dẩn sau đây từ 2 học giả am tường về triết học cả Đông lẩn Tây nhưng dưới 2 quan điểm (Tây & Đông):
    1- Vài định nghỉa "Khái niệm và ý niệm trong khoa học và THƯC TIểN xã hội", GS Lê Thành Khôi (*)
    Tóm tắt:
    -Người ta thường phân biệt khoa học tự nhiên và khoa học Nhân văn và xã hội.
    Khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên cần có khái niệm, ý niệm và giả thuyết để phân tích và tiến dần. Khái niệm (concept) có tính cách trừu tượng hơn ý niệm notion). Khái niệm đối lập trực giác (intuition). Trực giác thấu ngay toàn bộ cụ thể.
    Khái niệm lấy ra một phương diện nhất định để làm nổi bật lên.
    Nhưng vì chỉ giữ một số mặt của một hiện tượng, khái niệm loại trừ một số mặt khác.
    Khái niệm thống nhất, nhưng cũng đơn giản hoá, rút gọn thực tế phức tạp, cho nên nhiều khi nên dùng ý niệm thì hơn, vì ý niệm gần sự sống hơn.
    -Vấn đề dùng khái niệm và ý niệm trong khoa học xã hội phức tạp hơn nhiều là ở trong khoa học tự nhiên vì mổi người có chủ quan của mình, có nhiều cách định nghỉa và hiểu biết một khái niệm. Vả lại một khái niệm có thể hợp sự thật ở một nơi mà không hợp ở một nơi khác.
    -Dịch khái niệm cũng có vấn đề vì một ngôn ngữ bao giờ cũng liên hệ với một văn hoá. Ngoài ra còn vấn đề chính trị: ít khi một khái niệm hay ý niệm hoàn toàn trung lập mà được dùng để thống trị và tuyên truyền trong và ngoài nước.
    Dịch một khái niệm gây một số vấn đề. Vấn đề thứ nhất là người dịch có khi không hiểu đúng nội dung.
    Dịch chữ không /{Vô} trong đạo Phật là néant/{Null} tức là không hiểu đạo Phật, phải dịch là vide hay vacuité/{Void}. Lúc nước Nhật mở cửa ở thế kỷ 19 họ dịch chữ education là Kyo iku (giáo dục), từ đó sang Trung Quốc và Việt Nam.
    Chữ education từ hai chữ la tinh: educare nghỉa là nuôi dưỡng, và educere: đưa từ một nơi đến nơi khác. Đó là hai khuynh hướng có từ lâu và nhiều khi xung đột, một là cho trẻ em đủ kiến thức, hai là dạy dổ cho nó phát triển tất cả khả năng để thành người. Khái niệm Âu bao hàm ý con người có thể tự học, tự hình thành. Trong quan niệm A'' đông cổ điển giáo là dạy, nghỉa là người trên dạy người dưới, người dưới không thể giáo người trên được.
    -Vấn đề chính là khái niệm phải gần với sự thật, phải hợp với sự thật.
    Hai bên(Khoa học xã hội cũng như khoa học tự nhiên) cùng có một mục đích: tìm hiểu sự thật, và một quy tắc chung: không nói hay viết cái gì mà không có minh chứng.
    -Sự thật là gì ? Có phải là cái mắt thấy tai nghe không ? Không phải.
    Tai có thể nghe tin đồn nhảm. Mắt chỉ thấy bề ngoài: trong bao nhiêu thế kỷ người ta tưởng rằng quả đất đứng im, mặt trời xoay chung quanh, vì không nhìn thấy quả đất quay mà nhìn thấy mặt trời quay.
    -Sự thật tự nhiên {Bản thể} có thể chứng minh được một cách khách quan.
    -Sự thật lịch sử k0 phải ai ai cũng nhận (lúc mà có đủ bằng chứng) tuy rằng có thể giảng nghỉa khác nhau: chẳng hạn ở thế kỷ 20 hai đại chiến thế giới, cách mạng Nga, sự nổi dậy của các thuộc địa v.v..
