1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
    2.3 Suy luận bán lôgic
    Trẻ cố giải thích những sự vật bí ẩn tự nhiên hằng ngày, dưới danh nghĩa hành vi con người. Ví dụ, mặt trời, cũng như con người, được tạo nên do hành động của con người và gắn với hoạt động của con người.
    Các ý nghĩa hay kết nối với nhau một cách lỏng lẻo hơn là với một quan hệ lô gic.
    2.4 Nhận thức hạn chế về xã hội
    Một trẻ tiền thao tác đánh giá một hành vi sai trái tuỳ thuộc vào các biến tố bên ngoài như là thiệt hại gây nên là bao nhiêu, hoặc là hnàh vi bị trùng phạt. Nó không biết tới những biến tố bên trong như là ý đồ của con người. Chẳng hạn, một cậu bé đánh vỡ 15 cái chén khi giúp mẹ dọn bàn được coi như là có lỗi hơn là một cậu bé chỉ đánh vỡ một cái chén trong khi định ăn cắp bánh bính qui để trên giá.
    3. Thời kỳ thao tác cụ thể (khoảng từ 7 đến 11 tuổi)
    Điều tiết, chức năng và bản sắc, trong khi trở thành đẩy đủ hơn, phân hoá, có lượng và ổn định sẽ trở thành thao tác.
    Một thao tác là một hành động đã nhập tâm một phần của cấu trúc có tổ chức. CÁc biểu tượng của trẻ không còn cô lập hoặc xếp cạnh nhau một cách đơn thuần như trong thời tiền thao tác. Chúng được đưa vào cuộc sống.
    Có thể thấy công trình của Piaget về sự bảo tồn:
    Đứa trẻ thấy có hai chiếc cốc đều có nước đầy bằng nhau và cho là chúng có một lượng nước như nhau. Trong khi trẻ theo dõi thì một cốc nước được đổ vào cốc kia có kích thước khác hoặc vào nhiều cốc nhỏ. Một trẻ không bảo tồn cho là lượng nước đã thay đổi, thông thường vì mức nước đã thay đổi. Mực nước lên cao trong một cái chứa cao hơn, hẹp hơn. Trẻ kết luận là lượng nước đã tăng.
    Trái lại, một trẻ "bảo tồn" thì tin rằng lượng nước không thay đổi. Nó hình dung được lượng nước vẫn thế tuy có những thay đổi bề ngoài. Piaget đòi hỏi trẻ phải giải thích trước khi kết luận.
    "Bảo tồn" là một khái niệm quan trọng vì cung cấp cho thế giới vật thể một phần sự ổn định. Nó phát hiện ra sự hiện hữu hoặc vắng mặt của các thao tác tâm trí. Một trẻ không thể bảo tồn trù khi có một số thao tác tâm trí sau:
    "Nếu đổ nước lại vào cái chứa cũ, lượng nước có như thế không (phản hồi)
    "Nước dâng lên cao hơn, nhưng cái chứa(cốc) hẹp hơn (bù trừ)
    " KHông thêm nước vào hoặc không đổ nước đi (cộng trừ)
    Trẻ tiền thao tác, thiếu vắng các thao tác đó, tập trung vào các tình trạng của nước, đặc biệt là mức nước.
    Các thí dụ khác là những thao tác toán học thông thường về nhân, chia, sắp xếp (lớn hơn hay nhỏ hơn) và thay thế (môt vật băng một vật khác). Mỗi thao tác liên quan đến các và đạt ý nghĩa của nó từ cấu trúc tổng thể mà nó là một phần, do đó, cộng được phối hợp với trù, nhân với chia để hình thành một hệ thống hành động trí não. Piaget cố gắng miêu tả các hệ thao tac đó dưới danh nghĩa là những cấu trúc lô gic - toán học. Các cấu trúc đó là một mô hình đặc trưng cho tư duy thao tac cụ thể.
    Thao tác được thấy rõ thông qua các thành tựu cơ bản khác:(gộp lại thành loại) phân loại.
    Đưa cho trẻ 20 hạt đậu bằng gỗ: 17 hạt có màu nâu, 3 hạt màu trắng. Hỏi xem trẻ có thể làm đuợc hay không một chiếc vòng cổ dài hơn với những hạt màu nâu hay với những hạt bằng gỗ. Trẻ tìên thao tác sẽ phát biểu là có nhiều hạt nâu hơn các hạt bằng gỗ. Nó chỉ có thể xử lý với các phần (hạt nâu hay trắng) hoặc với tổng thể (hạt bằng gỗ) chứ không đồng thời với cả hai. Nó không hiểu được là các phần riêng lẻ và tổng thể có thể phản hồi. Trái lại, đứa trẻ thao tac cụ thể có những thao tác làm nền tảng cần thiết để dẫn đến các câu trả lời đúng.
    Thao tác còn được áp dụng cho các quan hệ.
    Trẻ có thể xếp một hàng búp bê theo chiều cao của búp bê.
    Thao tác cũng áp dụng cho biểu tượng không gian - thời gian. Trẻ tiền thao tác vẽ mức nước trong bình chứa song song với đáy bình. Trẻ thao tác cụ thể biết vẽ mức nước song song với mặt đất.
    Quay sang lĩnh vực XH, trẻ vượt qua nhiều hạn chế trong suy luận về xã hội. Nó bắt đầu quan tâm đến những phán xét của nó về đạo đức. Nó tăng cường hiểu biết các mối quan hệ tế nhị trong gia đình, nhóm cùng trang lứa, và trong XH rộng lớn.
    Có hai nhận xét cần lưu ý. Một, những khái niệm khác nhau hoặc thao tác không phát triển cùng lúc. Trên thực tế, một sô khái niệm như sự bảo tồn trọng lượng thường không xuất hiện mà phải đợi cho đến cuối thời kỳ. Hai, mỗi thành tựu nhận thức phát triển suốt một thời gian. Nó dần được tăng cường ổn định và khái quát hoá thành nhiều tinhf huống khác nhau.
    Đứa trẻ chuyển từ một sự hiểu biết thế giới dựa trên các hành động sơ cấu đến sự hiểu biết dựa trên các biểu tượng, rồi trên các thao tac được nhập tâm có tổ chức. Nay tư duy không còn tập trung nữa, linh hoạt hơn là tịnh, có thể phản hồi chứ không phải không thể đảo ngược. Tuy thế, các thao tác vẫn còn "cụ thể" chúng chỉ được đem áp dụng cho các vật cụ thể hiện hữu hoặc có biểu tượng trong trí não.
    4. Thời kỳ thao tác chính thức (Khoảng từ 11 đến 15 tuổi)
    Trong thời kỳ thao tác cụ thể, các thao tác tâm trí được áp dụng cho các vật và các sự vật. Trẻ phân loại chúng, sắp xếp chúng theo thứ tự, và đảo ngược chúng. Ở thời kỳ thao tác chính thức, nó có thể lấy kết quả của các thao tác cụ thể đó và khái quát hoá thành những giả thuyết (đề xuất, qui chế) về quan hệ lô gic của chúng. Chúng ta có những thao tác trên các thao tác: các ý nghĩ trở thành thật sự lô gic, trừu tượng và mang tính giả thuyết.
    Tư duy thao tác chính thức giống như loại tư duy thường được gọi là phương pháp khoa học. Trẻ phát biểu giả thuyết về một sự vật hiện hữu hoặc có thể xảy ra và thử nghiệm giả thuyết đó đối lập với thực tế. Vấn đề thú vị là quá trình giải đáp hơn là bản thân câu trả lời đúng.
    Bài tập mẫu đầu tiên là vấn đề quả lắc. Một hoặc nhiều biến tố: chiều dài sợi dây, trọng luợng quả lắc, lực đẩy,... có thể kiểm soát tốc độ đung đưa của quả lắc. Một thiếu niên thao tác cụ thể thư nghiệm với các biến tố, thậm chí có thể đi đến câu trả lời đúng, nhưng tiếp cận của nó là ngẫu nhiên; nó không có kế hoạch tổng thể. Nó không thay đổi một yếu tố trong khi các yếu tố khác vẫn giữ nguyên. Thí dụ, nó có thể so sánh một quả lắc dài nhẹ với một quả lắc ngắn, nặng và kết luận la cả hai yếu tố đều quan trọng. Trên thực tế, chiều dài sợi dây có vai trò quyết định trong tốc độ dao động của quả lắc.
