1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chương II
    Phân tâm học của Freud​
    Sơ lược tiểu sử của Freud
    Sigmund Freud sinh ra ở Freiberg năm 1856. Khi lên 4, gia đình chuyển tới Viên, ở đó Freud sống gần 80 năm. Là con lớn nhất trên trên 8; bố làm nghề buôn len. Freud tin mình là đứa con được quí mên hơn cả và nhiều điều được chờ đón ở nó. Ông có nói: " Một người đã là người được mẹ yêu quí nhất, không ai tranh cãi, sẽ suốt đời giữ cảm tưởng là người chinh phục; sự tin tưởng đó vào thành công sẽ dẫn đến thành công thực sự."
    Ông ngốn một cách ngon lành những sách dạy về lịch sử và triết học giống như Piaget. Ông và một người bạn dạy cho nhau tiếng Tây Ban Nha và có thể đọc Don Quichote ở bản gốc. Ở trường Trung học, Freud viết một tiểu luận của Goethe thức tỉnh nơi ông sự quan tâm đến khoa học. Ông vào trường Y với lý hy vọng dành cả cuộc đời cho nghiên cứu khoa học.
    Mục đích trơ thành một người nghiên cứu bị gạt sang một bên khi hoàn cảnh kinh tế eo hẹp của ông và sự cản trở thăng tiến của ông vào viện hàn lâm vì là người Do thái, buộc ông phải hành nghề tư. Sự quan tâm của ông đối với thần kinh học tất nhiên dẫn ông đến điều trị những rối loạn thần kinh.
    Đồng thời ngành y đó ở mức rất nguyên thuỷ và người hành nghề đó nhận được ít sự giúp đỡ đối với bệnh tâm thần. Các bệnh nhân được trị liệu bằng thuỷ liệu pháp hoặc bằng điện.
    Freud bị mê hoặc bởi bệnh hysteri. Sự quan tâm của ông đối với khả năng điều trị mới bằng thôi miên được nhen nhóm lêm do tiếp xúc với Jean Charcot ở Pháp và nhà vật lý Josef Brene ở Viênn. Sự kiện Charcot có thể gây những triệu chứng của hysteri ở người, bằng ám thị thôi miên là một chứng cớ rõ ràng là bệnh có nền tảng tâm lý. Trong khi Freud sử dụng thôi miên là một chứng cứ rõ ràng là bệnh có nền tảng tâm lý. Trong khi Freud sử dụng thôi miên với bệnh nhân, ông có ấn tượng là họ có thể nhớ được nhiều sự việc quan trọng xảy ra và những cảm tưởng khi ở trong trạng thái bị thôi miên mà không thể biết tới được bằng cách khác. Dù rằng đa số các nhà thần kinh đều cho rằng thôi miên vừa lừa dối vừa nguy hiểm, Freud phấn chấn thử nghiệm kỹ thuật đó vì là lần đầu tiên, theo ông, có được ý thức vượt được sự bất lực của người ta, và thật là tâng bốc khi được nổi danh là người làm được "điều kỳ diệu".
    Nghiên cứu của Freud về các giấc mộng của bệnh nhân và các ký ức của trẻ em dẫn ông đến xuất bản chính đầu tiên "giải thích các giấc mộng" (1900). Tuy cuốn sách đó không được tập thể y học và khoa học cũng như công chúng rộng rãi biết đến, ông không nản lòng. Những năm tiếp theo, một loạt những cuốn sách làm mê hoặc lòng người xuất hiện. Carl Jung và Alder tăng cường phong trào phân tâm mới, tuy bị các cơ sở y học châu Âu bác bỏ, sự khước từ đó kéo các nhà phân tâm gần nhau chặt chẽ hơn, và họ hình thành Hội Phân tâm Quốc tế, tồn tại cho đến ngày nay. Một bước ngoặt vào năm 1909 khi nhà tâm lý học bậc thầy của Mỹ: G.Stanley Hall mời Freud sang bang Massachusetts, nói chuyện nhân 20 năm kỷ niệm trường Đại học Clark. Nhân dịp đó, Freud nói lên cảm tưởng của mình" Tuy ở châu Âu tôi bị khinh miệt, ở đây tôi được tiếp đón ngang bằng với những người quan trọng hàng đầu. Khi tôi bước lên bục giảng ở Worcester, để phát biểu về "Năm báo cáo về phân tâm học", dường như là sự thưc hiện một giấc mơ ban ngày không thể tin được: phân tâm học đã trở thành một phần có giá trị của thực tế."
    Đặc biệt những năm sau Đại chiến thứ I, Freud kết thúc việc được quốc tế công nhận, Phân tâm học bắt đầu tác động không chỉ đến tâm thần học mà cả tới các khoa học xã hội , và các linh vực văn học, nghệ thuật, khoa học về đạo đức và giáo dục, "vô thức" và "cái tôi " trở thành những từ thông dụng. Phải nói là còn lâu mới tích cực. Nhiều người bất bình trước lời tuyên bố là trẻ em có bản chất ********, những tấn công vào thuyết phân tâm tiếp tục trong suốt cuộc đời của Freud. Hơn nữa, thành công của Freud bị sự ly khai của Jung và Alder và của những lãnh đạo có tên tuổi làm hại.
    Freud tiếp tục phát triển lý thuyết của ông, qua năm tháng. Trên thực tế vào tuổi 70, ông có làm một số thay đổi, những bài viết của ông về phân tâm hợp thành 23 tập. Trong khi những năm cuối, ông làm việc trong khi rất đau vì ung thư. Khi Nazi chiếm nước Áo vào năm 1937, ông buộc phải chạy sang Anh. Ông mất tại London năm 1939.

  2. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    II. Xu hướng chung của lý thuyết
    Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày hai cách tiếp cận hay dùng nhất khi đề cập đến lý thuyết của Freud: Tiếp cận động năng và tiêp cận cấu trúc.
    1. Tiếp cận động năng
    Freud mô tả thuyết của ông như" một loại kinh tế học năng lượng thần kinh." Năng lượng thần kinh đó được gọi dưới những tên khác nhau: Năng lượng tâm lý, xung năng, dục năng và căng thẳng. Tương đương với năng lực trong lĩnh vực vật lý, năng lượng thần kinh gia tăng và có thể được phân phối gắn với một số hình ảnh, biến đổi và được giải toả? giống như năng lượng về cơ, điện và nhiệt độ, thực hiện công việc vật lý, năng lượng tâm lý thực hiện công việc tâm lý.
    Có thể đồng nhất nhiều luật về hệ thống năng lượng của Freud với ý nghĩa thông thường trong vật lý. Thí du, cũng như năng lượng vật lý được chuyển đổi chứ không phá huỷ, năng lượng tâm lý được biến đổi thành lo hãi, thay thế một cấu trúc thực thể gây nên một triệu chứng, chẳng hạn như bại liệt, chuyển đổi thành một suy nghĩ ám ảnh...Một suy luật khác về năng lượng là "nguyên tắc khoái cảm" nổi tiếng, định rằng bất kỳ khi nào có thể, năng lượng được giải toả không chậm trễ. Cơ thể hướng tới giảm ngay trực tiếp sự căng thẳng, để giảm đau đớn và cung cấp khoái cảm. Đói dẫn tới ăn, nhu cầu bú dẫn tới mút ngón tay. Một thí dụ cuối cùng là về "nguyên tắc hoạt động ít nhất" trong đó một số lượng nhỏ về năng lượng dục được giải toả nhưng chỉ sau một thời gian chậm trễ và chỉ sau khi đi theo một con đường gián tiếp. Ở đây được đặt ra nguyên tắc thực tế." Bộ máy tâm lý nội soi cắt lớp thực tế và đánh giá những con đường hoạt động khả dĩ trước khi để cho năng lượng được giải toả. Thí dụ, một trẻ đang cáu có thể nói với bạn nó là bạn nó làm nó cáu giận hơn là đánh bạn và chịu nguy cơ bị phạt.
    Năng lượng tâm lý đến từ đâu? Cơ thể con người có một số bàn năng có những đòi hỏi với trí não. Bản năng(hay xung năng sinh lý) bao gồm sự kích thích ở một vùng nào đó của cơ thể. Sự xung đột bên trong đó kích thích tâm trí và tạo nên một "nhu cầu".Vậy năng lượng tâm lý xuất phát từ năng lượng sinh lý. Freud bảo lưu ý kiến là "tâm trí" và "cơ thể" không ngừng tác động lên nhau.
    Trong mô tả cuối cùng, hai bản năng cơ bản là Eros = bản năng sống (********), tự bảo vệ, tình yêu, lực sống hướng về sự thống nhất) và bản năng huỷ hoại( tấn công, không thực hiện những tượng liên, căm thù, bản năng chết). Freud định ra từ "dục năng" cho phần có thể dùng được của bản năng sống. Không có từ tương đương cho năng lượng của bản năng huỷ hoại. Trong những văn bản sớm nhất và được biết đến nhiều nhất, ông đề cao chất tính dục của bản năng sống và hướng ít hơn về phát triển bản năng huỷ hoại.
    Chúng tôi lấy xung năng tính dục để minh hoạ 4 đặc điểm của bản năng: nguồn gốc của nó, mục tiêu, đối tượng và áp lực.
    1.Xung năng tính dục có nguồn gốc ở những nhu cầu cơ thể như được miêu tả ở trên. Xung động tính dục được gợi lên từ các vùng ******** của cơ thể, đặc biệt ở mồm, hậu môn, cơ quan sinh dục. Sự thay đổi vị trí của các xung động làm nền cho sự chuyển động từ giai đoạn này sang giai đoạn khác như sẽ thấy ở dưới.
    2. Mục tiêu của xung năng tính dục, hoặc của bất cứ bản năng nào là chuyển nhu cầu của cơ thể đó. Mục đích cuối cùng được hoàn tất thông qua những mục tiêu phụ như tìm và đầu tư năng lượng vào các đối tượng ********. Sự quay trở lại với một sự cân bằng tâm lý và sinh lý kết thúc bằng thoả mãn nhu cầu.
    3. Căng thẳng gia tăng, một đối tượng tinh dục được tìm thấy, căng thẳng được giải toả, và con người được trải nghiệm khoái cảm. Đối tượng có thể là một người(bản thân hoặc người khác), một vật hoặc biểu tượng của một người hay một vật. Có nhiều con đường để thoả mãn một xung năng. Dục năng trở nên bị bó buộc vào hoặc "đầu tư" vào một đối tượng. Một trẻ đầu tư vào mẹ nó và những đối tượng khác thoả mãn những nhu cầu của nó.
    4. Cuối cùng áp lực của xung năng tính dục được quyết định do mức độ của lực( tổng năng lượng tính dục ). Năng lượng càng nhiều, xung năng càng mãnh liệt.
    Những hành vi khác nhau của con người, cuối cùng có thể bắt nguồn từ hai bản năng chung, với những bản năng phụ khác nhau. Con đương từ bản năng đến hành vi có thể rất gián tiếp do tính cơ động của những bản năng. Năng lượng tâm lý là một nguồn năng lượng chung có thể đem so sánh với một tiếp tế điện năng được sử dụng để nướng bánh, cạo râu...Freud nói tới nhiều con đường cho bản năng có thể được biểu lộ và phối hợp. Xung năng có thể được hợp nhất, xung năng có thể được thoả mãn theo một con đường vòng khi môt người nói chuyện tầm phào về một kẻ địch thay vì tấn công vào thân thể nó.Freud nói rằng khi Leonardo de Vinci vẽ Đức Mẹ đồng trinh đó là cách để thoả mãn phần nào lòng ham muốn mẹ của hoạ sĩ vò ông bị tách khỏi mẹ từ bé. Xung năng có thể bị thay thế, như lòng căm giận trơ thành tình yêu và ******** trở thành tình yêu lý tưởng thuần khiết. Cuối cùng, một đối tượng có thể thay thế cho một đối tượng khác như nhu cầu ăn uống ở người lớn được thoả mãn bằng chơi thổi kèn. Trong một số trương hợp, một đối tượng có mục đích văn hoá hoặc đạo đức cao hơn được thay thế cho ham muốn thực sự đối tượng. Điều đó mang tên"thăng hoa". Một thay thế thông thường cho đối tượng là "bù trừ", khi một người đền bù cho sự thất bại của mình ở một lĩnh vực bằng chuyên tâm vào một lĩnh vực khác.
  3. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    II. Xu hướng chung của lý thuyết
    Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày hai cách tiếp cận hay dùng nhất khi đề cập đến lý thuyết của Freud: Tiếp cận động năng và tiêp cận cấu trúc.
    1. Tiếp cận động năng
    Freud mô tả thuyết của ông như" một loại kinh tế học năng lượng thần kinh." Năng lượng thần kinh đó được gọi dưới những tên khác nhau: Năng lượng tâm lý, xung năng, dục năng và căng thẳng. Tương đương với năng lực trong lĩnh vực vật lý, năng lượng thần kinh gia tăng và có thể được phân phối gắn với một số hình ảnh, biến đổi và được giải toả? giống như năng lượng về cơ, điện và nhiệt độ, thực hiện công việc vật lý, năng lượng tâm lý thực hiện công việc tâm lý.
