1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Có một bài về các chỉ số của người thành đạt. Trích từ
    http://www4.tintucvietnam.com/vieclam/2004/8/65616.ttvn
    Còn ý kiến của bạn thì thế nào?

    Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
    Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient - EQ). Thực tế cho thấy, cảm xúc chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn cả logic toán học.
    Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần kinh, người ta đã chứng minh được lý trí, mà đại diện là trí thông minh, không có ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần neocortex (phụ trách suy luận trên não) là nhạc trưởng, nó chỉ đạo, phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa.
    EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi, luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những "thiên tài đơn độc" (mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể trong làm việc việc hết sức quan trọng). Sau đó, nhà tâm lý học Daniel Goleman xác định cụ thể và có hệ thống hơn trong tác phẩm của ông mang tên Emotional Intelligence.
    EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai.
    Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã hội.
    Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
    SQ - Thông minh xã hội
    Rộng hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự nhạy bén trong nhận thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động điều tiết cách ứng xử của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học phát triển thành một khái niệm gọi là Thông minh xã hội (Social Intelligence, xác định bằng chỉ số thông minh xã hội Social Quotient SQ). Khái niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác định mức độ hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh giá đúng người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá nhân trước mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể... Đa số câu hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenek đưa ra trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như chiếc chìa khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác đều cao, cá nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội.
    CQ - "cái vỗ nhẹ" vào vùng não phải
    Bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa vào những cái có sẵn mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát triển ấy ở mỗi người một khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể là những bước đột phá, những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được thể hiện.
    Có những người cho rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa người này với người khác và chính nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó là lý do để người ta đưa ra một khái niệm mới, một tiêu chí đánh giá nữa, được gọi là Trí thông minh sáng tạo (Creative Intelligence và tương ứng CQ). Xét cho cùng, chính trí thông minh sáng tạo mới làm nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ, mới xây dựng được một kho tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại.
    Nhà tâm lý học người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa ra khái niệm này. Ông nghiên cứu vùng khu trú của những suy nghĩ sáng tạo và định nghĩa một cách đơn giản: "Khả năng sáng tạo là cái loé sáng vỗ nhẹ vào vùng não phải để làm bật ra những ý tưởng". Nói như vậy có nghĩa là tuy phần nào mang tính bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có trong tư duy mỗi người và hoàn toàn có thể "rèn luyện" được.
    Adler đã chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu quả của não bộ bằng cách tập suy nghĩ, tìm ra những cái phi thường, cái "loé sáng" trong cái bình thường và đề xuất rất nhiều cách để tạo ra "cái vỗ nhẹ" đó. Cũng chính vì thế, mục tiêu giáo dục ở các nước tiên tiến là không chỉ cung cấp kiến thức đào tạo mà tạo ra những người biết suy nghĩ sáng tạo. Gần đây, người ta đã xây dựng cả một ngành khoa học mang tên ''Tư duy sáng tạo" nhằm mục đích này.
    PC - Say mê quyền lực
    Là bất cứ việc gì cũng chỉ thành công nếu toàn tâm toàn ý dành cho nó. Để đặc trưng cho phẩm chất này người ta đưa ra khái niệm Chỉ số say mê (Passion Quotient, viết tắt PQ) và cùng với nó là Chỉ số nghề nghiệp (Career Quotient CQ). Sự say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa chọn, phù hợp với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của mình theo như phân loại.
    GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ - cho rằng những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan, tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là: yêu thích công việc mình làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất cứ việc gì có liên quan, thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm ra những giải pháp độc đáo, sáng tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian. Những phẩm chất đó khiến họ thành công trong nghề nghiệp của mình.
    Nếu ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một doanh nhân say mê làm giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị say mê quyền lực, điều người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì quyền lợi mà quyền lực mang lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ lãnh đạo của Liên Xô, đã đưa tính chất "ham địa vị" như một tiêu chuẩn chọn lựa, xét về mặt tích cực.
    Nhiều người còn đánh giá phẩm chất cá nhân theo Chỉ số đạo đức (Moral Quotient, MQ). Vấn đề này không cần bàn nhiều vì đã được thừa nhận chung. Bao giờ cụm từ "có đức có tài" cũng đi liền với nhau.
    Theo Vnexpress - Khoa học và Đời sống
  2. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    I. Cuộc khủng hoảng tâm linh hiện thời và vai trò của phân tâm học
    Như một bước tiến đến chủ đề của chúng ta, chúng ta phải xét đến cuộc khủng hoảng tâm linh mà người phương Tây đang phải chịu đựng trong thời đại lịch sử chủ yếu này và vai trò của phân tâm học trong cuộc khủng hoảng này.
    Trong khi đa số những người sống bên Tây phương không cảm thấy một cách hữu thức như thể rằng họ đang sống trong một cuộc khủng hoảng văn hoá phương Tây (có lẽ chưa từng bao giờ đa số những người trong một hoàn cảnh nguy ngập tận căn để mà lại ý thức được khủng hoảng), thế nhưng ít ra các quan sát viên khó tính cũng đồng ý với nhau về sự hiện hữu và bản chất của cuộc khủng hoảng này. Đó là cuộc khủng hoảng mà người ta đã mô tả là "phiền muộn", "bực dọc", "bệnh thế kỷ" , sự tê liệt hoá đời sống, sự máy móc hoá con người, sự cách ly khỏi chính mình, khỏi đồng loại và khỏi thiên nhiên. Con người đã theo duy lý luận đến cái điểm mà duy lý luận đã biến thành phi lý luận tuyệt đối. Kế từ thời Descartes, người ta không ngớt chía chẻ tư tưởng khỏi tình cảm; chỉ tư tưởng được coi là hữu lý, còn tình cảm, tự bản tính, vốn phi lý; cái con người, tôi, đã bị chẻ ra thành mốt trí năng, cấu thành cái ngã của tôi, và nó phải kiểm soát tôi, cũng như nó phải kiểm soát thiên nhiên. Lấy trí năng kiểm soát thiên nhiên, và sự sản xuất ngày càng nhiều đồ vật, trở nên những mục tiêu tối thượng của đời sống. Trong tiến trình này, con nguời đã tự biến mình thành một vật, đời sống bị phụ thuộc vào tài sản, "là" bị chi phối bởi "có". Trong khi những căn để của văn hoá phương Tây, cả Hy lạp lấn Do thái, coi mục tiêu của cuộc đời là toàn diện con người, con người hiện đại lo toàn thiện đồ vật, và cách thức để làm ra chúng. Người phương Tây vì ở một trong trạng thái bị ám ảnh bởi cái cố tật không sao thể nghiệm được tình cảm, nên hắn lo âu, chán nản, tuyệt vọng. Hắn vẫn hưởng ứng bằng mồm những mục tiêu hạnh phúc, chủ nghĩa cá nhân,sáng kiến nhưng thực ra hắn không có mục đích. Cứ hỏi xem hắn sống vì cái gì, cái gì là mục tiêu của tất cả nhưng nỗ lực của hắn - hẳn là hắn lúng túng. Có người có thể nói họ sống vì gia đình, người khác, "để vui chơi", lại có người, để làm tiền, nhưng trên thực tế chẳng ai biết mình sống để làm gì; họ không có mục đích, ngoại trừ cái ước ao tránh sự bất an và cô độc.
    Thật vậy, chức vụ giáo hội ngày nay cao hơn bất cứ lúc nào trước đây, sách về tôn giáo trở thành những sách bán chạy nhất, và nhiều người nói về Thượng đế hơn bất cứ lúc nào trước đây. Thế nhưng cái thứ biểu lộ tôn giáo này chỉ che đậy một thái độ phi tôn giáo và duy vật sâu xa, và phải hiểu nó là một phản ứng ý thức hệ - gây ra bởi sự bất an và chủ nghĩa thủ cựu - lại cái u hướng của thế kỷ 19, mà Nietzsche biểu thị bằng câu danh tiếng của ông "Thượng đế đã chết" . Như một thái độ tôn giáo chân chính, nó không có thực chất.
    Sự lìa bỏ các ý niệm hữu thần vào thế kỷ mưới chín thì nhìn từ một khía cạnh - không phải là một thành tích nhỏ. Con người phóng mình vào khách thể tính. Trái đất không còn là trung tâm vũ trụ; con người mất đi cái vai trò chính của cái tạo vật được Thượng Đế dành cho thống trị tất cả các tạo vật khác. Nghiên cứu những động năng ẩn khuất của con người với một khách quan tính mới, Freud nhận thức ra rằng cái đức tin nơi một Thượng Đế toàn tri, bắt nguồn nơi sự bất lực của kiếp nhân sinh và trong cái nỗ lực của con người để đương đầu với sự bất lực của mình bằng đức tin vào một đấng cha mẹ cứu giúp tượng trưng bởi Thượng đế trên trời. Ông thấy rằng chỉ có con người mới tự cứu được mình; giáo lý của những vị thầy vĩ đại, sự giúp đỡ từ ái của cha mẹ, bạn bè và những người thân yêu có thể giúp được hắn - nhưng chỉ giúp được hắn dám chấp nhận sự thách thức của cuộc hiện sinh và phản ứng lại nó bằng tất cả sức mạnh và tấm lòng mình.