    Trái lại, cậu thiếu niên thao tác chính thức thì tưởng tượng ra mọi yếu tố quyết định có thể đối với tốc độ dao động trước khi nó bắt đầu, thay đổi có hệ thống từng yếu tố một, quan sát nghiêm túc các kết quả, nắm được các kết quả và rút ra được những kết luận phù hợp (nhận ra yếu tố nào kiểm soát tốc độ). Một cách có hệ thống, nó tách riêng yếu tố quyết định, và xử lý tất cả các ý kiến đề xuất. Bằng thử nghiệm những dự đoán của từng giả thuyết, nó chứng minh tư duy suy diễn giả thuyết. Một cách khái quát hơn: "Thực tế", do đó, được quan niệm như một tổng hợp tông thể những gì mà dữ liệu chấp nhận như là những giả thuyết. Nó được coi như "là" một phần của cái toàn thể "có thể là", cái phần công việc phải khám phá ra của chủ thể(1963).
    Cũng như tỏng thời kỳ thao tác cụ thể, Piaget áp dụng mô hình lô gic toán học cho tư duy của trẻ. Ông xác định một hệ thống 16 thao tác cặp đôi hình thành một tổ chức đan kết chặt chẽ của các quan hệ lo gic. Thí dụ: liên kết và không liên kết. Liên kết là một thao tác liên quan đến sự đồng xảy ra của x và y.
    Không liên kết liên quan đến 3 khả năng: x và y; x không phải y; y không phải x. Trong bài toán tìm xem nguyên nhân nào làm cong cái que, chúng ta xem xét cặp đôi của nhiều khả năng: (1) chiều dài lớn, độ cong lớn( liên kết) và (2) chiều dài ngắn, độ cong lớn; chiều dài lớn, độ cong bé (không liên kết).
    Ngoài ra, trong mô hình lô gic của Piaget, có một hệ thống nguyên tắc về thao tác các quan hệ lô gic được các thao tác cặp đôi phất hiện. Chẳng hạn như trong bài toán về cân bằng trọng lượng. Một sự mất cân bằng có thể được xoá đi bằng cách trừ đi trong lượng dôi ở phía nặng hơn, hoặc thêm cân vào phía nhẹ hơn.
    Khả năng xem xét các tư duy trừu tượng twong lai và các khả năng khác nhau là rõ tỏng giới xã hội của thanh, thiếu niên. Nó mơ ước về tương lai và tưởng tượng mình vào ở những công việc và có vai trò xã hội khác nhau. Nó có thể thử nghiệm với một số vai trò đó. Nó liên quan đến thế giới của những ý tưởng. Với bạn bè, nó tranh luận về những giải pháp đạo lý và chính trị khác nhau. Thí dụ về chiến tranh, nạn nạo phá thai, về một cộng đồng lý tưởng. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nấn ná của tính duy kỷ. Thanh thiếu niên chịu ấn tượng của sức mạnh của tư duy và ngây thơ đánh giá các vấn đề thực tế, bao hàm trong việc hoàn thiện một tương lai lý tưởng cho bản thân và cho xã hội. Nó có cảm tưởng là sức mạnh của ý muốn lô gic của nó sẽ chuyển được núi non.
    Hoàn thiện các thao tác chính thức, thanh thiếu niên hoàn tất các cấu trúc nhận thức của mình. Những thao tác cụ thể lô gic khác nhau đã được phối hợp thành một hệ tư duy độc nhất có tổ chức chặt chẽ, một tổng thể thống nhất. Tư duy trở nên trừu tượng và linh hoạt. Suy nghĩ này tiếp tục phát triển suốt tuổi thanh niên trng khi các thao tác chính thức được áp dụng cho các lĩnh vực và tình huống.
  2. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
    Phần IV
    Một số trường phái tâm lý hiện đại khác

    4.1 Mô hình hiện sinh trong tâm lý học
    Mô hình hiện sinh nhấn mạnh vào tính duy nhất của cá nhân, các câu hỏi của cá nhân về giá trị và ý nghĩa, sự tự do của anh ta trên đường hướng ngã và sự thực hiện bản ngã.
    Các chủ đề trung tâm và các khái niệm
    Mô hình hiện sinh không phải là mô hình tư tưởng trường học có tính hệ thống cao, nhưng nó được hợp nhất bởi sự liên quan cơ bản tới những vấn đề thiết yếu của sự tồn tại của con người - nhu cầu xây dựng ý thức về cá tính và xây dựng mối liên hệ đầy đủ ý nghĩa với thế giới. Những khái niệm cơ bản được đưa ra bởi các triết gia như Heidegger, Jaspers, Kierkegaard, và Sartre. Hai nhân vật có ảnh hưởng nhất đến tư tưởng hiện sinh ở Mỹ là Paul Tillich và nhà tâm lý học Rollo May.
    Hiện sinh và bản chất
    Từ quan điểm hiện sinh, động lực cơ bản của con người là tìm con đường tốt nhất có thể , để thực hiện những tiềm năng, và đáp ứng thoả mãn đầy đủ như 1 con người. Tuy nhiên, trong thời đại văn hoá thay đổi sâu sắc, đạo đức truyền thống và đức tin bị đặt câu hỏi. Kết quả là, con người hiện đại bị rối loạn, chịu căng thảng tinh thần và tình cảm.
    Về cơ bản, con người có thể giải quyết sự rắc rối này của mình theo môt trong 2 cách:
    (1) Đưa ra câu hỏi và tìm sự hài lòng trong việc tuân thủ vô điều kiện và hợp nhất một phần vào 1 cộng đồng
    (2) Đấu tranh làm rõ bản ngã trong sự sinh tồn
    Các nhà hiện sinh cho rằng sự lựa chọn thứ nhất là không xác thực và là con đường dẫn đến lo âu, trầm càm. Nếu việc tuân thủ không suy xét và gia nhập một nhóm nào đó mà tạo ra một cuộc sống vô ý nghĩa, cá nhân không thể tránh khỏi những thất bại kế tiếp cũng như đổ lỗi cho bất cứ ai.
    Vì vậy, chủ đề cơ bản của các nhà hiện sinh được đưa ra là sự tồn tại cá nhân, nhưng cái gì làm nên chúng, hay nói cách khác, bản chất tồn tại của anh ta là gì - phụ thuộc vào cá nhân đó. Một thanh niên khi thách thức: "Tôi không yêu cầu được sinh ra" đã đang chỉ ra 1 sự thực sâu sắc; nhưng theo quan điểm hiện sinh, nó hoàn toàn không thích hợp. Cho dù anh ta có muốn được sinh ra hay không, thì ở đây, anh ta cũng đã có mặt trên cõi đời và có khả năng trả lời cho chính anh ta - về một cuộc sống 1 con người. Những gì anh ta làm để tồn tại phụ thuộc vào anh ta.
    Tự do, sự lựa chọn, các giá trị và ý nghĩa
    Chủ đề cơ bản tiếp theo của hiện sinh là ý nghĩa. Nó chủ yếu là việc tìm kiếm và thoả mãn các giá trị. Việc chọn lựa các giá trị xác định bản chất của cá nhân. Trong việc chọn giá trị và mẫu người cá nhân muốn trở thành, anh ta hoàn toàn tự do. Thậm chí việc từ chối lựa chọn, tham gia vào 1 nhóm nào đó cũng là 1 sự lựa chọn. Việc tích luỹ giá trị nằm bên trong cá nhân. Anh ta phải kiến thiết cuộc sống của mình. Moriss(1966) đưa ra 3 đề xuất cho vấn đề này:
    1- Tôi là 1 tác nhân chọn lựa, không tránh khỏi việc chọn lựa cách sống trong suốt cuộc đời (hàm ý là tôi chọn lựa cái cuộc sống đưa cho tôi mà không tự đặt mục tiêu)
    2- Tôi là tác nhân tự do, tuyệt đối tự do xác định mục tiêu cho cuộc đời mình.
    3- Tôi là một tác nhân có tránh nhiệm, chịu trách nhiệm cho những lựa chọn tự do được thể hiện bằng việc lựa chọn cách sống
    Vấn đề của sự lựa chọn và trách nhiệm thường là trở thành một gánh nặng đau khổ. Con người tìm cách thoả mãn những giá trị, một vấn đề cá nhân mang tính đơn lẻ và lớn, vì các giá trị mang đến cho cuộc sống của một cá nhân ý nghĩa có thể rất khác với những giá trị mang ý nghĩa với các cá nhân khác. Vì vậy, cá nhân cần có sự dũng cảm phá bỏ những khuôn mẫu có sẵn nếu cần, tự chịu trách nhiệm và cố gắng đáp ứng theo con đường ấy. Theo một nghĩa nào đó, sự tự do của mỗi cá nhân để tạo nên bản chất của anh ta là gồm cả hạnh phúc và đau khổ.