    Có thể đồng nhất nhiều luật về hệ thống năng lượng của Freud với ý nghĩa thông thường trong vật lý. Thí du, cũng như năng lượng vật lý được chuyển đổi chứ không phá huỷ, năng lượng tâm lý được biến đổi thành lo hãi, thay thế một cấu trúc thực thể gây nên một triệu chứng, chẳng hạn như bại liệt, chuyển đổi thành một suy nghĩ ám ảnh...Một suy luật khác về năng lượng là "nguyên tắc khoái cảm" nổi tiếng, định rằng bất kỳ khi nào có thể, năng lượng được giải toả không chậm trễ. Cơ thể hướng tới giảm ngay trực tiếp sự căng thẳng, để giảm đau đớn và cung cấp khoái cảm. Đói dẫn tới ăn, nhu cầu bú dẫn tới mút ngón tay. Một thí dụ cuối cùng là về "nguyên tắc hoạt động ít nhất" trong đó một số lượng nhỏ về năng lượng dục được giải toả nhưng chỉ sau một thời gian chậm trễ và chỉ sau khi đi theo một con đường gián tiếp. Ở đây được đặt ra nguyên tắc thực tế." Bộ máy tâm lý nội soi cắt lớp thực tế và đánh giá những con đường hoạt động khả dĩ trước khi để cho năng lượng được giải toả. Thí dụ, một trẻ đang cáu có thể nói với bạn nó là bạn nó làm nó cáu giận hơn là đánh bạn và chịu nguy cơ bị phạt.
    Năng lượng tâm lý đến từ đâu? Cơ thể con người có một số bàn năng có những đòi hỏi với trí não. Bản năng(hay xung năng sinh lý) bao gồm sự kích thích ở một vùng nào đó của cơ thể. Sự xung đột bên trong đó kích thích tâm trí và tạo nên một "nhu cầu".Vậy năng lượng tâm lý xuất phát từ năng lượng sinh lý. Freud bảo lưu ý kiến là "tâm trí" và "cơ thể" không ngừng tác động lên nhau.
    Trong mô tả cuối cùng, hai bản năng cơ bản là Eros = bản năng sống (********), tự bảo vệ, tình yêu, lực sống hướng về sự thống nhất) và bản năng huỷ hoại( tấn công, không thực hiện những tượng liên, căm thù, bản năng chết). Freud định ra từ "dục năng" cho phần có thể dùng được của bản năng sống. Không có từ tương đương cho năng lượng của bản năng huỷ hoại. Trong những văn bản sớm nhất và được biết đến nhiều nhất, ông đề cao chất tính dục của bản năng sống và hướng ít hơn về phát triển bản năng huỷ hoại.
    Chúng tôi lấy xung năng tính dục để minh hoạ 4 đặc điểm của bản năng: nguồn gốc của nó, mục tiêu, đối tượng và áp lực.
    1.Xung năng tính dục có nguồn gốc ở những nhu cầu cơ thể như được miêu tả ở trên. Xung động tính dục được gợi lên từ các vùng ******** của cơ thể, đặc biệt ở mồm, hậu môn, cơ quan sinh dục. Sự thay đổi vị trí của các xung động làm nền cho sự chuyển động từ giai đoạn này sang giai đoạn khác như sẽ thấy ở dưới.
    2. Mục tiêu của xung năng tính dục, hoặc của bất cứ bản năng nào là chuyển nhu cầu của cơ thể đó. Mục đích cuối cùng được hoàn tất thông qua những mục tiêu phụ như tìm và đầu tư năng lượng vào các đối tượng ********. Sự quay trở lại với một sự cân bằng tâm lý và sinh lý kết thúc bằng thoả mãn nhu cầu.
    3. Căng thẳng gia tăng, một đối tượng tinh dục được tìm thấy, căng thẳng được giải toả, và con người được trải nghiệm khoái cảm. Đối tượng có thể là một người(bản thân hoặc người khác), một vật hoặc biểu tượng của một người hay một vật. Có nhiều con đường để thoả mãn một xung năng. Dục năng trở nên bị bó buộc vào hoặc "đầu tư" vào một đối tượng. Một trẻ đầu tư vào mẹ nó và những đối tượng khác thoả mãn những nhu cầu của nó.
    4. Cuối cùng áp lực của xung năng tính dục được quyết định do mức độ của lực( tổng năng lượng tính dục ). Năng lượng càng nhiều, xung năng càng mãnh liệt.
    Những hành vi khác nhau của con người, cuối cùng có thể bắt nguồn từ hai bản năng chung, với những bản năng phụ khác nhau. Con đương từ bản năng đến hành vi có thể rất gián tiếp do tính cơ động của những bản năng. Năng lượng tâm lý là một nguồn năng lượng chung có thể đem so sánh với một tiếp tế điện năng được sử dụng để nướng bánh, cạo râu...Freud nói tới nhiều con đường cho bản năng có thể được biểu lộ và phối hợp. Xung năng có thể được hợp nhất, xung năng có thể được thoả mãn theo một con đường vòng khi môt người nói chuyện tầm phào về một kẻ địch thay vì tấn công vào thân thể nó.Freud nói rằng khi Leonardo de Vinci vẽ Đức Mẹ đồng trinh đó là cách để thoả mãn phần nào lòng ham muốn mẹ của hoạ sĩ vò ông bị tách khỏi mẹ từ bé. Xung năng có thể bị thay thế, như lòng căm giận trơ thành tình yêu và ******** trở thành tình yêu lý tưởng thuần khiết. Cuối cùng, một đối tượng có thể thay thế cho một đối tượng khác như nhu cầu ăn uống ở người lớn được thoả mãn bằng chơi thổi kèn. Trong một số trương hợp, một đối tượng có mục đích văn hoá hoặc đạo đức cao hơn được thay thế cho ham muốn thực sự đối tượng. Điều đó mang tên"thăng hoa". Một thay thế thông thường cho đối tượng là "bù trừ", khi một người đền bù cho sự thất bại của mình ở một lĩnh vực bằng chuyên tâm vào một lĩnh vực khác.
  4. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    2. Tiếp cận cấu trúc
    Ở phần trên ta thấy hình ảnh của một hệ thống thuỷ lực với những lực dâng lên cơ thể thông qua cơ thể và tâm trí. Bây giờ, chúng ta hay xem qua các cấu trúc tâm lý được các lực đó chạy qua. Các cấu trúc đó làm trung gian giữa các xung năng và hành vi, các xung năng không trực tiếp dẫn tới hành vi. Như vậy, tâm trí có một kiến trúc. Các quá trình tâm trí chiếm vị trí trong các cấu trúc giữa các cấu trúc và bằng các cấu trúc.Có ba cấu trúc chính: cái Ấy, cái Tôi và cái siêu Tôi. Nói một cách thô thiển, "cái ấy" là nơi trú ngụ của các xung năng có nền tảng sinh lý, "cái Tôi" là cơ chế thích nghi với thực tế, và "Siêu tôi" tương tự như hướng tâm.
    Cái ấy(Id)
    Theo Freud, cái Ấy là " phần tối tăm, không đạt tới được" của nhân cách...một mớ hỗn độn, một cái vại lớn sục sôi những kích động, chứa đưng tất cả những gì được thừa kế, hiện hữu lúc sinh, được cất trong cái tạng - trên tất cả, những bản năng bắt nguồn từ tổ chức, của cái thể và có một biểu lộ tâm lý đầu tiên ở đó (ở cái Ấy) dưới những dạng mà chúng ta không hay biết.
    Cái Ấy đòi hỏi được thoả mãn ngay theo nguyên tắc khoái cảm. Năng lượng của cái Ấy được đầu tư vào hoạt động trên một đối tượng có thể thoả mãn một bản năng hoặc những hình ảnh của đối tượng có thể cung cấp một phần nào sự thoả mãn. Năng lượng của cái Ấy cơ động tới mức nó có thể dể dàng giải toả hoặc chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác, hoặc từ hình ảnh này sang hình ảnh khác.
    Khác với trẻ bé tí, trẻ lớn và người trưởng thành có một cái Tôi và một cái Siêu tôi
    Tuy nhiên, cái Ấy tiếp tục thao tác suốt cuộc đời, đặc biệt trong các giấc mộng của chúng ta, trong những giấc mơ ban ngày, trong tưởng tượng và những hành vi bồng bột, ích kỷ, và yêu đương. Cái Ấy đã được gọi là" đứa con hư của nhân cách". Sâu lắng trong chúng ta, chúng ta muốn một sự thoả mãn hoàn toàn - một cõi nát bàn.
    Nhiều kiến thức của Freud về cái Ấy có được tư nghiên cứu của ông về giấc mộng. Những mong muốn của cái Ấy xuât hiện trong các giấc mộng một cách rõ ràng hoặc cải trang. Chẳng cần được đào tạo về phân tâm học cũng có thể giải thích được giấc mộng về miếng thịt to ở người đói.
    Cái Tôi (Ego)
    Lúc đầu có cái Ấy. Cái Ấy, được trang bị bằng tư duy của " quá trình ban đầu"(ảo tưởng muốn được thoả mãn), đặt ra những yêu cầu. Tuy nhiên, trẻ sớm phát hiện là nghĩ một điều gì không phải là làm được như thế. Nó học được là có sự khác biệt giữa hình ảnh và thực tế, giữa mình và thế giới bên ngoài.
    Điều cái Ấy không thể luôn cung cấp đối tượng mong muốn dẫn tới hình thành cái "Tôi". Cái Tôi, con đường dẫn đến thế giới thực phát triển vì cần cho sự sống còn của cơ thể và tâm lý. Nó giúp cho sự tồn tại bởi vì nó có tư duy của quá trình phát triển thứ phát.
    Quá trình thứ phát hoặc tư duy có lý trí, được tổ chức, thống hợp và lô gic hơn tư duy của quá trình ban đầu, đầy rẫy những mâu thuẫn. Hoạt động của cái Tôi bao gồm toàn bộ hoạt động của tâm trí: như tri giác, tư duy lô gic, giải quyết vấn đề và trí nhớ. Cái Tôi là vị giám đốc phải thực hiện những quyết đinh ở tầm cao hơn. Ông ta đánh giá tình hinhgf hiện tại, nhớ lại các quyết định có liên quan và những sự kiện xảy ra trong quá khứ, cân nhắc những yếu tố khác nhau của hiện tại và tương lai, dự đoán hậu quả của những hoạt động khác nhau. Quyết định của cái Tôi có sự giúp đỡ của lo hãi báo hiệu cho biết một số hoạt động có thể là mối đe doạ.
    Suốt cuộc đời, chúng ta phải sử dụng một sự pha trộn của tư duy của quá trình nguyên phát và thứ phát. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển những khía cạnh của tư duy cảu quá trình thứ phát trở nên trội hơn.
    Cái Tôi phục vụ cho cái Ấy, cái Siêu Tôi và môi trường bên ngoài.
    Quan hệ của cái Tôi và cái Ấy có thể so sánh với quan hệ giữa con ngựa và người cưỡi ngựa. Con ngựa cung cấp năng lượng di chuyển trong khi người cưỡi được ưu tiên quyết định mục tiêu và điều khiển vận động của con vật. Nhưng, chỉ thường quá hay xảy ra giữa cái Tôi và cái Ấy tình huống không thật lý tưởng là người kỵ mã buộc phải dẫn con tuấn mã theo con đưòng mà bản thân nó muốn đi.
    Cái Tôi làm trung gian giữa cái Ấy và thế giới bên ngơài. Vậy, cái Tôi phải đấu tranh trên hai mặt trận: Nó phải bảo vệ sự tồn tại của nó đối với thế giới bên ngoài đe doạ huỷ diệt nó cũng như thế giới nội tâm có những đòi hỏi quá mưca. Nó sử dụng những phương thức bảo vệ như nhau đối với cả hai, song sự phòng vệ đối với kẻ thù bên trong đặc biệt không phù hợp. Do nguồn gốc y như kẻ địch này và từ khi đó đã sống mật thiết với nhau, nó gặp khó khăn lớn khi phải né tránh các mối hiểm hoạ từ trong. Chúng tồn tại như đe doạ, thậm chí kể cả nhất thời chúng bị đàn áp.