    Con người từ bỏ cái ảo ảnh về một đáng cha Thượng đế như một bậc cứu giúp từ ái - nhưng cũng từ bỏ luôn cả những mục tiêu chân chính của tất cả các tôn giáo nhân bản: vượt qua những giới hạn của một cái ngã tự cao, thành tựu yêu thương, khách quan tính, và khiêm tốn và tôn kính đời sống là chính việc sống, và con người trở thành cái mà hắn tiềm tàng. Đó là mục tiêu của các tôn giáo lớn phương Tây, cũng như mục tiêu lớn của các tôn giáo Đông phương. Tuy nhiên, Đông phương không mang nặng cái khái niệm một Đấng cha cứu thế siêu việt trong ấy các tôn giáo nhất thần biểu lộ những hoài mong của họ. Lão giáo và Phật giáo có một lý tính và thực tại tính cao hơn các tôn giáo Tây phương. HỌ thấy được con người một cách hiện thực và khách quan, không có ai ngoài những bậc"giác ngộ" để chỉ đạo hắn, và có khả năng để được chỉ đạo bởi vì mỗi người có trong mình cái khả năng để thức tỉnh và giác ngộ. Đó là lý do tại sao mà tư tưởng tôn giáo Đông phương, Lão giáo và Phật giáo - và sự phối hợp của chúng trong Thiền Tông nắm giữ tầm quan trọng như vậy đối với phương Tây ngày nay. Thiền giúp con người tìm ra giải đáp cho câu hỏi về hiện hữu mình, một câu đáp mà thiết yếu là cùng câu đáp đưa ra bởi truyền thống Do thái - KI tô, thế nhưng nó không nghịch lại cái lý tính, thực tại tính, và độc lập tính là những thành tích quí báu của con người hiện đại. Một cách nghịch lý, tư tưởng duy lý Tây hơn là chính tư tưởng tôn giáo Tây phương.
    II. Các giá trị và mục tiêu trong những khái niệm phân tâm học của Freud
    Phân tâm học là một biểu thị đặc trưng cuộc khủng hoảng tâm linh của nguời phương Tây, và là một nỗ lực tìm một giải đáp. Điều này thật là rõ rệt trong những phát triển gần đây hơn của phân tâm học, trong phương pháp phân tích "nhân bản" hay "hiện sinh ". Nhưng trước khi bàn về quan điểm nhân bản của chính tôi, tôi muốn chứng minh rằng, trái hẳn với sự khẳng định của đa số hệ thống của Freud vượt qua khái niệm về "bệnh" và "chữa" và quan tâm đến sự "giải thoát" của con người, hơn là chỉ đến một liệu pháp cho các ca nhiễu tâm. Nhìn một cách hời hợt, Freud là vị sáng tạo ra một liệu pháp mới cho bệnh nhiễu tâ, và đó là chủ để mà ông dành cho mối quan tâm chính và tất cả những nỗ lực đời mình vào. Tuy nhiên, nếu ta quan sát kỹ hơn, ta thấy rằng sau cái khái niệm về một liệu pháp y học để chữa nhiễu tâm là một mối lưu tâm khác hẳn, ít khi được Freud bộc lộ, và có lẽ chính ông cũng ít ý thức được. Cái khái niệm ẩn khuất hay chỉ ám tàng này không thiết yếu đối trị với cách chữa bệnh tinh thần, mà với một cái gì vượt qua khái niệm bệnh và chữa. Cái gì ấy là gì? Bản chất của phong trào phân tâm học mà ông sáng lập là gi? Thị kiến của Freud về tương lai con người như thế nào? Giáo điều mà trên đó phong trào của ông thiết lập là gi?
    Freud trả lời câu hỏi này có lẽ là rõ ràng nhất trong câu:
    " Ở đâu có Di ngã(Id) - ở đó sẽ có Bản ngã (Ego). Mục tiêu của ông là lấy cái lý trí chế ngự những dục vọng phi lý và vô thức; giải thoát con người khỏi quyền năng của vô thức, bằng những khả năng của con người. Con người phải nhận thức được những nguồn lực vô thức trong hắn, ngõ hầu chế ngự và kiểm soát chúng. Mục tiêu của Freud là kiến thức triệt để về chân lý, và đó là kiến thức về thực tại; kiến thức này đối với ông là ánh sáng chỉ đạo duy nhất con người có được trên thế gian này. Những mục tiêu này là những mục tiêu truyền thống của duy lý luận, của triết lý Anh sáng, và của đức ly Thanh giáo. Nhưng trong khi tôn giáo và triết học đã đề ra những mục tiêu về tự chủ này bằng một cách ta có thể gọi là không tưởng, Freud là - hay tự tin mình là - nguời đầu tiên đặt những mục tiêu này trên một nền tảng khoa học(bằng sự thăm dò vô thức) và do đó chỉ cách thực hiện chúng. Trong khi Freud - tượng trưng tột điểm của duy lý luận phương Tây, chính thiên tài của ông đã đồng thời vượt qua những phương diện nguỵ duy lý và lạc quan sơ thiển của duy lý luận, và tạo ra một tổng hợp với chủ nghĩa lãng mạn, chính cái phong trào mà suốt thế kỷ mười chín đã chống đối duy lý luận bởi chính mối quan tâm và sự tôn kính của nó với cái mặt phi lý, tình cảm của con người.
    Đối với sự chữa trị cá nhân, Freud cũng ưu tâm đến một mục tiêu triết lý và đức lý hơn là nguời ta thương nghĩ thế. Trong Những Giảng Thuyết Nhập Môn , ông nói về nỗ lực của một số pháp môn thần bí muốn đem lại một chuyển hoá căn bản trong cá nhân. "Chúng ta phải công nhận", ông tiếp, "rằng những nỗ lực trị bệnh của phân tâm học đã chọn cùng một quan điểm nhận thức. Chủ ý của nó là củng cố Bản Ngã(Ego) khiến nó độc lập khỏi Siêu Ngã (Super - Ego) hơn, mở rộng tầm quan sát của nó, đế nó có thể thích ứng cho chính nó những thành phần mới của Di Ngã(Id). Ở đâu có Di Ngã, ở đó sẽ ó Bản Ngã. Đó là một tác vụ văn hoá như sự cải tạo của Zuyder Zeen. Trong cùng một tâm trạng, ông nói về liệu pháp phân tâm học cố ở chỗ" giải thoát con người khỏi những triệu chứng suy nhược thần kinh, dồn nén và những bất thường của tính tình". Ông cũng thấy cả vai trò của nhà phân tâm dưới một ánh sáng vượt qua vai trò của y sĩ "chữa" bệnh nhân. Nhà phân tâm, ông nói " trong một ý nghĩa nào đó, phải ở một vị thế cao hơn, nếu ông muốn trở thành khuôn mẫu cho bệnh nhân trong những trạng huống phân tích nào đó, và trong những trường hợp khác muốn đóng vai trò của người thầy của bệnh nhân. Cuối cùng, Freud viêt , "chúng ta không được quên rằng mối tương hệ giữa nhà phân tâm và bệnh nhân được đưa ra trên một tình yêu chân lý, nghĩa là, trên sự thừa nhận thực tạii, rằng nó ngăn ngừa bất cứ một thứ giả dối hay bịp bợm nào.
  3. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    I. Cuộc khủng hoảng tâm linh hiện thời và vai trò của phân tâm học
    Như một bước tiến đến chủ đề của chúng ta, chúng ta phải xét đến cuộc khủng hoảng tâm linh mà người phương Tây đang phải chịu đựng trong thời đại lịch sử chủ yếu này và vai trò của phân tâm học trong cuộc khủng hoảng này.
    Trong khi đa số những người sống bên Tây phương không cảm thấy một cách hữu thức như thể rằng họ đang sống trong một cuộc khủng hoảng văn hoá phương Tây (có lẽ chưa từng bao giờ đa số những người trong một hoàn cảnh nguy ngập tận căn để mà lại ý thức được khủng hoảng), thế nhưng ít ra các quan sát viên khó tính cũng đồng ý với nhau về sự hiện hữu và bản chất của cuộc khủng hoảng này. Đó là cuộc khủng hoảng mà người ta đã mô tả là "phiền muộn", "bực dọc", "bệnh thế kỷ" , sự tê liệt hoá đời sống, sự máy móc hoá con người, sự cách ly khỏi chính mình, khỏi đồng loại và khỏi thiên nhiên. Con người đã theo duy lý luận đến cái điểm mà duy lý luận đã biến thành phi lý luận tuyệt đối. Kế từ thời Descartes, người ta không ngớt chía chẻ tư tưởng khỏi tình cảm; chỉ tư tưởng được coi là hữu lý, còn tình cảm, tự bản tính, vốn phi lý; cái con người, tôi, đã bị chẻ ra thành mốt trí năng, cấu thành cái ngã của tôi, và nó phải kiểm soát tôi, cũng như nó phải kiểm soát thiên nhiên. Lấy trí năng kiểm soát thiên nhiên, và sự sản xuất ngày càng nhiều đồ vật, trở nên những mục tiêu tối thượng của đời sống. Trong tiến trình này, con nguời đã tự biến mình thành một vật, đời sống bị phụ thuộc vào tài sản, "là" bị chi phối bởi "có". Trong khi những căn để của văn hoá phương Tây, cả Hy lạp lấn Do thái, coi mục tiêu của cuộc đời là toàn diện con người, con người hiện đại lo toàn thiện đồ vật, và cách thức để làm ra chúng. Người phương Tây vì ở một trong trạng thái bị ám ảnh bởi cái cố tật không sao thể nghiệm được tình cảm, nên hắn lo âu, chán nản, tuyệt vọng. Hắn vẫn hưởng ứng bằng mồm những mục tiêu hạnh phúc, chủ nghĩa cá nhân,sáng kiến nhưng thực ra hắn không có mục đích. Cứ hỏi xem hắn sống vì cái gì, cái gì là mục tiêu của tất cả nhưng nỗ lực của hắn - hẳn là hắn lúng túng. Có người có thể nói họ sống vì gia đình, người khác, "để vui chơi", lại có người, để làm tiền, nhưng trên thực tế chẳng ai biết mình sống để làm gì; họ không có mục đích, ngoại trừ cái ước ao tránh sự bất an và cô độc.
