1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng. (Phần 2)

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi Hoailong, 03/10/2010.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Giáo sư Chu Hảo (sinh năm 1940) là một trí thức nổi tiếng tại Việt Nam, (http://vi.wikipedia.org/wiki/Chu_Hảo) nguyên Thứ trưởng Khoa học - Công nghệ. ... Hiện nay ông là Giám đốc nhà xuất bản Tri Thức (Ảnh Huấn Cao)
    vừa QUA có một cuộc nói trao đổi trên VTV6 về tình trạng giả dối trong học đường. Theo ông: "49/50 em có mặt nhận thức rằng, tình trạng giả dối trong xã hội là nghiêm trọng. Rất nhiều em thừa nhận mình đã gian lận trong thi cử vì không làm thế thì thấy mình thiệt thòi quá" - GS Chu Hảo, Giám đốc NXB Tri thức nói.

    Sự giả dối trong các con số thống kê, tổng kết

    >PV: - Thưa ông, trong các báo cáo thành tích thường niên cũng như từng 5 năm một, bao giờ cũng là điệp khúc "chúng ta đã và đang đạt được những thành tựu mới trong khoa học, giáo dục, hướng tới đẳng cấp quốc tế..." nhưng trên thực tế thì so sánh thứ hạng khoa học, số bằng sáng chế, số tên tuổi những nhà khoa học trong nước được thế giới công nhận, Việt Nam chưa đạt được nhiều thành tựu, ở đa số các lĩnh vực là "dậm chân tại chỗ" hoặc thụt lùi. Đây có phải là "nghịch lý", "nghịch dị" hay là siêu logic thưa ông? Ông giải thích hiện tượng này như thế nào?

    GS Chu Hảo: - Hiện tượng các thông tin chính thức nói một đằng, cộng đồng khoa học và xã hội dân sự nói một nẻo không phải chỉ xảy ra trong khoa học mà điển hình nhất phải là trong giáo dục.

    Điều đó chứng tỏ, thứ nhất, không có sự đồng thuận giữa cộng đồng khoa học, xã hội dân sự với các cơ quan quản lý nhà nước. Thứ hai, các số liệu thống kê không đáng tin cậy. Vì sao không còn nhiều người tin vào các con số thống kê chính thức? Bởi các số liệu từ dưới báo cáo lên không trung thực, chạy theo thành tích; hoặc số liệu báo cáo lên trên là trung thực nhưng bị làm cho méo mó để khớp với mong muốn, ý chí của cấp cao hơn.

    Ngoài ra, nhu cầu minh bạch thông tin của xã hội dân sự càng ngày càng cao, cộng với điều kiện tiếp cận các nguồn kiểm chứng của xã hội dân sự ngày càng nhanh và tốt hơn (qua báo cáo của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức khoa học, giáo dục trên thế giới..). Vì thế, sự vênh nhau giữa thực tế trong nước và thứ hạng thế giới hẳn cũng xảy ra những năm về trước nhưng hiện tại, người dân thấy một cách rõ ràng hơn.

    Hiện tượng trên không phải "siêu logic", đó là bệnh thành tích. Một mặt, người ta nhìn thấy rằng, bệnh thành tích đã làm năng lực nhìn nhận thực tế bị méo mó rất nhiều. Mặt khác, nó phản ánh sự giả dối trong các con số thống kê, tổng kết. Đấy là điều đáng lo ngại còn hơn những kết quả nói trên.

    >PV: - Trên thực tế, khoa học và giáo dục luôn được coi là quốc sách hàng đầu. Và như vậy, hẳn nhiên chúng ta ai cũng đều mong đợi những kết quả thực, thưa GS?

    GS Chu Hảo: - Có lẽ, sự quan tâm đó mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức chứ chưa đưa vào thực tiễn. Thí dụ, chi 2% chi ngân sách cho khoa học công nghệ (khoảng hơn 500 triệu USD) là quyết sách cụ thể hóa mục tiêu trên nhưng chi thế nào, hiệu quả ra sao chưa có vị lãnh đạo nào sâu sát tìm hiểu. Tôi đã từng phát biểu rằng: "Nếu như có một vị lãnh đạo trong Bộ Chính trị "ăn khoa học giáo dục, ngủ khoa học giáo dục" như ông Lý Quang Diệu đã từng làm với nền khoa học giáo dục Singapore thì nền khoa học giáo dục nước ta mới phát triển được". Còn nếu chứ dừng lại ở nghị quyết thì theo quan sát của tôi vài chục năm nay là không hiệu quả.

    Chưa bao giờ muốn tốt khó như bây giờ

    >PV: - Trong khi thứ hạng khoa học không thăng tiến, nghĩa là sự phát triển trí tuệ hay nỗ lực hội nhập khi mở cửa với thế giới là không thu hoạch được gì thì người Việt lại càng ngày càng xa xỉ, kinh tế khó khăn nhưng vẫn chi mạnh tay không kém bất cứ đại gia nào ở các nước phát triển. Đây có phải là mối quan hệ biện chứng trí tuệ giảm thì sự chiều lụy thân xác tăng lên?

    GS Chu Hảo:- Không một nền khoa học công nghệ nào có thể phát triển trên một nền giáo dục bất cập. Và nền giáo dục bất cập chịu trách nhiệm phần lớn trong việc đạo đức và văn hóa của xã hội xuống cấp.

    Nếu ngay từ mẫu giáo, các em đã biết nói dối, đã thực hiện những hành động giả dối thì lớn lên sẽ rất tích cực tham gia hình thành một xã hội giả dối. Từ mẫu giáo, các em đã biết bố mẹ đi chạy trường chạy lớp, đưa phong bì để chúng được vào trường tốt. Từ mẫu giáo, các em đã biết lời khen tặng, kết quả của chúng không phụ thuộc vào khả năng mà phụ thuộc vào những món quà bố mẹ tặng cô. Không thể đòi hỏi nền giáo dục ấy đào tạo ra một lớp người có nhân cách tốt. Đến khi có tiền, họ sẽ sử dụng đồng tiền như nhận thức của họ.

    Chúng ta không nên và cũng không thể lên án sự xa xỉ vì người ta có quyền chi tiêu tiền người ta có (nếu tiền đó chưa bị chứng minh là bất hợp pháp). Nhưng một nước nghèo như Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người mới chỉ ở mức hơn 1000 USD/năm, tạo một cuộc sống, thói quen chi tiêu quá xa xỉ so với mức trung bình của đồng bào là điều không nên mà chắc chắn những người có suy nghĩ có nhân cách không làm.

    >PV: - Một thực tế nữa là tâm lý trọng giàu khinh nghèo, coi giàu có tiền bạc là thước đo đẳng cấp xã hội đang chiếm ưu thế gần nưh tuyệt đối trong xã hội. Có nghĩa là khi các bảng so sánh thứ hạng về trí tuệ trong đó chúng ta tụt bậc thì cùng với nó là những giá trị văn hóa, văn minh, đạo đức cũng tụt bậc theo, theo GS, quá trình "phi nhân hóa" này được giải thích hay biện minh như thế nào?

    GS Chu Hảo:- Giải thích hiện tượng này không khó nhưng khắc phục nó chắc chắn phải cần một thời gian dài. Vài chục năm gần đây, quá trình đào tạo con người của chúng ta không khuyến khích nhân cách. Các văn bản chính thức, hay phát biểu của nhiều tầng lớp lãnh đạo đều đặt mục tiêu "tạo nguồn lao động có chất lượng cao", đồng nghĩa là uốn nắn con người với mục tiêu trở thành công cụ lao động (tức là tạo ra của cải vật chất cho xã hội và bản thân họ, nói một cách đơn giản là hơn là kiếm tiền) nhiều hơn là phát triển con người như một cá thể tự do. Khi cơ chế thị trường xuất hiện, nền tảng văn hóa đạo đức lập tức bị lung lay, để đồng tiền lên ngôi độc tôn. Chưa bao giờ muốn hành động đẹp đẽ như bênh người bị haị, ngăn chặn những cái xấu ngoài đường phố khó như bây giờ. Phần vì người ta vô cảm, cái đó có nhưng phần nữa vì người ta sợ hành động đó sẽ di hại cho người ta sau này.

    >PV: - Vậy chẳng lẽ người ta xấu nên mình cũng xấu, người ta dối trá nên mình cũng dối trá?

    GS Chu Hảo: - Xã hội hiện nay khiến đa phần có nhận thức rằng, người ta thật thà, tử tế khó tồn tại được, người ta phải dối trá. Tôi vừa có một cuộc nói trao đổi trên VTV6 về tình trạng giả dối trong học đường. 49/50 em có mặt nhận thức rằng, tình trạng giả dối trong xã hội là nghiêm trọng. Rất nhiều em thừa nhận mình đã gian lận trong thi cử vì không làm thế thì thấy mình thiệt thòi quá. Trước vấn đề như thế, thanh niên phải ứng xử như thế nào? Hãy thật thà ở những chỗ không bắt mình phải nói dối, hoặc thật thà mà không đến nỗi bị trù úm, bị thiệt thòi tới miếng cơm manh áo.

    Tất nhiên, cũng có thể lựa chọn không nói dối, đó tùy thuộc vào năng lực chọn lựa của một người. Một lời nói thật có thể mất việc nhưng để nói thật thì phải chấp nhận đánh đổi. Cũng có thể chọn giữ được việc và nói dối nhưng phải ghi nhận mình đã gian dối, chứ đừng coi nó là bình thường. Bây giờ khốn nỗi gian dối lại thành chuyện bình thường.

    Không thể để 10 năm không nghiên cứu vẫn tuyển chọn đề tài

    >PV: - Khó có thể kỳ vọng những đại gia lắm tiền thay vì chi tiêu xa xỉ đầu tư vào khoa học, từ đó thúc đẩy khoa học phát triển. Theo ông, giải pháp nào để kéo ngắn lại khoảng cách giữa khoa học Việt Nam và thế giới, để tháo gỡ cái "nghịch lý", "nghịch dị" như đã nói ở trên?

    GS Chu Hảo: - Việc chỉ số trí tuệ của chúng ta tụt giảm là điều đáng buồn, tuy nhiên, đó chính là thông tin cảnh báo chúng ta đang ở đâu trong thế giới này và chúng ta cần phải nỗ lực như thế nào để khỏi tụt hậu thêm.

    Ai cũng đồng tình rằng, sự thay đổi phải bắt đầu từ cải cách thể chế quản lý khoa học công nghệ. Theo tôi, có mấy điểm như sau:

    Thứ nhất, trong số 2% chi ngân sách cho khoa học, Bộ Khoa học Công nghệ chỉ được dùng 14-17% để phát triển trực tiếp khoa học công nghệ, số còn lại dàn trải cho Bộ Kế hoạch Đầu tư, các tỉnh... Đã được chi tiêu ít lại vướng cơ chế tài chính rất bất cập như Bộ trưởng Nguyễn Quân vừa mới trao đổi trên truyền hình. Hai điều đó làm Bộ Khoa học Công nghệ rất lúng túng khi chịu trách nhiệm sử dụng 2% chi ngân sách cho khoa học.