    Những đe doạ và hiểm hoạ thường xuyên của cái Ấy và môi trường xung quanh gây lo hãi. Khi có thể, cái Tôi giải quyết vấn đề bằng vận dụng những tài năng giải quyết vấn đề của nó. Tuy nhiên, khi lo hãi lớn qúa đến mức đe doạ, nhận chìm cái Tôi các "cơ chế phòng vệ" vào cuộc. Chúng kiểm soát, do đó giảm lo hãi bằng cách làm méo mó thực tế một phần nào đó. Tuy nhiên, cơ chế phòng vệ chỉ cho phép thoả mãn phần nào các xung năng, khi cơ thể ở trong tình trạng căng thẳng, thoả mãn một phần tốt hơn là không có tí nào. Danh sách những cơ chế phòng vệ của Freud thay đổi về số lượng từ thời gian này sang thời gian khác khi chúng được phối hợp hoặc phân hoá trong những bài viết của ông hoặc con gái ông Anna Freud.. Dưới đây là những cơ chế phòng vệ chính:
    - Dồn nén (phủ định hoặc quên mối nguy hiểm)
    - HÌnh thành phản ứng( hành động ngược lại với điều cảm thấy)
    - Phóng chiếu(gán những xung lực không chấp nhận được của mình cho người khác)
    - Thoái lùi (quan trở về một hình thái hành vi trước đó)
    - Cố định( dẫm chân tại chỗ), cắm chốt.
    1. Dồn nén là phòng ngừa một sự đe doạ trong suy nghĩ, bật nhận ra. Nguyên lý có vẻ như: "điều không biết không thể làm hại được.". Nếu những suy nghĩ lo hãi không xuất hiện trên bề nổi, chúng ta không có kinh nghiệm về lo hãi. Một suy nghĩ có thê rgây lo hãi vì nó đe doạ một sự đổ vỡ trong sự tự kiểm soát, hoặc gây nên hẫng hụt hay cảm giác tội lỗi. Để tránh lo hãi, chúng ta quên tên một người đã làm hại chúng ta, hoặc quên trả tiền một cái hoá đơn có thể gây sức ép nặng nề với ngân sách và gây nên lo lắng.
    Theo Freud, có một sự dồn nén ồ ạt đối với những ký ức về tính dục thơ ấu, một khi trẻ đạt tuổi học sinh. Chỉ với rất nhiều khó khăn, Freud mới giúp được những bệnh nhân người lớn của ông tìm lại được những ký ức đó.
    Những ý kiến của Freud về dồn nén phát triển từ những quan sát của ông trong trị liệu. Khi một bệnh nhân tự do kể những suy nghĩ của mình trong các "liên tưởng tự do", cô ta thường ngưng đột ngột và tuyên bố là đầu óc cô ta đột nhiên trở nên trống rỗng, đúng vào lúc mà những ký ức quan trọng trong quá khứ có vẻ sắp xuất hiện.
    Nều một người quá bị lệ thuộc vào cơ chế phòng vệ đó, có thể phát triển một nhân cách dồn nén: thu mình khó gần, không hồn nhiên và cứng rắn. Cũng có thể mất đi một phần nào sự tiếp xúc thực tế như là phạm những lỗi nghiêm trọng thuờng xảy ra khi nhớ lại, nói năng và tri giác, hoặc phát triển bệnh hysteri, thí dụ: điếc hysteri có thể tránh cho người nghe khỏi những điều không muốn nghe.
    2. Hình thành phản ứng: Cái Tôi che đậy một cảm xúc không thể chấp nhận được bằng tập trung vào mặt trái ngược, đôi khi một cách quá đáng. Một trẻ muốn làm bẩn tã lót và làm bẩn các đồ vật có thể trở thành sạch sẽ một cách say mê, luôn rửa tay. Sự trong trắng có thể che dấu những ham muốn ******** không thể chấp nhận được.
    3. Phóng chiếu là thuộc tính mà tư duy lo hãi gán cho người và vật thế giới bên ngoài hơn là cho mình "tôi muốn giết nó" đuợc đổi thành "nó muốn giết tôi".
    4. Trong thoái lùi, một người quay về một trình độ sớm hơn về phát triển. Nếu lo hãi đối vơi hịên tại quá nhiều đề có thể điều khiển, nguời ta rút lui về những thời kỳ nhiều hồn nhiên hơn, khi có ít kiểm soát hơn. Khi đó, người ta hành động như trẻ con, đánh nhau, làm những trò đùa, ăn quá nhiều kem, la hét những lời thô tục, uống say xỉn.
    5. Trong cố định, một thành tố trong phát triển nhân cách dừng lại. Một phần của dục năng vẫn bị ràng buộc vào một thời kỳ phát triển sớm hơn và không cho phép trẻ dấn thân đầy đủ vào giai đoạn tiếp theo. Cố đinh xảy ra khi kiểu thoả mãn hiện tại, bú mẹ hay bú bình chẳng hạn, được ban phát tới mức trẻ không còn muốn bỏ nữa, thậm cho kể cả khi bị thúc ép cai sữa.
    Những quá trình tâm lý, bàn tới ở phần khác, tới khi được coi như những cơ chế phòng vệ. Chúng bao gồm sự thăng hoa của một ham muốn không thể chấp nhận thành một hoạt động dễ được xã hội chấp nhận hơn, sự đồng hoá với kẻ tấn công và sự chuyển dịch của xung năng.
    Cơ chế phòng vệ là một cái xấu cần thiết. Chúng ta cần tới nó để đối phó với lo hãi nhiều, nhưng phải trả giá bằng sự lãng phí năng lượng. Trong khi nó có thể được đầu tư tốt hơn vào sự phát triển cái Tôi, thí dụ như cho tư duy sáng tạo hoặc phát triển các năng khiếu giải quyết các vấn đề. Hơn nữa nếu quá nhiều năng lượng bị tắc ngẽn trong các cơ chế phòng vệ, nhân cách không thể phát triển bình thường bởi vì người đó làm méo mó sự thật và làm cho chính bản thân mình thất vọng. Tình huống đó dẫn đến những thích nghi với thực tế dù khó khăn hơn.
    Siêu tôi
    Siêu tôi xuất hiện khi trẻ giải quyết xong mặc cảm ơ đíp và phát triển sự đồng nhất với bố mẹ nó.
    Siêu tôi gồm hai phần: Ý thức và cái Tôi lý tưởng. Nhìn chung, ý thức là tiêu cực và cái Tôi lý tưởng là tích cực. "Ý thức bao gồm những cấm đoán của bố mẹ là những "mày sẽ không được..." của họ. Đúng vào lúc bố mẹ trẻ phạt vì những vi phạm của nó, thì ý thức phạt con người bằng những cảm giác tội lỗi, hãn hữu tự chặt một ngón tay hoặc muốn có hành động tự huỷ hoại. Một người có ý thức đặb biệt mạnh mẽ có thể có cuộc sống bị trói buộc, kìm hãm hoặc cực kỳ đạo đức - lý tưởng hơn là có đầu óc thực tế.
    Cái từ "Tôi lý tưởng" dựa vào các chuẩn hành vi mà trẻ hướng tới. Vừa lúc được bố mẹ khen thưởng vì một hành vi nào đó, nó được cái Tôi lý tưởng khen thưởng với cảm giác tự tin và tự hào. Có những âm vọng của những tháng năm thơ ấu khi bố mẹ nói "Con gái ngoan" với một bé gái.
    Siêu tôi đối lập cả hai, cái Ấy và cái Tôi. Nó khen thưởng, trừng phạt và yêu cầu. Nó huỷ bỏ cả nguyên tắc khoái cảm lẫn nguyên tắc thực tế. Siêu tôi không chir kiểm soát hành vi mà còn cả những suy nghĩ của cái Tôi. Tư duy cũng xấu như hành động, theo quan niệm của Siêu Tôi. Đối với trường hợp của cái Ấy, Siêu tôi không phân biệt chủ quan với thực tế khách quan.
    Siêu tôi là hoàn thành trật tự theo đường lối XH. Hành vi không kìm chế tính dục và gây hấn sẽ huỷ hoại cấu trúc XH rất mỏng manh. Freud nhận xét là /cái Tôi biểu tượng cho"quyền lực của hiện tại" và cái Ấy biểu tượng cho "quá khứ của cơ thể.", thì siêu Tôi biểu tượng cho quá khứ văn hoá.


  5. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    2. Tiếp cận cấu trúc
    Ở phần trên ta thấy hình ảnh của một hệ thống thuỷ lực với những lực dâng lên cơ thể thông qua cơ thể và tâm trí. Bây giờ, chúng ta hay xem qua các cấu trúc tâm lý được các lực đó chạy qua. Các cấu trúc đó làm trung gian giữa các xung năng và hành vi, các xung năng không trực tiếp dẫn tới hành vi. Như vậy, tâm trí có một kiến trúc. Các quá trình tâm trí chiếm vị trí trong các cấu trúc giữa các cấu trúc và bằng các cấu trúc.Có ba cấu trúc chính: cái Ấy, cái Tôi và cái siêu Tôi. Nói một cách thô thiển, "cái ấy" là nơi trú ngụ của các xung năng có nền tảng sinh lý, "cái Tôi" là cơ chế thích nghi với thực tế, và "Siêu tôi" tương tự như hướng tâm.
    Cái ấy(Id)
    Theo Freud, cái Ấy là " phần tối tăm, không đạt tới được" của nhân cách...một mớ hỗn độn, một cái vại lớn sục sôi những kích động, chứa đưng tất cả những gì được thừa kế, hiện hữu lúc sinh, được cất trong cái tạng - trên tất cả, những bản năng bắt nguồn từ tổ chức, của cái thể và có một biểu lộ tâm lý đầu tiên ở đó (ở cái Ấy) dưới những dạng mà chúng ta không hay biết.
    Cái Ấy đòi hỏi được thoả mãn ngay theo nguyên tắc khoái cảm. Năng lượng của cái Ấy được đầu tư vào hoạt động trên một đối tượng có thể thoả mãn một bản năng hoặc những hình ảnh của đối tượng có thể cung cấp một phần nào sự thoả mãn. Năng lượng của cái Ấy cơ động tới mức nó có thể dể dàng giải toả hoặc chuyển từ đối tượng này sang đối tượng khác, hoặc từ hình ảnh này sang hình ảnh khác.
    Khác với trẻ bé tí, trẻ lớn và người trưởng thành có một cái Tôi và một cái Siêu tôi
    Tuy nhiên, cái Ấy tiếp tục thao tác suốt cuộc đời, đặc biệt trong các giấc mộng của chúng ta, trong những giấc mơ ban ngày, trong tưởng tượng và những hành vi bồng bột, ích kỷ, và yêu đương. Cái Ấy đã được gọi là" đứa con hư của nhân cách". Sâu lắng trong chúng ta, chúng ta muốn một sự thoả mãn hoàn toàn - một cõi nát bàn.
    Nhiều kiến thức của Freud về cái Ấy có được tư nghiên cứu của ông về giấc mộng. Những mong muốn của cái Ấy xuât hiện trong các giấc mộng một cách rõ ràng hoặc cải trang. Chẳng cần được đào tạo về phân tâm học cũng có thể giải thích được giấc mộng về miếng thịt to ở người đói.
    Cái Tôi (Ego)
    Lúc đầu có cái Ấy. Cái Ấy, được trang bị bằng tư duy của " quá trình ban đầu"(ảo tưởng muốn được thoả mãn), đặt ra những yêu cầu. Tuy nhiên, trẻ sớm phát hiện là nghĩ một điều gì không phải là làm được như thế. Nó học được là có sự khác biệt giữa hình ảnh và thực tế, giữa mình và thế giới bên ngoài.
    Điều cái Ấy không thể luôn cung cấp đối tượng mong muốn dẫn tới hình thành cái "Tôi". Cái Tôi, con đường dẫn đến thế giới thực phát triển vì cần cho sự sống còn của cơ thể và tâm lý. Nó giúp cho sự tồn tại bởi vì nó có tư duy của quá trình phát triển thứ phát.
    Quá trình thứ phát hoặc tư duy có lý trí, được tổ chức, thống hợp và lô gic hơn tư duy của quá trình ban đầu, đầy rẫy những mâu thuẫn. Hoạt động của cái Tôi bao gồm toàn bộ hoạt động của tâm trí: như tri giác, tư duy lô gic, giải quyết vấn đề và trí nhớ. Cái Tôi là vị giám đốc phải thực hiện những quyết đinh ở tầm cao hơn. Ông ta đánh giá tình hinhgf hiện tại, nhớ lại các quyết định có liên quan và những sự kiện xảy ra trong quá khứ, cân nhắc những yếu tố khác nhau của hiện tại và tương lai, dự đoán hậu quả của những hoạt động khác nhau. Quyết định của cái Tôi có sự giúp đỡ của lo hãi báo hiệu cho biết một số hoạt động có thể là mối đe doạ.
    Suốt cuộc đời, chúng ta phải sử dụng một sự pha trộn của tư duy của quá trình nguyên phát và thứ phát. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển những khía cạnh của tư duy cảu quá trình thứ phát trở nên trội hơn.
    Cái Tôi phục vụ cho cái Ấy, cái Siêu Tôi và môi trường bên ngoài.