    Thật vậy, chức vụ giáo hội ngày nay cao hơn bất cứ lúc nào trước đây, sách về tôn giáo trở thành những sách bán chạy nhất, và nhiều người nói về Thượng đế hơn bất cứ lúc nào trước đây. Thế nhưng cái thứ biểu lộ tôn giáo này chỉ che đậy một thái độ phi tôn giáo và duy vật sâu xa, và phải hiểu nó là một phản ứng ý thức hệ - gây ra bởi sự bất an và chủ nghĩa thủ cựu - lại cái u hướng của thế kỷ 19, mà Nietzsche biểu thị bằng câu danh tiếng của ông "Thượng đế đã chết" . Như một thái độ tôn giáo chân chính, nó không có thực chất.
    Sự lìa bỏ các ý niệm hữu thần vào thế kỷ mưới chín thì nhìn từ một khía cạnh - không phải là một thành tích nhỏ. Con người phóng mình vào khách thể tính. Trái đất không còn là trung tâm vũ trụ; con người mất đi cái vai trò chính của cái tạo vật được Thượng Đế dành cho thống trị tất cả các tạo vật khác. Nghiên cứu những động năng ẩn khuất của con người với một khách quan tính mới, Freud nhận thức ra rằng cái đức tin nơi một Thượng Đế toàn tri, bắt nguồn nơi sự bất lực của kiếp nhân sinh và trong cái nỗ lực của con người để đương đầu với sự bất lực của mình bằng đức tin vào một đấng cha mẹ cứu giúp tượng trưng bởi Thượng đế trên trời. Ông thấy rằng chỉ có con người mới tự cứu được mình; giáo lý của những vị thầy vĩ đại, sự giúp đỡ từ ái của cha mẹ, bạn bè và những người thân yêu có thể giúp được hắn - nhưng chỉ giúp được hắn dám chấp nhận sự thách thức của cuộc hiện sinh và phản ứng lại nó bằng tất cả sức mạnh và tấm lòng mình.
    Con người từ bỏ cái ảo ảnh về một đáng cha Thượng đế như một bậc cứu giúp từ ái - nhưng cũng từ bỏ luôn cả những mục tiêu chân chính của tất cả các tôn giáo nhân bản: vượt qua những giới hạn của một cái ngã tự cao, thành tựu yêu thương, khách quan tính, và khiêm tốn và tôn kính đời sống là chính việc sống, và con người trở thành cái mà hắn tiềm tàng. Đó là mục tiêu của các tôn giáo lớn phương Tây, cũng như mục tiêu lớn của các tôn giáo Đông phương. Tuy nhiên, Đông phương không mang nặng cái khái niệm một Đấng cha cứu thế siêu việt trong ấy các tôn giáo nhất thần biểu lộ những hoài mong của họ. Lão giáo và Phật giáo có một lý tính và thực tại tính cao hơn các tôn giáo Tây phương. HỌ thấy được con người một cách hiện thực và khách quan, không có ai ngoài những bậc"giác ngộ" để chỉ đạo hắn, và có khả năng để được chỉ đạo bởi vì mỗi người có trong mình cái khả năng để thức tỉnh và giác ngộ. Đó là lý do tại sao mà tư tưởng tôn giáo Đông phương, Lão giáo và Phật giáo - và sự phối hợp của chúng trong Thiền Tông nắm giữ tầm quan trọng như vậy đối với phương Tây ngày nay. Thiền giúp con người tìm ra giải đáp cho câu hỏi về hiện hữu mình, một câu đáp mà thiết yếu là cùng câu đáp đưa ra bởi truyền thống Do thái - KI tô, thế nhưng nó không nghịch lại cái lý tính, thực tại tính, và độc lập tính là những thành tích quí báu của con người hiện đại. Một cách nghịch lý, tư tưởng duy lý Tây hơn là chính tư tưởng tôn giáo Tây phương.
    II. Các giá trị và mục tiêu trong những khái niệm phân tâm học của Freud
    Phân tâm học là một biểu thị đặc trưng cuộc khủng hoảng tâm linh của nguời phương Tây, và là một nỗ lực tìm một giải đáp. Điều này thật là rõ rệt trong những phát triển gần đây hơn của phân tâm học, trong phương pháp phân tích "nhân bản" hay "hiện sinh ". Nhưng trước khi bàn về quan điểm nhân bản của chính tôi, tôi muốn chứng minh rằng, trái hẳn với sự khẳng định của đa số hệ thống của Freud vượt qua khái niệm về "bệnh" và "chữa" và quan tâm đến sự "giải thoát" của con người, hơn là chỉ đến một liệu pháp cho các ca nhiễu tâm. Nhìn một cách hời hợt, Freud là vị sáng tạo ra một liệu pháp mới cho bệnh nhiễu tâ, và đó là chủ để mà ông dành cho mối quan tâm chính và tất cả những nỗ lực đời mình vào. Tuy nhiên, nếu ta quan sát kỹ hơn, ta thấy rằng sau cái khái niệm về một liệu pháp y học để chữa nhiễu tâm là một mối lưu tâm khác hẳn, ít khi được Freud bộc lộ, và có lẽ chính ông cũng ít ý thức được. Cái khái niệm ẩn khuất hay chỉ ám tàng này không thiết yếu đối trị với cách chữa bệnh tinh thần, mà với một cái gì vượt qua khái niệm bệnh và chữa. Cái gì ấy là gì? Bản chất của phong trào phân tâm học mà ông sáng lập là gi? Thị kiến của Freud về tương lai con người như thế nào? Giáo điều mà trên đó phong trào của ông thiết lập là gi?
    Freud trả lời câu hỏi này có lẽ là rõ ràng nhất trong câu:
    " Ở đâu có Di ngã(Id) - ở đó sẽ có Bản ngã (Ego). Mục tiêu của ông là lấy cái lý trí chế ngự những dục vọng phi lý và vô thức; giải thoát con người khỏi quyền năng của vô thức, bằng những khả năng của con người. Con người phải nhận thức được những nguồn lực vô thức trong hắn, ngõ hầu chế ngự và kiểm soát chúng. Mục tiêu của Freud là kiến thức triệt để về chân lý, và đó là kiến thức về thực tại; kiến thức này đối với ông là ánh sáng chỉ đạo duy nhất con người có được trên thế gian này. Những mục tiêu này là những mục tiêu truyền thống của duy lý luận, của triết lý Anh sáng, và của đức ly Thanh giáo. Nhưng trong khi tôn giáo và triết học đã đề ra những mục tiêu về tự chủ này bằng một cách ta có thể gọi là không tưởng, Freud là - hay tự tin mình là - nguời đầu tiên đặt những mục tiêu này trên một nền tảng khoa học(bằng sự thăm dò vô thức) và do đó chỉ cách thực hiện chúng. Trong khi Freud - tượng trưng tột điểm của duy lý luận phương Tây, chính thiên tài của ông đã đồng thời vượt qua những phương diện nguỵ duy lý và lạc quan sơ thiển của duy lý luận, và tạo ra một tổng hợp với chủ nghĩa lãng mạn, chính cái phong trào mà suốt thế kỷ mười chín đã chống đối duy lý luận bởi chính mối quan tâm và sự tôn kính của nó với cái mặt phi lý, tình cảm của con người.
    Đối với sự chữa trị cá nhân, Freud cũng ưu tâm đến một mục tiêu triết lý và đức lý hơn là nguời ta thương nghĩ thế. Trong Những Giảng Thuyết Nhập Môn , ông nói về nỗ lực của một số pháp môn thần bí muốn đem lại một chuyển hoá căn bản trong cá nhân. "Chúng ta phải công nhận", ông tiếp, "rằng những nỗ lực trị bệnh của phân tâm học đã chọn cùng một quan điểm nhận thức. Chủ ý của nó là củng cố Bản Ngã(Ego) khiến nó độc lập khỏi Siêu Ngã (Super - Ego) hơn, mở rộng tầm quan sát của nó, đế nó có thể thích ứng cho chính nó những thành phần mới của Di Ngã(Id). Ở đâu có Di Ngã, ở đó sẽ ó Bản Ngã. Đó là một tác vụ văn hoá như sự cải tạo của Zuyder Zeen. Trong cùng một tâm trạng, ông nói về liệu pháp phân tâm học cố ở chỗ" giải thoát con người khỏi những triệu chứng suy nhược thần kinh, dồn nén và những bất thường của tính tình". Ông cũng thấy cả vai trò của nhà phân tâm dưới một ánh sáng vượt qua vai trò của y sĩ "chữa" bệnh nhân. Nhà phân tâm, ông nói " trong một ý nghĩa nào đó, phải ở một vị thế cao hơn, nếu ông muốn trở thành khuôn mẫu cho bệnh nhân trong những trạng huống phân tích nào đó, và trong những trường hợp khác muốn đóng vai trò của người thầy của bệnh nhân. Cuối cùng, Freud viêt , "chúng ta không được quên rằng mối tương hệ giữa nhà phân tâm và bệnh nhân được đưa ra trên một tình yêu chân lý, nghĩa là, trên sự thừa nhận thực tạii, rằng nó ngăn ngừa bất cứ một thứ giả dối hay bịp bợm nào.
