1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49

    (Tiếp Theo)
    Trước đây không ai biết não nảy sinh cảm giác sợ hãi hoặc lo lắng & thiết kế để hành động trước, nghĩ sau, bằng cách nào.
    Cuối thập niên 1970, Công trình nghiên cứu của nhà thần kinh học Joseph LeDoux, một giáo sư của trung tâm khoa học thần kinh của trường ĐH New York đã làm sáng tỏ nhiều điều thú vị về nỗi sợ của chúng ta hơn bất kỳ lĩnh vực nào của tâm lý.
    Cảm giác sợ hãi mơ hồ khác với cảm giác sợ hãi khi ở trong ngôi nhà đang cháy hoặc ở trên chiếc máy bay bị cướp. Nhưng chúng không tách biệt. Nỗi sợ và nỗi lo xuất hiện theo dây chuyền, bắt nguồn từ sinh lý và có hệ quả tương tự.
    Joseph LeDoux khám phá ra mối quan hệ cấu trúc giữa amidan và não suy tưởng tức vỏ não mới. Mối quan hệ cấu trúc này giải thích nguyên nhân vì sao amidan trong nhiều cảnh huống cướp đoạt quyền đoán định của não suy tưởng và đơn độc ra lệnh chúng ta hành động.
    LeDoux là nhà thần kinh học đầu tiên tìm thấy con đường phát khởì những xung động tình cảm thiếu lý trí.
    Não bộ không chỉ là "cỗ máy suy nghĩ", nó còn là sự phỏng tạo sinh học, được thiết kế để thúc đẩy sự sinh tồn trong môi trường. Cấu trúc não xử lý công việc trước hoạt động nhận thức.
    LeDoux gọi "não cảm xúc" là "mạng lưới mạch" được điều chỉnh theo các tín hiệu của sự nguy hiểm cực độ.
    "Nỗi sợ càng kéo dài thì càng nguy hiểm cho sức khoẻ.
    Nó khởi nguồn từ vùng phản ứng tới gần vùng hạ đồi trong khi sản sinh chất CRF (corticotropin releasing factor). Nó luân phiên phát tín hiệu cho các tuyến nhờn và tuyến thượng thận để đưa các chất epinephrine (adrenaline), norepinephrine và cortisol vào mạch máu. Các hormone gây căng thẳng này "đóng" các hoạt động "không khẩn cấp" như tiêu hoá và miễn dịch để "Chống cự/trực chiến" hoặc "trốn chạy" {fight/Flight}. Tim đập, phổi bơm và cơ bắp nhận glucose.
    Norepinephrine độc hại đối với các mô, nhất là tim.
    Israel thống kê được gần 100 ca tử vong trong cuộc tấn công bằng tên lửa Scud của Iraq trong cuộc chiến vùng Vịnh lần I, họ không chết vì bom mà vì đau tim, do sợ hãi và căng thẳng.
    Sau vụ 11/9, số bệnh nhân tim quanh vùng New York đã tăng gấp đôi. Chất adrenaline làm hại tim, và chất cortisol làm hại hệ miễn nhiễm, do vậy mà người ta dễ bị nhiễm trùng, dễ bị bệnh truyền nhiễm và ung thư.
    Các hormone gây căng thẳng làm tổn thương não, làm suy yếu
    liên kết neuron. Cả ở người lẫn động vật, càng căng thẳng thì não càng suy yếu.
    Ở Nhật, người ta lo lắng về nền kinh tế suy sụp trong nước. Ở Anh và Mỹ, người ta lo sợ khủng bố kiểu 11/9.
    Và ở đâu cũng có những nỗi lo sợ...
    Những nỗi sợ như thế làm suy giảm tính miễn dịch, khiến ta kém ăn, mất ngủ, nổi mụn hoặc có khối u. Tình trạng tâm lý ảnh hưởng tới sinh học của con người.