    Trong lịch sử có những nhà triết học đã xây khái niệm trong óc mình để tìm một chân lý muôn thuở. Trong tư tưởng của Hegel, nhà nước "xấu" là nhà nước không hợp với khái niệm của mình.
    Trừu tượng hoá có thể đưa đến những phán xét có kết quả thảm hại khi mà nhân danh một lý tưởng hay một ý niệm, một giới cầm quyền huỷ diệt một thực tại "không đúng" hay "có lổi".
    Trong khoa học xã hội thì vấn đề phức tạp hơn nhiều. Xã hội con người phức tạp hơn tự nhiên. Mà mổi người có thể có thuyết của mình.
    Hơn nữa nói đến xã hội thì không thể không nói đến chính trị. Chính trị nhiều khi chi phối tư tưởng. Cho nên có rất ít môn mà đạt được sự nhất trí. Môn đó phải rất ít tính chính trị. Môn mà có ít nhất là dân số học. Ơ? đâu cũng nhận những khái niệm về dân số và tính như nhau tỷ lệ sinh tử, tăng lên, v.v.
    Trong thế kỷ 16-17 công giáo Âu cho rằng người Â''n Mỹ (Amérindiens) không phải là "người" vì "không có hồn", cho nên giết họ, lấy của của họ, không tôn trọng lời hứa với họ, thì không "phạm tội". Gần đây hơn "cách mạng văn hoá" ở Trung Quốc, "chiến dịch chống mê tín dị đoan" ở Việt Nam, đã phá hoại bao nhiêu chùa chiền, bao nhiêu tượng đẹp không thể làm lại được. Ở Afghanistan, chính quyền taliban đã phá tượng Phật cổ 1700 năm lấy cớ là đạo Hồi cấm thờ tượng.
    Trong những khoa học xã hội khác, ít khi có sự thống nhất. Một khái niệm hay ý niệm cùng một chữ mà bao nhiêu nghỉa khác nhau.
    2- Khái niệm và ý niệm trong Tư Duy:
    Theo GS Cao Xuân Huy (**) , tư duy / tư tưởng con người theo 1 quá trình tam đoạn gồm:
    1 giai đoạn sơ bộ, 1 giai đoạn phân tích & 1 giai đoạn tổng hợp chung kết.
    Tiến trình "tổng-phân-hợp" vốn là đặc điểm chung của tư duy loài người,.
    Để nhận thức, con người vừa "dị biệt hóa" các khái niệm, lại vừa "đồng nhất hoá" các khái niệm đi liền theo đó. Khuynh hướng đồng nhất hoá bắt buộc người ta phải quy hai cái đó vào một, tìm Phạm trù gì là chung cho các bộ phận, tức là khái niệm gì chung cho cả 2 khái niệm Học, Thuật; (theo đề tài của chúng ta) làm cho đối tượng có tính nhất quán...
    I. Cái bi kịch của sự đồng nhất hóa (**)
    Theo GS Cao Xuân Huy:
    Hoạt động đồng nhất hóa của tư duy kết thúc bước đầu ở Khái niệm , nhưng sự đồng nhất quá là 1 nhu cầu rất gay gắt của tư duy mà Khái niệm chưa thỏa mãn được 1 cách đầy đủ, cho nên tư duy còn phải bước lên mà lập thành những Khái niệm bao quát về chủng loại rộng hơn những Khái niệm về cá thể
    và cuối cùng là những phạm trù:
    Mọi Khái niệm có 1 nội hàm có hạn, nó k0 thể tri túc được, nó phải có điều kiện tồn tại của nó. Do đó tư duy của con người phải đi tìm nguyên nhân của sự vật, tức là liên hệ 1 sự vật gọi là kết quả với nguyên nhân đã được cải hoàn dưới 1 hình thứ mớị...
    Lúc bấy gio tư duy moi được thỏa mãn- Sự thoả mãn ấy gọi là ''hiểu biết'', là ''lý giảí, là ''lãnh hộí'' vv...