    Ở đây, cần có một chú ý nhỏ là sự nhấn mạnh vào các mẫu giá trị cá nhân riêng lẻ không nên được hiểu theo nghĩa hư vô đạo đức. Bời mỗi con người là một đơn vị cơ bản của loài người, nên mỗi con người cần học cách sống với chính họ và với người khác. Vì vậy, việc thực hiện các tập hợp giá trị với mỗi cá nhân, những người đang nỗ lực sống một cách "thực" nhất. Các nhà hiện sinh cũng nhấn mạnh vào nghĩa vụ của mỗi cá nhân với những người đương thời. Bởi vì một cuộc sống cá nhân chỉ có đầy đủ ý nghĩa và thoả mãn nếu nó bao gồm những lựa chọn và giá trị mang tính xây dựng xã hội.
  3. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
    Phần IV
    Một số trường phái tâm lý hiện đại khác

    4.1 Mô hình hiện sinh trong tâm lý học
    Mô hình hiện sinh nhấn mạnh vào tính duy nhất của cá nhân, các câu hỏi của cá nhân về giá trị và ý nghĩa, sự tự do của anh ta trên đường hướng ngã và sự thực hiện bản ngã.
    Các chủ đề trung tâm và các khái niệm
    Mô hình hiện sinh không phải là mô hình tư tưởng trường học có tính hệ thống cao, nhưng nó được hợp nhất bởi sự liên quan cơ bản tới những vấn đề thiết yếu của sự tồn tại của con người - nhu cầu xây dựng ý thức về cá tính và xây dựng mối liên hệ đầy đủ ý nghĩa với thế giới. Những khái niệm cơ bản được đưa ra bởi các triết gia như Heidegger, Jaspers, Kierkegaard, và Sartre. Hai nhân vật có ảnh hưởng nhất đến tư tưởng hiện sinh ở Mỹ là Paul Tillich và nhà tâm lý học Rollo May.
    Hiện sinh và bản chất
    Từ quan điểm hiện sinh, động lực cơ bản của con người là tìm con đường tốt nhất có thể , để thực hiện những tiềm năng, và đáp ứng thoả mãn đầy đủ như 1 con người. Tuy nhiên, trong thời đại văn hoá thay đổi sâu sắc, đạo đức truyền thống và đức tin bị đặt câu hỏi. Kết quả là, con người hiện đại bị rối loạn, chịu căng thảng tinh thần và tình cảm.
    Về cơ bản, con người có thể giải quyết sự rắc rối này của mình theo môt trong 2 cách:
    (1) Đưa ra câu hỏi và tìm sự hài lòng trong việc tuân thủ vô điều kiện và hợp nhất một phần vào 1 cộng đồng
    (2) Đấu tranh làm rõ bản ngã trong sự sinh tồn
    Các nhà hiện sinh cho rằng sự lựa chọn thứ nhất là không xác thực và là con đường dẫn đến lo âu, trầm càm. Nếu việc tuân thủ không suy xét và gia nhập một nhóm nào đó mà tạo ra một cuộc sống vô ý nghĩa, cá nhân không thể tránh khỏi những thất bại kế tiếp cũng như đổ lỗi cho bất cứ ai.
    Vì vậy, chủ đề cơ bản của các nhà hiện sinh được đưa ra là sự tồn tại cá nhân, nhưng cái gì làm nên chúng, hay nói cách khác, bản chất tồn tại của anh ta là gì - phụ thuộc vào cá nhân đó. Một thanh niên khi thách thức: "Tôi không yêu cầu được sinh ra" đã đang chỉ ra 1 sự thực sâu sắc; nhưng theo quan điểm hiện sinh, nó hoàn toàn không thích hợp. Cho dù anh ta có muốn được sinh ra hay không, thì ở đây, anh ta cũng đã có mặt trên cõi đời và có khả năng trả lời cho chính anh ta - về một cuộc sống 1 con người. Những gì anh ta làm để tồn tại phụ thuộc vào anh ta.
    Tự do, sự lựa chọn, các giá trị và ý nghĩa
    Chủ đề cơ bản tiếp theo của hiện sinh là ý nghĩa. Nó chủ yếu là việc tìm kiếm và thoả mãn các giá trị. Việc chọn lựa các giá trị xác định bản chất của cá nhân. Trong việc chọn giá trị và mẫu người cá nhân muốn trở thành, anh ta hoàn toàn tự do. Thậm chí việc từ chối lựa chọn, tham gia vào 1 nhóm nào đó cũng là 1 sự lựa chọn. Việc tích luỹ giá trị nằm bên trong cá nhân. Anh ta phải kiến thiết cuộc sống của mình. Moriss(1966) đưa ra 3 đề xuất cho vấn đề này:
    1- Tôi là 1 tác nhân chọn lựa, không tránh khỏi việc chọn lựa cách sống trong suốt cuộc đời (hàm ý là tôi chọn lựa cái cuộc sống đưa cho tôi mà không tự đặt mục tiêu)
    2- Tôi là tác nhân tự do, tuyệt đối tự do xác định mục tiêu cho cuộc đời mình.
    3- Tôi là một tác nhân có tránh nhiệm, chịu trách nhiệm cho những lựa chọn tự do được thể hiện bằng việc lựa chọn cách sống
    Vấn đề của sự lựa chọn và trách nhiệm thường là trở thành một gánh nặng đau khổ. Con người tìm cách thoả mãn những giá trị, một vấn đề cá nhân mang tính đơn lẻ và lớn, vì các giá trị mang đến cho cuộc sống của một cá nhân ý nghĩa có thể rất khác với những giá trị mang ý nghĩa với các cá nhân khác. Vì vậy, cá nhân cần có sự dũng cảm phá bỏ những khuôn mẫu có sẵn nếu cần, tự chịu trách nhiệm và cố gắng đáp ứng theo con đường ấy. Theo một nghĩa nào đó, sự tự do của mỗi cá nhân để tạo nên bản chất của anh ta là gồm cả hạnh phúc và đau khổ.
    Ở đây, cần có một chú ý nhỏ là sự nhấn mạnh vào các mẫu giá trị cá nhân riêng lẻ không nên được hiểu theo nghĩa hư vô đạo đức. Bời mỗi con người là một đơn vị cơ bản của loài người, nên mỗi con người cần học cách sống với chính họ và với người khác. Vì vậy, việc thực hiện các tập hợp giá trị với mỗi cá nhân, những người đang nỗ lực sống một cách "thực" nhất. Các nhà hiện sinh cũng nhấn mạnh vào nghĩa vụ của mỗi cá nhân với những người đương thời. Bởi vì một cuộc sống cá nhân chỉ có đầy đủ ý nghĩa và thoả mãn nếu nó bao gồm những lựa chọn và giá trị mang tính xây dựng xã hội.
  4. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
    Mô hình nhân văn
    Mô hình nhân văn được đặc trưng nhiều và hơn các mô hình trước đó bởi xu hướng hướng tới con người hơn bất cứ mô hình hướng về con người trước đó. Mặc dù có vài nguồn gốc của mô hình liên quan đến lịch sử của tâm lý học, một vài số khác liên quan đến những truyền thống gần đây; nó được coi như một mô hình chủ yếu về con người trong thập niên 60 và 70. Mô hình này là một trường phaí mới và đáng kể trong tâm lý học hiện hành. Nó đề cập đến những vấn đề chúng ta hiện có ít thông tin như tình yêu, sư sáng tạo, các giá trị, ý nghĩa, sự phát triển cá nhân và sự thoả mãn cá nhân.
    Cá nhân như là một chủ đề hợp nhất
    Nhà tâm lý học James đã sử dụng rộng rãi khái niệm bản ngã trước thế kỷ này. Nhưng khái niệm này sau đó được dùng hạn chế bởi những người theo thuyết hành vi bởi sự "suy đoán" hơn là tự nhiên có thể quan sát. Tuy nhiên, do nhu cầu có các nguyên tắc hợp nhất cá nhân và một vài cách thức tiến hành nhận thức trên những kinh nghiệm của chủ thể riêng rẽ - bao gồm sự nhân thức bản thân - đã dẫn tới việc đưa ra khái niệm này một lần nữa. Ở đây, có thể phải nhấn mạnh lại khái niệm về bản ngã tương tự như khái niệm ego ( cái ấy) của phân tâm học - trong đó, cả hai được đặc trưng rút ra một phần từ sự quan hệ với sự đánh giá, ra quyết định, lập kế hoạch và tiến hành. Từ quan điểm nhân văn đã mở rộng khái niệm bản ngã tới việc bao gồm bản ngã - duy nhất và các xu hướng tới phát triển và thực hiện bản ngã.