  4. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Có những yếu tố khác trong quan niệm phân tâm học của Freud vượt qua cái khái niệm thường tình về bệnh và chữa. Những ai quen thuộc với tư tưởng phương đông và nhất là với Thiền, hẳn nhận ra rằng những yếu tố mà tôi sẽ đề cập không phải là không liên hệ với những quan niệm và tư tưởng của tâm thức Đông phuơng. Cái nguyên tắc phải đề cập trước tiên ở đây là quan niệm của Freud rằng kiến thức đưa đến chuyển hoá, rằng lý thuyết và thực hành không được tách biệt, rằng ngay chính trong việc tự tri, người ta đã chuyển hoá. Cũng chả cần phải nhấn mạnh rằng ý niệm này mới dị biệt biết mấy với những quan niệm của tâm lý khoa học ở thơi Freud hay thời chúng ta, ở đó kiến thức tự bản tính vẫn là kiến thức lý thuyết, và không có một tác năng chuyển hoá nơi người biết.
    Lại trên một phương diện khác nữa phương pháp của Freud có mối liên hệ mật thiết với tư tưởng Đông phương, nhất là với Thiền. Freud không đồng ý việc đánh giá quá cao hệ tư tưởng hữu thức của chúng ta, điểm quá đặc trưng của nguời phương Tây hiện đại. Trái lại, ông tin rằng tư tưởng hữu thức của ta chỉ là một thành phần nhỏ của toàn thể tiến trình tâm thần diễn tiến trong ta, và thật ra, một thành phần vô nghĩa so với cái năng lực dễ sợ của những nguồn lực trong ta vốn tối tăm, phi lý đồng thời vô thức. Freud, trong nỗi ao ước muốn thấy được chân tính của con ngừoi, muốn phá thấu cái hệ tư tưởng hữu thức, bằng phương pháp liên tưởng tự do của ông. Liên tưởng tự do nghĩa là vượt qua tư tưởng luận lý, hữu thức và qui ước. Nó nhắm đưa vào một căn nguồn mới cá tính, nghĩa là, cái vô thức. Người ta có thể phê bình bất cứ điều gì về nội dung cái vô thức của Freud, sự việc vẫn cứ là bằng cách nhấn mạnh vào liên tuởng tự do như là chống lại tư tưởng luận lý, ông vượt qua trong một điểm thiết yếu cái lối suy tưởng qui ước duy lý của thế giới phương Tây, và vận chuyển theo một chiều hướng đã được phát triển xa hơn và triệt để hơn trong tư tưởng của Đông phương.
    Có một điểm xa hơn nữa mà Freud dị biệt tân gốc vói thái độ phương Tây hiện đại. Ở đây, tôi ám chỉ đến sự kiện rằng ông sẵn sàng phân tích một người trong môt, hai, ba hay bốn năm hay nhiều hơn nữa cũng được. Thật ra, tiến trình này từng là lý do khiến Freud bị chỉ trích rất nhiều. Chẳng cần phải nói, người ta phái cố làm cho việc phân tích hết sức có hỉệu quả, nhưng điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là Freud đã có can đảm nói rằng người ta có thể một cách đầy ý nghĩa sống hàng năm với một người, chỉ để giúp cho người ấy tự hiểu mình. Từ một quan điểm lợi ích, từ một quan điểm đất thắc, việc này không có ý nghĩa gì lắm. Người ta hẳn nói rằng cái thời gian mất đi trong một cuộc phân tích dài như vậy không bõ công nếu người ta xét đến hiệu quả xã hội của sự thay đổi trong một người. Phương pháp của Freud chí có giá trị nếu người ta vượt qua được quan điểm hiện đại về "giá trị" về mối tương hệ chính đáng giữa phương tiện và cứu cánh,về, có thê rbói bản kết toán; nếu ta có thái độ rằng một con người không tương xứng với cái gì cả, rằng sự giải thoát, sự an toàn, sự giác ngộ của hắn, hay dùng bất cứ chữ nào ta thích, tự nó là vấn đề "ưu tâm cứu cánh", thì không thể định được cần phải có bao lâu thời gian và tiền tài cho mục đích này. Có đượ cái tầm mắt và can đảm để nghĩ ra một phương pháp gồm sự ưu tâm rộng rãi đến một con người là một biểu hiện của một thái độ vượt qua tư tưởng qui ước phương Tây trên một phương diện quan trọng.
    Những nhận định trên không nhằm ngụ ý là Freud, trong các chủ ý hữu thức của ông, gần gũi với tư tưởng Đông phương hay đặc biệt với tư tưởng
    Thiền. Nhiều yếu tố mà tôi đề cập đến trước đây thì có tính ám tàng hơn là hiển nhiên, và vô thức hơn hữu thức, theo ý Freud. Freud quả là một đứa con của văn minh phương Tây, và nhất là của tư tưởng thế - kỷ - mười - tám và mưới - chín, nên khó mà gần gũi được với tư tưởng phương Đông như tư tưởng của Thiền, dù ông từng quen thuộc với nó đi nữa. HÌnh ảnh của Freud về con người trong những đường nét chính là cái hình ảnh mà những kinh tế gia và triết gia của thế kỷ mười tám và mười chín đã khai triển. HỌ thấy con người mà bản chất là cạnh tranh, đơn độc, và chỉ liên hệ với kẻ khác vì cần trao đổi sự thoả mãn những nhu cầu kinh tế và bản năng. Theo Freud, con người là một cái máy, điều khiển bởi libido, và điều hành bởi nguyên tắc giữ libido khích động tới một mức tối thiểu. Ông thấy con người vốn tự tôn, và chỉ liên hệ với kẻ khác để thoả mãn những dục vọng bản năng. Đối với Freud, khoái lạc là giảm bớt căng thẳng, chú không phải là kinh nghiệm niềm vui. Ông thấy con người bị chia rẽ giữa trí năng và tìm cảm của hắn; con người không phài là toàn thể con người; mà là cái ngã trí năng của các triết gia ánh sáng. Tình huynh đệ là một đòi hỏi phi lý, trái với thực tại; kinh nghiệm thần bí là một sự thoái hoá về dự ngã ái ấu trĩ.
    Những gì tôi đã cố chỉ tỏ là bất chấp những mâu thuẫn rõ rệt này với Thiền, dẫu thế trong hệ thống của Freud vẫn có những yếu tố vượt qua các khái niệm về bệnh và chữa, và những khái niệm truyền thống duy lý về ý thức, những yếu tố đưa đến một sự phát triển phân tâm học xa rộng hơn có một tương quan trực tiếp và tích cực hơn với tư tưởng Thiền.
    Tuy nhiên, trước khi chúng ta bàn luận về mối tương quan giữa phân tâm học "nhân bản" và Thiền, tôi muốn chỉ ra một sự thay đổi thật là căn bản để hiểu sự phát triển xa rộng hơn của phân tâm học: sự thay đổi các loại bệnh nhân đến để được phân tích, và những vấn đề họ bầy tỏ.
    Vào đầu thế kỷ này những người đến với nhà tâm bệnh học chủ yếu là những người có triệu chứng. Họ có một cánh tay tê liệt, hay một chứng ám ảnh như một sự bó buộc phải rửa ráy, hay họ có những tư tưởng ám ảnh mà họ không thoát khỏi được. Nói một cách khác, họ bệnh theo cái nghĩa mà chữ "bệnh" được dùng trong y học; một cái gì đó cản trở họ sinh hoạt hợp với xã hội như kẻ mà ta gọi là bình thường. Nếu đó là những gì họ bị,quan niệm về chữa của họ tương đương với quan niệm về bệnh. Họ muốn thoát khỏi những triệu chứng, và quan niệm "mạnh" của họ là không bị ốm. Họ muốn mạnh như con người bình thường, hay như ta cũng có thể nói, họ không muốn bị khổ sở và phiền não hơn con người trung bình trong xã hội chúng ta.
    Những người này vẫn đến với nhà phân tâm để tìm giúp đỡ, và đối với họ phân tâm học vẫn là một liệu pháp nhằm trừ bỏ những triệu chứng của họ, và giúp họ có thể sinh hoạt hợp với xã hội. Nhưng trong khi họ tưng là đa số thân chủ của một nhà phân tâm, hiện nay họ là thiểu số, có lẽ không phải rằng số lượng tuyệt đối của họ ngày nay ít hơn thời đó, nhưng bởi vì số lượng những người như họ tương đối nhỏ hơn so với nhiều những "bệnh nhân" mới sinh hoạt xã hội, những người không bệnh theo nghĩa thường tình, mà là những nguời bị "bệnh thế kỷ", sự phiền não, cái tê liệt nội tâm mà tôi đã bàn trên. Những bệnh nhân này đến với phân tâm học mà không biết mình thực sự bị bệnh gì. Họ than phiền vì bị chán nản, bị mất ngủ, không được hạnh phúc hôn nhân, không thích thú công việc, và đủ thứ phiền não tương tự khác. HỌ thường tin vào triệu chứng đặc biệt này hay triệu chứng đặc biệt nọ là vấn đề của họ và nếu họ có thể thoát được được mối phiền não đặc biệt này là họ sẽ an lành. Tuy nhiên, thường thì những bệnh nhân này không thấy rằng vấn đề của họ không là vấn đề chán nản mất ngủ, hôn nhân, hay công việc của họ. Những lời than phiền này chỉ là cái hình thức hữu thức mà nền văn hoá chúng ta cho phép họ bộc lộ một cái gì đó nằm dưới sâu hơn và thông thường đối với những hạng người tin một cách hữu thức rằng mình bị triệu chứng này hay triệu chứng nọ. Nỗi khổ sở thông thường là sự cách ly khỏi chính mình, khỏi đồng loại, và khỏi thiên nhiên; sự nhận thức được rằng đời sống vuột khỏi tay mình như cát, và mình sẽ chết mà chưa được sống; rằng mình sống sung túc thế mà không có niềm vui.