    Chúng tôi đã nhiều lần đề nghị rằng cần phải bỏ hệ thống chương trình đề tài cấp nhà nước và các dạng kế hoạch 5 năm. Chương trình đề tài đóng một vai trò quan trọng ở thời điểm nhà nước bao cấp là chính, mục tiêu chung, kết quả phụ thuộc vào kế hoạch hóa tập trung. Nếu bây giờ vẫn tiếp tục hạn chế rất nhiều sáng kiến động lực cho khoa học. Còn những kế hoạch 5 năm, thời gian chủ yếu không dành cho nghiên cứu mà một năm xây dựng, một năm tổng kết, năm nào cũng họp hai lần, chỉ loay hoay với những thủ tục, đầu thầu, tổng kết...

    Nhà nước nên tập trung đầu tư cho một số Viện nghiên cứu cơ bản và Viện nghiên cứu ứng dụng rất cao cấp, thay vì đánh đồng khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng, công nghệ kỹ thuật và đầu tư dàn trải. Bên cạnh đó là một quỹ chung, vận hành các dự án thiết thực, có người thẩm định đủ trình độ để tuyển chọn, thẩm định và nghiệm thu, nếu cần có thể thuê chuyên gia nước ngoài (tuyển chọn một đề tài nghiên cứu mà những người tuyển chọn 10 năm không nghiên cứu gì là tình trạng rất phổ biến ở Việt Nam).

    Thứ hai, phải làm sao để hệ thống giáo dục đại học gắn với nghiên cứu và đặc biêt là nghiên cứu cơ bản phải đưa về các trường đại học, kể cả nghiên cứu xã hội nhân văn.

    Thứ ba, phải tạo điều kiện tối đa để doanh nghiệp và xã hội đầu tư vào những nghiên cứu ứng dụng và công nghệ. Vậy những nghiên cứu ứng dụng và công nghệ làm thế nào để xã hội và doanh nghiệp đầu tư? Ở đây phải có nhu cầu của sản xuất với nghiên cứu khoa học. Nền kinh tế của chúng ta chia thành hai khối, khối dùng tiền nhà nước để sử dụng khoa học công nghệ, không có nhu cầu đổi mới vì không có lợi ích ở đó. Khối tư nhân trọng dụng các nhà khoa học nhưng số đó chỉ là sản xuất nhỏ.

    Tôi rất buồn khi nghe đoạn phỏng vấn một bạn trẻ được giải Quả Cầu vàng 2012 cho thành tích khoa học xuất sắc nhất với công nghệ làm tăng chất lượng giống bò sữa. Bạn trẻ đó tâm sự rằng, kết quả nghiên cứu như vậy, một vài tờ báo đăng tin còn chưa có doanh nghiệp nào đề nghị sử dụng công nghệ. Ở đây đặt ra vấn đề, tại sao các công ty sữa lại từ chối thành tích khoa học xuất sắc nhất năm ở Việt Nam trong khi họ đều là những công ty tư nhân, lẽ ra phải rất mặn mà với những công nghệ tạo ra lợi nhuận cho họ. Có khả năng là, công nghệ đó không tốt bằng công nghệ họ đang dùng. Vậy thì tại sao công nghệ đó được giải thưởng?
    Nguồn: Phụ nữ Ngày nay & chungta.com

    Theo GS Chu Hảo: Xã hội có nhiều bằng hư học hơn là thực học!
    (GDVN) - Xã hội cho rằng giáo dục có vấn đề nhưng chính thống lại cho rằng ngành giáo dục rất có thành tích.
    http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/...co-nhieu-bang-hu-hoc-hon-la-thuc-hoc/56975.gd
    Quỳnh Anh (nguồn VTV)
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Nói một đàng, làm một nẻo

    Đàn ông Việt có tính thích đọc sách báo rồi ra đường bàn bạc, nên trên phương diện ý thức công dân có lẽ trên thế giới ít có dân tộc nào hiểu biết rộng hơn. Nhưng lạ một điều là cái kiến thức đó lại không được dùng để xây dựng cho cá nhân hay xã hội cho nên chúng ta mới thua kém các sắc dân khác.

    Không nói đâu xa chỉ cần bước vào một tiệm nhậu hay quá cà phê vốn đầy rẫy trên mọi nẻo đường đất nước là người ta có thể nghe đủ mọi câu chuyện từ Tây sang Tàu đến Việt Nam: áp phe, mánh lới làm ăn, lạm phát, tham nhũng, đại học Úc-Mỹ, tranh chấp Biển Đông, cách mạng Ai Cập, khủng hoảng kinh tế toàn cầu v.v…Nhờ đọc nhiều báo mạng, báo giấy lại thích xem tivi, nghe radio nên nhiều người biết rất rõ tình hình thời sự.

    Chẳng hạn khi bàn về môi trường ai cũng hiểu nhiệt độ trái đất nóng khiến tan băng làm nước biển mặn dâng cao tràn vào ruộng lúa – nhưng rồi sau đó thì quăng rác ngay xuống lề đường như xem chuyện bảo vệ môi trường là của ai đó lo chứ không phải chuyện của mình.

    Hay nói về xã hội văn minh thì nhiều người sau khi so sánh cách sống của Mỹ - Tây rồi bước ra đường cứ mặc tình chen lấn.

    Hoặc trên bàn ăn phê bình tham nhũng, nhưng lỡ bị cảnh sát bắt vì chạy nhanh thì cười hì hì kiếm cách xì tiền cho qua chuyện.

    Các phường xóm treo biển đề cao Nếp Sống Văn Hoá ngay bên cạnh những quán ăn nhậu ồn ào, rồi đến tối xì ke ma tuý. Sơn chử Cấm Đái Bậy thì đêm khuya ăn nhậu sương sướng rồi cứ tiện đâu thì xì đó.

    Người Việt lại hay châm biếm các dân tộc khác: xem thường người Tàu cho dù Trung Quốc đang chiếm lĩnh kinh tế và lấn chiếm biển Đông; cười dân Mỹ vì bên đó đi làm cực quá chớ không biết hưởng như ở Việt Nam.

    Còn tại hải ngoại, câu nói đầu tiên suốt 30 năm là ra nước ngoài rồi phải đoàn kết lại lo cho cộng đồng và đất nước; ngay sau đó quay lại đã kích lẩn nhau – cái khó là người Việt nào cũng tài giỏi về lý luận nào cũng đúng sai chẳng ai còn biết.

    Cho nên mới có câu chuyện vui nực cười về bốn người Mỹ - Tàu - Nhật - Việt ngồi tán gẫu trên bàn ăn:
    Cả thế giới đều phải kiêng nể người Mỹ vì người Mỹ đã nói là làm. Nhưng
    - Người Mỹ nói họ sợ Tàu qua mặt vì việc gì cũng có số người đông như kiến ùa nhau vào làm
    - Người Tàu nói họ còn phải học Nhật vì mỗi người Nhật trọng lời hứa, nói đâu là làm đó
    - Người Nhật lắc đầu xin thua Việt Nam bởi người Việt nói một đàng làm một nẻo, chẳng ai còn biết đâu mà rờ.


    theo Đoàn Hưng Quốc
    Nguồn: Văn hóa Nghe An

    Lần cập nhật cuối: 12/12/2013
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Bệnh giả dối đang trở thành quốc nhục
    http://www.dienluctth.com.vn/vn_die...gia-doi-dang-thanh-noi-nhuc-lon-95-pctth.aspx
    Sinh ra trong một gia đình có đến 4 người là các giáo sư nổi tiếng (Hoàng Phê, Hoàng Chúng, Hoàng Quý), GS Hoàng Tụy là cháu gọi Tổng đốc Hà Nội, người Ông hùng Hoàng Diệu là bác ruột.


    27 tuổi, ông làm Trưởng ban Tu thư (biên soạn chương trình và sách giáo khoa). Ông là một học giả ở đội ngũ hàng đầu của nền khoa học và giáo dục nước nhà, một nhà toán học lừng danh, cha đẻ của thuyết Tối ưu toàn cục lừng danh trong toán học, đồng thời là tác giả của hơn 150 công trình công bố trên quốc tế.... Những ý kiến của ông, theo cá nhân tôi, cho tới hôm nay vẫn có thể giúp chúng ta nhận thức được rõ hơn nhiều vấn đề cần giải quyết để nền giáo dục nước nhà

    Ông được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I, năm 1996.


    Ở tuổi Đại thọ, sức khoẻ của GS Hoàng Tụy không còn dồi dào nhưng trí tuệ của ông vẫn sáng láng và trái tim ông vẫn ngùn ngụt cháy như thời trai trẻ, đặc biệt là thái độ của một trí thức yêu nước với các vấn đề quốc kế dân sinh và giáo dục. Dưới đây là cuộc trò chuyện của GS Hoàng Tuỵ - nhà toán học số một của Việt Nam, với nhà báo Bùi Hoàng Tám:

    Thưa GS, trong bức thư gửi thầy cô giáo nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam vừa qua, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng GD-ĐT Nguyễn Thiện Nhân đã rất lo lắng trước sự giả dối tồn tại trong ngành và toàn xã hội. Là nhà khoa học nổi tiếng bởi sự chính trực, ông nghĩ gì về nhận xét này?

    - Sự giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc.

    Còn trong lĩnh vực giáo dục, một môi trường cần sự trong sáng?

    - Tôi không nói ở đây sự giả dối nhiều hơn ở lĩnh vực khác nhưng cũng không nói là ít hơn. Bản chất của giáo dục là TRUNG THỰC và sáng tạo. Nhưng sáng tạo thế nào khi mà mọi thứ đều phải theo một lề lối, khuôn phép đã quy định sẵn, gần như bất di bất dịch từ mấy chục năm - giữa một thế giới thường xuyên biến động.

    Rồi TRUNG THỰC thế nào được khi mà người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống đàng hoàng, dư giả.

    Ngay khi mới nhận cương vị đứng đầu ngành Giáo dục, ông Nhân đã đặt ra hai vấn đề mấu chốt này và điều đó khiến chúng tôi rất mừng. Rồi đến hôm nay, ông lại phải nhắc lại điều đó một cách buồn bã.

    Thưa ông, có lẽ cũng cần một sự cảm thông bởi dù là Phó Thủ tướng nhưng Bộ trưởng Nhân nhiều khi cũng lực bất tòng tâm, bí bách như người múa gậy trong bị bởi chỉ một việc tăng lương cho giáo viên, Bộ trưởng Nhân đã nhiều lần đề xuất nhưng đến nay vẫn chưa được chấp thuận?