    Quan hệ của cái Tôi và cái Ấy có thể so sánh với quan hệ giữa con ngựa và người cưỡi ngựa. Con ngựa cung cấp năng lượng di chuyển trong khi người cưỡi được ưu tiên quyết định mục tiêu và điều khiển vận động của con vật. Nhưng, chỉ thường quá hay xảy ra giữa cái Tôi và cái Ấy tình huống không thật lý tưởng là người kỵ mã buộc phải dẫn con tuấn mã theo con đưòng mà bản thân nó muốn đi.
    Cái Tôi làm trung gian giữa cái Ấy và thế giới bên ngơài. Vậy, cái Tôi phải đấu tranh trên hai mặt trận: Nó phải bảo vệ sự tồn tại của nó đối với thế giới bên ngoài đe doạ huỷ diệt nó cũng như thế giới nội tâm có những đòi hỏi quá mưca. Nó sử dụng những phương thức bảo vệ như nhau đối với cả hai, song sự phòng vệ đối với kẻ thù bên trong đặc biệt không phù hợp. Do nguồn gốc y như kẻ địch này và từ khi đó đã sống mật thiết với nhau, nó gặp khó khăn lớn khi phải né tránh các mối hiểm hoạ từ trong. Chúng tồn tại như đe doạ, thậm chí kể cả nhất thời chúng bị đàn áp.
    Những đe doạ và hiểm hoạ thường xuyên của cái Ấy và môi trường xung quanh gây lo hãi. Khi có thể, cái Tôi giải quyết vấn đề bằng vận dụng những tài năng giải quyết vấn đề của nó. Tuy nhiên, khi lo hãi lớn qúa đến mức đe doạ, nhận chìm cái Tôi các "cơ chế phòng vệ" vào cuộc. Chúng kiểm soát, do đó giảm lo hãi bằng cách làm méo mó thực tế một phần nào đó. Tuy nhiên, cơ chế phòng vệ chỉ cho phép thoả mãn phần nào các xung năng, khi cơ thể ở trong tình trạng căng thẳng, thoả mãn một phần tốt hơn là không có tí nào. Danh sách những cơ chế phòng vệ của Freud thay đổi về số lượng từ thời gian này sang thời gian khác khi chúng được phối hợp hoặc phân hoá trong những bài viết của ông hoặc con gái ông Anna Freud.. Dưới đây là những cơ chế phòng vệ chính:
    - Dồn nén (phủ định hoặc quên mối nguy hiểm)
    - HÌnh thành phản ứng( hành động ngược lại với điều cảm thấy)
    - Phóng chiếu(gán những xung lực không chấp nhận được của mình cho người khác)
    - Thoái lùi (quan trở về một hình thái hành vi trước đó)
    - Cố định( dẫm chân tại chỗ), cắm chốt.
    1. Dồn nén là phòng ngừa một sự đe doạ trong suy nghĩ, bật nhận ra. Nguyên lý có vẻ như: "điều không biết không thể làm hại được.". Nếu những suy nghĩ lo hãi không xuất hiện trên bề nổi, chúng ta không có kinh nghiệm về lo hãi. Một suy nghĩ có thê rgây lo hãi vì nó đe doạ một sự đổ vỡ trong sự tự kiểm soát, hoặc gây nên hẫng hụt hay cảm giác tội lỗi. Để tránh lo hãi, chúng ta quên tên một người đã làm hại chúng ta, hoặc quên trả tiền một cái hoá đơn có thể gây sức ép nặng nề với ngân sách và gây nên lo lắng.
    Theo Freud, có một sự dồn nén ồ ạt đối với những ký ức về tính dục thơ ấu, một khi trẻ đạt tuổi học sinh. Chỉ với rất nhiều khó khăn, Freud mới giúp được những bệnh nhân người lớn của ông tìm lại được những ký ức đó.
    Những ý kiến của Freud về dồn nén phát triển từ những quan sát của ông trong trị liệu. Khi một bệnh nhân tự do kể những suy nghĩ của mình trong các "liên tưởng tự do", cô ta thường ngưng đột ngột và tuyên bố là đầu óc cô ta đột nhiên trở nên trống rỗng, đúng vào lúc mà những ký ức quan trọng trong quá khứ có vẻ sắp xuất hiện.
    Nều một người quá bị lệ thuộc vào cơ chế phòng vệ đó, có thể phát triển một nhân cách dồn nén: thu mình khó gần, không hồn nhiên và cứng rắn. Cũng có thể mất đi một phần nào sự tiếp xúc thực tế như là phạm những lỗi nghiêm trọng thuờng xảy ra khi nhớ lại, nói năng và tri giác, hoặc phát triển bệnh hysteri, thí dụ: điếc hysteri có thể tránh cho người nghe khỏi những điều không muốn nghe.
    2. Hình thành phản ứng: Cái Tôi che đậy một cảm xúc không thể chấp nhận được bằng tập trung vào mặt trái ngược, đôi khi một cách quá đáng. Một trẻ muốn làm bẩn tã lót và làm bẩn các đồ vật có thể trở thành sạch sẽ một cách say mê, luôn rửa tay. Sự trong trắng có thể che dấu những ham muốn ******** không thể chấp nhận được.
    3. Phóng chiếu là thuộc tính mà tư duy lo hãi gán cho người và vật thế giới bên ngoài hơn là cho mình "tôi muốn giết nó" đuợc đổi thành "nó muốn giết tôi".
    4. Trong thoái lùi, một người quay về một trình độ sớm hơn về phát triển. Nếu lo hãi đối vơi hịên tại quá nhiều đề có thể điều khiển, nguời ta rút lui về những thời kỳ nhiều hồn nhiên hơn, khi có ít kiểm soát hơn. Khi đó, người ta hành động như trẻ con, đánh nhau, làm những trò đùa, ăn quá nhiều kem, la hét những lời thô tục, uống say xỉn.
    5. Trong cố định, một thành tố trong phát triển nhân cách dừng lại. Một phần của dục năng vẫn bị ràng buộc vào một thời kỳ phát triển sớm hơn và không cho phép trẻ dấn thân đầy đủ vào giai đoạn tiếp theo. Cố đinh xảy ra khi kiểu thoả mãn hiện tại, bú mẹ hay bú bình chẳng hạn, được ban phát tới mức trẻ không còn muốn bỏ nữa, thậm cho kể cả khi bị thúc ép cai sữa.
    Những quá trình tâm lý, bàn tới ở phần khác, tới khi được coi như những cơ chế phòng vệ. Chúng bao gồm sự thăng hoa của một ham muốn không thể chấp nhận thành một hoạt động dễ được xã hội chấp nhận hơn, sự đồng hoá với kẻ tấn công và sự chuyển dịch của xung năng.
    Cơ chế phòng vệ là một cái xấu cần thiết. Chúng ta cần tới nó để đối phó với lo hãi nhiều, nhưng phải trả giá bằng sự lãng phí năng lượng. Trong khi nó có thể được đầu tư tốt hơn vào sự phát triển cái Tôi, thí dụ như cho tư duy sáng tạo hoặc phát triển các năng khiếu giải quyết các vấn đề. Hơn nữa nếu quá nhiều năng lượng bị tắc ngẽn trong các cơ chế phòng vệ, nhân cách không thể phát triển bình thường bởi vì người đó làm méo mó sự thật và làm cho chính bản thân mình thất vọng. Tình huống đó dẫn đến những thích nghi với thực tế dù khó khăn hơn.
    Siêu tôi
    Siêu tôi xuất hiện khi trẻ giải quyết xong mặc cảm ơ đíp và phát triển sự đồng nhất với bố mẹ nó.
    Siêu tôi gồm hai phần: Ý thức và cái Tôi lý tưởng. Nhìn chung, ý thức là tiêu cực và cái Tôi lý tưởng là tích cực. "Ý thức bao gồm những cấm đoán của bố mẹ là những "mày sẽ không được..." của họ. Đúng vào lúc bố mẹ trẻ phạt vì những vi phạm của nó, thì ý thức phạt con người bằng những cảm giác tội lỗi, hãn hữu tự chặt một ngón tay hoặc muốn có hành động tự huỷ hoại. Một người có ý thức đặb biệt mạnh mẽ có thể có cuộc sống bị trói buộc, kìm hãm hoặc cực kỳ đạo đức - lý tưởng hơn là có đầu óc thực tế.
    Cái từ "Tôi lý tưởng" dựa vào các chuẩn hành vi mà trẻ hướng tới. Vừa lúc được bố mẹ khen thưởng vì một hành vi nào đó, nó được cái Tôi lý tưởng khen thưởng với cảm giác tự tin và tự hào. Có những âm vọng của những tháng năm thơ ấu khi bố mẹ nói "Con gái ngoan" với một bé gái.
    Siêu tôi đối lập cả hai, cái Ấy và cái Tôi. Nó khen thưởng, trừng phạt và yêu cầu. Nó huỷ bỏ cả nguyên tắc khoái cảm lẫn nguyên tắc thực tế. Siêu tôi không chir kiểm soát hành vi mà còn cả những suy nghĩ của cái Tôi. Tư duy cũng xấu như hành động, theo quan niệm của Siêu Tôi. Đối với trường hợp của cái Ấy, Siêu tôi không phân biệt chủ quan với thực tế khách quan.
    Siêu tôi là hoàn thành trật tự theo đường lối XH. Hành vi không kìm chế tính dục và gây hấn sẽ huỷ hoại cấu trúc XH rất mỏng manh. Freud nhận xét là /cái Tôi biểu tượng cho"quyền lực của hiện tại" và cái Ấy biểu tượng cho "quá khứ của cơ thể.", thì siêu Tôi biểu tượng cho quá khứ văn hoá.


  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    [center]Chương III
    Sự hình thành và phát triển nhận thức .
    Tâm lý học phát triển của Piaget[/center]

    Sơ lược tiểu sử Piaget
    Thân thế và sự nghiệp
    Jean Piaget sinh ngày 9 - 8 - 1896 ở Neuchâtel, Thuỵ sĩ
    Bố là nhà sử học chuyên về văn học Trung cổ, theo Piaget, là người có đầu óc phê phán, không sợ đương đầu với đấu tranh khi phát hiện thấy lịch sử bị bóp méo cho phù hợp với những truyền trống đáng kính
    Mẹ thông minh, năng nổ và nhân hậu, nhưng tâm thần dễ bị kích động
    Piaget vừa muốn bắt trước bố mình vừa muốn trốn thoát vào một thế giới riêng, thế giới của lao động nghiêm túc. Piaget nhận ra rằng hoàn cảnh sục sôi của gia đình khuyến khích sự quan tâm nơi ông tới lý thuyết phân tâm.
    Đồ vật Piaget thích thú và quan tâm là động cơ máy móc, vỏ ốc, chim và các hoá thạch. Một trong những bài viết đầu tiên là một cuốn sách nhỏ mô tả sự kết hợp một đầu xe lửa với một toa tàu rồi đến một tài liệu dài một trang nói về con chim sẻ bạch tạng mà Piaget quan sát thấy trong một công viên. Điều này xảy ra ở tuổi lên 10.
    Triển lãm ở bảo tàng địa phương về vạn vật học dẫn Piaget tới giúp cho ông giám đốc bảo tàng bộ sưu tập cá nhân về động vật nhuyễn thể ( trai, ốc, sò, hến...)Thế là Piaget đã đi vào nghiên cứu các động vật thân mềm, lĩnh vực thu hút sự chú ý của ông trong nhiều năm. Những xuất bản của ông về động vật thân mềm lôi kéo sự quan tâm của nhiều nhà vạn vật học. ông được mời vào làm việc tại một viện bảo tàng ở Geneve. Song ông đã từ chối vì khi đó chưa học hết trung học.
    Piaget không tránh khỏi những khủng hoảng của tuổi thanh thiếu niên. Mẫu thuẫn giữa giáo lý và kiến thức khoa học thúc đẩy Piaget say mê đọc Bergson, Kant, Spencer...
    Piaget tiếp tục viết về các vấn đề triết lý. Ông nói " Tôi viết thậm chí để cho mình tôi thôi, vì tôi không thể nghĩ mà không viết, song cái tôi viết cứ theo một kiểu hệ thống dường như đó là một tài liệu để xuất bản." Piaget tiếp tục theo học chính qui trong ngành vạn vật học và đạt bằng tiến sĩ với một luận án về động vật nhuyễn thể ở trường Đại học Neuchatel ở tuổi 20, vào năm 1918. Song ông cũng không tha thiết dành cả cuộc đời mình cho môn học đó.