    Trong số các nhà nhân văn đương thời, Carl Rogers đã phát triển mô hình bản ngã trong quan hệ với các chức năng cá nhân, dựa trên những nghiên cứu mở đường đối với các quá trình chữa bệnh tâm lý. Rogers đã tổng kết thành các tuyên bố sau:
    1- Mỗi cá nhân tồn tại trong thế giới riêng biệt của sự trải nghiệm của anh ta trên các ngôi - I,me hay myself - là trung tâm.
    2- Sự phấn đấu cơ bản nhất của cá nhân là hướng tới sự an toàn, nâng và thực hiện bản ngã
    3- Cá nhân phản ứng với hoàn cảnh theo nhận thức của anh ta về bản thân và thế giới - anh ta phản ứng với thực tại theo cách anh ta lĩnh hội nó và theo các cách liên quan chặt chẽ với khái niệm - bản ngã
    4- Sự nguy hiểm lĩnh hội đuợc đối với bản ngã sẽ dẫn đến cơ chế phòng vệ cá nhân, bao gồm những suy nghĩ chặt chẽ và tập trung cũng như hành vi phòng vệ.
    5- Những khuynh hướng bên trong cá nhân của cá nhân hướng tới sức khoẻ và sự toàn vẹn, và duới những điều kiện bình thường, anh ta ứng xử hợp lý và xây dựng và chọn những cách thức phát triển cá nhân và thực thi bản ngã.
    Trong việc sử dụng khái niệm bản ngã như chủ đề hợp nhất, các nhà nhân văn nhấn mạnh tầm quan trọng của cá tính. Mỗi cá nhân, mà phẩm hạnh đuợc tạo nên bởi tiềm năng học tập to lớn,cộng với nền tảng kinh nghiệm của mình, là độc nhất. Trong việc nghiên cứu con người, các nhà tâm lý đều phải đối mặt với hai nhiệm vụ, một là miêu tả những những phẩm chất tự nhiên của cá thể, và nữa là những đặc trưng mà cá thể phải có trong mối quan hệ với phần còn lại của loài người
    Tập trung vào các giá trị, sự phát triển cá nhân, và sự thoả mãn.
    Trong khi đặt trọng tâm vào vai trò của các giá trị, sự phát triển cá nhân, và sự thoả mãn trong cuộc hiện sinh của con người, các nhà nhân văn học xem xét tầm quan trọng của những suy nghĩ và lựa chọn của cá nhân hơn là sự chấp thuận không suy xét những giá trị mà XH áp đặt. Họ cũng cho rằng việc cá nhân đạt được ý thức rõ ràng về bản ngã duy nhất - cái mà anh ta khám phá anh ta là ai và muốn trở thành- thì tiềm năng của cá nhân có thể phát triển đầy đủ. Từ quan điểm này, cá nhân đuợc nhìn nhận như là có một sự thúc đẩy bên trong hướng tới sự trưởng thành và thực thi bản ngã.
    Ở đây, sự nhấn mạnh của mô hình nhân văn không chỉ vào vấn đề các giá trị và sự thoả mãn nó không chỉ cho cá nhân, mà cho cả XH. Con người đuợc nhìn nhận như là có những đặc điểm tự nhiên "cơ bản" của loài người. Và trong khi khoa học càng khám phá ra nhiều những sự kế thừa tự nhiên, nó ngày càng có khả năng phán xét cái gì là tốt, cái gì là xấu ở loài người. Trong nghĩa này , trách nhiệm của khoa học là phải đề cập trực tiếp đến loài người và các tiến bộ XH thông qua các giá trị. KHoa học thông thường chỉ đề cập trực tiếp đến các đối tượng " thực" và bỏ lại các câu hỏi về giá trị và các tiến bộ XH cho tôn giáo, chính phủ và các quyền lực XH khác. Tuy nhiên, Maslow (1969) đã chỉ ra rằng nhiệm vụ của khoa học hiện đại là phải sản sinh ra một Xã hội tốt, cũng như cá nhân tốt bởi vì việc thực hiện các tiềm năng cơ bản và rộng rãi ở loài người chỉ đuợc thực hiện trong những điều kiện XH thuận lợi.
    Hệ thứ bậc các nhu cầu của Maslow
    Theo lý thuyết của Maslow thì các nhu cầu cơ bản của chúng ta hình thành nên một hệ thứ bậc các nhu cầu (needs hierachy) - các nhu cầu bẩm sinh của chúng ta được xếp theo trong một chuỗi các giai đoạn từ nguyên thuỷ đến tiến bộ. Các nhu cầu sinh học cơ bản, như đói và khát chẳng hạn, nằm ở phần đáy của hệ này. Chúng phải được thoả mãn trước khi các nhu cầu khác có thể khởi sự tác động. Khi nhu cầu sinh học bị thúc ép, các nhu cầu khác phải bị gạt sang một bên và không chắc có ảnh hưởng gì đến hoạt động của chúng ta, song nếu chúng được thoả mãn một cách hợp lý thì những nhu cầu ở tầm gần đó - những nhu cầu an toàn - sẽ thúc đẩy chúng ta. Khi không bị bận tâm đến các nỗi nguy hiểm nữa thì chúng ta bị thúc đẩy bởi các nhu cầu gắn bó, nhu cầu được quy thuộc, được sát nhập với những người khác, nhu cầu yêu thương và được yêu thương. Nếu nhu cầu dinh dưỡng và an toàn được thoả mãn và nếu cảm thấy một ý thức quy chiếu về mặt xã hội, thì ta chuyển lên các nhu cầu tự trọng. Những nhu cầu này bao gồm nhu cầu yêu thích bản thân, nhìn bản thân như người có tài và tạo ra ấn tượng sâu sắc, và nhu cầu muốn làm điều được cho là cần thiết để giành được sự tôn trọng của người khác. Loài ngừời là những sinh vật có suy nghĩ, với bộ não phức tạp đòi hỏi có kích thích tư duy. Chúng ta bị thúc đẩy bởi nhu cầu mạnh mẽ về nhận thức muốn biết quá khứ của mình để hiểu biết những bí ẩn của cuộc sống hiện tại, và để đoán trước được tương lai. Sức mạnh của các nhu cầu này giúp học giả và các nhà khoa học cống hiến cuộc đời mình cho các cuộc truy tìm kiến thức mới. Ở tầm tiếp theo của hệ thứ bậc các nhu cầu của Maslow, là ham muốn của con người với cái Đẹp và trật tự, dưới dạng những nhu cầu thẩm mỹ. làm nảy sinh phương diện sáng tạo của con người. Tại đỉnh của hệ thứ bậc là những con người được nuôi dưỡng, che chở, được yêu thương và yêu thương, được yên tâm, được tư duy và sáng tạo. Những con người này đã chuyển động vượt ra ngoài những nhu cầu cơ bản của con người để tìm kiếm sự phát huy đầy đủ tiềm năng của mình, còn gọi là sự ý thức đầy đủ về bản thân. Một con người có ý thức đầy đủ về mình, tự nhận thức được mình, tự chấp nhận , thì nhiệt tình với xã hội, có tính sáng tạo, không gò bó, sẵn sàng tiếp nhận cái mới và sẵn sàng chấp nhận thử thách - không kể các phẩm chất tích cực khác. Hệ thức bậc của Maslow gồm một bước vượt ra ngoài sự thoả mãn hoàn toàn tiềm năng cá nhân. Nhu cầu vươn tới cái siêu việt có thể dẫn tới các trạng thái cao hơn của ý thức và một cái nhìn có tính vũ trụ xem bản thân nhu một phần của vũ trụ. Rất ít người có ham muốn chuyển động ra ngoài cái Tôi để hoà nhập với các sức mạnh tâm linh.