    - Muốn chống tiêu cực, muốn người ta TRUNG THỰC làm việc hết lòng thì điều mấu chốt là tiền lương phải đủ để người ta sống. Sinh thời, có lần Tổng bí thư Lê Duẩn hỏi về việc chống tiêu cực, tôi cũng đã trả lời thẳng thắn như vậy. Trong môi trường giáo dục, khi tiền lương không đủ sống thì người ta sẽ tìm cách xoay xở để bù đắp lại. Còn xoay xở như thế nào đó chính là nguyên nhân các căn bệnh chủ yếu của giáo dục hiện nay.

    Cách đây ít ngày, GS Simon Marginson (ĐH Melbourne - Australia) có nói mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ có trường đại học lọt vào top 200 trong số các trường đại học nổi tiếng thế giới là rất khó và khi đặt ra mà không đạt được thì sẽ là thất bại cho mục tiêu kế tiếp. Là người có hơn 30 năm lang thang khắp các trường đại học nổi tiếng thế giới, ông có đồng tình với nhận xét này?

    Ở đây có 2 phần. Thứ nhất, tôi không đồng tình với GS Simon về phần đánh giá cao các bảng xếp hạng đại học đã được công bố mấy năm nay bởi nó không phù hợp với những gì tôi đã tận mắt chứng kiến và sự đánh giá chung của nhiều giới khoa học tôi được quen biết. Cách xếp hạng hiện nay thường thiên về các trường nằm trong khối Anh - Mỹ mà xem nhẹ các nước khác như Pháp, Đức và đặc biệt là Nga. Mặt khác, có một số đại học được xếp hạng rất cao mà theo cảm nhận của nhiều người hiểu biết thì không thể như vậy được.

    Còn vế thứ hai?

    - Vế thứ hai, tôi đồng tình với ý kiến đó là một mục tiêu không thực tế, không thiết thực vừa có thể làm sai lệch hướng phấn đấu hội nhập của chúng ta. Không nên cân đo, đong đếm mình bằng một cái cân, một cái thước... không có độ tin cậy cao. Thật ngạc nhiên khi có vị lãnh đạo ngành còn đòi hỏi phải cố gắng đạt mục tiêu đó trước năm 2020.

    Khi trả lời phỏng vấn chúng tôi, Nguyên Phó ************* Nguyễn Thị Bình đã đặt vấn đề cần có một cuộc cách mạng giáo dục triệt để. Theo ông, điều này đã thật sự cần thiết?

    Ngay từ năm 2004, chúng tôi gồm 24 nhà khoa học và giáo dục trong đó có 5 giáo sư Việt kiều đã có bản kiến nghị chính thức gửi lên Trung ương, đề nghị cần phải xây dựng lại giáo dục từ gốc, tức là phải thực hiện về một cuộc cách mạng giáo dục triệt để. Bản kiến nghị này đã được sự ủng hộ khá rộng rãi của xã hội, các nhà khoa học và các nhà quản lý.

    Trước đó, ngay từ 1995, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã triệu tập một cuộc họp quan trọng 3 ngày về giáo dục. Nhiều ý kiến xác đáng đã được phát triển trong cuộc họp đó, về sau được nghi lại trong Nghị quyết T.W.II (khoá 8) về giáo dục và khoa học. Tiếc rằng Nghị quyết rất đúng đắn nhưng triển khai thực hiện bất cập nên sau gần 10 năm, Thủ tướng Phan Văn Khải đã phải cay đắng thừa nhận chúng ta không thành công trong khoa học và giáo dục.

    Theo ông, không thành công hay thất bại?

    - Đó là sự thất bại, thất bại lớn.

    Ông có quá mạnh mẽ và vì bức xúc mà thiếu khách quan?

    - Không phải tôi nói mà thực tế cuộc sống đòi hỏi. Chúng ta đã tốn không biết bao nhiêu thời gian, sức lực và tiền của. Ngay cả những người ở ngoài, ví như ông Lý Quang Diệu chẳng hạn, không phải vô cớ mà khi thăm Việt Nam, ông đã thẳng thắn khuyên chúng ta rằng: Thắng trong giáo dục mới thắng trong kinh tế!

    Liệu chúng ta đã cần ngay một cuộc cách mạng triệt để?

    - Rất cần. Trong khung cảnh chương trình và sách giáo khoa hiện nay, nếu cải tiến thì cũng chỉ tạo sự thay đổi lẻ tẻ và không cơ bản. Trong khi đó, thời gian không còn cho phép chần chừ. Chúng ta đã chờ đợi điều đó xảy ra hàng chục năm nay rồi.

    Nhưng được biết vừa qua, Bộ GD-ĐT đã xây dựng Chiến lược phát triển giáo dục 2008-2020?

    Chúng tôi đã nghiên cứu bản dự thảo này và nhận thấy bản Dự thảo chưa thể hiện tư duy giáo dục cần thiết. Nó không phải là bản Chiến lược mà chỉ là một bản kế hoạch dài hạn được soạn thảo theo lối làm kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mọi cái đều áp đặt từ trên xuống trong khi đáng lý ra, chúng ta phải làm ngược lại.

    Trong khi chờ đợi kế hoạch cải cách giáo dục thì theo ông có những vấn đề cấp bách gì cần giải quyết?

    - Khâu đột phá là giáo dục trung học phổ thông và thi cử. Cần thay đổi tổ chức và chương trình, cách dạy ở THPT, để mở ra hai hướng chính cho học sinh đã xong THCS: một hướng đào tạo nghề và một hướng chuẩn bị tổng quát.

    Có nghĩa phải cải cách thi THPT?

    Thi tốt nghiệp các cấp là việc làm lạc hậu nhất, kém hiệu quả nhất một tàn tích còn sót của lối học cũ. Nó hoàn thiện một chu trình: Học để thi - Thi để lấy bằng - Lấy bằng để làm quan. Trong khi đó đáng lý học phần nào thi ngay phần đó, thi để học cho tốt, chứ không phải thi vì mảnh bằng.

    Nhưng bỏ thi thì lấy gì để kiểm tra kiến thức của người học?

    - Tôi không nói bỏ thi mà là bỏ kỳ thi tốt nghiệp. Hiện nay, các nước có nền giáo dục tiên tiến không có kiểu thi tốt nghiệp như ta. Giống như việc sản xuất một cỗ máy, họ kiểm tra thật kỹ chất lượng từng chi tiết và khi hoàn thiện, chỉ kiểm tra việc lắp ráp. Trong khi đó ở ta thì gần như bỏ qua khâu kiểm tra chi tiết mà chờ lắp hoàn thiện một cái máy rồi mới kiểm tra tổng thể. Cách làm này đã bộc lộ rất rõ những hạn chế mà nền giáo dục của chúng ta đang phải gánh chịu. Một số nước việc thi cử còn nhẹ hơn ta nhiều như Hàn Quốc, Trung Quốc mà người ta còn gọi là địa ngục thi cử, không biết ở ta nên gọi như thế nào?

    Ông là người phản đối thương mại hoá giáo dục một cách quyết liệt. Tại sao vậy?

    - Tôi không phản đối thương mại giáo dục mà chỉ phản đối cách thương mại hoá như hiện nay. Trường tư vì lợi nhuận phải được đối xử như các doanh nghiệp tư nhân trong các ngành khác. Nó phải hoạt động như mọi doanh nghiệp khác theo Luật Doanh nghiệp. Còn đối với trường tư phi lợi nhuận thì Nhà nước có thể và nên hỗ trợ về vốn, đất, và không thu thuế.

    Nhưng có thông tin rằng hầu hết các trường nổi tiếng trên thế giới đều hoạt động theo mục đích kinh doanh?

    - Đó là thông tin sai sự thật do thiếu thông tin hoặc vụ lợi. Theo tôi được biết, tất cả các trường tư nổi tiếng thế giới đều hoạt động phi lợi nhuận. Làm giáo dục chạy theo mục đích kiếm tiền sẽ phá hoại ghê gớm nền giáo dục.

    Xin cám ơn Giáo sư!

    *Bùi Hoang Tám thực hiện

    Đã đăng trên trannhuong.com


    Bàn về căn bệnh giả dối trong giáo dục - đào tạo, GS Hoàng Tụy nói:

    - Kể tên những thứ giả dối trong giáo dục thì rất nhiều. Thầy giáo đổi tình, đổi tiền lấy điểm, tiếp tay cho việc chạy trường, chạy lớp, chạy bằng giả, chạy chức vụ, học hàm, học vị. Học sinh, sinh viên học hành đối phó, gian lận, đạo luận án, đạo nghiên cứu khoa học. Nhà quản lý lập dự án gian dối để kiếm tiền, báo cáo thành tích không TRUNG THỰC để xếp hạng cao trong thi đua, gian lận trong sử dụng tài chính. Cả xã hội có vô số học sinh giỏi, toàn người học đại học, nhiều tiến sĩ, thạc sĩ nhưng một bộ phận lớn trong đó trình độ lại thấp kém, không đáp ứng được yêu cầu nhân lực. Những thứ giả dối này là biểu hiện cụ thể của sự khuyết tật trong hệ thống giáo dục.


    "Một nền giáo dục lành mạnh trước hết hãy khoan dạy những cái cao siêu, mà nên tập trung dạy học sinh sống lương thiện và TRUNG THỰC"

    GS HOÀNG TỤY

    * Có ý kiến cho rằng giả dối trong giáo dục chỉ nhiều lên và trở nên trầm trọng trong thời gian gần đây. Giáo sư nghĩ thế nào về nhận định này?
    - Đúng là giả dối bắt đầu nhiều từ khoảng 20 năm trở lại đây. Nếu trước đây, bối cảnh lịch sử thời chiến khiến chúng ta phải chấp nhận một số bất cập để vì mục đích lớn lao hơn là giành độc lập, thống nhất đất nước thì ở thời hiện tại, những bất cập ấy lớn dần lên, trầm trọng hơn gây cản trở cho sự phát triển của nền giáo dục cũng như sự phát triển của xã hội.

    * Ngành giáo dục trong thời gian qua đặt ra không ít mục tiêu từ tầm vĩ mô và vi mô. Liệu đây có phải vì chạy theo mục tiêu mà dẫn đến giả dối?

    - Tôi cứ ví nền giáo dục là một cỗ xe đi trên đường trường. Nếu người ta đặt một cái đích quá xa, vượt khỏi tầm nhìn của cỗ xe đó thì cũng coi như chả có đích nào cả. Mục tiêu giáo dục cũng thế, muốn làm được thì phải có những đích đến phù hợp với điều kiện, phải có tính khả thi. Còn nếu cứ đặt những cái đích thật hoành tráng nhưng không làm được, đó là giả dối, là gốc rễ để tạo ra nhiều sự giả dối khác. Từ chuyện phổ cập giáo dục, xóa phòng học tạm, xây trường chuẩn quốc gia, tăng tỉ lệ học sinh khá giỏi, tăng tỉ lệ đỗ tốt nghiệp THPT đến những mục tiêu lớn hơn đều được coi là tốt. Nhưng không tính đến thực tế, không tính đến việc thực hiện thế nào, không tính đến giải pháp đảm bảo chất lượng nên đã tạo ra sự giả dối trong đầu tư cho giáo dục, trong dạy học, thi cử.