    Sau khi tham quan các phòng thực nghiệm tâm lý ở Zurich và thăm do chóng vánh thuyết phân tâm, Piaget học 2 năm ở Sorbone về tâm lý học và triết học. May thay, trong lĩnh vực TLHPT, ông gặp được Theodore Simon, một người tiên phong trong lĩnh vực phát triển các test trí lực. Simon,, do được phòng thí nghiệm của A.Binet ở Paris, gợi ý cho Piaget chuẩn hoá test lập luận của Binet trên trẻ em Paris. Song sự quan tâm của ông nẩy sinh khi bắt đầu hỏi trẻ về những lý do ẩn dụ trong các câu trả lời đúng sai. ông bị cuốn hút về các quá trình tư duy có vẻ dẫn đến các trả lời trong các đối thoại đó. Piaget sử dụng các kỹ thuật của nghành tâm thần học được trong quá trình phỏng vấn các bệnh nhân tâm thần tại các lớp học trường ĐH Sorbone. Piaget tóm tắt 2 năm học đó như sau:
    " Cuối cùng tôi đã tìm thấy lĩnh vực nghiên cứu...sau giai đoạn lý thuyết, bắt đầu thực nghiệm trong lĩnh vực tâm lý mà tôi luôn muốn bước vào song chưa tìm được vấn đề thích hợp...
    Mục đích của tôi: khám phá một loại phôi thai học cho trí thông minh, phù hợp với quá trình đào tạo của tôi về sinh học. Từ đầu tôi đã nghĩ là mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường được rộng mở cho vương quốc của kiến thức, nổi lên đây như vấn đề của mỗi quan hệ giữa chủ thể hoạt động hoặc tu duy với các vật thể thuộc kinh nghiệm của người đó. Nay tôi đã có may mắn nghiên cứu vấn đề dưới cái tên TLHPT(1952)
    Việc xuất bản sau đó 3 bài viết dựa trên các nghiên cứu ở phòng thí nghiệm Binet đã dẫn tới việc Piaget trở thành giám đốc nghiên cứu ở Viện J.J Rousseau ở Geneve. Piaget dự kiến chỉ dùng 5 năm để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Nhờ được nghiên cứu tự do và dễ dàng do địa vị mới này Piaget đã xuất bản 5 cuốn sách: Ngôn ngữ và tư duy ở trẻ ( 1923) Phê phán và lập luận ở trẻ(1924) Quan niệm của trẻ em về Thế giới (1926) Quan niệm của trẻ em về tính nhân quả vật lý (1927) Phán xét của trẻ em về đạo đức ( 1932).
    Các sách được đọc và luận bàn rộng rãi. Piaget nổi tiếng là nhà tâm lý trẻ em tuy không có một bằng đại học nào vế tâm lý. Danh tiếng của Piaget nổi lên như cồn ở Châu Âu. Sự chú ý của công chúng làm phiền Piaget vì ông coi các ý kiến trong các cuốn sách đó rất sơ đẳng, chưa phải là những khẳng định cuối cùng.
    Trong vài năm sau; Piaget tiếp tục nghiên cứu ở Viện J.J Rousseau, dạy triết học ở trường Đại học Neuchatel, học tâm lý hình thái(gestalt) quan sát chính các con mình.
    Từ 1929 - 1945 đạt nhiều chức vụ hàn lâm và hành chính ở Đại học Neuchâtel cũng như nhiều địa vị khác như là Chủ tịch Uỷ ban UNESCO của Thuỵ Sĩ. Nghe nói về các công trình của Piaget, A. Einstein động viên ông nghiên cứu về các khái niệm thời gian, tốc độ và vận động. Từ đó, đã ra 2 cuốn sách đầy khiêu khích: Khái niệm của trẻ về thời gian và Khái niệm của trẻ về vận động và vận tốc (1946)
    Năm 1940, 1950 được đánh dấu bằng một loạt các vấn đề về những dạng khác nhau của phát triển tâm trí giáo dục, lịch sử của tư duy, lôgic và lý thuyết về nhận thức. Ông có các chức danh: Giáo sư tâm lý các trường ĐH Geneve và Sorbone. Giám đốc Viện khoa học giáo dục, và Giám đốc Phòng Quốc tế Giáo dục.
    1969: Hội Tâm lý Mỹ tặng Piaget " Đóng góp xuất sắc cho khoa học" do tầm nhìn cách mạng đối với bản chất của kiến thức con người và trí thông minh sinh học. Piaget là người Châu Âu đầu tiên nhận giải đó.
    Piaget tiếp tục câu đố về tư duy trẻ cho tới khi ông mất ngày 16-9-1980 ở tuổi 84. Ông đã viết 40 cuốn sách, khoảng 100 bài viết về tâm lý trẻ em.

  7. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    [center]Chương III
    Sự hình thành và phát triển nhận thức .
    Tâm lý học phát triển của Piaget[/center]

    Sơ lược tiểu sử Piaget
    Thân thế và sự nghiệp
    Jean Piaget sinh ngày 9 - 8 - 1896 ở Neuchâtel, Thuỵ sĩ
    Bố là nhà sử học chuyên về văn học Trung cổ, theo Piaget, là người có đầu óc phê phán, không sợ đương đầu với đấu tranh khi phát hiện thấy lịch sử bị bóp méo cho phù hợp với những truyền trống đáng kính
    Mẹ thông minh, năng nổ và nhân hậu, nhưng tâm thần dễ bị kích động
    Piaget vừa muốn bắt trước bố mình vừa muốn trốn thoát vào một thế giới riêng, thế giới của lao động nghiêm túc. Piaget nhận ra rằng hoàn cảnh sục sôi của gia đình khuyến khích sự quan tâm nơi ông tới lý thuyết phân tâm.
    Đồ vật Piaget thích thú và quan tâm là động cơ máy móc, vỏ ốc, chim và các hoá thạch. Một trong những bài viết đầu tiên là một cuốn sách nhỏ mô tả sự kết hợp một đầu xe lửa với một toa tàu rồi đến một tài liệu dài một trang nói về con chim sẻ bạch tạng mà Piaget quan sát thấy trong một công viên. Điều này xảy ra ở tuổi lên 10.
    Triển lãm ở bảo tàng địa phương về vạn vật học dẫn Piaget tới giúp cho ông giám đốc bảo tàng bộ sưu tập cá nhân về động vật nhuyễn thể ( trai, ốc, sò, hến...)Thế là Piaget đã đi vào nghiên cứu các động vật thân mềm, lĩnh vực thu hút sự chú ý của ông trong nhiều năm. Những xuất bản của ông về động vật thân mềm lôi kéo sự quan tâm của nhiều nhà vạn vật học. ông được mời vào làm việc tại một viện bảo tàng ở Geneve. Song ông đã từ chối vì khi đó chưa học hết trung học.
    Piaget không tránh khỏi những khủng hoảng của tuổi thanh thiếu niên. Mẫu thuẫn giữa giáo lý và kiến thức khoa học thúc đẩy Piaget say mê đọc Bergson, Kant, Spencer...
    Piaget tiếp tục viết về các vấn đề triết lý. Ông nói " Tôi viết thậm chí để cho mình tôi thôi, vì tôi không thể nghĩ mà không viết, song cái tôi viết cứ theo một kiểu hệ thống dường như đó là một tài liệu để xuất bản." Piaget tiếp tục theo học chính qui trong ngành vạn vật học và đạt bằng tiến sĩ với một luận án về động vật nhuyễn thể ở trường Đại học Neuchatel ở tuổi 20, vào năm 1918. Song ông cũng không tha thiết dành cả cuộc đời mình cho môn học đó.
    Sau khi tham quan các phòng thực nghiệm tâm lý ở Zurich và thăm do chóng vánh thuyết phân tâm, Piaget học 2 năm ở Sorbone về tâm lý học và triết học. May thay, trong lĩnh vực TLHPT, ông gặp được Theodore Simon, một người tiên phong trong lĩnh vực phát triển các test trí lực. Simon,, do được phòng thí nghiệm của A.Binet ở Paris, gợi ý cho Piaget chuẩn hoá test lập luận của Binet trên trẻ em Paris. Song sự quan tâm của ông nẩy sinh khi bắt đầu hỏi trẻ về những lý do ẩn dụ trong các câu trả lời đúng sai. ông bị cuốn hút về các quá trình tư duy có vẻ dẫn đến các trả lời trong các đối thoại đó. Piaget sử dụng các kỹ thuật của nghành tâm thần học được trong quá trình phỏng vấn các bệnh nhân tâm thần tại các lớp học trường ĐH Sorbone. Piaget tóm tắt 2 năm học đó như sau:
    " Cuối cùng tôi đã tìm thấy lĩnh vực nghiên cứu...sau giai đoạn lý thuyết, bắt đầu thực nghiệm trong lĩnh vực tâm lý mà tôi luôn muốn bước vào song chưa tìm được vấn đề thích hợp...
    Mục đích của tôi: khám phá một loại phôi thai học cho trí thông minh, phù hợp với quá trình đào tạo của tôi về sinh học. Từ đầu tôi đã nghĩ là mối quan hệ giữa cơ thể và môi trường được rộng mở cho vương quốc của kiến thức, nổi lên đây như vấn đề của mỗi quan hệ giữa chủ thể hoạt động hoặc tu duy với các vật thể thuộc kinh nghiệm của người đó. Nay tôi đã có may mắn nghiên cứu vấn đề dưới cái tên TLHPT(1952)
    Việc xuất bản sau đó 3 bài viết dựa trên các nghiên cứu ở phòng thí nghiệm Binet đã dẫn tới việc Piaget trở thành giám đốc nghiên cứu ở Viện J.J Rousseau ở Geneve. Piaget dự kiến chỉ dùng 5 năm để nghiên cứu tâm lý trẻ em. Nhờ được nghiên cứu tự do và dễ dàng do địa vị mới này Piaget đã xuất bản 5 cuốn sách: Ngôn ngữ và tư duy ở trẻ ( 1923) Phê phán và lập luận ở trẻ(1924) Quan niệm của trẻ em về Thế giới (1926) Quan niệm của trẻ em về tính nhân quả vật lý (1927) Phán xét của trẻ em về đạo đức ( 1932).
    Các sách được đọc và luận bàn rộng rãi. Piaget nổi tiếng là nhà tâm lý trẻ em tuy không có một bằng đại học nào vế tâm lý. Danh tiếng của Piaget nổi lên như cồn ở Châu Âu. Sự chú ý của công chúng làm phiền Piaget vì ông coi các ý kiến trong các cuốn sách đó rất sơ đẳng, chưa phải là những khẳng định cuối cùng.
    Trong vài năm sau; Piaget tiếp tục nghiên cứu ở Viện J.J Rousseau, dạy triết học ở trường Đại học Neuchatel, học tâm lý hình thái(gestalt) quan sát chính các con mình.
    Từ 1929 - 1945 đạt nhiều chức vụ hàn lâm và hành chính ở Đại học Neuchâtel cũng như nhiều địa vị khác như là Chủ tịch Uỷ ban UNESCO của Thuỵ Sĩ. Nghe nói về các công trình của Piaget, A. Einstein động viên ông nghiên cứu về các khái niệm thời gian, tốc độ và vận động. Từ đó, đã ra 2 cuốn sách đầy khiêu khích: Khái niệm của trẻ về thời gian và Khái niệm của trẻ về vận động và vận tốc (1946)
    Năm 1940, 1950 được đánh dấu bằng một loạt các vấn đề về những dạng khác nhau của phát triển tâm trí giáo dục, lịch sử của tư duy, lôgic và lý thuyết về nhận thức. Ông có các chức danh: Giáo sư tâm lý các trường ĐH Geneve và Sorbone. Giám đốc Viện khoa học giáo dục, và Giám đốc Phòng Quốc tế Giáo dục.
    1969: Hội Tâm lý Mỹ tặng Piaget " Đóng góp xuất sắc cho khoa học" do tầm nhìn cách mạng đối với bản chất của kiến thức con người và trí thông minh sinh học. Piaget là người Châu Âu đầu tiên nhận giải đó.
    Piaget tiếp tục câu đố về tư duy trẻ cho tới khi ông mất ngày 16-9-1980 ở tuổi 84. Ông đã viết 40 cuốn sách, khoảng 100 bài viết về tâm lý trẻ em.

  8. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    I- Lý thuyết về hình thành nhận thức ở trẻ em
    Trẻ em, sinh ra với hàng loạt các phản xạ, và thừa kế những cách tương tác với môi trường. Những cách tương tác đó dựa vào xu hướng suy nghĩ được tổ chức và thích nghi với môi trưòng đó.
    1. Thời kỳ giác động (Khoảng từ khi sinh đến 2 tuổi)
    Theo Piaget, con người bắt đầu cuộc sống với một loạt các phản xạ, và thừa kế những cách tương tác với môi trường. Những cách kế thừa tương tác đó dựa vào xu hướng suy nghĩ được tổ chức và thích nghi của môi trường đó.
    Bây giờ, chúng ta vạch ra việc xây dựng mô hình thế giới ở trẻ bé tí, bằng các hệ cảm giác(tri giác) và vận động( vận động cơ thể) - Em bé tiến lên, qua 6 giai đoạn để xây dựng hệ thống giác động của tư duy.