    Trái lại, nếu nó chưa liên hệ được kết quả với nguyên nhân thì nó cãm thấy băn khoăn khó chịu, bị cái gì thúc đẩy đi tìm cho được Cái nhu cầu đồng nhất của tư duy là thiết thân là gay gắt như vậy .
    Nó dựa chủ yếu vào Khái niệm và lôgích hình thức.
    Nó từ đặt cho mình cái nhiệm vụ phải phát hiện ra cái tiêu chuẩn của chân lý để tư tưởng cho đúng, nhận thức hiện tượng cho đúng, và hành động trong thực tẽ 1 cách có hiệu quả. A là A, A k0 phải là (Phi A) đó là nguyên lý đồng nhất, đó là tiêu chuẩn của chân lý.
    Vi dựa trên lôgích hình thức để kết tinh cái nhu cầu đồng nhất hoá, mà lôgích bài xích cái gì là tiền hậu bất nhất, cái gì là mâu thuẫn, cái gì là điên đảo.
    Nhưng nó lại dựa vào khái niệm mà nêu ra nguyên lý đồng nhất; ở đây nếu sự vật biết mỉa mai thì quả là 1 điều mỉa mai của sự vật.
    Vi lôgích bài xích cái gì là tiền hậu bất nhất, cái gì là mâu thuẫn, cái gì là điên đảo, mà ngay từ bước đầu tiên của nó là khái niệm, nó đã rơi vào cái mâu thuẫn đó:
    Phản ánh sự vật cụ thể bằng những khái niệm tổng quát thì tức là Phản ánh cái gì cụ thể, cá biệt, tương đối, bằng những cái gì là trừu tượng, phổ biến, tuyệt đối. Nói 1 cách khác khái niệm hoá 1 vật cụ thể thì chẳng khác gì bạn thế hóa 1 hiện tượng, chẳng khác gì nói À là phi A.
    Cũng bởi nguyên lý đồng nhất hoá mà chủ thể & KháCh Thể tồn tại trong 1 quan hệ đối kháng tuyệt vọng làm cho nhận thức luận hãm vào đường cùng.
    II- mâu thuẫn của phương thức ?odị biệt hóa" (**)
    phương thức ?odị biệt?o bộc lộ những mâu thuẫn lúng túng mà kết quả là dẫn đến những cuộc khủng hoảng tư duy & tư tưởng gay gắt . Ðã nói đồng nhất hoá thì tất yếu phải xoá bỏ sự khác nhau giữa các vật cá biệt để đặt chúng trong những mối liên hệ hợp lý. Song đầu óc duy lý đã không còn cho phép nhà ?odị biệt?o thực hiện sự xoá bỏ ấy. Họ đã đi quá sâu vào những đặc tính khác biệt giữa mọi sự vật Họ đả dần dần tuyệt đối hoá mọi sự vật .
    Vì cái khuynh hướng tuyệt đối hoá tính đồng nhất của các bộ phận cho nên nhà tư tưởng chủ biệt gặp phải 1 sự đối kháng
    k0 1 chút khả năng nhân nhượng dung hoà : A là A; A ko thể là phi A được.
    Xóa bỏ chúng đi là vi phạm mâu thuẫn lôgich, là đánh đồng số lượng và chất lượng, thời gian và không gian, chủ thể và khách thể, vô sinh và hữu sinh... Khủng hoảng của mọi triết học, tư duy bắt nguồn từ đây .
    Cả 2 phương thức đều có nhu cầu dị biệt hóa & đồng nhất hoá,
    Cả 2 phương thức trên tuy đi ngược hướng với nhau, nhưng chúng vẫn quyện vào nhau trong mỗi người, mỗi nhà tư tưỡng,
    (mỗi lối tư duy), mỗi nền văn hoá, mỗi thời đại, chỉ có cái tỹ trọng
    , cái liều lượng của 2 phương thức ấy trong mỗi người, mỗi nhà tư tưỡng,(mỗi lối tư duy), mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá, mỗi thời đại vv... là có khác nhau .
    _____
    (*) GS Lê Thành Khôi: (1923- *)
    * Nhà sử học lão thành , Giáo sư danh dự Đại học Sorbonne, Paris.