    * Chủ trương mở ra nhiều trường đại học để đạt tỉ lệ số sinh viên/vạn dân ngang bằng khu vực và thế giới khiến nhiều trường đại học sinh non và chết yểu, chất lượng thấp kém. Ông bình luận gì về chuyện này?

    - Nó cũng là một biểu hiện giả dối. Giả dụ như giả dối trong tuyển sinh, trong cam kết chất lượng, trong việc liên kết đào tạo giữa trường công với trường tư, trong việc đào tạo các hình thức phi chính quy cốt chỉ để thu hút người học mà không màng đến chất lượng. Gần đây người ta còn có định hướng mỗi tỉnh thành có một trường đại học. Để trường được thành lập, người ta phải NÓI DỐI về điều kiện đảm bảo chất lượng, chủ trương xã hội hóa.

    * Trong giáo dục, những chính sách nào mà giáo sư cho rằng gây nhiều bức xúc vì sự giả dối?

    - Đó là chính sách đối với nhà giáo. Cứ nói “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” và nhà giáo là nghề cao quý, được tôn vinh nhưng thử xem lương của nhà giáo thế nào? Lương nhà giáo mới ra trường cộng thêm phụ cấp vẫn không bằng lương những người lao động bình thường ở một số doanh nghiệp. Lương nhà giáo thấp không phải vì đất nước quá nghèo, mà do chính sách bất hợp lý. Chuyện này tôi đã nói từ 15-20 năm nay, nhưng không thay đổi.

    Nhà giáo không sống được bằng lương Nhà nước thì họ phải tự cứu mình. Có người vật lộn với cuộc mưu sinh nhưng vẫn giữ được sự chừng mực, nhưng có người không thế. Từ đây đẻ ra nhiều tiêu cực như dạy thêm, học thêm tràn lan. Muốn học sinh phải học thêm, nhiều thầy cô đã không dạy hết mình ở giờ chính khóa. Rồi thì thỏa hiệp với việc chạy trường, chạy lớp. Những chuyện này bản chất cũng là sự dối trá phổ biến ở nhiều cấp học, nhiều địa phương. Nhà quản lý giáo dục vì lợi ích riêng cũng bịa ra nhiều hoạt động, nhiều việc không cần thiết, không thực chất để rút tiền Nhà nước. Ở bậc đại học cũng không kém gì phổ thông. Tình trạng đạo văn, chuyện mua điểm, mua bằng, tiêu cực trong nghiên cứu khoa học đều xuất phát từ chính sách không thỏa đáng cho nhà giáo.

    Đã có thời gian giáo viên cả nước háo hức với lời hứa “năm 2010 nhà giáo sẽ sống được bằng lương”, nhưng hai năm trôi qua rồi lương nhà giáo may ra nuôi sống gia đình họ được một tuần. Điều này khiến nhà giáo mất dần niềm tin, tâm huyết.

    * Những tiêu cực nói chung và sự giả dối nói riêng trong nhà trường cũng có phần tác động từ xã hội...

    - Đúng là như thế. Một xã hội nhìn có quá nhiều sự giả dối, tiêu cực thì dĩ nhiên nó ảnh hưởng đến thầy cô giáo, học sinh. Bởi thế, hành vi giả dối của thầy, của trò không hoàn toàn là trách nhiệm của ngành GD-ĐT. Giả dối có sự tác động lẫn nhau ở nhiều lĩnh vực đời sống.

    * Trong bối cảnh hiện tại, theo giáo sư, ngành GD-ĐT nên làm gì trước mắt để khắc phục căn bệnh giả dối?

    - Theo tôi, cần có một cuộc vận động lớn nêu cao tính TRUNG THỰC trong toàn ngành giáo dục: sửa đổi ngay những quy định chính sách có thể khuyến khích hay dung túng giả dối như thi đua, báo cáo thành tích, những quy định tài chính còn nhiều sơ hở...

    Nhưng quan trọng hơn cả là sửa ngay chế độ lương và phụ cấp cho nhà giáo các cấp, để nhà giáo thật sự sống được tử tế bằng đồng lương.

    VĨNH HÀ - NGỌC HÀ thực hiện
  4. cothongminh

    cothongminh Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    01/11/2013
    Bài viết:
    199
    Đã được thích:
    16
    Có tài liệu tâm lý trẻ em nào không hả bạn?
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Đả có nhiều nhận xét, ý kiến (trái & thuận chiều) của nhiều trí thức học giả, các nhà chính trị trong những vấn đề này.

    Một nhà khoa học lớn nước ngoài tâm huyết với Việt Nam khi được hỏi về điều gì cần thay đổi cấp bách nhất để chấn hưng giáo dục, đặc biệt là ĐH, đã không chút ngần ngại nói ngay đó là chế độ lương kỳ quặc không thấy đâu trong thế giới văn minh nhưng đã tồn tại dai dẳng ở Việt Nam từ hàng chục năm nay. Một chế độ lương biểu thị không gì khác hơn là sự khinh miệt đối với lao động giáo dục và khoa học, trái hẳn với chủ trương tôn vinh nhà giáo đã được lãnh đạo khẳng định lặp đi lặp lại không biết bao nhiêu lần suốt thời gian qua.

    Kiến nghị của GS Hoàng Tụy về Cải cách giáo dục (CCGD) nêu vấn đề cấp bách số 1 cần giải quyết là cần cải thiện chính sách đối với người thầy. Theo ông, Với đồng lương thấp đến mức khó tưởng tượng, đương nhiên nhà giáo và các quan chức giáo dục đều phải xoay xở để kiếm thêm thu nhập. Chính đó là cái lỗ hổng quản lý gây nên hoặc làm trầm trọng thêm hầu hết các căn bệnh trầm kha đã ra sức tàn phá giáo dục. Chúng ta nói nhiều đến bệnh giả dối, bệnh gian dối, bệnh thành tích ảo... nhưng làm sao chống được các bệnh ấy để có một nên giáo dục trung thực, lành mạnh... nói chi đến hiện đại, nếu cái nguyên nhân gây ra các bệnh ấy nằm ngay trong cơ chế, nói cách khác nằm ngay trong khuyết tật hệ thống của giáo dục?

    Sự thật, nhờ xoay xở đủ mọi cách hợp pháp hay không hợp pháp, hợp lý hay trái với lương tâm, phần lớn nhà giáo, nhất là quan chức giáo dục, nay đã có mức sống không đến nỗi quá tệ, thậm chí một bộ phận nhỏ còn có thu nhập khá. Song cái giá phải trả thật quá đắt. Những giải pháp chữa cháy gần đây theo kiểu “kế hoạch 3” hồi những năm 80 thế kỷ trước, hay cho phép nhiều cơ sở giáo dục vượt rào để xử lý từng trường hợp riêng lẻ về lâu dài rất nguy hiểm, chỉ gây thêm rối loạn, dẫn đến bất công và tiêu cực ngày càng tệ hại hơn.

    Điều không may mắn là giải quyết vấn đề cốt tử này cực kỳ khó vì căn bệnh từ lâu đã thành một thứ ung thư của cả xã hội, chứ không riêng gì của giáo dục, lại gắn liền chặt chẽ với quốc nạn tham nhũng & các CĂN BỆNH GIẢ DỐI trog mọi mặt XH đang ngày càng gia tăng chóng mặt.
    Trước mắt chưa thể hy vọng có thể chữa trị nhanh chóng cái ung thư này, cho nên giáo dục phải tìm mọi cách tự cứu lấy mình trong phạm vi có thể, may ra còn nêu gương cho các ngành khác để tiến dần đến một giải pháp chung.

    Theo tính toán của nhiều chuyên gia, hoàn toàn có cơ sở để tin rằng dù trong phạm vi cả nước còn khó khăn thì ngay trong nội bộ ngành giáo dục, vẫn có thể rà soát lại cơ chế tài chính, kiên quyết bỏ hay giảm bớt mọi khoản chi tiêu không hiệu quả, trên cơ sở đó tăng lương, bảo đảm lương đủ sống và dần dần trở thành thu nhập chính của mỗi người, từ đó lập lại kỷ cương, đạo đức trong giáo dục.

    Trong một xã hội mà đời sống kinh tế bị thao túng nặng nề bởi các “nhóm lợi ích”, ai cũng thấy đây là việc vô cùng khó, tuy khả thi về điều kiện vật chất khách quan nhưng chắc chắn sẽ vấp trở ngại cực kỳ lớn.

    Biết thế, song giáo dục là lĩnh vực cần bảo vệ trong sạch nhất, nếu không cương quyết làm bây giờ mà cứ trì hoãn mãi thì sẽ ngày càng khó hơn và sẽ chẳng bao giờ có hy vọng trả lại lòng tự trọng cho giáo dục, chẳng bao giờ xây dựng được một nền giáo dục lành mạnh, trung thực, hiện đại.

    Thật đau xót, nhục nhã, khi các chức vụ quản lý lớn nhỏ trong những tập đoàn, tổng công ty nhà nước làm ăn kém hiệu quả, nếu không phải là thua lỗ triền miên, vẫn được trả lương cao gấp mấy chục lần các giáo sư ĐH. Sự thể đó cứ thản nhiên tồn tại năm này qua năm khác, song song với khẩu hiệu đã thành nhàm chán vì lặp đi lặp lại 15 năm nay mà chưa bao giờ đi vào cuộc sống: giáo dục, khoa học là quốc sách hàng đầu.
    >
    Bốn vấn đề chính cần giải quyết trong cuộc Cải cách giáo dục (CCGD) được GS Hoàng Tụy đúc kết gồm:
    1. Cải thiện cơ bản chính sách đối với người thầy.
    2.Cải cách hệ thống giáo dục phổ thông và dạy nghề.
    3.Thay đổi căn bản cung cách học và thi, xoá bỏ khổ dịch thi cử nặng nề, tốn kém mà kém hiệu quả
    4.Chuyển giáo dục ĐH theo hướng hiện đại hóa và hội nhập quốc tế...

    Bản đề cương gồm ba phần chính: Quan điểm tổng quát (triết lý cơ bản của giáo dục mới); Những vấn đề chính và cấp bách cần giải quyết; Lộ trình và tổ chức thực hiện. Trong đó, 4 vấn đề cần giải quyết cấp bách theo định hướng hội nhập tích cực vào trào lưu chung của thế giới văn minh.