    Giai đoạn 1: Biến đổi của những phản xạ
    Một sơ sinh là một búi phản xạ được buộc vào những trả lời gây ra do kích thích. Nếu sờ ta vào đứa trẻ sơ sinh, nó mút tay ngay, hay đặt một ngón tay vào bàn tay nó, nó liền nắm chặt lấy ngay. Do những phản xạ đó được hoạt hoá một số lần, dần dần chúng được biến đổi đi để khớp với những đòi hỏi của những hoàn cảnh hơi khác đi. Chẳng hạn vào những dịp khác nhau, mồm trẻ sẽ tìm đầu vú từ những góc độ khác nhau.
    Dần dà, khi trẻ tiếp xúc nhiều hơn với đồ vật, số lượng và các thể loại đồ vật tác động có lợi cho phản xạ, các thể loại "mút" được tăng lên, bào gồm từ núm vú đến vải đệm và then gỗ của cái nôi trẻ nằm.. Đồng thời với việc mở rộng hành vi mút bao gồm nhiều đồ vật, nó cũng gia tăng sự phân biệt giữa các đồ vật đó. Một trẻ đang đói không bao giờ nhầm cái đầu vú với ngón tay. Theo nghĩa đó, nó đã "nhận ra" đồ vật.
    Tóm lại, trong giai đoạn này, trẻ tăng cường khái quát hoá và phân biệt hoá những hành vi ban đầu là những phản xạ. Do đó sơ cấu - mô hình hành vi có tổ chức - tiếp tục được tăng cường, khái quát hoá và phân biệt hoá trong thời kỳ này. Trẻ xây dựng một thế giới của những vật thể để mút, bám víu, nhìn, nghe thấy...Các sơ cấu nguyên thuỷ của giai đoạn này là những bước nhỏ có ý nghĩa trong sự kiến tạo đó.
    Giai đoạn 2: Phản ứng vòng tròn cấp 1(Từ 1 đến 4 tháng)
    Các hành vi ở giai đoạn 1 được gọi là sơ cấu chỉ với ý nghĩa rất hẹp vì có ít biến đổi của các phản xạ. Ở giai đoạn 2, các sơ cấu phát triển và mở rộng nhanh chóng và xuất hiện các phản ứng vòng tròn. Một phản ứng vòng tròn là một hành vi được lắp đi lắp lại và khi đó nó thành vòng tròn. Khi trẻ phát hiện được kết quả thú vị từ một hành vi nào đó, và muốn thử lại để được kết quả đó, khi đó, một "thói quen" được hình thành. Những phản ứng vòng tròn sơ cấp hay cấp 2 đó bào gồm các trả lời - hậu quả tập trung trên cơ thể của trẻ hơn là đồ vật của thế giới bên ngoài.
    Thành công trong phản ứng vòng tròn tỏ ra có kèm theo cảm giác thích thú.
    Một đứa trẻ chơi với tiếng nói của nó, không phải vì âm thanh, mà vì thích thú chức năng (mình nói được).
    Giai đoạn 3: Phản ứng vòng tròn cấp 2 (Khoảng từ 4 đến 8 tháng).
    Trẻ tiếp tục mở rộng thế giới của nó chủ yếu bằng chuyển từ PƯVT 1 sang PƯVT 2. Nếu PƯVT 1 là tập trung vào cơ thể thì PƯVT 2 hướng về thế giới bên ngoài. Em bé may mắn làm được gì đưa tới một kết quả: lắc cái xúc xắc, có tiếng động, đập một quả bóng, quả bóng lăn...nó lặp đi lặp lại động tác để duy trì và giải trí với động tác. Đôi khi, các quá trình đó mang lại kết quả như mong đợi, đôi khi không.
    Trong giai đoạn này, trẻ hoàn tất vài sự phối hợp đơn giản giữa các sơ cấu. Phối hợp mắt với tay (nhìn và nắm) đặc biết có ích để phát triển PƯVT . Sự phối hợp các sơ cấu nhìn, bám, bú nghe...tiếp tục trong thời kỳ giác động. Bằng cách đó, cấu trúc nhận thức gia tăng sự thống hợp và tổ chức.
    Giai đoạn 4: Phối hợp các sơ cấu (Khoảng từ 8 đến 12 tháng)
    Ở giai đoạn này, trẻ có thể phối hợp các sơ cấu theo các kiểu phức tạp. Đặc biệt thấy xuất hiện kế hoạch và ý đồ. Hành vi mới này do một hành vi bằng công cụ và hành vi có mục đích làm nên. Đứa trẻ biết nó muốn gì và biết sử dụng các kỹ năng của nó để hoàn tất ý đồ. Nó đã phân biệt được giữa phương tiện và mục đích cuối cùng. Ở giai đoạn 3, trẻ phát hiện ra kết quả hay một cách ngẫu nhiên; chỉ về sau mới thủ hoàn tất lại kết quả.
    Gỉa sử bạn đặt tay trước một bao diêm hấp dẫn. Ở giai đoạn 3, đứa trẻ áp dụng sơ cấu quen thuộc quơ tay bám víu về phía bao diêm; ở giai đoạn 4, nó gạt tay bạn ra (công cụ, phương tiện) và nắm lấy bao diêm (mục đích). Em bé đã loại bỏ một rào chắn để hoàn thành một mục tiêu.
    Một kết quả khác của việc phân biệt được phương tiện và mục đích là dự đoán sự kiện.
    Vào 9 tháng, nó thích nước trong một một cái cốc, chứ không thích súp trong một cái bát.
    Giai đoạn 5: Phản ứng vòng tròn cấp 3( Khoảng từ 12 đến 18 tháng)
    Ở giai đoạn này, môi trường là phòng thí nghiệm của trẻ. Nó thăm dò tiềm năng mọi đồ vật. Qua những hoạt động tiến hành với đồ vật, nó thấy được những phương tiện mới từ phương tiện và mục đích của giai đoạn trước.
    Giai đoạn 6: Sáng tạo những phương tiện mới bằng những phối kết hợp tâm trí.
    Giai đoạn này khép lại tư duy giác động và mở mà cho tư duy tiền thao tác. Tư duy bắt đầu đi vào bí mật. Việc thăm dò các đồ vật bên ngoài mở đường cho thăm dò tâm trí bên trong. Việc này có thể thực hiện được là vì trẻ có thể sử dụng các biểu tượng tâm trí để biểu tượng các sự vật và sự kiện.
    2. Thời kỳ tiền thao tác(khoảng từ 2 đến 7 tuổi)
    Những thành công ở thời kỳ giác động đã mở đường cho thời kỳ sắp tới. Những gì trẻ kết thúc ở lĩnh vực hoạt động với thế giới nay được phát triển trong lĩnh vực hoạt động của biểu tượng tâm trí. Trẻ chuyển các khái niệm về vật thể, quan hệ nhân quả, không gian và thời gian sang một lĩnh vực trung gian (của biểu tượng tâm trí) và một cấu trúc có tổ chức cao hơn.
    Chức năng ký hiệu
    Sự xuất hiện của biểu tượng tâm trí ở giai đoạn 6 của thời kỳ giác động bắc cầu cho thời kỳ tiền thao tác. Các biểu tượng tâm trí có được nhờ chức năng ký hiệu hay khả năng dùng một vật hay sự kiện thay cho một cái khác. Các từ cử chỉ, đồ vật, hình ảnh tâm trí có thể được dùng làm hiệu, cái biểu đạt. Một trẻ lên 4 có thể dùng từ "máy bay" bàn tay bắt chước chim bay một hình ảnh tâm trí của máy bay, hoặc một cái máy bay đồ chơi thay vì máy bay thật.
    Tư duy biểu tượng có một số đặc điểm hơn tư duy giác động. Nó nhang hơn và linh hoạt hơn. Nó có thể tham gia với quá khứ, hiện tại và tương lai trên một diện rộng, có thể phối kết hợp các phần để tạo thành những ý niệm không liên quan gì đến thực tế (thí dụ, những quái vật kỳ lạ và kinh sợ trong đêm tối). Sự phát triển của tự duy biểu tượng làm nó có thể sử dụng từ cũng như các ký hiệu khác. Như vậy, tư duy vừa là trước ngôn ngữ, vừa rộng hơn ngôn ngữ. Ngôn ngữ trước hết là cách để biểu lộ tư duy. Trong quá trình phát triển, tư duy đến trước ngôn ngữ. Thí dụ dạy một trẻ sử dụng các từ "hơn", lớn hơn", không dạy cho nó về số lượng ẩn dụ trong những phát ngôn đó.
    Tuy tư duy không phụ thuộc vào ngôn ngữ, ngôn ngữ giúp cho nhận thức phát triển. Ngôn ngữ hướng sự chú ý của trẻ vào những đồ vật mới và những quan hệ với môi trường, đưa nó xâm nhập vào những cách nhìn đối lập. Ngôn ngữ là một trong nhiều công cụ có giá trị với hệ nhận thức.
    Đặc điểm của thời kỳ:
    Trong thời kỳ thao tác, trẻ chưa đạt được đến các thao tác tâm trí phản hồi được, là đặc điểm của thời kỳ tíêp theo, thời kỳ thao tac cụ thể.
    Những đặc điểm chính của thời kỳ tiền thao tác là: duy kỷ, tư duy cứng nhắc, suy luận bán logi và nhận thức xã hội hạn chế.
    2.1 Tính duy kỷ.
    Duy kỷ không qui chiếu vào tính ích kỷ hay ngạo mạn. Từ đó, đúng hơn, liên quan đến sự phân biệt hoá không đầy đủ của cái tôi với những người khác và thế giới, đến xu thế tri giác, hiểu và giải thích thế giới dưới dạng của bản thân. Trẻ không thể có quan điểm tri giác và khái quát của một người khác. Duy kỷ gây khó khăn cho việc đóng vai trò và có quan điểm của người khác.
    Do trẻ không dễ dàng đóng vai trò của người khác, nó ít cố gằng sửa lời nói cho thích hợp với nhu cầu người nghe. Trẻ không cảm thấy muốn tác động lên người nghe cũng như nói với người đó một điều gì.
    2.2 Tư duy cứng nhắc
    Đặc điểm của tư duy tiền thao tác là tưu duy như đóng băng. Trẻ có xu hướng tập trung vào nét nổi bật của vật thể hoặc sự vật và không biết tới các nét khác. Hai cốc giống nhau cùng đựng những mức nước bằng nhau, nếu đem đổ chất nước của một cốc vào một đồ đựng cao hơn, nhỏ hơn, trẻ tập trung vào độ cao của nước trong khi không biết gì đến bề ngang. Nó sẽ kết luận sai là có nhiều nước hơn vì mức nước cao hơn.
    Chúng ta cũng thấy sự cứng nhắc của tư duy trong xu hướng tập trung vào những tình trạng hơn là biến đổi liên kết các tình trạng đó. Đứng trước bài toán liên quan đến số lượng nước trong cốc, đứa trẻ nghĩ đến cái "trước", cái "sau", không biết tới quá trình biến đổi từ A đến B khi nước được đổ từ cái đựng này sang cái đựng kia. Tư duy cứng nhắc là do thiếu sự phản hồi. Trẻ không thể, trong trí óc đảo ngược được chất nước đã đổ ra về cái đựng ban đầu. Khả năng nhập tâm hành động còn chưa đầy đủ vì không hai chiều.
    Về cuối thời kỳ tiền thao tác, ta mục kích sự tan băng lớn, khi trẻ phần nào sửa được xu hướng tư duy trên. Ta thấy 3 sư hoàn thiện tích cực của thời kỳ tiền thao tác: chức năng, điều tiết, và bản sắc.
    Một chức năng là khái nịêm về đồng "biến" đổi giữa các yếu tố, thí dụ khi càng kéo cái màn che, thì cái màn càng mở rộng ra hay khi kéo sợi dây trên cái pu li, có sự tăng chiều dài trên một đoạn dây trong khi đoạn kia lại giảm đi về chiều dài. Tuy nhiên, trẻ chưa thể làm rõ bản chất của mối quan hệ.
    Một điều tiết là một hoạt động tâm trí đã bị mất đi một phần sự tập trung. Tiếp tục sử dụng thí nghiệm với lượng nước, thấy trẻ chuyển đổi giữa chiều cao và bề rộng của nước để cho nhận xét về lượng nước. Một cốc nước đựng nhiều nước hơn một cốc khác vì có một mức nước cao hơn, hoặc có thể chứa ít nước hơn vì kích thước nhỏ hẹp hơn.
    Thành tựu thứ ba, bản sắc là một khái niệm về một vật có thể thay đổi vẻ bên ngoài, không thay đổi bản chất của nó, hoặc bản sắc của nó. Nước trông có vẻ khác đi, khi đổ từ cốc này sang cốc khác, nhưng vẫn là một thứ nước. Đeo một cái mặt nạ vào không biến đổi một người thành phù thuỷ như trẻ bé hơn vẫn lầm tưởng - Tư duy trở nên bớt cứng nhắc vì một khái niệm vẫn được duy trì tuy bị biến đổi trên bề mặt.