    Những người lo lắng dễ gặp tai nạn, dễ cảm lạnh hoặc bị bệnh tim. Kỳ lạ là càng sợ người ta lại càng ăn nhiều.
    Đó là nghịch lý của nỗi sợ. Đó là phản ứng cơ bản với sự sinh tồn. Chúng có hại đối với chúng ta, làm giảm thọ, thậm chí là giết chết con người.
    Trẻ em rất nhạy bén với nỗi sợ và nỗi lo, vì não của chúng đang phát triển, ảnh hưởng đến tính khí. Hàng triệu người bị ám ảnh, nhất là phụ nữ. Ít nhất có khoảng hơn 300 chứng sợ hãi. Càng ngày con người càng có thêm nhiều nỗi lo sợ khác".

    Theo Kiến Thức Ngày Nay (Our bodies, our fears)
    (còn tiếp)
    Được HoaILong sửa chữa / chuyển vào 08:31 ngày 16/11/2004
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49

    (Tiếp Theo)
    Theo sự hiểu biết cổ điển, mọi tín hiệu truyền từ ngoài vào qua các giác quan như mắt, tai, mũi,... đều được truyền dẫn đến khâu não (thalamus), một `căn phòng'''' giữa cuống não và vỏ nãọ [Chữ thalamus gốc Cổ Hy lạp có nghỉa là phòng trước, thường là phòng đợi] Khâu não có chức năng giống như một cửa kiểm soát, thâu nhận, và sắp xếp mọi tín hiệu liên quan mổì thứ cảm giác lại thành bó để chuyển lên vỏ não đến những vùng nhận cảm tương hợp. Những vùng nhận cảm này phối hợp
    với những vùng liên hợp của vỏ não xử lý các thông tin truyền đến, và tựa vào những ức niệm, gán cho những tín hiệu đã được chọn lọc phân loại một ý nghỉa, tạo nên những cái gọi là tri giác biểu tượng, tưởng tượng biểu tượng, hay ký ức biểu tượng, hiện lên hình thái trong tâm tư.
    Theo thần kinh học cổ điển, sau khi nhận định sự xuất hiện và ý nghỉa của biểu tượng, vỏ não ra tín hiệu cho hệ viền phát xuất những phản ứng thích nghi truyền qua não bộ và thân thể. Thông thường những tín hiệu vào được xửằ lý theo lộ trình nói trên, từ giác quan chuyển đến khâu não, rồi đến vỏ não tức là não suy tưởng, và cuối cùng đến hệ viền là nơi amidan (amygdala) tọa lạc, kết quả đưa đến tác dụng đáp ứng của cơ thê? tùy theo hoàn cảnh.
    Nhưng kích thích từ bên ngoài vào không phải luôn luôn được nhận thức theo lộ trình xuyên qua não suy tưởng.
    LeDoux phát hiện một chùm nhỏ neuron chạy dài từ khâu não xuống amidan (amygdala), ngoài nhiều chùm neuron khác lớn hơn nối liền khâu não với vỏ não.
    Chính chùm nhỏ neuron đó tạo ra con đường khẩn cấp cho phép amidan (amygdala) trực tiếp thu nhận các tín hiệu kích thích giác quan và tự động phản ứng trước khi não suy tưởng có thời giờ ghi nhận và phán đoán những thông tin liên hệ từ khâu não chuyển đến.
    Amidan (amygdala) tự nó dẫn khởi tác dụng xúc động qua ngã đường khẩn cấp, dội phản lại song song với con đường giữa
    amidan (amygdala) và vỏ não. Ngã đường khẩn cấp ấy hình như biến amidan (amygdala) thành một kho tàng trữ những ức niệm xúc động mà chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn thông suốt hiểu biết.
    Nhiều công trình nghiên cứu thần kinh học theo chiều hướng LeDoux cho thấy chúng ta bắt đầu tri nhận tự tướng của một vật thể ngay ở trong khoảnh khắc đầu tiên của quá trình nhận thức. Không có sự can thiệp của phần não có ý thức, cao hơn, không có quá trình liên quan đến nhận thức nói cho amygdala biết nó phải làm gì.