    GS phân tích:

    "Ngày nay, sau mấy chục năm giáo dục chìm đắm trong khủng hoảng triền miên bởi các ràng buộc ý thức hệ cứng nhắc, đã đến lúc chúng ta phải có sự lựa chọn: hoặc là tiếp tục con đường cũ, tiếp tục giam hãm đất nước trong nền giáo dục ngày càng tụt hậu so với thế giới, hoặc là cương quyết thay đổi tư duy, thực hiện bước ngoặc cơ bản, mở đường cho một giai đoạn giáo dục khai phóng phát triển.

    Mở đầu bản kiến nghị, ông viết:

    "Từ lâu, giáo dục đã trở thành chỗ nghẽn lớn nhất trong sự phát triển của đất nước. Vì vậy cải cách giáo dục toàn diện và triệt để theo tinh thần các nghị quyết gần đây của Đảng là đòi hỏi bức thiết của cuộc sống. Đã đến lúc không còn có thể tiếp tục kiểu đổi mới nửa vời, vụn vặt, chắp vá, không có hệ thống, đã kéo dài hàng chục năm qua".

    Bản kiến nghị kết thúc với đề xuất:

    "Biết rằng, trong hiện tình đất nước có vô vàn khó khăn, nhưng đây cũng là thời cơ để giáo dục có thể lột xác, từ một kiểu giáo dục nặng tính giáo điều, lạc hậu và lạc điệu với thời đại và thế giới, tiến lên một nền giáo dục khai sáng, lành mạnh, trung thực, hiện đại, phù hợp xu thế tiến hóa chung của nhân loại và đáp ứng lợi ích tối cao của đất nước.


    Theo Vietnamnet
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Tưởng như câu chuyện “NÓI VẬY MÀ KHÔNG PHẢI VẬY”; "Nói một đàng, làm một nẻo" chỉ tạm dừng ở 1 câu chuyện phiếm & biếm bìh thừờng thời nay , tuy nhiên, trứơc đây, nó đã đập vào mắt của 1 nhân vật chính trị kiệt xuất, người tiên fong khởi xướng công cuộc đổi mới trong fong trào "Đổi Mới" và Cởi Mở kinh tế XH VH VN

    Từ câu chuyện “NÓI VẬY MÀ KHÔNG PHẢI VẬY”; "Nói một đàng, làm một nẻo" đến mục “Nói và Làm” sau bút danh “N.V.L”
    cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh Đảng +S VN (1-7-1915 – 1-7-2010)
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Văn_Linh

    Vào thời điểm cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, một số tác phẩm của Ông Nguyễn Văn Linh Tổng Bí thư Đảng +S VN đã nêu lên được những vấn đề nóng bỏng của cách mạng Việt Nam, những công việc cần phải thực hiện theo đường lối đổi mới.

    Đó là những tác phẩm Về công tác quần chúng, Cách mạng Tháng Mười và Cách mạng Việt Nam, Theo con đường Bác Hồ đã chọn, Bác Hồ sống mãi với non sông, Đổi mới công tác giữa quần chúng nhan dân & lãnh đạo, Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường chúng ta đi (in chung)…
    Đặc biệt, vào cuối tháng 5-1987, trên trang nhất báo Nhân Dân xuất hiện một bút danh mới “N.V.L” với mục “Nói và Làm” với diễn đàn trên báo .
    Những bài viết của Ông trên báo Nhân Dân vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới với nhan đề “Những việc cần làm ngay” đã tạo luồng sinh khí mới trong nền VH & xã hội VN: nói thẳng, nói thật, dân chủ, công khai, góp phần đấu tranh chống tiêu cực, làm trong sạch bộ máy các cơ quan Nhà nước.
    Trong cơn hăng hái, ông viết liền gần 80 bài báo : "Nói Và Làm" N.V.L. (Nguyễn Văn Linh) góp ý về những khuyết điểm, thiếu sót trong bộ máy nhà nước ; lãnh đạo và quần chúng.
    Cũng trong giai đoạn này, nhiều tác phẩm của Ông Nguyễn Văn Linh đã ra mắt bạn đọc với những vấn đề cụ thể, của từng lĩnh vực.
    Đó là dấu ấn mà cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh để lại cho báo chí và xuất bản do trực tiếp ông khởi xướng và cũng chính ông trực tiếp tham gia viết, có lẽ dân tộc Việt Nam đến nay khi nhắc về ông vẫn một lòng biết ơn, câu cửa miệng luôn là: "Nếu không có Tổng Bí Thư NVL khởi xướng đổi mới thì đến giờ này không biết Việt Nam đi về đâu rồi....?!'
    trong mặt trận VHNT Được ông Trần Độ góp ý, ông Linh rất gần , các văn nghệ sỹ, & nhà báo..
    khi mới nhận chức tổng bí thư năm 1986 đã Ông tỏ ra khá cởi mở & quý trọng các văn nghệ sỹ, các nhà báo..
    Những câu nói của ông Linh, đến nay nhiều người còn nhớ. Trong 2 ngày gặp văn nghệ sỹ và nhà báo, ông nghe nhiều hơn nói.
    Sau khi lắng nghe 9 tiếng đồng hồ, ông phát biểu có 20 phút. Ông nói đại ý :
    - anh chị em phải tự mình dành quyền tự do nghĩ và tự do viết;
    - hãy tự mình cởi trói cho mình;
    - nếu không đứng dậy tự cứu thì không ai cứu mình đâu;
    - anh chị em chớ bao giờ bẻ cong ngòi bút; không ai có thể ngăn cấm mình viết lên SỰ THẬT;
    - người lãnh đạo giỏi chính là người biết phát huy hết khả năng tự do sáng tạo của anh chị em ...
    Trong cơn hăng hái, ông viết liền gần 80 bài báo N.V.L.: "Nói Và Làm" (Nguyễn Văn Linh) góp ý về những khuyết điểm, thiếu sót trong bộ máy nhà nước và lãnh đạo.

    Sự nghiệp đổi mới do ông khởi xướng, rồi kế tục bởi Cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt đã làm cho Việt Nam thật sự thay da đổi thịt, nhân dân ghi nhận và bạn bè thế giới kết bạn....
    Đáng tiếc là ông Nguyễn Văn Linh bỏ cuộc hơi bị sớm. Ông giật mình khi thấy các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị nhào, tường Berlin đổ, khi ông mở cửa đã bị trúng gió, liền đóng sập cửa xuống đài xin giữ vai cố vấn.
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Tưởng niêm cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh,
    Ông Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí thư Đảng +S VN, nhớ lại: "Khi anh Linh về nhận nhiệm vụ Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng, qua các hoạt động của anh và các bài báo "Những việc cần làm ngay", anh em chúng tôi nhận thấy ở anh một tác phong lãnh đạo mới, cương trực, thẳng thắn, hàm chứa tinh thần chiến đấu cách mạng cao và sắc bén, một niềm tin vững chắc vào nhân dân, vào chân lý, vào SỰ THẬT.
    Anh là con người của SỰ THẬT, chiến đấu vì lẽ phải, vì hạnh phúc của nhân dân, vì một Đảng cách mạng trong sạch, có trong sạch thì mới vững mạnh, mới dám nhìn thẳng vào SỰ THẬT, đánh giá đúng SỰ THẬT và nói rõ SỰ THẬT, không che giấu khuyết điểm, mới dám đấu tranh không khoan nhượng để bảo vệ SỰ THẬT…".

    Cố Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng đánh giá cao tính nguyên tắc và thẳng thắn của Ông Nguyễn Văn Linh trong các vấn đề quan điểm và trong công tác chống các hiện tượng tiêu cực: Ông viết:
    "Trước tình hình có nhiều biểu hiện trì trệ, quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, anh đã trực tiếp viết một loạt bài báo nêu lên "Những việc cần làm ngay" thể hiện tinh thần nhìn thẳng vào SỰ THẬT, nói đúng SỰ THẬT, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, đã tạo nên không khí mới trong xã hội. Việc làm này tuy gặp khó khăn nhưng cũng đã có kết quả nhất định, góp phần đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực.
    Anh luôn coi trọng giáo dục đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân, phê phán nghiêm khắc những hiện tượng tham nhũng, suy thoái phẩm chất, thiếu gương mẫu của một số cán bộ, đảng viên, kể cả đảng viên cao cấp".

    Khi viết về Ông Nguyễn Văn Linh, Ông Nguyễn Phú Trọng, nguyen Chủ tịch Quốc hội đã nhắc lại những dòng tin từng được đăng trên Báo Nhân Dân số ra ngày 26/5/1988 và ngày 6/2/1990: "Trong những dịp gặp gỡ với các cán bộ hưu trí Thủ đô ở Câu lạc bộ Thăng Long (tháng 5/1988 và tháng 2/1990), có ý kiến của một số đ/c Ông tâm sự chân tình với Tổng Bí thư: Hãy hết sức cẩn trọng, "không để tay nọ đánh vào tay kia".
    Ông Nguyễn Văn Linh đã nói rõ: "Chúng ta không nên thận trọng tới mức rụt rè. Có gì sai khi chúng ta nói rõ SỰ THẬT, dù là SỰ THẬT đau lòng để cùng nhau khắc phục, cùng nhau sửa chữa, sửa chữa để tiến lên; phải tiếp tục đẩy mạnh phê bình và tự phê bình; phải kiên quyết chống bọn tham nhũng, ăn cắp, ức hiếp nhân dân và phải xử lý thật nghiêm".

    theo Vũ Liêm Chính
    báo antgct & cand.com.vn
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Ko chỉ riêng Ông Nguyễn Văn Linh; 1 cựu TT của chế độ củ là Nguyễn Văn Thiệu
    http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguyễn_Văn_Thiệu‎ củng đả từng lên tiếng
    ^ “ĐÚNG! Đừng Nghe Những Gì CS Nói, Mà Hãy Nhìn Những Gì CS Làm!”.

    Việt Báo Daily Online. 26 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2013.

    Tuy nhiên ông ta quên nhắc lại là đừng nghe/ nhìn ~ gì Thiệu nói mà hảy nhìn ~ gì Nguyễn Văn Thiệu làm (vì đều là Ng VN cả thôi)

    - Lời nói mà không đi đôi với việc làm của bất kỳ ai cũng làm xói mòn lòng tin của mọi người dân dưới mọi hình thái xã hội.
    Nói phải đi đôi với làm là một đòi hỏi mang tính xã hội. Không phải riêng thời nay, mà xưa đã thế và sau này vẫn thế.
    Từ dân đến vua quan, từ kẻ bị lãnh đạo đến người lãnh đạo... đều phải luôn luôn ghi nhớ: Nói phải đi đôi với làm!
    Bởi, mười lần nói không bằng một lần làm; bởi nói hay không bằng cày giỏi; bởi nói và làm gắn chặt với chữ tín:
    một lần bất tín, vạn sự bất tin - một lần nói không đúng, nói không đi với làm; vạn lần mất lòng tin ở người nghe!

    Khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định kí tên NVL dưới loạt bài báo Những việc cần làm ngay, ông đã không chỉ viết tắt họ tên mình, mà còn có ý gửi gắm một phương châm sống, một phương châm lãnh đạo theo suốt cuộc đời ông: Nói và làm. (theo nhà báo Hữu Thọ)

    Nhưng tại sao nói lại không đi đôi với làm? Điều dễ hiểu này ai cũng biết, đó là vì bao giờ nói cũng dễ hơn làm.
    Nói dễ vì nói do cái lưỡi phụ trách (mà cái lưỡi vốn “không xương”, nên “nhiều đường lắt léo”);
    còn làm khó, vì làm thuộc thẩm quyền đôi tay và cơ bắp!
    Nói dễ, vì lời nói gió bay, vì nói trước quên sau, vì nói đâu bỏ đấy và vì lời nói không mất tiền mua...
    Nhưng, hãy cảnh giác! Lão Tử đã từng dạy: Lời nói có thể tin được thì nghe không hay; lời nói nghe hay thì không thể tin được!
    NHƯNG SỢ NHẤT CÓ LẼ LÀ NGƯỜI BIẾT – KHÔNG NÓI VÀ NGƯỜI NÓI – KHÔNG BIẾT!

    Nói là một việc đơn giản – trẻ con, người lớn... nếu không bị khuyết tật bộ phận thanh quản, đều có thể nói những gì muốn nói - vấn đề nằm ở chỗ… có được nói hay không! Nhưng tác dụng trong cuộc sống xã hội của lời nói thì không hề đơn giản chút nào.
    Lời nói như dao chém đá, không dễ phủi phui được đâu! Cho nên chớ có ăn có nói không, nói bừa, nói ẩu, nói ngon, nói ngọt, nói cho xong chuyện,
    NÓI MỘT ĐÀNG LÀM MỘT NẺO và nhất là chớ có... nói lời lại nuốt lời – trừ phi anh không còn là người tự trọng!
    Thậm chí, chúng ta không chỉ cần biết sợ và đừng cả tin vào mọi lời nói, mà còn phải ghi nhớ: Chính vì nói dễ nên đôi khi nó rất nguy hiểm.
    Cha ông ta đã từng căn dặn: Lời nói đọi máu đấy sao! "Nói" còn được định danh là "phát ngôn". Phát ngôn là công việc quan trọng xưa nay, do đó mọi phát ngôn đều phải thận trọng. Các tổ chức chính trị, xã hội thường cử ra người phát ngôn của họ và chỉ những lời nói (tuyên bố) của người này mới có giá trị đại diện cho tổ chức chính trị, xã hội đó.
    Cho nên, nói tưởng là việc dễ, mà chẳng dễ tí nào!

    Làm khó, vì làm phải tốn sức, tốn công, thậm chí phải quên mình, phải hy sinh... Tốn sức, tốn công thì nhiều người có thể làm được. Nhưng hy sinh, quên mình, mới là thử thách khó vượt qua! Mà ở đời, những việc quan trọng nhất, lại thường đòi hỏi người thực hiện phải hy sinh, phải quên mình!
    Dám hy sinh thì việc khó trở thành dễ. Đó là CHÂN LÝ vậy!
    Chiến đấu chống ngoại xâm, phải cầm chắc có thể hy sinh xương máu. Chấp nhận rồi, thì cái chết nhẹ tựa lông hồng; gian nan, nguy hiểm đến mấy cũng dễ dàng vượt qua!
    Cuộc chiến đấu với nội xâm (nạn tham nhũng), khó hơn nhiều, đòi hỏi sự hy sinh lớn lao hơn nhiều. Vì đó là cuộc chiến với người sống bên ta, với đồng đội, đồng chí... thậm chí với chính bản thân ta – nhằm loại trừ nạn sâu mọt đục khoét, đang làm băng hoại giá trị đạo đức, lối sống; làm mục ruỗng xã hội!
    Lên án tham nhũng thì dễ, ai ai cũng lên án được, thậm chí bản thân kẻ tham nhũng còn lớn tiếng lên án hơn tất cả mọi người nữa cơ!

    Chống tham nhũng mới là chuyện cực kỳ khó, là vì vậy! Bởi lên án là hành vi nói, còn chống là hành vi làm. THAM NHŨNG đang là căn bệnh phổ biến của nhiều nước. Vừa qua, Hội nghị chống tham nhũng quốc tế lần thứ 14 đã kết thúc tại Bangkok với thông điệp "Niềm tin sẽ được khôi phục, nếu theo sau những tuyên bố mạnh mẽ là hành động cụ thể" .

    Cái gốc vẫn là vấn đề NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM.

    Vâng! Nói phải đi đôi với làm, điều ấy ai cũng thường nghe, ai cũng hiểu và ai... cũng nói được – mà làm thì mới khó làm sao!

    theo Trần Huy Thuận
    Lần cập nhật cuối: 13/01/2014
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Đến cả các con số củng biết “NÓI DỐI”, như GS Nguyễn Văn Tuấn chỉ ra
    Hơn cả NÓI DỐI chính là… thống kê
    SGTT.VN - Thời gian gần đây, những con số thống kê về tình hình kinh tế đã trở thành đề tài bàn thảo sôi nổi trên mặt báo, với nhiều nghi ngờ.



    [​IMG]
    Không ai biết chính xác tỷ lệ nợ xấu là bao nhiêu. Thống đốc ngân hàng Nhà nước trước đây cho rằng con số nợ xấu là 10%, nhưng chính ông sau đó vài ngày lại nói là 8,6%. Sự “nhảy đầm” của những con số như thế làm người dân thấy rất khó tin. Ngay cả nguyên phó Thủ tướng Vũ Khoan còn phải thốt lên là ông cảm thấy khó tin vào thống kê của Chính phủ!

    Số dối tại người

    Sự thiếu tin tưởng vào con số thống kê không phải là hiện tượng mới. Phương Tây có một câu nói nổi tiếng: “Có ba loại nói dối: dối, dối đáng nguyền rủa, và… thống kê”(*). Con số thống kê được xếp vào nhóm nói dối còn tệ hơn là đáng nguyền rủa!

    Tại sao con số thống kê được xem là kinh tởm như thế? Tại vì người dùng con số và bản chất khoa học của con số. Người dùng con số thống kê thường là những người có học, họ xuất hiện trước công chúng một cách nghiêm chỉnh (veston, thắt cravat) và do đó càng tăng mức độ tin cậy. Vói sự kỳ vọng như thế, khi công chúng biết rằng họ nói dối thì đó là một sự thất vọng ghê gớm. Khác với con chữ, bản thân con số là sự chính xác của khoa học (nếu ai đó nói rằng “một thiểu số cán bộ” thì không thuyết phục bằng “có 1% cán bộ”), và khoa học theo nguyên tắc thì không được dối trá. Do đó, dùng con số thống kê để nói dối là một “trọng tội”, vì nó nguy hiểm hơn tất cả các loại nói dối khác.

    Không phải ngẫu nhiên mà trong nghị trường ở các nước phương Tây, con số thống kê được sử dụng rất cẩn thận. Nói dối trong xã hội phương Tây là điều đại kỵ, dù chính trị gia nổi tiếng là nói dối. (Xin mở ngoặc để nói thêm rằng ở các nước phương Tây, các thành phần xã hội bị người dân khinh thường nhất gồm người bán xe cũ, giới làm việc trong ngân hàng, và… chính trị gia). Ở Úc, nếu bộ trưởng trình bày một con số hay một phát biểu quan trọng mà không có cơ sở thì được xem là trọng tội, và bị ghi vào hồ sơ quốc hội.

    Nhưng ở Việt Nam, có nhiều quan chức, kể cả quan chức cao cấp, có xu hướng dùng con số thiếu cẩn thận. Người ta thường dùng (hay có khi “vặn vẹo”) con số thống kê được để yểm trợ cho các phát biểu nào đó. Điều trớ trêu nhất có lẽ là con số tăng trưởng GDP. Trong khi cả nước tính trung bình, tỷ lệ tăng trưởng GDP khoảng 6%, nhưng các tỉnh/thành thì báo cáo tăng trên 10%. Những khác biệt đến vô lý như thế làm cho ngay cả chuyên gia thống kê cũng phải thốt lên “sự dối trá của số liệu”. Trong khoa học, vặn vẹo số liệu là một trọng tội và nhà khoa học sẽ bị kỷ luật, nhưng trớ trêu thay, trong nghị trường thì chẳng ai bị kỷ luật gì cả!

    Thật ra, con số không dối trá, chỉ có người sử dụng con số để nói dối. Để chứng minh thành tích giáo dục, người ta có thể làm cho con số tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông cao ngất ngưởng tới 95 – 100%. Trong trường hợp này, con số đó là được thu thập đúng, nhưng nó là con số đã bị “tra tấn”. Do đó, thủ phạm nói dối ở đây chính là cái hệ thống đã tra tấn, đã tạo ra con số đó chứ không phải con số.

    “Sai con toán, bán con trâu”

    Con số thống kê cũng là một sản phẩm của xã hội, chứ không tồn tại một cách độc lập. Chính vì thế mà con số cần phải đặt trong bối cảnh thì mới có ý nghĩa. Mới đây, một trong những con số gây ra nhiều nghi ngờ nhất có lẽ là con số 1% cán bộ công nhân viên không hoàn thành nhiệm vụ. Càng đáng nghi ngờ hơn khi trước đó ngay trong nghị trường Quốc hội, có con số 30% cán bộ công chức làm việc theo kiểu “sáng cắp ô đi, chiều cắp ô về”. Người ta nghi ngờ con số 1% không chỉ vì nó khác biệt quá lớn với con số 30%, nhưng còn vì không biết con số đó được thu thập và tính toán như thế nào, và định nghĩa thế nào là “không hoàn thành nhiệm vụ”. Không có câu trả lời cho hai câu hỏi đó thì con số 1% hay 30% đều chưa nói lên ý nghĩa thật của chúng.



    Nếu con số thống kê bị làm cho sai, bị biến thành một công cụ để nói dối thì các chính sách công sẽ gây ảnh hưởng xấu đến rất nhiều người.