  9. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    I- Lý thuyết về hình thành nhận thức ở trẻ em
    Trẻ em, sinh ra với hàng loạt các phản xạ, và thừa kế những cách tương tác với môi trường. Những cách tương tác đó dựa vào xu hướng suy nghĩ được tổ chức và thích nghi với môi trưòng đó.
    1. Thời kỳ giác động (Khoảng từ khi sinh đến 2 tuổi)
    Theo Piaget, con người bắt đầu cuộc sống với một loạt các phản xạ, và thừa kế những cách tương tác với môi trường. Những cách kế thừa tương tác đó dựa vào xu hướng suy nghĩ được tổ chức và thích nghi của môi trường đó.
    Bây giờ, chúng ta vạch ra việc xây dựng mô hình thế giới ở trẻ bé tí, bằng các hệ cảm giác(tri giác) và vận động( vận động cơ thể) - Em bé tiến lên, qua 6 giai đoạn để xây dựng hệ thống giác động của tư duy.
    Giai đoạn 1: Biến đổi của những phản xạ
    Một sơ sinh là một búi phản xạ được buộc vào những trả lời gây ra do kích thích. Nếu sờ ta vào đứa trẻ sơ sinh, nó mút tay ngay, hay đặt một ngón tay vào bàn tay nó, nó liền nắm chặt lấy ngay. Do những phản xạ đó được hoạt hoá một số lần, dần dần chúng được biến đổi đi để khớp với những đòi hỏi của những hoàn cảnh hơi khác đi. Chẳng hạn vào những dịp khác nhau, mồm trẻ sẽ tìm đầu vú từ những góc độ khác nhau.
    Dần dà, khi trẻ tiếp xúc nhiều hơn với đồ vật, số lượng và các thể loại đồ vật tác động có lợi cho phản xạ, các thể loại "mút" được tăng lên, bào gồm từ núm vú đến vải đệm và then gỗ của cái nôi trẻ nằm.. Đồng thời với việc mở rộng hành vi mút bao gồm nhiều đồ vật, nó cũng gia tăng sự phân biệt giữa các đồ vật đó. Một trẻ đang đói không bao giờ nhầm cái đầu vú với ngón tay. Theo nghĩa đó, nó đã "nhận ra" đồ vật.
    Tóm lại, trong giai đoạn này, trẻ tăng cường khái quát hoá và phân biệt hoá những hành vi ban đầu là những phản xạ. Do đó sơ cấu - mô hình hành vi có tổ chức - tiếp tục được tăng cường, khái quát hoá và phân biệt hoá trong thời kỳ này. Trẻ xây dựng một thế giới của những vật thể để mút, bám víu, nhìn, nghe thấy...Các sơ cấu nguyên thuỷ của giai đoạn này là những bước nhỏ có ý nghĩa trong sự kiến tạo đó.
    Giai đoạn 2: Phản ứng vòng tròn cấp 1(Từ 1 đến 4 tháng)
    Các hành vi ở giai đoạn 1 được gọi là sơ cấu chỉ với ý nghĩa rất hẹp vì có ít biến đổi của các phản xạ. Ở giai đoạn 2, các sơ cấu phát triển và mở rộng nhanh chóng và xuất hiện các phản ứng vòng tròn. Một phản ứng vòng tròn là một hành vi được lắp đi lắp lại và khi đó nó thành vòng tròn. Khi trẻ phát hiện được kết quả thú vị từ một hành vi nào đó, và muốn thử lại để được kết quả đó, khi đó, một "thói quen" được hình thành. Những phản ứng vòng tròn sơ cấp hay cấp 2 đó bào gồm các trả lời - hậu quả tập trung trên cơ thể của trẻ hơn là đồ vật của thế giới bên ngoài.
    Thành công trong phản ứng vòng tròn tỏ ra có kèm theo cảm giác thích thú.
    Một đứa trẻ chơi với tiếng nói của nó, không phải vì âm thanh, mà vì thích thú chức năng (mình nói được).
    Giai đoạn 3: Phản ứng vòng tròn cấp 2 (Khoảng từ 4 đến 8 tháng).
    Trẻ tiếp tục mở rộng thế giới của nó chủ yếu bằng chuyển từ PƯVT 1 sang PƯVT 2. Nếu PƯVT 1 là tập trung vào cơ thể thì PƯVT 2 hướng về thế giới bên ngoài. Em bé may mắn làm được gì đưa tới một kết quả: lắc cái xúc xắc, có tiếng động, đập một quả bóng, quả bóng lăn...nó lặp đi lặp lại động tác để duy trì và giải trí với động tác. Đôi khi, các quá trình đó mang lại kết quả như mong đợi, đôi khi không.
    Trong giai đoạn này, trẻ hoàn tất vài sự phối hợp đơn giản giữa các sơ cấu. Phối hợp mắt với tay (nhìn và nắm) đặc biết có ích để phát triển PƯVT . Sự phối hợp các sơ cấu nhìn, bám, bú nghe...tiếp tục trong thời kỳ giác động. Bằng cách đó, cấu trúc nhận thức gia tăng sự thống hợp và tổ chức.
    Giai đoạn 4: Phối hợp các sơ cấu (Khoảng từ 8 đến 12 tháng)
    Ở giai đoạn này, trẻ có thể phối hợp các sơ cấu theo các kiểu phức tạp. Đặc biệt thấy xuất hiện kế hoạch và ý đồ. Hành vi mới này do một hành vi bằng công cụ và hành vi có mục đích làm nên. Đứa trẻ biết nó muốn gì và biết sử dụng các kỹ năng của nó để hoàn tất ý đồ. Nó đã phân biệt được giữa phương tiện và mục đích cuối cùng. Ở giai đoạn 3, trẻ phát hiện ra kết quả hay một cách ngẫu nhiên; chỉ về sau mới thủ hoàn tất lại kết quả.
    Gỉa sử bạn đặt tay trước một bao diêm hấp dẫn. Ở giai đoạn 3, đứa trẻ áp dụng sơ cấu quen thuộc quơ tay bám víu về phía bao diêm; ở giai đoạn 4, nó gạt tay bạn ra (công cụ, phương tiện) và nắm lấy bao diêm (mục đích). Em bé đã loại bỏ một rào chắn để hoàn thành một mục tiêu.
    Một kết quả khác của việc phân biệt được phương tiện và mục đích là dự đoán sự kiện.
    Vào 9 tháng, nó thích nước trong một một cái cốc, chứ không thích súp trong một cái bát.
    Giai đoạn 5: Phản ứng vòng tròn cấp 3( Khoảng từ 12 đến 18 tháng)
    Ở giai đoạn này, môi trường là phòng thí nghiệm của trẻ. Nó thăm dò tiềm năng mọi đồ vật. Qua những hoạt động tiến hành với đồ vật, nó thấy được những phương tiện mới từ phương tiện và mục đích của giai đoạn trước.
    Giai đoạn 6: Sáng tạo những phương tiện mới bằng những phối kết hợp tâm trí.
    Giai đoạn này khép lại tư duy giác động và mở mà cho tư duy tiền thao tác. Tư duy bắt đầu đi vào bí mật. Việc thăm dò các đồ vật bên ngoài mở đường cho thăm dò tâm trí bên trong. Việc này có thể thực hiện được là vì trẻ có thể sử dụng các biểu tượng tâm trí để biểu tượng các sự vật và sự kiện.
    2. Thời kỳ tiền thao tác(khoảng từ 2 đến 7 tuổi)
    Những thành công ở thời kỳ giác động đã mở đường cho thời kỳ sắp tới. Những gì trẻ kết thúc ở lĩnh vực hoạt động với thế giới nay được phát triển trong lĩnh vực hoạt động của biểu tượng tâm trí. Trẻ chuyển các khái niệm về vật thể, quan hệ nhân quả, không gian và thời gian sang một lĩnh vực trung gian (của biểu tượng tâm trí) và một cấu trúc có tổ chức cao hơn.
    Chức năng ký hiệu
    Sự xuất hiện của biểu tượng tâm trí ở giai đoạn 6 của thời kỳ giác động bắc cầu cho thời kỳ tiền thao tác. Các biểu tượng tâm trí có được nhờ chức năng ký hiệu hay khả năng dùng một vật hay sự kiện thay cho một cái khác. Các từ cử chỉ, đồ vật, hình ảnh tâm trí có thể được dùng làm hiệu, cái biểu đạt. Một trẻ lên 4 có thể dùng từ "máy bay" bàn tay bắt chước chim bay một hình ảnh tâm trí của máy bay, hoặc một cái máy bay đồ chơi thay vì máy bay thật.
    Tư duy biểu tượng có một số đặc điểm hơn tư duy giác động. Nó nhang hơn và linh hoạt hơn. Nó có thể tham gia với quá khứ, hiện tại và tương lai trên một diện rộng, có thể phối kết hợp các phần để tạo thành những ý niệm không liên quan gì đến thực tế (thí dụ, những quái vật kỳ lạ và kinh sợ trong đêm tối). Sự phát triển của tự duy biểu tượng làm nó có thể sử dụng từ cũng như các ký hiệu khác. Như vậy, tư duy vừa là trước ngôn ngữ, vừa rộng hơn ngôn ngữ. Ngôn ngữ trước hết là cách để biểu lộ tư duy. Trong quá trình phát triển, tư duy đến trước ngôn ngữ. Thí dụ dạy một trẻ sử dụng các từ "hơn", lớn hơn", không dạy cho nó về số lượng ẩn dụ trong những phát ngôn đó.
    Tuy tư duy không phụ thuộc vào ngôn ngữ, ngôn ngữ giúp cho nhận thức phát triển. Ngôn ngữ hướng sự chú ý của trẻ vào những đồ vật mới và những quan hệ với môi trường, đưa nó xâm nhập vào những cách nhìn đối lập. Ngôn ngữ là một trong nhiều công cụ có giá trị với hệ nhận thức.
    Đặc điểm của thời kỳ:
    Trong thời kỳ thao tác, trẻ chưa đạt được đến các thao tác tâm trí phản hồi được, là đặc điểm của thời kỳ tíêp theo, thời kỳ thao tac cụ thể.
    Những đặc điểm chính của thời kỳ tiền thao tác là: duy kỷ, tư duy cứng nhắc, suy luận bán logi và nhận thức xã hội hạn chế.
    2.1 Tính duy kỷ.
    Duy kỷ không qui chiếu vào tính ích kỷ hay ngạo mạn. Từ đó, đúng hơn, liên quan đến sự phân biệt hoá không đầy đủ của cái tôi với những người khác và thế giới, đến xu thế tri giác, hiểu và giải thích thế giới dưới dạng của bản thân. Trẻ không thể có quan điểm tri giác và khái quát của một người khác. Duy kỷ gây khó khăn cho việc đóng vai trò và có quan điểm của người khác.
    Do trẻ không dễ dàng đóng vai trò của người khác, nó ít cố gằng sửa lời nói cho thích hợp với nhu cầu người nghe. Trẻ không cảm thấy muốn tác động lên người nghe cũng như nói với người đó một điều gì.
    2.2 Tư duy cứng nhắc
    Đặc điểm của tư duy tiền thao tác là tưu duy như đóng băng. Trẻ có xu hướng tập trung vào nét nổi bật của vật thể hoặc sự vật và không biết tới các nét khác. Hai cốc giống nhau cùng đựng những mức nước bằng nhau, nếu đem đổ chất nước của một cốc vào một đồ đựng cao hơn, nhỏ hơn, trẻ tập trung vào độ cao của nước trong khi không biết gì đến bề ngang. Nó sẽ kết luận sai là có nhiều nước hơn vì mức nước cao hơn.
    Chúng ta cũng thấy sự cứng nhắc của tư duy trong xu hướng tập trung vào những tình trạng hơn là biến đổi liên kết các tình trạng đó. Đứng trước bài toán liên quan đến số lượng nước trong cốc, đứa trẻ nghĩ đến cái "trước", cái "sau", không biết tới quá trình biến đổi từ A đến B khi nước được đổ từ cái đựng này sang cái đựng kia. Tư duy cứng nhắc là do thiếu sự phản hồi. Trẻ không thể, trong trí óc đảo ngược được chất nước đã đổ ra về cái đựng ban đầu. Khả năng nhập tâm hành động còn chưa đầy đủ vì không hai chiều.
    Về cuối thời kỳ tiền thao tác, ta mục kích sự tan băng lớn, khi trẻ phần nào sửa được xu hướng tư duy trên. Ta thấy 3 sư hoàn thiện tích cực của thời kỳ tiền thao tác: chức năng, điều tiết, và bản sắc.
    Một chức năng là khái nịêm về đồng "biến" đổi giữa các yếu tố, thí dụ khi càng kéo cái màn che, thì cái màn càng mở rộng ra hay khi kéo sợi dây trên cái pu li, có sự tăng chiều dài trên một đoạn dây trong khi đoạn kia lại giảm đi về chiều dài. Tuy nhiên, trẻ chưa thể làm rõ bản chất của mối quan hệ.