    Phân tâm học có thể giúp gì được cho người bị "bệnh thế kỷ"? Sự giúp đỡ này thì - và phải - dị biệt với sự "chữa" , mà cốt ở trừ bỏ những triệu chứng, cho những người không sinh hoạt hợp với xã hội được. Đối với người bị vong thân, chữa không côt ở chỗ vắng mặt bệnh, mà ở sự hiện diện của chính hữu.
    Tuy nhiên, nếu chúng ta phải định nghĩa chính hữu, chúng ta gặp phải những khó khăn đáng kể. Nếu chúng ta ở trong vòng hệ thống của Freud, hẳn phải định nghĩa chính hữu theo thuyết libido, như cái khả năng tác động sinh dục viên mãn, từ một khía cạnh khác, như là một sự nhận thức được cái trạng huống ơ đíp, những định nghĩa mà, theo ý tôi, chỉ tiếp tuyến được với vấn đề nân sinh thực sự và sự thực hiện được chính hữu bởi toàn thể con người. Bất cứ một nỗ lực nào để đưa ra một câu đáp tạm thời cho vấn đề chính hữu cũng phải vượt qua tầm tư tưởng của Freud và đưa đến một cuộc bàn luận, không trọn vẹn, như nó phải thế, về quan niệm nhân sinh căn bản, làm nền tảng cho phân tâm học nhân bản. Chỉ có cách đó, chúng ta mới đặt được nền tảng cho sự so sánh giữa phân tâm học và tư tưởng Thiền.
    (Trích từ cuốn Phân tâm học và văn hoá tâm linh -NXB VHTT 2003)
    Bài sau:
    Bản chất của chính hữu -
    Tiến hóa tâm thần của con người
  5. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Có những yếu tố khác trong quan niệm phân tâm học của Freud vượt qua cái khái niệm thường tình về bệnh và chữa. Những ai quen thuộc với tư tưởng phương đông và nhất là với Thiền, hẳn nhận ra rằng những yếu tố mà tôi sẽ đề cập không phải là không liên hệ với những quan niệm và tư tưởng của tâm thức Đông phuơng. Cái nguyên tắc phải đề cập trước tiên ở đây là quan niệm của Freud rằng kiến thức đưa đến chuyển hoá, rằng lý thuyết và thực hành không được tách biệt, rằng ngay chính trong việc tự tri, người ta đã chuyển hoá. Cũng chả cần phải nhấn mạnh rằng ý niệm này mới dị biệt biết mấy với những quan niệm của tâm lý khoa học ở thơi Freud hay thời chúng ta, ở đó kiến thức tự bản tính vẫn là kiến thức lý thuyết, và không có một tác năng chuyển hoá nơi người biết.
    Lại trên một phương diện khác nữa phương pháp của Freud có mối liên hệ mật thiết với tư tưởng Đông phương, nhất là với Thiền. Freud không đồng ý việc đánh giá quá cao hệ tư tưởng hữu thức của chúng ta, điểm quá đặc trưng của nguời phương Tây hiện đại. Trái lại, ông tin rằng tư tưởng hữu thức của ta chỉ là một thành phần nhỏ của toàn thể tiến trình tâm thần diễn tiến trong ta, và thật ra, một thành phần vô nghĩa so với cái năng lực dễ sợ của những nguồn lực trong ta vốn tối tăm, phi lý đồng thời vô thức. Freud, trong nỗi ao ước muốn thấy được chân tính của con ngừoi, muốn phá thấu cái hệ tư tưởng hữu thức, bằng phương pháp liên tưởng tự do của ông. Liên tưởng tự do nghĩa là vượt qua tư tưởng luận lý, hữu thức và qui ước. Nó nhắm đưa vào một căn nguồn mới cá tính, nghĩa là, cái vô thức. Người ta có thể phê bình bất cứ điều gì về nội dung cái vô thức của Freud, sự việc vẫn cứ là bằng cách nhấn mạnh vào liên tuởng tự do như là chống lại tư tưởng luận lý, ông vượt qua trong một điểm thiết yếu cái lối suy tưởng qui ước duy lý của thế giới phương Tây, và vận chuyển theo một chiều hướng đã được phát triển xa hơn và triệt để hơn trong tư tưởng của Đông phương.
    Có một điểm xa hơn nữa mà Freud dị biệt tân gốc vói thái độ phương Tây hiện đại. Ở đây, tôi ám chỉ đến sự kiện rằng ông sẵn sàng phân tích một người trong môt, hai, ba hay bốn năm hay nhiều hơn nữa cũng được. Thật ra, tiến trình này từng là lý do khiến Freud bị chỉ trích rất nhiều. Chẳng cần phải nói, người ta phái cố làm cho việc phân tích hết sức có hỉệu quả, nhưng điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là Freud đã có can đảm nói rằng người ta có thể một cách đầy ý nghĩa sống hàng năm với một người, chỉ để giúp cho người ấy tự hiểu mình. Từ một quan điểm lợi ích, từ một quan điểm đất thắc, việc này không có ý nghĩa gì lắm. Người ta hẳn nói rằng cái thời gian mất đi trong một cuộc phân tích dài như vậy không bõ công nếu người ta xét đến hiệu quả xã hội của sự thay đổi trong một người. Phương pháp của Freud chí có giá trị nếu người ta vượt qua được quan điểm hiện đại về "giá trị" về mối tương hệ chính đáng giữa phương tiện và cứu cánh,về, có thê rbói bản kết toán; nếu ta có thái độ rằng một con người không tương xứng với cái gì cả, rằng sự giải thoát, sự an toàn, sự giác ngộ của hắn, hay dùng bất cứ chữ nào ta thích, tự nó là vấn đề "ưu tâm cứu cánh", thì không thể định được cần phải có bao lâu thời gian và tiền tài cho mục đích này. Có đượ cái tầm mắt và can đảm để nghĩ ra một phương pháp gồm sự ưu tâm rộng rãi đến một con người là một biểu hiện của một thái độ vượt qua tư tưởng qui ước phương Tây trên một phương diện quan trọng.
    Những nhận định trên không nhằm ngụ ý là Freud, trong các chủ ý hữu thức của ông, gần gũi với tư tưởng Đông phương hay đặc biệt với tư tưởng
    Thiền. Nhiều yếu tố mà tôi đề cập đến trước đây thì có tính ám tàng hơn là hiển nhiên, và vô thức hơn hữu thức, theo ý Freud. Freud quả là một đứa con của văn minh phương Tây, và nhất là của tư tưởng thế - kỷ - mười - tám và mưới - chín, nên khó mà gần gũi được với tư tưởng phương Đông như tư tưởng của Thiền, dù ông từng quen thuộc với nó đi nữa. HÌnh ảnh của Freud về con người trong những đường nét chính là cái hình ảnh mà những kinh tế gia và triết gia của thế kỷ mười tám và mười chín đã khai triển. HỌ thấy con người mà bản chất là cạnh tranh, đơn độc, và chỉ liên hệ với kẻ khác vì cần trao đổi sự thoả mãn những nhu cầu kinh tế và bản năng. Theo Freud, con người là một cái máy, điều khiển bởi libido, và điều hành bởi nguyên tắc giữ libido khích động tới một mức tối thiểu. Ông thấy con người vốn tự tôn, và chỉ liên hệ với kẻ khác để thoả mãn những dục vọng bản năng. Đối với Freud, khoái lạc là giảm bớt căng thẳng, chú không phải là kinh nghiệm niềm vui. Ông thấy con người bị chia rẽ giữa trí năng và tìm cảm của hắn; con người không phài là toàn thể con người; mà là cái ngã trí năng của các triết gia ánh sáng. Tình huynh đệ là một đòi hỏi phi lý, trái với thực tại; kinh nghiệm thần bí là một sự thoái hoá về dự ngã ái ấu trĩ.
    Những gì tôi đã cố chỉ tỏ là bất chấp những mâu thuẫn rõ rệt này với Thiền, dẫu thế trong hệ thống của Freud vẫn có những yếu tố vượt qua các khái niệm về bệnh và chữa, và những khái niệm truyền thống duy lý về ý thức, những yếu tố đưa đến một sự phát triển phân tâm học xa rộng hơn có một tương quan trực tiếp và tích cực hơn với tư tưởng Thiền.
    Tuy nhiên, trước khi chúng ta bàn luận về mối tương quan giữa phân tâm học "nhân bản" và Thiền, tôi muốn chỉ ra một sự thay đổi thật là căn bản để hiểu sự phát triển xa rộng hơn của phân tâm học: sự thay đổi các loại bệnh nhân đến để được phân tích, và những vấn đề họ bầy tỏ.
    Vào đầu thế kỷ này những người đến với nhà tâm bệnh học chủ yếu là những người có triệu chứng. Họ có một cánh tay tê liệt, hay một chứng ám ảnh như một sự bó buộc phải rửa ráy, hay họ có những tư tưởng ám ảnh mà họ không thoát khỏi được. Nói một cách khác, họ bệnh theo cái nghĩa mà chữ "bệnh" được dùng trong y học; một cái gì đó cản trở họ sinh hoạt hợp với xã hội như kẻ mà ta gọi là bình thường. Nếu đó là những gì họ bị,quan niệm về chữa của họ tương đương với quan niệm về bệnh. Họ muốn thoát khỏi những triệu chứng, và quan niệm "mạnh" của họ là không bị ốm. Họ muốn mạnh như con người bình thường, hay như ta cũng có thể nói, họ không muốn bị khổ sở và phiền não hơn con người trung bình trong xã hội chúng ta.