    Do đó, hóa ra là những xúc cảm nguyên thủy nhất để tiến hoặc lui được khởi động nhanh đến nỗi nó vượt qua tất cả các suy nghĩ và nhận thức lí tính.
    Tuy vô thức, nghỉa là thấy vật thể ấy một cách đơn thuần, không có phẩm tính, danh tính, thuộc tính,... nhưng chúng ta đã quyết định thích hay không thích nó. Như thế, cảm giác (xúc) chẳng những là hình thái nhận thức tự tướng của sự vật, mà hơn nữa đưa tác dụng tâm đến chổ phức tạp, biến thành căn để của toàn thể tâm, là cảm tình.
    LeDoux và nhóm của ông cho thấy rằng các liên lạc giữa Amygdala với mắt và tai có tốc độ truyền tin nhanh đặc biệt điều
    đó có nghĩa là amygdala có thể truy nhập thông tin chưa qua xử lí. Không có sự can thiệp của phần não có ý thức, cao hơn, không có quá trình liên quan đến nhận thức nói cho amygdala biết nó phải làm gì.
    Trên thực tế, GS. Amaral của trường ĐH Carlifornia-David đã phát hiện ra rằng có rất nhiều các liên lạc giữa amygdala và phần vỏ não trước trán ?" phần não dành cho thiết kế và lập luận ?" xa hơn liên lạc giữa amygdala với các phần khác của bộ não. Điều này có thể là lí do giải thích tại sao đôi khi chúng ta thấy rất khó có thể vượt qua nỗi sợ hãi thông qua các điều khiển có ý thức.
    Vì bộ não của chúng ta được liên hệ với nhau để cảm giác trước khi nghĩ, và trên thực tế cảm giác được truyền với tốc độ ánh sáng nên amygdala thường xuyên mắc sai lầm. Vật thể trên đường có thể không phải là con rắn. Rốt cuộc thì có lẽ trạng thái cảnh giác cao không cần thiết. Thậm chí khi vỏ não bắt kịp amygdala và xử lí tình huống trước nó. Vật thể trên đường
    không chuyển động, nó không có đầu, không có đuôi và không có gì chứng tỏ đó là da của một con rắn. Thực ra vật thể đó chỉ là một cành cây. Các suy nghĩ nhận thức đã can thiệp và đã cho phép cơ bắp trùng xuống, tốc độ tim cũng chậm lại và việc bơm adrenalin cũng giảm đi.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:40 ngày 22/11/2004
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49

    (Tiếp Theo)
    Theo sự hiểu biết cổ điển, mọi tín hiệu truyền từ ngoài vào qua các giác quan như mắt, tai, mũi,... đều được truyền dẫn đến khâu não (thalamus), một `căn phòng'''' giữa cuống não và vỏ nãọ [Chữ thalamus gốc Cổ Hy lạp có nghỉa là phòng trước, thường là phòng đợi] Khâu não có chức năng giống như một cửa kiểm soát, thâu nhận, và sắp xếp mọi tín hiệu liên quan mổì thứ cảm giác lại thành bó để chuyển lên vỏ não đến những vùng nhận cảm tương hợp. Những vùng nhận cảm này phối hợp
    với những vùng liên hợp của vỏ não xử lý các thông tin truyền đến, và tựa vào những ức niệm, gán cho những tín hiệu đã được chọn lọc phân loại một ý nghỉa, tạo nên những cái gọi là tri giác biểu tượng, tưởng tượng biểu tượng, hay ký ức biểu tượng, hiện lên hình thái trong tâm tư.