    Siêu việt: Nhu cầu tâm linh để đồng nhất hoá vũ trụ
    Ý thức đầy đủ về mình : Nhu cầu thoả mãn tiềm năng, có các mục tiêu có ý nghĩa
    Thẩm mỹ: Nhu cầu trật tự, cái đẹp
    Nhận thức: Nhu cầu biết, hiểu cái mới
    Tự trọng: Nhu cầu về lòng tin, ý thức về phẩm giá và tài năng, lòng tự tọng và tôn trọng người khác
    Gắn bó: Nhu cầu quy thuộc, sát nhập, yêu và được yêu
    An toán: Nhu cầu được an toàn, thoải mái trấn tĩnh, không sợ hãi
    Sinh học: Nhu cầu thức ăn, nước uống, ô xy. được nghỉ ngơi, biểu thị ********, giải toả căng thẳng.được an toàn, thoải mái trấn tĩnh, không sợ hãi
    Sinh học: Nhu cầu thức ăn, nước uống, ô xy. được nghỉ ngơi, biểu thị ********, giải toả căng thẳng.
  5. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
    Mô hình nhân văn
    Mô hình nhân văn được đặc trưng nhiều và hơn các mô hình trước đó bởi xu hướng hướng tới con người hơn bất cứ mô hình hướng về con người trước đó. Mặc dù có vài nguồn gốc của mô hình liên quan đến lịch sử của tâm lý học, một vài số khác liên quan đến những truyền thống gần đây; nó được coi như một mô hình chủ yếu về con người trong thập niên 60 và 70. Mô hình này là một trường phaí mới và đáng kể trong tâm lý học hiện hành. Nó đề cập đến những vấn đề chúng ta hiện có ít thông tin như tình yêu, sư sáng tạo, các giá trị, ý nghĩa, sự phát triển cá nhân và sự thoả mãn cá nhân.
    Cá nhân như là một chủ đề hợp nhất
    Nhà tâm lý học James đã sử dụng rộng rãi khái niệm bản ngã trước thế kỷ này. Nhưng khái niệm này sau đó được dùng hạn chế bởi những người theo thuyết hành vi bởi sự "suy đoán" hơn là tự nhiên có thể quan sát. Tuy nhiên, do nhu cầu có các nguyên tắc hợp nhất cá nhân và một vài cách thức tiến hành nhận thức trên những kinh nghiệm của chủ thể riêng rẽ - bao gồm sự nhân thức bản thân - đã dẫn tới việc đưa ra khái niệm này một lần nữa. Ở đây, có thể phải nhấn mạnh lại khái niệm về bản ngã tương tự như khái niệm ego ( cái ấy) của phân tâm học - trong đó, cả hai được đặc trưng rút ra một phần từ sự quan hệ với sự đánh giá, ra quyết định, lập kế hoạch và tiến hành. Từ quan điểm nhân văn đã mở rộng khái niệm bản ngã tới việc bao gồm bản ngã - duy nhất và các xu hướng tới phát triển và thực hiện bản ngã.
    Trong số các nhà nhân văn đương thời, Carl Rogers đã phát triển mô hình bản ngã trong quan hệ với các chức năng cá nhân, dựa trên những nghiên cứu mở đường đối với các quá trình chữa bệnh tâm lý. Rogers đã tổng kết thành các tuyên bố sau:
    1- Mỗi cá nhân tồn tại trong thế giới riêng biệt của sự trải nghiệm của anh ta trên các ngôi - I,me hay myself - là trung tâm.
    2- Sự phấn đấu cơ bản nhất của cá nhân là hướng tới sự an toàn, nâng và thực hiện bản ngã
    3- Cá nhân phản ứng với hoàn cảnh theo nhận thức của anh ta về bản thân và thế giới - anh ta phản ứng với thực tại theo cách anh ta lĩnh hội nó và theo các cách liên quan chặt chẽ với khái niệm - bản ngã
    4- Sự nguy hiểm lĩnh hội đuợc đối với bản ngã sẽ dẫn đến cơ chế phòng vệ cá nhân, bao gồm những suy nghĩ chặt chẽ và tập trung cũng như hành vi phòng vệ.
    5- Những khuynh hướng bên trong cá nhân của cá nhân hướng tới sức khoẻ và sự toàn vẹn, và duới những điều kiện bình thường, anh ta ứng xử hợp lý và xây dựng và chọn những cách thức phát triển cá nhân và thực thi bản ngã.
    Trong việc sử dụng khái niệm bản ngã như chủ đề hợp nhất, các nhà nhân văn nhấn mạnh tầm quan trọng của cá tính. Mỗi cá nhân, mà phẩm hạnh đuợc tạo nên bởi tiềm năng học tập to lớn,cộng với nền tảng kinh nghiệm của mình, là độc nhất. Trong việc nghiên cứu con người, các nhà tâm lý đều phải đối mặt với hai nhiệm vụ, một là miêu tả những những phẩm chất tự nhiên của cá thể, và nữa là những đặc trưng mà cá thể phải có trong mối quan hệ với phần còn lại của loài người
    Tập trung vào các giá trị, sự phát triển cá nhân, và sự thoả mãn.
    Trong khi đặt trọng tâm vào vai trò của các giá trị, sự phát triển cá nhân, và sự thoả mãn trong cuộc hiện sinh của con người, các nhà nhân văn học xem xét tầm quan trọng của những suy nghĩ và lựa chọn của cá nhân hơn là sự chấp thuận không suy xét những giá trị mà XH áp đặt. Họ cũng cho rằng việc cá nhân đạt được ý thức rõ ràng về bản ngã duy nhất - cái mà anh ta khám phá anh ta là ai và muốn trở thành- thì tiềm năng của cá nhân có thể phát triển đầy đủ. Từ quan điểm này, cá nhân đuợc nhìn nhận như là có một sự thúc đẩy bên trong hướng tới sự trưởng thành và thực thi bản ngã.
    Ở đây, sự nhấn mạnh của mô hình nhân văn không chỉ vào vấn đề các giá trị và sự thoả mãn nó không chỉ cho cá nhân, mà cho cả XH. Con người đuợc nhìn nhận như là có những đặc điểm tự nhiên "cơ bản" của loài người. Và trong khi khoa học càng khám phá ra nhiều những sự kế thừa tự nhiên, nó ngày càng có khả năng phán xét cái gì là tốt, cái gì là xấu ở loài người. Trong nghĩa này , trách nhiệm của khoa học là phải đề cập trực tiếp đến loài người và các tiến bộ XH thông qua các giá trị. KHoa học thông thường chỉ đề cập trực tiếp đến các đối tượng " thực" và bỏ lại các câu hỏi về giá trị và các tiến bộ XH cho tôn giáo, chính phủ và các quyền lực XH khác. Tuy nhiên, Maslow (1969) đã chỉ ra rằng nhiệm vụ của khoa học hiện đại là phải sản sinh ra một Xã hội tốt, cũng như cá nhân tốt bởi vì việc thực hiện các tiềm năng cơ bản và rộng rãi ở loài người chỉ đuợc thực hiện trong những điều kiện XH thuận lợi.