    Những người này vẫn đến với nhà phân tâm để tìm giúp đỡ, và đối với họ phân tâm học vẫn là một liệu pháp nhằm trừ bỏ những triệu chứng của họ, và giúp họ có thể sinh hoạt hợp với xã hội. Nhưng trong khi họ tưng là đa số thân chủ của một nhà phân tâm, hiện nay họ là thiểu số, có lẽ không phải rằng số lượng tuyệt đối của họ ngày nay ít hơn thời đó, nhưng bởi vì số lượng những người như họ tương đối nhỏ hơn so với nhiều những "bệnh nhân" mới sinh hoạt xã hội, những người không bệnh theo nghĩa thường tình, mà là những nguời bị "bệnh thế kỷ", sự phiền não, cái tê liệt nội tâm mà tôi đã bàn trên. Những bệnh nhân này đến với phân tâm học mà không biết mình thực sự bị bệnh gì. Họ than phiền vì bị chán nản, bị mất ngủ, không được hạnh phúc hôn nhân, không thích thú công việc, và đủ thứ phiền não tương tự khác. HỌ thường tin vào triệu chứng đặc biệt này hay triệu chứng đặc biệt nọ là vấn đề của họ và nếu họ có thể thoát được được mối phiền não đặc biệt này là họ sẽ an lành. Tuy nhiên, thường thì những bệnh nhân này không thấy rằng vấn đề của họ không là vấn đề chán nản mất ngủ, hôn nhân, hay công việc của họ. Những lời than phiền này chỉ là cái hình thức hữu thức mà nền văn hoá chúng ta cho phép họ bộc lộ một cái gì đó nằm dưới sâu hơn và thông thường đối với những hạng người tin một cách hữu thức rằng mình bị triệu chứng này hay triệu chứng nọ. Nỗi khổ sở thông thường là sự cách ly khỏi chính mình, khỏi đồng loại, và khỏi thiên nhiên; sự nhận thức được rằng đời sống vuột khỏi tay mình như cát, và mình sẽ chết mà chưa được sống; rằng mình sống sung túc thế mà không có niềm vui.
    Phân tâm học có thể giúp gì được cho người bị "bệnh thế kỷ"? Sự giúp đỡ này thì - và phải - dị biệt với sự "chữa" , mà cốt ở trừ bỏ những triệu chứng, cho những người không sinh hoạt hợp với xã hội được. Đối với người bị vong thân, chữa không côt ở chỗ vắng mặt bệnh, mà ở sự hiện diện của chính hữu.
    Tuy nhiên, nếu chúng ta phải định nghĩa chính hữu, chúng ta gặp phải những khó khăn đáng kể. Nếu chúng ta ở trong vòng hệ thống của Freud, hẳn phải định nghĩa chính hữu theo thuyết libido, như cái khả năng tác động sinh dục viên mãn, từ một khía cạnh khác, như là một sự nhận thức được cái trạng huống ơ đíp, những định nghĩa mà, theo ý tôi, chỉ tiếp tuyến được với vấn đề nân sinh thực sự và sự thực hiện được chính hữu bởi toàn thể con người. Bất cứ một nỗ lực nào để đưa ra một câu đáp tạm thời cho vấn đề chính hữu cũng phải vượt qua tầm tư tưởng của Freud và đưa đến một cuộc bàn luận, không trọn vẹn, như nó phải thế, về quan niệm nhân sinh căn bản, làm nền tảng cho phân tâm học nhân bản. Chỉ có cách đó, chúng ta mới đặt được nền tảng cho sự so sánh giữa phân tâm học và tư tưởng Thiền.
    (Trích từ cuốn Phân tâm học và văn hoá tâm linh -NXB VHTT 2003)
    Bài sau:
    Bản chất của chính hữu -
    Tiến hóa tâm thần của con người
  6. linhtinh111

    linhtinh111 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/09/2003
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Viết hay lắm nhưng hơn nặng về phân tâm học. Tôi nghĩ phân tâm học chỉ là một phần của tâm lý học thôi. Với topic "Các vấn đề tâm lý -Lý thuyết và Ứng dụng", chúng ta hay nói về các vấn đề rộng hơn của tâm lý thì phù hợp hơn. Có ai biết vấn đề ngôn ngữ thể hiện được tâm lý khi nói chuyện không? viết lên cho mọi người cùng tham gia với
  7. linhtinh111

    linhtinh111 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    18/09/2003
    Bài viết:
    12
    Đã được thích:
    0
    Viết hay lắm nhưng hơn nặng về phân tâm học. Tôi nghĩ phân tâm học chỉ là một phần của tâm lý học thôi. Với topic "Các vấn đề tâm lý -Lý thuyết và Ứng dụng", chúng ta hay nói về các vấn đề rộng hơn của tâm lý thì phù hợp hơn. Có ai biết vấn đề ngôn ngữ thể hiện được tâm lý khi nói chuyện không? viết lên cho mọi người cùng tham gia với
  8. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chào bạn lintinh111!!
    Rất hoan nghênh bạn đã tham gia. Thực ra, tôi đã muốn bàn về các vấn đề tâm lý khác ngoài phân tâm học nên mới tạo tôpic này mà kô viêt tiếp trong tô pic Phân tâm học. Tuy nhiên, do cảm thấy phần Phân tâm học tới đây sẽ post sẽ có ích trong một chừng mực nào đó đối với một số TH rắc rối tâm bệnh lý, nên tôi post lên. Bạn nào có thể rút ra điều gì có ích cho mình thì thật là vui cho tôi.
    Sau phần này, tôi sẽ post tiếp về các TP tâm lý học hiện đại khác như tâm lý theo mô hình nhân văn, tâm lý học phát triển, vấn đề trí tuệ cảm xúc...
    Mong các bạn tham gia
    Vấn đề của bạn rất hay. Xin khất bạn vào một lúc khác.Bản chất của chính hữu-
    ------------------------------------------------------------
    ------------------------------------------------------------
    Tiến hóa tâm thần của con người
    Bước đầu tiên đến một định nghĩa về chính hữu có thể phát biểu như thế này: chính - hữu là hiện hữu phù hợp với bản tính con người. Nếu chúng ta phải vượt qua phát ngôn trịnh trọng này thì câu hỏi sẽ khởi lên: Thế nào là hiện hữu, phù hợp với những điều kiện nhân sinh? Những điều kiện này là gì?
    Hiện sinh con người đề ra một câu hỏi. Con người bị ném vào thế giới này ngoài ý muốn; và bị lấy đi khỏi nó cũng ngoài ý muốn. Trái với thú vật, trong bản năng chúng, có một bộ máy "bẩm sinh" thích nghi với hoàn cảnh, sống hoàn toàn trong thiên nhiên, con người thiếu cái bộ máy ban năng này. Hắn phải sống đời sống của mình, hắn không bị sống bởi nó. Hắn ở trong thiên nhiên, nhưng hắn vượt qua thiên nhiên, hắn nhận thức được chính mình, và sự tự thức như một thực thể cách biệt này khiên hắn cảm thấy cô đơn, lạc lõng, bất lực khôn xíêt. Chính cái sự kiện được sinh ra cũng làm phát sinh một vấn đề. Vào giây phút sinh ra, cuộc đời hỏi con người một câu hỏi, và hắn phải trả lời câu hỏi này. Hắn phải trả lời nó vào mọi khoảnh khắc; không phải tâm hắn, thân hắn, mà hắn, cái con người suy tưởng và mộng mị, ngủ và ăn và khóc và cười - cả con người - phải trả lời cho câu hỏi ấy. Câu hỏi mà cuộc đời này đề ra này là gì? Làm cách nào chúng ta vượt qua được sự đau khổ, tù túng, nỗi tủi nhục mà cái kinh nghiệm về sự cách biệt tạo ra; làm thế nào chúng ta tìm được sự hoà hợp với chính mình với đồng loại, với thiên nhiên? Con người phải trả lời câu hỏi này bằng một cách nào đó; và dù có điên loạn đi nữa ta cúng đưa ra một câu trả lời bằng cách đánh bật thực tại ra khỏi chính ta, sống trọn vẹn trong lớp vỏ của chính mình, và như thế vượt qua lớp vỏ của nỗi sợ hãi bị cách biệt.
    Câu hỏi lúc nào cũng như vậy. Tuy nhiên, có nhiều câu trả lời, hay căn bản, chỉ có hai câu trả lời. Một là vượt qua cách biệt và tìm thấy hoà hợp bằng cách lui về trạng thái hoà hợp hiện hữu trước khi nhận thức khởi dậy, nghĩa là trước khi con người sinh ra. Câu trả lời nữa là ra đời trọn vẹn, phát triển nhận thức, lý tính, khả năng yêu thương của mình đến một điểm mà mình vượt qua được sự vướng kẹt qui kỉ của chính mình, và đạt đến hài hoà mới, đến một sự hợp nhất mới với thế giới.
    Khi nói về sinh chúng ta thường ám chỉ cái tác động sinh lý xấy ra cho một đứa trẻ khoảng chín tháng sau thai nghén. Những ý nghĩa của sự sinh này được quá đề cao trên nhiều phương diện. Trên những phương diện quan trọng trong đời sống của một hài nhi một tuần sau khi ra đời giống như sự sống nội tử cung hơn là sự sống của một người nam hoặc nữ trưởng thành. Tuy nhiên, có một phương diện độc nhất của sinh: cuốn rốn bị cắt lìa, và hài nhi bắt đầu hoạt động đầu tiên: thở. Mọi sự cát đứt các mối ràng buộc nguyên sơ, từ đó trở đi, chỉ có thể có được đến cái mức độ mà sau sực cắt đứt này có hoạt động thực sự.