    Theo thần kinh học cổ điển, sau khi nhận định sự xuất hiện và ý nghỉa của biểu tượng, vỏ não ra tín hiệu cho hệ viền phát xuất những phản ứng thích nghi truyền qua não bộ và thân thể. Thông thường những tín hiệu vào được xửằ lý theo lộ trình nói trên, từ giác quan chuyển đến khâu não, rồi đến vỏ não tức là não suy tưởng, và cuối cùng đến hệ viền là nơi amidan (amygdala) tọa lạc, kết quả đưa đến tác dụng đáp ứng của cơ thê? tùy theo hoàn cảnh.
    Nhưng kích thích từ bên ngoài vào không phải luôn luôn được nhận thức theo lộ trình xuyên qua não suy tưởng.
    LeDoux phát hiện một chùm nhỏ neuron chạy dài từ khâu não xuống amidan (amygdala), ngoài nhiều chùm neuron khác lớn hơn nối liền khâu não với vỏ não.
    Chính chùm nhỏ neuron đó tạo ra con đường khẩn cấp cho phép amidan (amygdala) trực tiếp thu nhận các tín hiệu kích thích giác quan và tự động phản ứng trước khi não suy tưởng có thời giờ ghi nhận và phán đoán những thông tin liên hệ từ khâu não chuyển đến.
    Amidan (amygdala) tự nó dẫn khởi tác dụng xúc động qua ngã đường khẩn cấp, dội phản lại song song với con đường giữa
    amidan (amygdala) và vỏ não. Ngã đường khẩn cấp ấy hình như biến amidan (amygdala) thành một kho tàng trữ những ức niệm xúc động mà chúng ta không bao giờ có thể hoàn toàn thông suốt hiểu biết.
    Nhiều công trình nghiên cứu thần kinh học theo chiều hướng LeDoux cho thấy chúng ta bắt đầu tri nhận tự tướng của một vật thể ngay ở trong khoảnh khắc đầu tiên của quá trình nhận thức. Không có sự can thiệp của phần não có ý thức, cao hơn, không có quá trình liên quan đến nhận thức nói cho amygdala biết nó phải làm gì.
    Do đó, hóa ra là những xúc cảm nguyên thủy nhất để tiến hoặc lui được khởi động nhanh đến nỗi nó vượt qua tất cả các suy nghĩ và nhận thức lí tính.
    Tuy vô thức, nghỉa là thấy vật thể ấy một cách đơn thuần, không có phẩm tính, danh tính, thuộc tính,... nhưng chúng ta đã quyết định thích hay không thích nó. Như thế, cảm giác (xúc) chẳng những là hình thái nhận thức tự tướng của sự vật, mà hơn nữa đưa tác dụng tâm đến chổ phức tạp, biến thành căn để của toàn thể tâm, là cảm tình.
    LeDoux và nhóm của ông cho thấy rằng các liên lạc giữa Amygdala với mắt và tai có tốc độ truyền tin nhanh đặc biệt điều
    đó có nghĩa là amygdala có thể truy nhập thông tin chưa qua xử lí. Không có sự can thiệp của phần não có ý thức, cao hơn, không có quá trình liên quan đến nhận thức nói cho amygdala biết nó phải làm gì.
    Trên thực tế, GS. Amaral của trường ĐH Carlifornia-David đã phát hiện ra rằng có rất nhiều các liên lạc giữa amygdala và phần vỏ não trước trán ?" phần não dành cho thiết kế và lập luận ?" xa hơn liên lạc giữa amygdala với các phần khác của bộ não. Điều này có thể là lí do giải thích tại sao đôi khi chúng ta thấy rất khó có thể vượt qua nỗi sợ hãi thông qua các điều khiển có ý thức.