    Hệ thứ bậc các nhu cầu của Maslow
    Theo lý thuyết của Maslow thì các nhu cầu cơ bản của chúng ta hình thành nên một hệ thứ bậc các nhu cầu (needs hierachy) - các nhu cầu bẩm sinh của chúng ta được xếp theo trong một chuỗi các giai đoạn từ nguyên thuỷ đến tiến bộ. Các nhu cầu sinh học cơ bản, như đói và khát chẳng hạn, nằm ở phần đáy của hệ này. Chúng phải được thoả mãn trước khi các nhu cầu khác có thể khởi sự tác động. Khi nhu cầu sinh học bị thúc ép, các nhu cầu khác phải bị gạt sang một bên và không chắc có ảnh hưởng gì đến hoạt động của chúng ta, song nếu chúng được thoả mãn một cách hợp lý thì những nhu cầu ở tầm gần đó - những nhu cầu an toàn - sẽ thúc đẩy chúng ta. Khi không bị bận tâm đến các nỗi nguy hiểm nữa thì chúng ta bị thúc đẩy bởi các nhu cầu gắn bó, nhu cầu được quy thuộc, được sát nhập với những người khác, nhu cầu yêu thương và được yêu thương. Nếu nhu cầu dinh dưỡng và an toàn được thoả mãn và nếu cảm thấy một ý thức quy chiếu về mặt xã hội, thì ta chuyển lên các nhu cầu tự trọng. Những nhu cầu này bao gồm nhu cầu yêu thích bản thân, nhìn bản thân như người có tài và tạo ra ấn tượng sâu sắc, và nhu cầu muốn làm điều được cho là cần thiết để giành được sự tôn trọng của người khác. Loài ngừời là những sinh vật có suy nghĩ, với bộ não phức tạp đòi hỏi có kích thích tư duy. Chúng ta bị thúc đẩy bởi nhu cầu mạnh mẽ về nhận thức muốn biết quá khứ của mình để hiểu biết những bí ẩn của cuộc sống hiện tại, và để đoán trước được tương lai. Sức mạnh của các nhu cầu này giúp học giả và các nhà khoa học cống hiến cuộc đời mình cho các cuộc truy tìm kiến thức mới. Ở tầm tiếp theo của hệ thứ bậc các nhu cầu của Maslow, là ham muốn của con người với cái Đẹp và trật tự, dưới dạng những nhu cầu thẩm mỹ. làm nảy sinh phương diện sáng tạo của con người. Tại đỉnh của hệ thứ bậc là những con người được nuôi dưỡng, che chở, được yêu thương và yêu thương, được yên tâm, được tư duy và sáng tạo. Những con người này đã chuyển động vượt ra ngoài những nhu cầu cơ bản của con người để tìm kiếm sự phát huy đầy đủ tiềm năng của mình, còn gọi là sự ý thức đầy đủ về bản thân. Một con người có ý thức đầy đủ về mình, tự nhận thức được mình, tự chấp nhận , thì nhiệt tình với xã hội, có tính sáng tạo, không gò bó, sẵn sàng tiếp nhận cái mới và sẵn sàng chấp nhận thử thách - không kể các phẩm chất tích cực khác. Hệ thức bậc của Maslow gồm một bước vượt ra ngoài sự thoả mãn hoàn toàn tiềm năng cá nhân. Nhu cầu vươn tới cái siêu việt có thể dẫn tới các trạng thái cao hơn của ý thức và một cái nhìn có tính vũ trụ xem bản thân nhu một phần của vũ trụ. Rất ít người có ham muốn chuyển động ra ngoài cái Tôi để hoà nhập với các sức mạnh tâm linh.
    Siêu việt: Nhu cầu tâm linh để đồng nhất hoá vũ trụ
    Ý thức đầy đủ về mình : Nhu cầu thoả mãn tiềm năng, có các mục tiêu có ý nghĩa
    Thẩm mỹ: Nhu cầu trật tự, cái đẹp
    Nhận thức: Nhu cầu biết, hiểu cái mới
    Tự trọng: Nhu cầu về lòng tin, ý thức về phẩm giá và tài năng, lòng tự tọng và tôn trọng người khác
    Gắn bó: Nhu cầu quy thuộc, sát nhập, yêu và được yêu
    An toán: Nhu cầu được an toàn, thoải mái trấn tĩnh, không sợ hãi
    Sinh học: Nhu cầu thức ăn, nước uống, ô xy. được nghỉ ngơi, biểu thị ********, giải toả căng thẳng.được an toàn, thoải mái trấn tĩnh, không sợ hãi
    Sinh học: Nhu cầu thức ăn, nước uống, ô xy. được nghỉ ngơi, biểu thị ********, giải toả căng thẳng.
  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
    Phụ lục: Các bài test IQ và EQ A- Test EQ
    Các nhà nghiên cứu đưa ra đề xuất là một người có trí thông minh cảm xúc(EQ) có thể có dự đoán khả năng thành công cao hơn trí thông minh lý trí(IQ), mặc dù người ta hay nghĩ là một người có IQ cao sẽ thành thạo hơn trong cuộc sống.
    Trí thông minh cảm xúc là khả năng của một người để hiểu được xúc cảm của người khác và hành động tương xứng với những cảm xúc ấy.
    Sau đây, xin mời bạn hãy thực hành bài test đo năng lực xúc cảm:
    1. Thời gian bạn ở bên người bạn lâu năm ít đi và không thoải mái như trước nữa. Hai người đang có vẻ tách nhau ra:
    Bạn sẽ phản ứng:
    + Thật thà nói với bạn của bạn là tình bạn của hai người không còn vui vẻ nữa.
    + Bày tỏ vấn đề và làm rõ nó cùng nhau
    + Dừng trả lời các cuộc điện thoại và các lời mời
    + Lặng lẽ để mối quan hệ chấm dứt. Quan hệ đã thay đổi, con người đã thay đổi
    2. Một người bạn thân thíêt nói với bạn là vợ của người bạn tốt nhất của bạn đang ngoại tình và có chứng cớ cho điều đó.
    Bạn sẽ:
    + Phụ thuộc vào mối quan hệ giữa bạn và người bạn đó
    + Nói với người vợ kia là bạn biết điều đó và cho cô ta thời gian để thú tội
    + Ngay lập tức nói cho bạn của bạn biết
    + Giữ im lặng
    3. Bạn đã sắp xếp một buổi hẹn vào bữa ăn trưa, nhưng bạn vẫn đang đợi một cuộc điện thoại vô cùng quan trọng.
    Bạn sẽ:
    + Yêu cầu người hẹn vào buổi trưa tới do vậy bạn có thể vừa dùng bữa trưa vừa đợi điện thoại
    + Đi ăn trưa và phàn nàn suốt thời gian đó về việc bạn đã căng thẳng thế nào vì lỡ cuộc điện thoại
    + Giữ lời hẹn và tự nhắc mình sẽ trở về đê nghe cuộc điện thoại nếu bạn bỏ lỡ nó
    + Bỏ cuộc hẹn trưa và đợi cuộc điện thoại.
    4. Một thói quen của người bạn đời của bạn ngày càng trở nên khó chịu:
    Bạn sẽ:
    + Thẳng thắn nói với họ là nó gây phiền cho bạn
    + Chọc đùa về điều đó
    + Doạ chấm dứt mối quan hệ nếu điều đó không chấm dứt
    + Chung sống với nó. Bạn cũng có những điều gây khó chịu
    5- Bạn vừa có một vài thành công may mắn và một người bạn ghi nhận về việc đó:
    Bạn sẽ:
    + Ngay lập tức sửa lại ý kiến sai lầm
    + Đối với một hai lần đầu bỏ qua, nhưng đến lần thứ ba thì đối chứng với người bạn một cách riêng rẽ
    + Bỏ qua nó. Mọi người đều tỉnh ngộ bay giờ hoặc sau đó
    + Làm cùng điều đó với người bạn.
    6- Một người đồng nghiệp làm một vài việc khiến bạn nổi giận. Một tháng sau đó hai người có thời gian cùng nhau.
    Bạn sẽ:
    + Bình tĩnh và thẳng thắn giải thích điều đã làm cho bạn trở nên giận dữ
    + Tỏ rõ thái độ bằng cách bỏ đi chỗ khác
    + Để nó qua đi. Thời gian để nói về nó đã trôi qua
    + Làm tan cơn giận dữ của bạn bằng cách thở sâu. Bạn sẽ cảm thấy tôt hơn
    7- Bạn đang sắp sửa từ bỏ công việc mà bạn thấy hạnh phúc khi nhìn lại. Công ty đưa ra lời mời bạn một bữa tiệc chia tay:
    Bạn sẽ:
    + Từ chối bữa tiệc
    + Tìm cách đi đâu đó vào thời điểm đó
    + Dự qua quít, sau đó nói với mọi người bạn có nhiều việc phải hoàn thành
    + Đến bữa tiệc, cười về những quang thời gian đã qua, vè tiếp tục cuộc sống.
    B- Test IQ
    Hãy trả lời 38 câu sau trong vòng 13 phút. Bạn càng hòan tất nhanh, bạn sẽ càng có tốc độ tính toán nhanh và điểm của bạn càng phản ánh đúng năng lực của bạn.
    1. Từ "boat" có thể được tạo thành nhờ 4 chữ cái từ từ "automobile"
    Đúng | Sai
    2. Nếu bạn viết các số từ 1 đến 25 trên 1 hàng, bất cư hai số nào liền nhau sẽ cho tổng là một số lẻ
    3. 5h 13 có phải là 6h kém 47
    4.Từ "perfume" có thể được tạo thành nhờ các chữ cái đầu trong câu sau:"Pigs eat really filthy uncooked meat eagerly.""