    Một điều tiết là một hoạt động tâm trí đã bị mất đi một phần sự tập trung. Tiếp tục sử dụng thí nghiệm với lượng nước, thấy trẻ chuyển đổi giữa chiều cao và bề rộng của nước để cho nhận xét về lượng nước. Một cốc nước đựng nhiều nước hơn một cốc khác vì có một mức nước cao hơn, hoặc có thể chứa ít nước hơn vì kích thước nhỏ hẹp hơn.
    Thành tựu thứ ba, bản sắc là một khái niệm về một vật có thể thay đổi vẻ bên ngoài, không thay đổi bản chất của nó, hoặc bản sắc của nó. Nước trông có vẻ khác đi, khi đổ từ cốc này sang cốc khác, nhưng vẫn là một thứ nước. Đeo một cái mặt nạ vào không biến đổi một người thành phù thuỷ như trẻ bé hơn vẫn lầm tưởng - Tư duy trở nên bớt cứng nhắc vì một khái niệm vẫn được duy trì tuy bị biến đổi trên bề mặt.
  10. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    2.3 Suy luận bán lôgic
    Trẻ cố giải thích những sự vật bí ẩn tự nhiên hằng ngày, dưới danh nghĩa hành vi con người. Ví dụ, mặt trời, cũng như con người, được tạo nên do hành động của con người và gắn với hoạt động của con người.
    Các ý nghĩa hay kết nối với nhau một cách lỏng lẻo hơn là với một quan hệ lô gic.
    2.4 Nhận thức hạn chế về xã hội
    Một trẻ tiền thao tác đánh giá một hành vi sai trái tuỳ thuộc vào các biến tố bên ngoài như là thiệt hại gây nên là bao nhiêu, hoặc là hnàh vi bị trùng phạt. Nó không biết tới những biến tố bên trong như là ý đồ của con người. Chẳng hạn, một cậu bé đánh vỡ 15 cái chén khi giúp mẹ dọn bàn được coi như là có lỗi hơn là một cậu bé chỉ đánh vỡ một cái chén trong khi định ăn cắp bánh bính qui để trên giá.
    3. Thời kỳ thao tác cụ thể (khoảng từ 7 đến 11 tuổi)
    Điều tiết, chức năng và bản sắc, trong khi trở thành đẩy đủ hơn, phân hoá, có lượng và ổn định sẽ trở thành thao tác.
    Một thao tác là một hành động đã nhập tâm một phần của cấu trúc có tổ chức. CÁc biểu tượng của trẻ không còn cô lập hoặc xếp cạnh nhau một cách đơn thuần như trong thời tiền thao tác. Chúng được đưa vào cuộc sống.
    Có thể thấy công trình của Piaget về sự bảo tồn:
    Đứa trẻ thấy có hai chiếc cốc đều có nước đầy bằng nhau và cho là chúng có một lượng nước như nhau. Trong khi trẻ theo dõi thì một cốc nước được đổ vào cốc kia có kích thước khác hoặc vào nhiều cốc nhỏ. Một trẻ không bảo tồn cho là lượng nước đã thay đổi, thông thường vì mức nước đã thay đổi. Mực nước lên cao trong một cái chứa cao hơn, hẹp hơn. Trẻ kết luận là lượng nước đã tăng.
    Trái lại, một trẻ "bảo tồn" thì tin rằng lượng nước không thay đổi. Nó hình dung được lượng nước vẫn thế tuy có những thay đổi bề ngoài. Piaget đòi hỏi trẻ phải giải thích trước khi kết luận.
    "Bảo tồn" là một khái niệm quan trọng vì cung cấp cho thế giới vật thể một phần sự ổn định. Nó phát hiện ra sự hiện hữu hoặc vắng mặt của các thao tác tâm trí. Một trẻ không thể bảo tồn trù khi có một số thao tác tâm trí sau:
    "Nếu đổ nước lại vào cái chứa cũ, lượng nước có như thế không (phản hồi)
    "Nước dâng lên cao hơn, nhưng cái chứa(cốc) hẹp hơn (bù trừ)
    " KHông thêm nước vào hoặc không đổ nước đi (cộng trừ)
    Trẻ tiền thao tác, thiếu vắng các thao tác đó, tập trung vào các tình trạng của nước, đặc biệt là mức nước.
    Các thí dụ khác là những thao tác toán học thông thường về nhân, chia, sắp xếp (lớn hơn hay nhỏ hơn) và thay thế (môt vật băng một vật khác). Mỗi thao tác liên quan đến các và đạt ý nghĩa của nó từ cấu trúc tổng thể mà nó là một phần, do đó, cộng được phối hợp với trù, nhân với chia để hình thành một hệ thống hành động trí não. Piaget cố gắng miêu tả các hệ thao tac đó dưới danh nghĩa là những cấu trúc lô gic - toán học. Các cấu trúc đó là một mô hình đặc trưng cho tư duy thao tac cụ thể.
    Thao tác được thấy rõ thông qua các thành tựu cơ bản khác:(gộp lại thành loại) phân loại.
    Đưa cho trẻ 20 hạt đậu bằng gỗ: 17 hạt có màu nâu, 3 hạt màu trắng. Hỏi xem trẻ có thể làm đuợc hay không một chiếc vòng cổ dài hơn với những hạt màu nâu hay với những hạt bằng gỗ. Trẻ tìên thao tác sẽ phát biểu là có nhiều hạt nâu hơn các hạt bằng gỗ. Nó chỉ có thể xử lý với các phần (hạt nâu hay trắng) hoặc với tổng thể (hạt bằng gỗ) chứ không đồng thời với cả hai. Nó không hiểu được là các phần riêng lẻ và tổng thể có thể phản hồi. Trái lại, đứa trẻ thao tac cụ thể có những thao tác làm nền tảng cần thiết để dẫn đến các câu trả lời đúng.
    Thao tác còn được áp dụng cho các quan hệ.
    Trẻ có thể xếp một hàng búp bê theo chiều cao của búp bê.
    Thao tác cũng áp dụng cho biểu tượng không gian - thời gian. Trẻ tiền thao tác vẽ mức nước trong bình chứa song song với đáy bình. Trẻ thao tác cụ thể biết vẽ mức nước song song với mặt đất.
    Quay sang lĩnh vực XH, trẻ vượt qua nhiều hạn chế trong suy luận về xã hội. Nó bắt đầu quan tâm đến những phán xét của nó về đạo đức. Nó tăng cường hiểu biết các mối quan hệ tế nhị trong gia đình, nhóm cùng trang lứa, và trong XH rộng lớn.
    Có hai nhận xét cần lưu ý. Một, những khái niệm khác nhau hoặc thao tác không phát triển cùng lúc. Trên thực tế, một sô khái niệm như sự bảo tồn trọng lượng thường không xuất hiện mà phải đợi cho đến cuối thời kỳ. Hai, mỗi thành tựu nhận thức phát triển suốt một thời gian. Nó dần được tăng cường ổn định và khái quát hoá thành nhiều tinhf huống khác nhau.
    Đứa trẻ chuyển từ một sự hiểu biết thế giới dựa trên các hành động sơ cấu đến sự hiểu biết dựa trên các biểu tượng, rồi trên các thao tac được nhập tâm có tổ chức. Nay tư duy không còn tập trung nữa, linh hoạt hơn là tịnh, có thể phản hồi chứ không phải không thể đảo ngược. Tuy thế, các thao tác vẫn còn "cụ thể" chúng chỉ được đem áp dụng cho các vật cụ thể hiện hữu hoặc có biểu tượng trong trí não.
    4. Thời kỳ thao tác chính thức (Khoảng từ 11 đến 15 tuổi)
    Trong thời kỳ thao tác cụ thể, các thao tác tâm trí được áp dụng cho các vật và các sự vật. Trẻ phân loại chúng, sắp xếp chúng theo thứ tự, và đảo ngược chúng. Ở thời kỳ thao tác chính thức, nó có thể lấy kết quả của các thao tác cụ thể đó và khái quát hoá thành những giả thuyết (đề xuất, qui chế) về quan hệ lô gic của chúng. Chúng ta có những thao tác trên các thao tác: các ý nghĩ trở thành thật sự lô gic, trừu tượng và mang tính giả thuyết.
    Tư duy thao tác chính thức giống như loại tư duy thường được gọi là phương pháp khoa học. Trẻ phát biểu giả thuyết về một sự vật hiện hữu hoặc có thể xảy ra và thử nghiệm giả thuyết đó đối lập với thực tế. Vấn đề thú vị là quá trình giải đáp hơn là bản thân câu trả lời đúng.
    Bài tập mẫu đầu tiên là vấn đề quả lắc. Một hoặc nhiều biến tố: chiều dài sợi dây, trọng luợng quả lắc, lực đẩy,... có thể kiểm soát tốc độ đung đưa của quả lắc. Một thiếu niên thao tác cụ thể thư nghiệm với các biến tố, thậm chí có thể đi đến câu trả lời đúng, nhưng tiếp cận của nó là ngẫu nhiên; nó không có kế hoạch tổng thể. Nó không thay đổi một yếu tố trong khi các yếu tố khác vẫn giữ nguyên. Thí dụ, nó có thể so sánh một quả lắc dài nhẹ với một quả lắc ngắn, nặng và kết luận la cả hai yếu tố đều quan trọng. Trên thực tế, chiều dài sợi dây có vai trò quyết định trong tốc độ dao động của quả lắc.
    Trái lại, cậu thiếu niên thao tác chính thức thì tưởng tượng ra mọi yếu tố quyết định có thể đối với tốc độ dao động trước khi nó bắt đầu, thay đổi có hệ thống từng yếu tố một, quan sát nghiêm túc các kết quả, nắm được các kết quả và rút ra được những kết luận phù hợp (nhận ra yếu tố nào kiểm soát tốc độ). Một cách có hệ thống, nó tách riêng yếu tố quyết định, và xử lý tất cả các ý kiến đề xuất. Bằng thử nghiệm những dự đoán của từng giả thuyết, nó chứng minh tư duy suy diễn giả thuyết. Một cách khái quát hơn: "Thực tế", do đó, được quan niệm như một tổng hợp tông thể những gì mà dữ liệu chấp nhận như là những giả thuyết. Nó được coi như "là" một phần của cái toàn thể "có thể là", cái phần công việc phải khám phá ra của chủ thể(1963).
    Cũng như tỏng thời kỳ thao tác cụ thể, Piaget áp dụng mô hình lô gic toán học cho tư duy của trẻ. Ông xác định một hệ thống 16 thao tác cặp đôi hình thành một tổ chức đan kết chặt chẽ của các quan hệ lo gic. Thí dụ: liên kết và không liên kết. Liên kết là một thao tác liên quan đến sự đồng xảy ra của x và y.
    Không liên kết liên quan đến 3 khả năng: x và y; x không phải y; y không phải x. Trong bài toán tìm xem nguyên nhân nào làm cong cái que, chúng ta xem xét cặp đôi của nhiều khả năng: (1) chiều dài lớn, độ cong lớn( liên kết) và (2) chiều dài ngắn, độ cong lớn; chiều dài lớn, độ cong bé (không liên kết).
    Ngoài ra, trong mô hình lô gic của Piaget, có một hệ thống nguyên tắc về thao tác các quan hệ lô gic được các thao tác cặp đôi phất hiện. Chẳng hạn như trong bài toán về cân bằng trọng lượng. Một sự mất cân bằng có thể được xoá đi bằng cách trừ đi trong lượng dôi ở phía nặng hơn, hoặc thêm cân vào phía nhẹ hơn.
    Khả năng xem xét các tư duy trừu tượng twong lai và các khả năng khác nhau là rõ tỏng giới xã hội của thanh, thiếu niên. Nó mơ ước về tương lai và tưởng tượng mình vào ở những công việc và có vai trò xã hội khác nhau. Nó có thể thử nghiệm với một số vai trò đó. Nó liên quan đến thế giới của những ý tưởng. Với bạn bè, nó tranh luận về những giải pháp đạo lý và chính trị khác nhau. Thí dụ về chiến tranh, nạn nạo phá thai, về một cộng đồng lý tưởng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nấn ná của tính duy kỷ. Thanh thiếu niên chịu ấn tượng của sức mạnh của tư duy và ngây thơ đánh giá các vấn đề thực tế, bao hàm trong việc hoàn thiện một tương lai lý tưởng cho bản thân và cho xã hội. Nó có cảm tưởng là sức mạnh của ý muốn lô gic của nó sẽ chuyển được núi non.
    Hoàn thiện các thao tác chính thức, thanh thiếu niên hoàn tất các cấu trúc nhận thức của mình. Những thao tác cụ thể lô gic khác nhau đã được phối hợp thành một hệ tư duy độc nhất có tổ chức chặt chẽ, một tổng thể thống nhất. Tư duy trở nên trừu tượng và linh hoạt. Suy nghĩ này tiếp tục phát triển suốt tuổi thanh niên trng khi các thao tác chính thức được áp dụng cho các lĩnh vực và tình huống.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này