    Vì bộ não của chúng ta được liên hệ với nhau để cảm giác trước khi nghĩ, và trên thực tế cảm giác được truyền với tốc độ ánh sáng nên amygdala thường xuyên mắc sai lầm. Vật thể trên đường có thể không phải là con rắn. Rốt cuộc thì có lẽ trạng thái cảnh giác cao không cần thiết. Thậm chí khi vỏ não bắt kịp amygdala và xử lí tình huống trước nó. Vật thể trên đường
    không chuyển động, nó không có đầu, không có đuôi và không có gì chứng tỏ đó là da của một con rắn. Thực ra vật thể đó chỉ là một cành cây. Các suy nghĩ nhận thức đã can thiệp và đã cho phép cơ bắp trùng xuống, tốc độ tim cũng chậm lại và việc bơm adrenalin cũng giảm đi.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:40 ngày 22/11/2004
  4. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Bạn Hoài Long thân mến. Các bài của bạn rất thú vị, đặc biệt với tôi, vì tôi đang tìm hiểu về Ngôn ngữ học Thần Kinh. Bạn có tài liệu gì thì chia sẻ cho tôi với. Nhân đây xin góp một đoàn nói về NNH thần kinh:
    ________________________
    Một câu hỏi thường gặp là bộ óc của người song ngữ có hành chức khác với bộ óc của người đơn ngữ không? Vấn đề đặt ra là ngôn ngữ có được tổ chức và xử lý ở bộ óc người song ngữ có khác với ở người đơn ngữ không? Có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về ngôn ngữ học thần kinh và về song ngữ. Obler (1983) đã tổng kết rằng sự hiểu biết về cấu trúc tế bào não và những tác động thần kinh sinh học (neurophysiology) liên quan đến quá trình xử lý ngôn ngữ vẫn chỉ ở giai đoạn rất thô sơ. Số lượng những nghiên cứu xem xét các chứng aphasia, laterality và bệnh nhân bị split-brain là không nhiều, và Obler (1983) thấy rằng thật khó mà đưa ra những kết luận rõ ràng dứt khoát. Nghiên cứu của Fromumm (1970) là một thí dụ, ông đã tiến hành một ngôn ngữ thứ hai về một người bị tác động của thôi miên từ lúc 7 tuổi. Dưới tác dụng của thôi miên, người này có thể nói tiếng Nhật một cách trôi chảy. Khi ông trở về với bản thân mình lúc lớn tuổi, ông không nói được tiếng Nhật nữa. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác không lặp lại cùng một phát hiện trên. Điều này chứng tỏ rằng nhất thiết phải cẩn thận khi thực hiện những nghiên cứu về người song ngữ và bộ óc.
    Một đề tài đáng chú ý trong việc nghiên cứu song ngữ và bộ óc là hiện tượng lateralization. Trong đa số người lớn thuận tay phải, bán cầu não trái phát triển hơn trong việc xử lý ngôn ngữ. Xuất hiện một câu hỏi tự nhiên là liệu người song ngữ có khác với người đơn ngữ ở sựlateralization tay trái này không?
    (Còn nữa)
    __________________________
    Nhân tiện, nhờ các bác xem thử những thuật ngữ đánh dấu, nên dịch sang tiếng Việt thế nào?
  5. HCMPusan

    HCMPusan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/09/2004
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Bạn Hoài Long thân mến. Các bài của bạn rất thú vị, đặc biệt với tôi, vì tôi đang tìm hiểu về Ngôn ngữ học Thần Kinh. Bạn có tài liệu gì thì chia sẻ cho tôi với. Nhân đây xin góp một đoàn nói về NNH thần kinh:
    ________________________
    Một câu hỏi thường gặp là bộ óc của người song ngữ có hành chức khác với bộ óc của người đơn ngữ không? Vấn đề đặt ra là ngôn ngữ có được tổ chức và xử lý ở bộ óc người song ngữ có khác với ở người đơn ngữ không? Có rất nhiều nghiên cứu khác nhau về ngôn ngữ học thần kinh và về song ngữ. Obler (1983) đã tổng kết rằng sự hiểu biết về cấu trúc tế bào não và những tác động thần kinh sinh học (neurophysiology) liên quan đến quá trình xử lý ngôn ngữ vẫn chỉ ở giai đoạn rất thô sơ. Số lượng những nghiên cứu xem xét các chứng aphasia, laterality và bệnh nhân bị split-brain là không nhiều, và Obler (1983) thấy rằng thật khó mà đưa ra những kết luận rõ ràng dứt khoát. Nghiên cứu của Fromumm (1970) là một thí dụ, ông đã tiến hành một ngôn ngữ thứ hai về một người bị tác động của thôi miên từ lúc 7 tuổi. Dưới tác dụng của thôi miên, người này có thể nói tiếng Nhật một cách trôi chảy. Khi ông trở về với bản thân mình lúc lớn tuổi, ông không nói được tiếng Nhật nữa. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác không lặp lại cùng một phát hiện trên. Điều này chứng tỏ rằng nhất thiết phải cẩn thận khi thực hiện những nghiên cứu về người song ngữ và bộ óc.