    Sinh không phải là một tác động; nó là một tiến trình. Mục tiêu của đời sống là ra đời trọn vẹn, mặc dù bi kịch của đời sống là hầu hết chúng ta chết trước khi ra đời trọn vẹn. Sống là ra đời từng phút từng giây. Chết xảy ra khi sinh dừng lại. Trên phương diện sinh lý, hệ thống tế bào của chúng ta ở trong một tiến trính sinh liên tục; tuy nhiên, về phương diện tâm lý, hầu hết chúng ta thôi sinh ở một thời điểm nào đó. Có người hoàn toàn chết nhay khi sinh ra; họ tiếp tục sống trên phương diện sinh lý trong khi trên phương diện tinh thần nỗi khát khao của họ là trở về lòng mẹ , về đất, về bóng tối, sự chết, họ điên loạn, hay gần như vậy. Nhiều người khác tiến xa hơn họ trên con đuờng sống. Thế nhưng có thể nói, họ không cắt lìa hoàn toàn được khỏi cuống rốn; trên mặt cộng sinh, họ vẫn bám vào mẹ, cha, gia đình, chủng tộc, quốc gia, điều lệ, tiền tài, thần linh...họ không bao giờ lộ diện trọn vẹn như chính mình và do đó họ không bao giờ trở nên được ra đời mộ cách trọn vẹn. Cái nỗ lực thoái hoá để trả lời vấn đề hiện sinh có thể màn nhiều hình thức khác nhau; cái chung cho các hình thức ây là chúng nhất thiết phải thất bại và đưa đến đau khổ. Một khi con người đã bị dứt ra khỏi sự hợp nhất tiền nhân, cực lạc với thiên nhiên, hắn không bao giờ có thể trở về nời mà từ ấy hắn đã đến; hai thiên thần với những luỡi gươm nóng bỏng ngăn hắn trở về. Hắn chỉ có thể trong cái chết hay trong điên loạn, chứ không trong đời sống và lành mạnh.
    Con ngừoi có thể nỗ lực tìm thấy sự hợp nhấy thoái hoá này ở nhiều mức độ, đồng thời cũng là nhiều mức độ của bệnh học và phi lý tính. Hắn có thể bị ám ảnh bởi cái khát vọng trở về với lòng mẹ, về địa mẫu, về cái chết. Nếu cái mục tiêu này có tính cách tiêu hao tất cả và không được kiểm soát, kết qủa là tự tử hay điên loạn. Một hình thức ít nguy hiểm hơn và bệnh lý hơn của một cuộc tìm sự hoà hợp thoái hoá là cái mục tiêu bám mãi vào lòng mẹ,hay tay mẹ,hay mệnh lệnh cha. Những dị biệt giữa các mục tiêu này đánh dấu sự biệt giứa các loại cá tính. Kẻ ở mãi trong lòng mẹ là đứa hài nhi lệ thuộc đời đời, cảm thấy an toàn khi được yêu thương, chăm sóc, bảo vệ, và khâm phục, và đầy sự lo âu khôn xiết khi bị tách biệt khỏi bà mẹ từ ái. Kẻ vẫn ràng buộc với mênh lệnh của cha có thể phát triển nhiều sáng kiến và hoạt động nhưng luôn luôn dưới một điều kiện rằng phải có có một thế quyền để ra lệnh, khen ngợi, và trừng phạt. Một hình thức khác của chiều hướng thoái hoá nằm trong tính chất phá huỷ, trong mục tiêu vượt qua sự cách ly cách bằng cái dục vọng phá huỷ, tất cả mọi vật và mọi người. Người ta có thể tìm nó bắng cách ước muốn ăn hết và thôn tính tất cả mọi vật và tất cả mọi người, nghĩa là bằng cách thể hiện thế giới và mọi cái trong ấy như thực phẩm, hoặc bằng cách huỷ diệt tất cả mọi cái ngoại trừ chính mình. Lại một hình thức nỗ lực khác để chữa mối đau khổ cách ly nằm ở chỗ bồi bổ Bản Ngã của mình, thành một "vật" tách biệt, vững chắc, không thể huỷ hoại được. Lúc ấy, người ta thể nghiệm mình như là sở hữu của chính mình, quyền năng, uy thế , tri thức của mình.
    (Còn tiếp)
  9. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chào bạn lintinh111!!
    Rất hoan nghênh bạn đã tham gia. Thực ra, tôi đã muốn bàn về các vấn đề tâm lý khác ngoài phân tâm học nên mới tạo tôpic này mà kô viêt tiếp trong tô pic Phân tâm học. Tuy nhiên, do cảm thấy phần Phân tâm học tới đây sẽ post sẽ có ích trong một chừng mực nào đó đối với một số TH rắc rối tâm bệnh lý, nên tôi post lên. Bạn nào có thể rút ra điều gì có ích cho mình thì thật là vui cho tôi.
    Sau phần này, tôi sẽ post tiếp về các TP tâm lý học hiện đại khác như tâm lý theo mô hình nhân văn, tâm lý học phát triển, vấn đề trí tuệ cảm xúc...
    Mong các bạn tham gia
    Vấn đề của bạn rất hay. Xin khất bạn vào một lúc khác.Bản chất của chính hữu-
    ------------------------------------------------------------
    ------------------------------------------------------------
    Tiến hóa tâm thần của con người
    Bước đầu tiên đến một định nghĩa về chính hữu có thể phát biểu như thế này: chính - hữu là hiện hữu phù hợp với bản tính con người. Nếu chúng ta phải vượt qua phát ngôn trịnh trọng này thì câu hỏi sẽ khởi lên: Thế nào là hiện hữu, phù hợp với những điều kiện nhân sinh? Những điều kiện này là gì?
    Hiện sinh con người đề ra một câu hỏi. Con người bị ném vào thế giới này ngoài ý muốn; và bị lấy đi khỏi nó cũng ngoài ý muốn. Trái với thú vật, trong bản năng chúng, có một bộ máy "bẩm sinh" thích nghi với hoàn cảnh, sống hoàn toàn trong thiên nhiên, con người thiếu cái bộ máy ban năng này. Hắn phải sống đời sống của mình, hắn không bị sống bởi nó. Hắn ở trong thiên nhiên, nhưng hắn vượt qua thiên nhiên, hắn nhận thức được chính mình, và sự tự thức như một thực thể cách biệt này khiên hắn cảm thấy cô đơn, lạc lõng, bất lực khôn xíêt. Chính cái sự kiện được sinh ra cũng làm phát sinh một vấn đề. Vào giây phút sinh ra, cuộc đời hỏi con người một câu hỏi, và hắn phải trả lời câu hỏi này. Hắn phải trả lời nó vào mọi khoảnh khắc; không phải tâm hắn, thân hắn, mà hắn, cái con người suy tưởng và mộng mị, ngủ và ăn và khóc và cười - cả con người - phải trả lời cho câu hỏi ấy. Câu hỏi mà cuộc đời này đề ra này là gì? Làm cách nào chúng ta vượt qua được sự đau khổ, tù túng, nỗi tủi nhục mà cái kinh nghiệm về sự cách biệt tạo ra; làm thế nào chúng ta tìm được sự hoà hợp với chính mình với đồng loại, với thiên nhiên? Con người phải trả lời câu hỏi này bằng một cách nào đó; và dù có điên loạn đi nữa ta cúng đưa ra một câu trả lời bằng cách đánh bật thực tại ra khỏi chính ta, sống trọn vẹn trong lớp vỏ của chính mình, và như thế vượt qua lớp vỏ của nỗi sợ hãi bị cách biệt.
    Câu hỏi lúc nào cũng như vậy. Tuy nhiên, có nhiều câu trả lời, hay căn bản, chỉ có hai câu trả lời. Một là vượt qua cách biệt và tìm thấy hoà hợp bằng cách lui về trạng thái hoà hợp hiện hữu trước khi nhận thức khởi dậy, nghĩa là trước khi con người sinh ra. Câu trả lời nữa là ra đời trọn vẹn, phát triển nhận thức, lý tính, khả năng yêu thương của mình đến một điểm mà mình vượt qua được sự vướng kẹt qui kỉ của chính mình, và đạt đến hài hoà mới, đến một sự hợp nhất mới với thế giới.
    Khi nói về sinh chúng ta thường ám chỉ cái tác động sinh lý xấy ra cho một đứa trẻ khoảng chín tháng sau thai nghén. Những ý nghĩa của sự sinh này được quá đề cao trên nhiều phương diện. Trên những phương diện quan trọng trong đời sống của một hài nhi một tuần sau khi ra đời giống như sự sống nội tử cung hơn là sự sống của một người nam hoặc nữ trưởng thành. Tuy nhiên, có một phương diện độc nhất của sinh: cuốn rốn bị cắt lìa, và hài nhi bắt đầu hoạt động đầu tiên: thở. Mọi sự cát đứt các mối ràng buộc nguyên sơ, từ đó trở đi, chỉ có thể có được đến cái mức độ mà sau sực cắt đứt này có hoạt động thực sự.