    Bối cảnh của con số rất quan trọng. Nhiều người rất tự hào rằng tỷ lệ phát triển kinh tế (qua con số tăng trưởng GDP) cao nhất nhì thế giới, nhưng có lẽ họ quên rằng Việt Nam xuất phát từ một cơ sở rất thấp so với các nước trong vùng như Thái Lan và Malaysia. Có thể (chỉ là ví dụ) thu nhập bình quân của người dân Việt tăng gần bốn lần từ năm 2000 – 2012, nhưng thu nhập bình quân đầu người ở Việt Nam vào năm 2000 chỉ 402 USD (bằng 1/5 của Thái Lan). Nếu chúng ta tăng trưởng thì các nước láng giềng cũng không đứng một chỗ. Đặt trong bối cảnh như thế mới thấy còn quá sớm để tự hào.
    Bối cảnh còn quan trọng hơn khi con số liên quan đến tử vong. Khoảng năm năm trước, tôi kinh ngạc khi đọc một bản tin trên báo trích dẫn phát biểu của một quan chức rằng “Lao động Việt Nam tại Malaysia: tỷ lệ tử vong chỉ 0,09%”. Tại sao “chỉ”, trong khi có hàng trăm người chết? Có 315 người Việt đã chết trên xứ người, với những nguyên nhân mù mờ, là một điều rất đáng quan tâm. Mỗi cái chết là một thảm trạng cho gia đình nạn nhân. Con số 315 tử vong cũng có nghĩa là 315 gia đình đang lâm vào cảnh khó khăn, khốn đốn. Chẳng những là 315 cái tang gia đình, mà còn là một sự mất mát không nhỏ cho quốc gia Việt Nam. Cần nhắc lại rằng những người lao động kém may mắn này chết trong độ tuổi sung mãn nhất của đời người. Nếu tuổi thọ trung bình trong nam giới cả nước là 71, tính trung bình mỗi cái chết tương đương 46 năm sống bị mất, và tính chung 315 người chết có nghĩa là trên 14.000 năm sống bị mất đi. Con số 0,09% có lẽ quá nhỏ đối với người mê sảng con số, chứ nó không hề nhỏ với cộng đồng.

    Con số có khi còn được sử dụng để nguỵ biện. Không ít người nghĩ rằng ngành y tế Việt Nam dù được đầu tư thấp nhưng có hiệu quả cao. Nhận định này dựa vào so sánh con số thống kê tuổi thọ trung bình của dân số và đầu tư cho y tế của Việt Nam và các nước tiên tiến như Mỹ hay Âu châu. Nhưng đây là một nguỵ biện bằng con số, bởi vì đánh giá hiệu quả của một nền y tế không ai chỉ chọn một chỉ tiêu duy nhất như tuổi thọ trung bình, mà còn phải xem xét đến tỷ lệ tử vong ở trẻ em sơ sinh, chất lượng chăm sóc, sự hài lòng của bệnh nhân, v.v. Vả lại, người dân Việt Nam bỏ tiền túi cho y tế nhiều hơn là đầu tư trung bình của Nhà nước. Do đó, một so sánh giữa Việt Nam và Mỹ rất khó cho chúng ta một kết luận đúng.

    Người Việt chúng ta có câu “sai con toán, bán con trâu” để nói lên hệ quả nghiêm trọng của việc tính toán sai. Tính toán sai có thể bắt nguồn từ con số sai. Nếu con số thống kê bị làm cho sai, bị biến thành một công cụ để nói dối thì các chính sách công sẽ gây ảnh hưởng xấu đến rất nhiều người.

    Nguyễn Văn Tuấn

    (*) “There are 3 kinds of lies: lies, damned lies, and statistics”. Nhiều người cho rằng tác giả câu này là Benjamin Disraeli, Thủ tướng Anh vào thế kỷ 19, nhưng trong thực tế ông không nói câu đó. Rất có thể người nói là nhà văn Mỹ Mark Twain

    http://sgtt.vn/Khoa-giao/183721/Hon-ca-noi-doi-chinh-la-thong-ke.html
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.574
    Đã được thích:
    49
    Giáo dục
    Giáo sư Tiến sĩ Pierre Darriulat (sinh năm 1938) là một nhà vật lý hàng đầu quốc tế, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp từ năm 1986, đoạt giải thường André Lagarrique năm 2008 của viện máy gia tốc tuyến tính Orsay.

    Từ 1979 – 1987: ông là người phát ngôn của thí nghiệm UA2 nổi tiếng tại Trung tâm Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) nhằm tìm ra các hạt boson W± và Z0 trong lý thuyết thống nhất tương tác yếu và tương tác điện từ. Từ 1987 – 1994 ông là giám đốc nghiên cứu tại CERN.

    Năm 1978 CERN thông qua ý tưởng đặt thí nghiệm tại hai điểm của máy gia tốc Super Proton Synchrotron (SPS) năng lượng 450 GeV để đạt được năng lượng đủ lớn tạo bởi va chạm của các chùm proton và phản proton bay ngược hướng nhau nhằm tạo ra các hạt bosons của tương tác yếu có khối lượng trong vùng 80 – 100 GeV. Thí nghiệm UA1 được đặt tại điểm thứ nhất do Carlo Rubbia, giáo sư đại học Harvard, đứng đầu. Thí nghiệm UA2 được đặt tại điểm thứ hai do Pièrre Darruilat chỉ đạo. Ngày 20 tháng 1 năm 1983 nhóm của C. Rubbia công bố kết quả của 5 va chạm sinh ra các hạt W boson đo được tại UA1. Sáng hôm sau nhóm của P. Darriulat công bố kết quả của 4 va chạm đo được tại UA2. Tháng 5/1983 hạt Z0 cũng được phát hiện. “Vì những đóng góp quyết định vào những dự án lớn đưa đến những phát hiện nói trên” (đặc biệt là ý tưởng dùng SPS của CERN để tạo va chạm giữa proton và phản proton trong cùng một vòng xuyến của máy gia tốc) Carlo Rubbia và Simon van der Meer được trao giải Nobel về vật lý năm 1984.

    Từ năm 1998, sau khi nghỉ hưu, giáo sư P. Darriulat đã chuyển hẳn tới Hà Nội sinh sống cùng vợ người Việt. Tại đây ông đã tự tay mình thành lập phòng thí nghiệm vật lý tia vũ trụ đầu tiên của Việt Nam đặt tại Viện Khoa học và Kỹ thuật Hạt nhân (Nghĩa Đô – Hà Nội), đào tạo các người nghiên cứu trẻ Việt Nam về vật lý tia vũ trụ, và lần đầu tiên đưa vật lý thiên văn hiện đại vào giảng dạy tại Đại học Quốc gia Việt Nam.

    (Trích từ Lời giới thiệu trong bài “Việt Nam cần các trường đại học và viện nghiên cứu tốt hơn” của P. Darriulat)

    Có được một nhà vật lý tầm cỡ giải Nobel như thế thực là vô cùng quý giá cho một quốc gia.


    Chiếc búa lớn hơn
    Theo Kỷ yếu Humboldt 2010, NXB Tri Thức, Hà Nội 2011
    Pierre Darriulat ...

    Mới đây một nữ phóng viên trẻ của báo Tuổi Trẻ đã phỏng vấn tôi. Cô muốn gặp tôi vì nghe nói tôi có một số ý tưởng về cải cách giáo dục ở Việt Nam. Tôi giải thích với cô ấy rằng tôi không phải là người đưa ra ý tưởng ban đầu, đó không phải là ý tưởng của riêng tôi mà bất cứ ai có một chút kinh nghiệm với giáo dục đại học và nghiên cứu cũng sẽ nói những điều tôi đã nói và đó là những điều đã được nói đến nhiều năm nay bởi rất nhiều người Việt có kinh nghiệm, có năng lực và hiểu biết hơn tôi và rằng đã đến lúc phải lắng nghe họ. Không người nào điếc hơn người không muốn nghe, không người nào mù hơn người không muốn nhìn. Chúng ta cần một chiếc búa lớn hơn.


    Cách đây vài năm, tôi có vinh dự rất lớn khi được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sở dĩ có cuộc gặp này là do ông đã nghe về những hoạt động của tôi nhằm thúc đẩy sự phát triển giáo dục và đào tạo tại Việt Nam. Đó là một cuộc gặp gỡ hết sức cảm động. Ông đã nắm tay tôi và nói rằng đại học Việt Nam cần một cuộc cách mạng, anh hãy tiếp tục đấu tranh. Tôi không bao giờ quên điều đó*. Đấy là lý do tại sao tôi đồng ý viết thêm vài dòng về đại học và nghiên cứu ở Việt Nam mặc dù tôi tin rằng tất cả những điều cần phải nói đã được nói và chúng đã được lặp đi lặp lại nhiều lần, và những gì chúng ta cần bây giờ không phải là nói nữa mà là hành động. Hy vọng thêm một nhát búa nữa sẽ không hại gì và chiếc đinh sẽ không bị quằn.

    Thật vậy, không khó để có thể xác định được những cái cần phải thay đổi. Đó không phải là vấn đề về quan điểm mà là vấn đề về lương tri và sự trung thực, vấn đề về tính nghiêm ngặt của tri thức và đạo đức. Hãy cùng xem lại những điểm chính mà Tướng Giáp và Giáo sư Hoàng Tụy đã đề cập và diễn đạt những điểm đó một cách ngắn gọn. Những gì họ nói có thể được tóm lược lại thành bốn câu: chúng ta phải dừng việc nói một đằng, làm một nẻo; chúng ta phải khôi phục lại phẩm giá cho giới trí thức và học giả; chúng ta phải có kế hoạch rõ ràng cho nghiên cứu và giáo dục cho tương lai; chúng ta phải chấm dứt nạn chảy máu chất xám.

    Nhiều gia đình Việt Nam đã tiêu tốn rất nhiều tiền của để gửi con cái đi du học. Các trường đại học Việt Nam hiện đang trở thành những phòng chờ cho các trường đại học nước ngoài. Những khoản tiền như vậy đã có thể dùng để đầu tư tốt hơn nhiều vào việc cải thiện chất lượng các cơ sở đào tạo và nghiên cứu trong nước.

    Chúng ta PHẢI DỪNG VIỆC NÓI MỘT ĐẰNG, LÀM MỘT NẺO; chúng ta phải khôi phục lại phẩm giá cho giới trí thức và học giả; chúng ta phải có kế hoạch rõ ràng cho nghiên cứu và giáo dục cho tương lai; chúng ta phải chấm dứt nạn chảy máu chất xám.
    Chúng ta chưa nỗ lực trong việc khuyến khích các sinh viên Việt Nam tài năng học tập ở nước ngoài quay trở về phục vụ đất nước
    . Không nên chờ đến khi họ nhận được huy chương Fields hay giải Nobel mới nhận ra tài năng của họ. Cần phải nói cho họ biết trước khi đi học nước ngoài rằng đất nước này cần họ và họ chính là tương lai của đất nước. Những sinh viên đó phải được biết trước khi đi du học về những kế hoạch, chính sách của nhà nước được soạn thảo liên quan tới lĩnh vực của họ, để họ biết họ có thể trông đợi được những gì khi quay trở về. Chúng ta nên theo dõi quá trình học tập và công tác của những sinh viên đó trong thời gian ở nước ngoài, để họ không cảm thấy bị đất nước bỏ rơi mà ngược lại đất nước quan tâm đến họ. Khi trở về, họ cần nhận được sự trợ giúp để xây dựng nên một đội ngũ xung quanh mình và sử dụng hiệu quả nhất những kiến thức và kỹ năng mà họ đã tiếp thu được ở nước ngoài.