    Một đề tài đáng chú ý trong việc nghiên cứu song ngữ và bộ óc là hiện tượng lateralization. Trong đa số người lớn thuận tay phải, bán cầu não trái phát triển hơn trong việc xử lý ngôn ngữ. Xuất hiện một câu hỏi tự nhiên là liệu người song ngữ có khác với người đơn ngữ ở sựlateralization tay trái này không?
    (Còn nữa)
    __________________________
    Nhân tiện, nhờ các bác xem thử những thuật ngữ đánh dấu, nên dịch sang tiếng Việt thế nào?
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Bạn HCMPusan thân mến.
    (aphasia= Hỗi chứng, bệnh mất ngôn ngữ )
    (Weknicke?Ts aphasia= Hỗi chứng mất ngôn ngữ Weknicke)
    Còn (neurophysiology theo tôi cho là Sinh lý thần kinh học, hay thần kinh sinh ly học).
    lateralization theo tôi tạm dịch là Đơn tuyến hoá do từ:
    Lateral Thinking có nghĩa là lối suy nghĩ một chiều, hay tư duy ngang)
    Về các tài liệu dính dáng v/d này bạn có thể tìm dễ dàng trên WeB.
    Tôi cũng đang lục trong số tư liệu bề bộn của mình có thể trao cho bạn.
    Vì Ngôn ngữ học Thần Kinh là 1 chuyên đề; nên tôi đề nghị bạn
    có thể mở 1 chủ đề khác hay vào 1 chủ đề mà tôi đả mở ra mà k0 có điều kiện trã lời bạn:
    Khoa học về ta''''nh biết & Hệ Thống (Cognitive Science/ System Science)
    http://ttvnol.com/hocthuat/430613.ttvn

    Cám ơn sự quan tâm của Bạn
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 13:22 ngày 30/11/2004
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Bạn HCMPusan thân mến.
    (aphasia= Hỗi chứng, bệnh mất ngôn ngữ )
    (Weknicke?Ts aphasia= Hỗi chứng mất ngôn ngữ Weknicke)
    Còn (neurophysiology theo tôi cho là Sinh lý thần kinh học, hay thần kinh sinh ly học).
    lateralization theo tôi tạm dịch là Đơn tuyến hoá do từ:
    Lateral Thinking có nghĩa là lối suy nghĩ một chiều, hay tư duy ngang)
    Về các tài liệu dính dáng v/d này bạn có thể tìm dễ dàng trên WeB.
    Tôi cũng đang lục trong số tư liệu bề bộn của mình có thể trao cho bạn.
    Vì Ngôn ngữ học Thần Kinh là 1 chuyên đề; nên tôi đề nghị bạn
    có thể mở 1 chủ đề khác hay vào 1 chủ đề mà tôi đả mở ra mà k0 có điều kiện trã lời bạn:
    Khoa học về ta''''nh biết & Hệ Thống (Cognitive Science/ System Science)
    http://ttvnol.com/hocthuat/430613.ttvn

    Cám ơn sự quan tâm của Bạn
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 13:22 ngày 30/11/2004
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Nào chúng ta lại tiếp tục lãi nhãi nhé .