    5. Nếu bạn lột ngược từ trong ra ngoài một găng tay trái, nó sẽ vừa với tay phải.
    6. John có 15$, nhưng John có thể mua một xe đạp giá 30$ nếu Jhon mượn 6$ từ Freud và và 8$ từ Joe
    7. Khi thời gian là 12 h 45, kim phút của đồng hồ sẽ quay lật ngược sang phải.
    8. Câu sau đây sẽ có nghĩa nếu từ "Rootch " được hiểu như từ "jump"(cất cánh)
    Trong khi chờ để rootch, tôi đã nhìn thấy gương mặt của những rootchers( những người chờ để root khác) trên máy bay
    9. Nếu Jhon sờ tai trái và soi gương, qua gương ta sẽ thấy John đang sờ tai phải .
    10. Nếu bạn dời các chữ cái theo cùng hướng, nhưng sắp xếp lại khoảng trống giữa các từ trong cụm "The red olive", từ đó có thể đọc được là " There do live"
    11.Nếu chỉ dùng đúng 3 màu, bạn có thể tô được màu các mặt của hình lập phương sao cho hai mặt có cùng màu không bao giờ liền nhau( dính nhau ở biên)
    12.Jim nặng 150 pounds, Jack nặng 130 pounds, Joe là 200 Pounds. Hai người trong họ đứng cạnh nhau trên cùng một cân có thể nặng 350 pounds.
    13. Nguyên âm thứ hai trong câu dưới đây là "e"
    The second vowel that appears in this sentence is the letter "e".
    14. 7 con gà và 2 con mèo có tổng cộng là 22 chân
    15. Nếu có 3 đồng 25 xu và 1 hào (10 xu) cùng 1 miếng kền và chi dùng 33 xu sẽ còn lại 52 xu.
    16.Trong bảng chữ cái tiếng Anh, có 4 chữ cái giữa F và K
    17.Nếu từ FOX được viết dưới CAT và từ MAP được viết dưới từ FOX, từ COP sẽ được tạo thành theo một đường chéo.
    18. 1 nửa của một và nủa pound là 18 ounces
    1 pound= 16 ounces
    19. 5 chiếc găng tay và 3 chiếc giầy thường đi( bao ) được 35 ngón tay và chân
    Bạn đã đi được nửa đường.
    20. Các từ "foot, stop, và white" có thể kết hợp tương ứng với các từ "ball, light, và house"
    Gợi ý: football: bóng đá
    white house: nhà trắng
    21.Nếu thứ ba là ngày thứ nhì của tháng, ngày chủ nhật gần nhất là ngày thứ sáu của tháng.
    22. Hai trong các số sau có tổng là 17:
    11,3,2,14,5
    23. Tại chỗ Joe khởi hành sẽ có 3 khối đá, nếu Joe chuyển 2 khối sang hướng Bắc, sau đó 3 khối sang Đông, và 2 khối xuống phía Nam.
    24.Những từ sau là những từ trái nghĩa của những từ bắt đầu từ chữ C: open, hot, convex, expand, courage
    Gợi ý: open - close
    25. Khi viết ngược từ "revolver", ta được chính nó
    26. Tất cả các chữ cái trong từ "spoon feed" xuất hiện theo thứ tự ngược trong bảng chữ cái
    27. Dãy số 6 - 4 - 9 - 3 - 0 - 2 là viết ngược của dãy 2 - 0 - 3 - 6 -9
    28. Cháu gái của ông nội John có thể là con gái của con trai John.
    29. Không được bẻ gẫy hoặc cong bất cứ 1 que tăm nào, bạn
    có thể xếp thành từ "HUT" với đúng 7 que tăm
    30. Câu này có hai mốt chữ cái
    31. Một hình vuông cạnh 10 cm có thể luôn chồng khít hoàn toàn bên trong một vòng tròn bán kính 10 cm
    32. Một lục giác có thể cắt thành 6 tam giác nhờ vẽ 2 đường thẳng
    33. Số 62 là số tiếp theo theo qui luật của dãy : 2, 6, 14, 30
    34.Bill cao hơn John. Ralph thấp hơn Bill. Do vậy, John cao nhất
    35.Tổng của tất cả các số lẻ từ 0 đến 12 cũng là 1 số lẻ
    36. Nếu trong nhóm 6 người, mỗi người đều nói hello với những người còn lại thì từ hello được nói 36 lần
    37. Ba hình tròn kích cỡ như nhau có thể được vẽ 2 cái bất kỳ chồng lên nhau và tạo thành đúng 7 vùng phân biệt (không có phần chung)
    38. Một nhà dạng hình bánh , có 3 của chỉ ra và 3 của chỉ vào. Có khả năng đi qua cả 6 cửa, mỗi cửa chỉ đi 1 lần và kết thúc tại nơi xuất phát.
    Nếu bạn chưa sử dụng hết 13 phút thì thật tốt.
    Bạn làm trong bao lâu. Bài test này đánh giá năng lực tính toán của bạn. Ngầm định là 13 phút.
    Đáp án:
    1- Đúng 2- Đúng 3- Đúng 4- Đúng 5- Đúng 6- Sai 7- Đúng 8- Đúng 9- Đúng 10 - Đúng 11- Sai 12- Đúng 13- Đúng 14- Đúng 15- Sai 16- Đúng 17- Đúng 18- Sai 19- Sai 20 Đúng 21- Sai 22- Đúng 24-Đúng 25- Sai 26- Đúng 27- Sai 28- Đúng 29- Sai 30- Sai 31- Sai 32- Sai 33- Đúng 34- Sai
    35-Sai 36-Sai 37-Đúng 38- Sai
  7. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
    Phụ lục: Các bài test IQ và EQ A- Test EQ
    Các nhà nghiên cứu đưa ra đề xuất là một người có trí thông minh cảm xúc(EQ) có thể có dự đoán khả năng thành công cao hơn trí thông minh lý trí(IQ), mặc dù người ta hay nghĩ là một người có IQ cao sẽ thành thạo hơn trong cuộc sống.
    Trí thông minh cảm xúc là khả năng của một người để hiểu được xúc cảm của người khác và hành động tương xứng với những cảm xúc ấy.
    Sau đây, xin mời bạn hãy thực hành bài test đo năng lực xúc cảm:
    1. Thời gian bạn ở bên người bạn lâu năm ít đi và không thoải mái như trước nữa. Hai người đang có vẻ tách nhau ra:
    Bạn sẽ phản ứng:
    + Thật thà nói với bạn của bạn là tình bạn của hai người không còn vui vẻ nữa.
    + Bày tỏ vấn đề và làm rõ nó cùng nhau
    + Dừng trả lời các cuộc điện thoại và các lời mời
    + Lặng lẽ để mối quan hệ chấm dứt. Quan hệ đã thay đổi, con người đã thay đổi
    2. Một người bạn thân thíêt nói với bạn là vợ của người bạn tốt nhất của bạn đang ngoại tình và có chứng cớ cho điều đó.
    Bạn sẽ:
    + Phụ thuộc vào mối quan hệ giữa bạn và người bạn đó
    + Nói với người vợ kia là bạn biết điều đó và cho cô ta thời gian để thú tội
    + Ngay lập tức nói cho bạn của bạn biết
    + Giữ im lặng
    3. Bạn đã sắp xếp một buổi hẹn vào bữa ăn trưa, nhưng bạn vẫn đang đợi một cuộc điện thoại vô cùng quan trọng.
    Bạn sẽ:
    + Yêu cầu người hẹn vào buổi trưa tới do vậy bạn có thể vừa dùng bữa trưa vừa đợi điện thoại
    + Đi ăn trưa và phàn nàn suốt thời gian đó về việc bạn đã căng thẳng thế nào vì lỡ cuộc điện thoại
    + Giữ lời hẹn và tự nhắc mình sẽ trở về đê nghe cuộc điện thoại nếu bạn bỏ lỡ nó
    + Bỏ cuộc hẹn trưa và đợi cuộc điện thoại.
    4. Một thói quen của người bạn đời của bạn ngày càng trở nên khó chịu:
    Bạn sẽ:
    + Thẳng thắn nói với họ là nó gây phiền cho bạn
    + Chọc đùa về điều đó
    + Doạ chấm dứt mối quan hệ nếu điều đó không chấm dứt
    + Chung sống với nó. Bạn cũng có những điều gây khó chịu
    5- Bạn vừa có một vài thành công may mắn và một người bạn ghi nhận về việc đó:
    Bạn sẽ:
    + Ngay lập tức sửa lại ý kiến sai lầm
    + Đối với một hai lần đầu bỏ qua, nhưng đến lần thứ ba thì đối chứng với người bạn một cách riêng rẽ
    + Bỏ qua nó. Mọi người đều tỉnh ngộ bay giờ hoặc sau đó
    + Làm cùng điều đó với người bạn.