    Sinh không phải là một tác động; nó là một tiến trình. Mục tiêu của đời sống là ra đời trọn vẹn, mặc dù bi kịch của đời sống là hầu hết chúng ta chết trước khi ra đời trọn vẹn. Sống là ra đời từng phút từng giây. Chết xảy ra khi sinh dừng lại. Trên phương diện sinh lý, hệ thống tế bào của chúng ta ở trong một tiến trính sinh liên tục; tuy nhiên, về phương diện tâm lý, hầu hết chúng ta thôi sinh ở một thời điểm nào đó. Có người hoàn toàn chết nhay khi sinh ra; họ tiếp tục sống trên phương diện sinh lý trong khi trên phương diện tinh thần nỗi khát khao của họ là trở về lòng mẹ , về đất, về bóng tối, sự chết, họ điên loạn, hay gần như vậy. Nhiều người khác tiến xa hơn họ trên con đuờng sống. Thế nhưng có thể nói, họ không cắt lìa hoàn toàn được khỏi cuống rốn; trên mặt cộng sinh, họ vẫn bám vào mẹ, cha, gia đình, chủng tộc, quốc gia, điều lệ, tiền tài, thần linh...họ không bao giờ lộ diện trọn vẹn như chính mình và do đó họ không bao giờ trở nên được ra đời mộ cách trọn vẹn. Cái nỗ lực thoái hoá để trả lời vấn đề hiện sinh có thể màn nhiều hình thức khác nhau; cái chung cho các hình thức ây là chúng nhất thiết phải thất bại và đưa đến đau khổ. Một khi con người đã bị dứt ra khỏi sự hợp nhất tiền nhân, cực lạc với thiên nhiên, hắn không bao giờ có thể trở về nời mà từ ấy hắn đã đến; hai thiên thần với những luỡi gươm nóng bỏng ngăn hắn trở về. Hắn chỉ có thể trong cái chết hay trong điên loạn, chứ không trong đời sống và lành mạnh.
    Con ngừoi có thể nỗ lực tìm thấy sự hợp nhấy thoái hoá này ở nhiều mức độ, đồng thời cũng là nhiều mức độ của bệnh học và phi lý tính. Hắn có thể bị ám ảnh bởi cái khát vọng trở về với lòng mẹ, về địa mẫu, về cái chết. Nếu cái mục tiêu này có tính cách tiêu hao tất cả và không được kiểm soát, kết qủa là tự tử hay điên loạn. Một hình thức ít nguy hiểm hơn và bệnh lý hơn của một cuộc tìm sự hoà hợp thoái hoá là cái mục tiêu bám mãi vào lòng mẹ,hay tay mẹ,hay mệnh lệnh cha. Những dị biệt giữa các mục tiêu này đánh dấu sự biệt giứa các loại cá tính. Kẻ ở mãi trong lòng mẹ là đứa hài nhi lệ thuộc đời đời, cảm thấy an toàn khi được yêu thương, chăm sóc, bảo vệ, và khâm phục, và đầy sự lo âu khôn xiết khi bị tách biệt khỏi bà mẹ từ ái. Kẻ vẫn ràng buộc với mênh lệnh của cha có thể phát triển nhiều sáng kiến và hoạt động nhưng luôn luôn dưới một điều kiện rằng phải có có một thế quyền để ra lệnh, khen ngợi, và trừng phạt. Một hình thức khác của chiều hướng thoái hoá nằm trong tính chất phá huỷ, trong mục tiêu vượt qua sự cách ly cách bằng cái dục vọng phá huỷ, tất cả mọi vật và mọi người. Người ta có thể tìm nó bắng cách ước muốn ăn hết và thôn tính tất cả mọi vật và tất cả mọi người, nghĩa là bằng cách thể hiện thế giới và mọi cái trong ấy như thực phẩm, hoặc bằng cách huỷ diệt tất cả mọi cái ngoại trừ chính mình. Lại một hình thức nỗ lực khác để chữa mối đau khổ cách ly nằm ở chỗ bồi bổ Bản Ngã của mình, thành một "vật" tách biệt, vững chắc, không thể huỷ hoại được. Lúc ấy, người ta thể nghiệm mình như là sở hữu của chính mình, quyền năng, uy thế , tri thức của mình.
    (Còn tiếp)
  10. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chương II
    Phân tâm học của Freud​
    Sơ lược tiểu sử của Freud
    Sigmund Freud sinh ra ở Freiberg năm 1856. Khi lên 4, gia đình chuyển tới Viên, ở đó Freud sống gần 80 năm. Là con lớn nhất trên trên 8; bố làm nghề buôn len. Freud tin mình là đứa con được quí mên hơn cả và nhiều điều được chờ đón ở nó. Ông có nói: " Một người đã là người được mẹ yêu quí nhất, không ai tranh cãi, sẽ suốt đời giữ cảm tưởng là người chinh phục; sự tin tưởng đó vào thành công sẽ dẫn đến thành công thực sự."
    Ông ngốn một cách ngon lành những sách dạy về lịch sử và triết học giống như Piaget. Ông và một người bạn dạy cho nhau tiếng Tây Ban Nha và có thể đọc Don Quichote ở bản gốc. Ở trường Trung học, Freud viết một tiểu luận của Goethe thức tỉnh nơi ông sự quan tâm đến khoa học. Ông vào trường Y với lý hy vọng dành cả cuộc đời cho nghiên cứu khoa học.
    Mục đích trơ thành một người nghiên cứu bị gạt sang một bên khi hoàn cảnh kinh tế eo hẹp của ông và sự cản trở thăng tiến của ông vào viện hàn lâm vì là người Do thái, buộc ông phải hành nghề tư. Sự quan tâm của ông đối với thần kinh học tất nhiên dẫn ông đến điều trị những rối loạn thần kinh.
    Đồng thời ngành y đó ở mức rất nguyên thuỷ và người hành nghề đó nhận được ít sự giúp đỡ đối với bệnh tâm thần. Các bệnh nhân được trị liệu bằng thuỷ liệu pháp hoặc bằng điện.
    Freud bị mê hoặc bởi bệnh hysteri. Sự quan tâm của ông đối với khả năng điều trị mới bằng thôi miên được nhen nhóm lêm do tiếp xúc với Jean Charcot ở Pháp và nhà vật lý Josef Brene ở Viênn. Sự kiện Charcot có thể gây những triệu chứng của hysteri ở người, bằng ám thị thôi miên là một chứng cớ rõ ràng là bệnh có nền tảng tâm lý. Trong khi Freud sử dụng thôi miên là một chứng cứ rõ ràng là bệnh có nền tảng tâm lý. Trong khi Freud sử dụng thôi miên với bệnh nhân, ông có ấn tượng là họ có thể nhớ được nhiều sự việc quan trọng xảy ra và những cảm tưởng khi ở trong trạng thái bị thôi miên mà không thể biết tới được bằng cách khác. Dù rằng đa số các nhà thần kinh đều cho rằng thôi miên vừa lừa dối vừa nguy hiểm, Freud phấn chấn thử nghiệm kỹ thuật đó vì là lần đầu tiên, theo ông, có được ý thức vượt được sự bất lực của người ta, và thật là tâng bốc khi được nổi danh là người làm được "điều kỳ diệu".
    Nghiên cứu của Freud về các giấc mộng của bệnh nhân và các ký ức của trẻ em dẫn ông đến xuất bản chính đầu tiên "giải thích các giấc mộng" (1900). Tuy cuốn sách đó không được tập thể y học và khoa học cũng như công chúng rộng rãi biết đến, ông không nản lòng. Những năm tiếp theo, một loạt những cuốn sách làm mê hoặc lòng người xuất hiện. Carl Jung và Alder tăng cường phong trào phân tâm mới, tuy bị các cơ sở y học châu Âu bác bỏ, sự khước từ đó kéo các nhà phân tâm gần nhau chặt chẽ hơn, và họ hình thành Hội Phân tâm Quốc tế, tồn tại cho đến ngày nay. Một bước ngoặt vào năm 1909 khi nhà tâm lý học bậc thầy của Mỹ: G.Stanley Hall mời Freud sang bang Massachusetts, nói chuyện nhân 20 năm kỷ niệm trường Đại học Clark. Nhân dịp đó, Freud nói lên cảm tưởng của mình" Tuy ở châu Âu tôi bị khinh miệt, ở đây tôi được tiếp đón ngang bằng với những người quan trọng hàng đầu. Khi tôi bước lên bục giảng ở Worcester, để phát biểu về "Năm báo cáo về phân tâm học", dường như là sự thưc hiện một giấc mơ ban ngày không thể tin được: phân tâm học đã trở thành một phần có giá trị của thực tế."
    Đặc biệt những năm sau Đại chiến thứ I, Freud kết thúc việc được quốc tế công nhận, Phân tâm học bắt đầu tác động không chỉ đến tâm thần học mà cả tới các khoa học xã hội , và các linh vực văn học, nghệ thuật, khoa học về đạo đức và giáo dục, "vô thức" và "cái tôi " trở thành những từ thông dụng. Phải nói là còn lâu mới tích cực. Nhiều người bất bình trước lời tuyên bố là trẻ em có bản chất ********, những tấn công vào thuyết phân tâm tiếp tục trong suốt cuộc đời của Freud. Hơn nữa, thành công của Freud bị sự ly khai của Jung và Alder và của những lãnh đạo có tên tuổi làm hại.
    Freud tiếp tục phát triển lý thuyết của ông, qua năm tháng. Trên thực tế vào tuổi 70, ông có làm một số thay đổi, những bài viết của ông về phân tâm hợp thành 23 tập. Trong khi những năm cuối, ông làm việc trong khi rất đau vì ung thư. Khi Nazi chiếm nước Áo vào năm 1937, ông buộc phải chạy sang Anh. Ông mất tại London năm 1939.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này