    Ông Khôi vốn người Hà Nội sang Pháp du học rồi lưu trú tại đó. GS Lê Thành Khôi là chuyên gia cố vấn cho Cơ quan Giáo dục Khoa học Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO) về phát triển giáo dục cho 41 quốc gia trên thế giới và nhiều tổ chức quốc tế khác.

    Công trình của ông bao gồm 20 quyển sách đa số bằng tiếng Pháp và là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử và văn hoá Việt Nam, trong đó có tác phẩm Le Vietnam, Histoire et Civilisation (Paris, 1955), không những đã trở thành kinh điển cho giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam mà còn là cuốn sách gối đầu giường của biết bao người nuớc ngoài quan tâm đến Việt Nam, đặc biệt của thế hệ 68 tại phương Tây.
    (**) Giáo sư Cao Xuân Huy (1900-1983)
    Giáo sư khoa Triet Đông Dai Hoc Van Khoa HN, Ban Han Nom Vien VH, DH Su Pham va DH Y Duoc Khoa HN, Vien Dong Y VietNam HN.
    Công trình duy nhất của ông là Quyển ( "Tư Tưởng Phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu", Cao Xuân Huy, Nhà Xuất Bản Văn Học 1995 {do học trò của ông là GS Nguyễn Huệ Chi sưu tập lại} ; đoạt Giãi thưởng HCM đợt I)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 09:47 ngày 06/12/2004
  8. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Các bạn bàn quá kỹ về khái niệm "học thuật". Theo tôi thì cái từ "học thuật" chỉ đọc qua thôi đã thấy đẹp, sang và cao quí. Tôi thì tôi chỉ thích mở rộng thôi. Và tôi xin hỏi các bạn, thế bản thân khái niệm "học thuật" có hình có dạng không ? Như việc nói đến hoa hậu ta lại nghĩ đến người đẹp. Còn tôi nói đến học thuật tôi lại nghĩ ngay đến hình ảnh những nhà học giả cặm cụi viết lách, biên soạn, tra cứu. Một "dạng biến thể" của họ là những nhà triết học trong "tiểu khu" này. Và khái niệm học thuật còn có thêm một đặc tính nữa, đó là đặc tính của những kẻ hay XÉT NÉT (SEARCH NET). (xin lỗi, đó là từ mà Thắng tôi đã "Việt hóa"), và bạn có cho tôi là một học giả không ?
  9. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Các bạn bàn quá kỹ về khái niệm "học thuật". Theo tôi thì cái từ "học thuật" chỉ đọc qua thôi đã thấy đẹp, sang và cao quí. Tôi thì tôi chỉ thích mở rộng thôi. Và tôi xin hỏi các bạn, thế bản thân khái niệm "học thuật" có hình có dạng không ? Như việc nói đến hoa hậu ta lại nghĩ đến người đẹp. Còn tôi nói đến học thuật tôi lại nghĩ ngay đến hình ảnh những nhà học giả cặm cụi viết lách, biên soạn, tra cứu. Một "dạng biến thể" của họ là những nhà triết học trong "tiểu khu" này. Và khái niệm học thuật còn có thêm một đặc tính nữa, đó là đặc tính của những kẻ hay XÉT NÉT (SEARCH NET). (xin lỗi, đó là từ mà Thắng tôi đã "Việt hóa"), và bạn có cho tôi là một học giả không ?
  10. luuthuy

    luuthuy Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    17/06/2002
    Bài viết:
    2.109
    Đã được thích:
    1
    Gửi Trần Thăng, mỗi nguời một cách nhìn. Có thể bạn thích nhìn nó duới góc đơn giản, tôi cũng nhìn nó đơn giản như bạn. Nhưng có nguời thích nhìn sự vật phức tạp hơn, nhưng lại là đơn giản với họ. Thế cũng hay. Vì có thể từ cách nhìn mới mà ta sẽ có một ngành học mới.
    Chẳng nói gì xa, chỉ cần có cách nhìn khác về hai đuờng song song sẽ cắt nhau mà ta đã có hình học phi euclit đó.

Chia sẻ trang này