    6- Một người đồng nghiệp làm một vài việc khiến bạn nổi giận. Một tháng sau đó hai người có thời gian cùng nhau.
    Bạn sẽ:
    + Bình tĩnh và thẳng thắn giải thích điều đã làm cho bạn trở nên giận dữ
    + Tỏ rõ thái độ bằng cách bỏ đi chỗ khác
    + Để nó qua đi. Thời gian để nói về nó đã trôi qua
    + Làm tan cơn giận dữ của bạn bằng cách thở sâu. Bạn sẽ cảm thấy tôt hơn
    7- Bạn đang sắp sửa từ bỏ công việc mà bạn thấy hạnh phúc khi nhìn lại. Công ty đưa ra lời mời bạn một bữa tiệc chia tay:
    Bạn sẽ:
    + Từ chối bữa tiệc
    + Tìm cách đi đâu đó vào thời điểm đó
    + Dự qua quít, sau đó nói với mọi người bạn có nhiều việc phải hoàn thành
    + Đến bữa tiệc, cười về những quang thời gian đã qua, vè tiếp tục cuộc sống.
    B- Test IQ
    Hãy trả lời 38 câu sau trong vòng 13 phút. Bạn càng hòan tất nhanh, bạn sẽ càng có tốc độ tính toán nhanh và điểm của bạn càng phản ánh đúng năng lực của bạn.
    1. Từ "boat" có thể được tạo thành nhờ 4 chữ cái từ từ "automobile"
    Đúng | Sai
    2. Nếu bạn viết các số từ 1 đến 25 trên 1 hàng, bất cư hai số nào liền nhau sẽ cho tổng là một số lẻ
    3. 5h 13 có phải là 6h kém 47
    4.Từ "perfume" có thể được tạo thành nhờ các chữ cái đầu trong câu sau:"Pigs eat really filthy uncooked meat eagerly.""
    5. Nếu bạn lột ngược từ trong ra ngoài một găng tay trái, nó sẽ vừa với tay phải.
    6. John có 15$, nhưng John có thể mua một xe đạp giá 30$ nếu Jhon mượn 6$ từ Freud và và 8$ từ Joe
    7. Khi thời gian là 12 h 45, kim phút của đồng hồ sẽ quay lật ngược sang phải.
    8. Câu sau đây sẽ có nghĩa nếu từ "Rootch " được hiểu như từ "jump"(cất cánh)
    Trong khi chờ để rootch, tôi đã nhìn thấy gương mặt của những rootchers( những người chờ để root khác) trên máy bay
    9. Nếu Jhon sờ tai trái và soi gương, qua gương ta sẽ thấy John đang sờ tai phải .
    10. Nếu bạn dời các chữ cái theo cùng hướng, nhưng sắp xếp lại khoảng trống giữa các từ trong cụm "The red olive", từ đó có thể đọc được là " There do live"
    11.Nếu chỉ dùng đúng 3 màu, bạn có thể tô được màu các mặt của hình lập phương sao cho hai mặt có cùng màu không bao giờ liền nhau( dính nhau ở biên)
    12.Jim nặng 150 pounds, Jack nặng 130 pounds, Joe là 200 Pounds. Hai người trong họ đứng cạnh nhau trên cùng một cân có thể nặng 350 pounds.
    13. Nguyên âm thứ hai trong câu dưới đây là "e"
    The second vowel that appears in this sentence is the letter "e".
    14. 7 con gà và 2 con mèo có tổng cộng là 22 chân
    15. Nếu có 3 đồng 25 xu và 1 hào (10 xu) cùng 1 miếng kền và chi dùng 33 xu sẽ còn lại 52 xu.
    16.Trong bảng chữ cái tiếng Anh, có 4 chữ cái giữa F và K
    17.Nếu từ FOX được viết dưới CAT và từ MAP được viết dưới từ FOX, từ COP sẽ được tạo thành theo một đường chéo.
    18. 1 nửa của một và nủa pound là 18 ounces
    1 pound= 16 ounces
    19. 5 chiếc găng tay và 3 chiếc giầy thường đi( bao ) được 35 ngón tay và chân
    Bạn đã đi được nửa đường.
    20. Các từ "foot, stop, và white" có thể kết hợp tương ứng với các từ "ball, light, và house"
    Gợi ý: football: bóng đá
    white house: nhà trắng
    21.Nếu thứ ba là ngày thứ nhì của tháng, ngày chủ nhật gần nhất là ngày thứ sáu của tháng.
    22. Hai trong các số sau có tổng là 17:
    11,3,2,14,5
    23. Tại chỗ Joe khởi hành sẽ có 3 khối đá, nếu Joe chuyển 2 khối sang hướng Bắc, sau đó 3 khối sang Đông, và 2 khối xuống phía Nam.
    24.Những từ sau là những từ trái nghĩa của những từ bắt đầu từ chữ C: open, hot, convex, expand, courage
    Gợi ý: open - close
    25. Khi viết ngược từ "revolver", ta được chính nó
    26. Tất cả các chữ cái trong từ "spoon feed" xuất hiện theo thứ tự ngược trong bảng chữ cái
    27. Dãy số 6 - 4 - 9 - 3 - 0 - 2 là viết ngược của dãy 2 - 0 - 3 - 6 -9
    28. Cháu gái của ông nội John có thể là con gái của con trai John.
    29. Không được bẻ gẫy hoặc cong bất cứ 1 que tăm nào, bạn
    có thể xếp thành từ "HUT" với đúng 7 que tăm
    30. Câu này có hai mốt chữ cái
    31. Một hình vuông cạnh 10 cm có thể luôn chồng khít hoàn toàn bên trong một vòng tròn bán kính 10 cm
    32. Một lục giác có thể cắt thành 6 tam giác nhờ vẽ 2 đường thẳng
    33. Số 62 là số tiếp theo theo qui luật của dãy : 2, 6, 14, 30
    34.Bill cao hơn John. Ralph thấp hơn Bill. Do vậy, John cao nhất
    35.Tổng của tất cả các số lẻ từ 0 đến 12 cũng là 1 số lẻ
    36. Nếu trong nhóm 6 người, mỗi người đều nói hello với những người còn lại thì từ hello được nói 36 lần
    37. Ba hình tròn kích cỡ như nhau có thể được vẽ 2 cái bất kỳ chồng lên nhau và tạo thành đúng 7 vùng phân biệt (không có phần chung)
    38. Một nhà dạng hình bánh , có 3 của chỉ ra và 3 của chỉ vào. Có khả năng đi qua cả 6 cửa, mỗi cửa chỉ đi 1 lần và kết thúc tại nơi xuất phát.
    Nếu bạn chưa sử dụng hết 13 phút thì thật tốt.
    Bạn làm trong bao lâu. Bài test này đánh giá năng lực tính toán của bạn. Ngầm định là 13 phút.
    Đáp án:
    1- Đúng 2- Đúng 3- Đúng 4- Đúng 5- Đúng 6- Sai 7- Đúng 8- Đúng 9- Đúng 10 - Đúng 11- Sai 12- Đúng 13- Đúng 14- Đúng 15- Sai 16- Đúng 17- Đúng 18- Sai 19- Sai 20 Đúng 21- Sai 22- Đúng 24-Đúng 25- Sai 26- Đúng 27- Sai 28- Đúng 29- Sai 30- Sai 31- Sai 32- Sai 33- Đúng 34- Sai
    35-Sai 36-Sai 37-Đúng 38- Sai
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.593
    Đã được thích:
    49
    Bạn DumB Thân mê''n.
    Các v/d bạn đưa ra có phần quá lý thuyết và k0 có những
    trình bày các phương thức tiê''p cận ứng dụng mới dựa trên
    các nghiên cứu gần đây của ngành thần kinh tâm lý học (Neuropsychology) và Kh hệ thống & tánh biết (Cognitive &
    System Science) cùng với các ứng dụng dựa trên công trình
    của C. Jung. (như MBTI/Keyser).
    Thân
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.593
    Đã được thích:
    49
    Bạn DumB Thân mê''n.
    Các v/d bạn đưa ra có phần quá lý thuyết và k0 có những
    trình bày các phương thức tiê''p cận ứng dụng mới dựa trên
    các nghiên cứu gần đây của ngành thần kinh tâm lý học (Neuropsychology) và Kh hệ thống & tánh biết (Cognitive &
    System Science) cùng với các ứng dụng dựa trên công trình
    của C. Jung. (như MBTI/Keyser).
    Thân
  10. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    729
    Đã được thích:
    2
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này