    Chúng ta cần có chính sách rõ ràng về các vấn đề giáo dục đại học và nghiên cứu. Chính sách đó cần phải được phổ biến rộng rãi, tới tất cả mọi người để có thể hành động theo đường lối vạch ra. Ngày nay, hầu hết các sinh viên giỏi đều theo học các ngành kinh tế. Kinh tế là khoa học của việc tạo ra tiền bằng tiền. Chúng ta có chắc rằng Việt Nam cần nhiều nhà kinh tế đến như vậy không? Phải chăng chúng ta không cần tài năng của họ để phát triển các lĩnh vực quan trọng khác hay sao? Điều này gợi cho tôi nhớ lại một câu chuyện đã từng nghe. Chuyện xảy ra ở một vương quốc châu Á nhỏ bé đã biến mất từ lâu. Các tầng lớp quý tộc và triều đình sống trong cảnh giàu sang và cách ứng xử của họ phát triển đến độ tinh tế, trong khi đó những người nông dân sống trong cảnh nghèo khó và thiếu văn hoá. Các quý tộc ăn cơm trên bàn làm bằng gỗ quý, dùng đũa bạc, bát vàng, còn những người nông dân thì ngồi trên mặt đất, đựng thức ăn trên lá chuối và ăn bốc. Sự bất bình đẳng, với những bất công rõ ràng, làm nổ ra một cuộc cách mạng, nhà vua và triều thần bị giết. Khi những người nông dân lên nắm quyền, họ mong muốn con cái của mình có được cuộc sống hạnh phúc mà họ đã bị tước đoạt; họ muốn chúng học cách ứng xử cao sang của giới quý tộc; họ cho con cái mình theo học các trường học mới nơi dạy cách ứng xử như vậy. Họ đã rất thành công, thế hệ con cháu họ nhanh chóng trở nên thông thạo những cách ứng xử tinh tế và phức tạp; chúng biết chính xác phải cầm đũa, đặt trên bàn như thế nào tùy vào tình huống. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, các công dân của nước cộng hoà mới không còn biết thế nào là trồng lúa, không thể nấu cơm và rồi tất cả đều nhanh chóng chết đói trong một nạn đói khủng khiếp.

    Người ta nói rằng đến năm 2020 Việt Nam sẽ đào tạo được hai mươi ngàn tiến sĩ mới. Tôi đã mất mười năm để đào tạo ba tiến sĩ. Thử hỏi, chúng ta tìm đâu ra được hơn năm nghìn giáo sư những người có thể dành thời gian hướng dẫn và đào tạo một số lượng lớn nghiên cứu sinh như vậy? Tuyên bố thực hiện mục tiêu đầy thử thách này cần phải giải thích về cách thức để đạt được mục tiêu đó. Tháng mười hai năm ngoái, một sinh viên của tôi đã bảo vệ luận án tiến sĩ tại một trường đại học uy tín của Pháp. Cô ấy đã xuất sắc, nhận được đánh giá cao từ hội đồng chấm luận văn. Luận án đã được thực hiện theo bản thoả thuận ký kết trước đó giữa Việt Nam và Pháp: bản thoả thuận ghi rõ cách tiến hành thực hiện luận án để công bằng cho cả hai nước, nghiên cứu sinh dành thời gian thực hiện luận án ở cả Việt Nam và Pháp và sẽ nhận bằng tiến sĩ do cả hai nước cấp. Cô đã nhận được bằng của Pháp từ lâu nhưng vẫn chưa nhận được bằng của Việt Nam vì gặp phải khó khăn với những quy định lỗi thời có lẽ đã được soạn thảo cho những năm năm mươi của thế kỷ trước nên hoàn toàn bất hợp lý trong thế giới khoa học hiện nay.

    Một cách ngây thơ, tôi đã nghĩ rằng đáng lẽ đại học Việt Nam phải rất vui mừng và tự hào khi có một luận án tiến sĩ thực hiện dưới dạng hợp tác đồng hướng dẫn với một trong các trường đại học uy tín nhất châu Âu. Nhưng không phải như vậy. Ông hiệu trưởng của trường, một người đầy hiểu biết mà tôi rất tôn trọng, đã làm hết sức để giải quyết vấn đề, nhưng ngay cả ông, người đứng đầu hệ thống phân cấp, cũng không thể thay đổi các quy tắc đã trở nên hoàn toàn không phù hợp trong bối cảnh hiện tại. Quy tắc được tạo ra để được tôn trọng khi chúng có ý nghĩa và cần phải được thay đổi khi trở nên lạc hậu. Nhưng ngay cả hiệu trưởng cũng không có đủ thẩm quyền để thay đổi quy định để làm cho chúng trở nên tốt hơn. Vậy ai là người có khả năng? Làm sao chúng ta có thể hy vọng có một trường đại học Việt Nam lọt vào top 200 trường đại học của thế giới vào năm 2020 như đã tuyên bố trong khi chúng ta thậm chí không thể sửa đổi những thiếu sót hiển nhiên như vậy?

    Ngày nay, một sinh viên trẻ mới tốt nghiệp Đại học Kinh tế Quốc dân thường tìm được công việc có lương cao hơn so với một giáo sư đại học. Phải có điều gì đó sai trái trong việc này. Vấn đề không phải là với số tiền sinh viên đó kiếm được, nó hoàn toàn xứng đáng, mà là với tiền lương của giáo sư đại học. Hậu quả của việc đó thật là một thảm hoạ. Trước tiên, với các giáo sư, điều đó giống như một sự xem thường, giống như nói với họ rằng đất nước không cần họ, không quan tâm về những gì họ đang làm. Như thế làm sao chúng ta có thể hy vọng họ sẽ quan tâm đến sinh viên của mình và tương lai của các em trong khi chính họ bị đối xử một cách thiếu tôn trọng? Thứ hai, với mức lương không đủ trang trải cuộc sống gia đình, họ phải làm thêm công việc khác để có thể đủ sống. Làm sao chúng ta có thể trông mong họ là những giáo sư tốt hay có thể làm tốt công việc nghiên cứu khi họ chỉ có thể dành một phần thời gian để thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của mình? Tất nhiên, chính phủ không có chiếc đũa thần để có thể cho phép tăng lương một cách đột ngột, gấp năm lần hoặc cỡ như thế, cho các cán bộ, viên chức hoạt động trong lĩnh vực khoa học giáo dục và các công nhân viên chức ở hoàn cảnh tương tự. Chính phủ cần xây dựng chi tiết việc tái cơ cấu nhân lực và kế hoạch nghỉ hưu sớm, dành vị trí cho các postdoc trẻ, tạo ra chứng chỉ mới (ví dụ “habilitation” ở Pháp, là chứng chỉ cho phép hướng dẫn nghiên cứu sinh, muốn xin làm giáo sư thì phải có chứng chỉ này) như ở nhiều nước để xác định tốt hơn những yêu cầu đối với cán bộ làm việc trong lĩnh vực học thuật.

    Một điểm nữa là về đạo đức. Bất cứ ai yêu khoa học đều nhạy cảm với vấn đề đạo đức học thuật. Tính chính xác của tri thức luôn gắn liền với sự nghiêm túc về đạo đức. Trong khoa học, gian lận là tự sát. Sớm hay muộn, gian lận sẽ bị phát hiện, hãy nhớ trường hợp của Lyssenko. Gần đây, tại TP HCM, một giáo sư đại học đã bị phát hiện đạo văn: ông đã sao chép công trình của một người khác và gửi cho một tạp chí khoa học danh tiếng và bài báo được đăng. Sự gian lận nhanh chóng bị phát hiện. Như GS Hoàng Tụy nói: "Ở trường, chúng ta dạy con em mình sự thẳng thắn và ngay thẳng; chúng ta, những người lớn, phải là những tấm gương cho chúng." Có quá nhiều tham nhũng, gian lận, dối trá trong thế giới quanh ta, chúng ta phải đẩy xa chúng ra khỏi các trường đại học. Chúng ta phải bỏ việc cho điểm giữa 9 và 10 cho các học sinh kém, phải ngăn chặn gian lận thi cử, phải khôi phục lại giá trị của các văn bằng. Cho dù chúng ta thích hay không, hiện nay chúng ta đã trở thành các công dân thế giới. Mạng Internet đã xoá bỏ các đường biên giới, các nước không thể che giấu sự thật với dân chúng của mình. Chúng ta nên tránh việc giảng dạy những điều không đúng sự thật cho trẻ em và học sinh sinh viên, họ không dễ gì bị che mắt và hậu quả sẽ làm cho họ không tin chúng ta nữa ngay cả khi chúng ta dạy họ sự thật.

    Đã đến lúc dừng lại. Những gì tôi muốn nói, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Giáo sư Hoàng Tụy đã nói hay hơn rất nhiều trong các bài viết của họ. Vậy tại sao tôi cần nhắc lại những điều đó? Chỉ có một điều hơi mang tính cá nhân mà tôi muốn nói thêm. Mười một năm nay, tôi đã sống ở Việt Nam và dành rất nhiều thời gian cho các sinh viên Việt Nam của mình. Những điều tôi nói ra đều xuất phát từ trái tim, vì tôi quan tâm tới họ, vì tôi mong muốn đất nước sẽ đem lại cho họ tương lai mà họ xứng đáng có được. Tôi biết rõ lịch sử gần đây của Việt Nam và nỗi đau mà đất nước đã phải hứng chịu một cách phi lý trong rất nhiều năm. Bất cứ ai biết điều đó đều không thể không yêu đất nước này và mong muốn đất nước có được tương lai tươi sáng hơn. Tôi biết sáu mươi năm qua đã có ảnh hưởng lớn như thế nào đến ba thế hệ người Việt Nam, những vết thương chiến tranh hằn sâu đến mức nào và khoảng cách giữa các thế hệ rộng chừng nào. Những hiểu biết đó chỉ có thể đem đến cho tôi cảm giác khiêm nhường và tôn trọng, và nó đã ngăn tôi đưa ra những phán xét và chỉ trích. Nhưng tôi tin chắc rằng đã đến lúc chúng ta phải hành động, phải tạo cơ hội cho thế hệ trẻ tham gia nhiệt tình vào thời kỳ phục hưng trí tuệ của đất nước bằng cách thúc đẩy mạnh mẽ giáo dục đại học và nghiên cứu. Thế hệ trẻ không trải qua sự áp bức thuộc địa, họ không trải qua các cuộc chiến tranh, họ không biết đến những năm tháng khó khăn sau chiến tranh, họ là những người con của Đổi Mới. Chiếc búa lớn hơn mà Việt Nam cần đang ở trong tay họ. Chúng ta đừng bỏ lỡ cơ hội này và chúng ta hãy làm hết khả năng để động viên, giúp đỡ và hỗ trợ thế hệ trẻ.
    (*) Những chỗ in đậm là do Tia Sáng nhấn mạnh

Chia sẻ trang này