    (Tiếp Theo)
    Nhưng đừng có phàn nàn về sai lầm của amygdala. Xúc cảm đặt nền móng cho suy nghĩ có ý thức vì một lí do rất quan trọng: nếu amygdala không làm thế thì tất cả chúng ta bị rắn cắn chết từ lâu rồi. Và dòng cuối cùng là trong tình trạng sợ hãi, suy nghĩ thì mất quá nhiều thời gian, và khi sự sống của chúng ta đang bị đe dọa chúng ta luôn chọn an toàn hơn là bị giết chết.
    Nguồn gốc tiến hóa của nỗi sợ hãi
    Có một điều rất thuận lợi cho tổ tiên loài người khi biết sợ: nó cho phép khởi động cơ chế đề phòng, là cho tay chân khỏe mạnh để hành động và có được sự khéo léo tuyệt vời để tồn tại. Thực tế, các kinh nghiệm của đời sống hiện đại cho thấy sức mạnh tuyệt với của adrenalin; tất cả chúng ta đều nghe một câu chuyện về một người nào đó đánh được một con rắn dài mét rưỡi hoặc đánh ngã một con gấu đen chỉ bằng một cú đấm.
    Thậm chí còn có những ví dụ khi phản ứng sợ bản năng xuất hiện thách thức sức chịu đượng của con người.
    Liệu một bà già có thể nhấc được một cái xe tải để cứu cháu bé dưới bánh xe?
    Các phản xạ vô thức rất nhanh mà khởi động những phản ứng sinh hóa mạnh mẽ rõ ràng là một ví dụ điển hình về bản năng con người. Nhưng những điều đó từ đau đến?
    Các quá trình nhanh và tự động gợi ý cho chúng ta rằng chúng ta có một nền tảng phần cứng được chương trình hóa trong bộ não của chúng ta xác định các hành động của chúng ta đối với nguy hiểm. Tất cả các loài động vật có vú đều có chung cơ chế đặc biệt đó, điều này cho thấy rằng khi chúng ta sinh ra đã có bản năng này.
    Nằm bên cạnh amidan, đồi hà mã có chức năng ghi nhớ giống như amidan, nhưng chỉ ghi nhớ những dữ kiện khô khan từ trạng huống phát xuất biểu tượng hay quan niệm, còn phần xúc động tình cảm câu khởi cùng với những dữ kiện ấy thì do amidan đảm trách. Khi đồi hà mã tìm kiếm dữ liệu thông tin, thì amidan xác định dữ liệu thông tin ấy có giá trị tình cảm xúc động hay không.
    Như LeDoux nói: `Đồi hà mã rất cần thiết để anh nhận ra một cái mặt như cái mặt của ngườì chị họ chẳng hạn. Nhưng chính amidan nhớ thêm rằng anh không ưa thích cái mặt đó.''''
    Trên đây sự phát sinh những xúc động tình cảm được giải thích tựa vào mô hình não vận hành như một mạng lưới dây điện. Mạng lưới này chằng chịt các đường dây nối kết neuron truyền dẫn các thế tác động (action potentials) hay xung thần kinh do neuron phát xạ xuyên qua các diện tiếp hợp.
    Đồng thời với hoạt dụng của mạng lưới dây điện, các nhà thần kinh học cung đả phát hiện ra một dòng hóa chất chảy sóng đôi tương ứng với tâm tình và tập tính của chúng ta. Theo mô hình não hóa chất này, sự phối hợp mọi hoạt động của các cơ quan là do các hợp chất hóa học khuếch tán cùng khắp các dung dịch
    của cơ thể. Khuếch tán có nghỉa là tất cả nguyên tử, phân tử, hay ion trong một dung dịch mặc dầu luôn luôn chuyển động ngẫu nhiên nhưng có khuynh hướng tự nhiên di chuyển từ vùng nồng độ cao đến vùng nồng độ thấp đến khi nồng độ khắp dung dịch không còn sai biệt nữa.
    Mô hình não hóa chất chuyên khảo một loại protein của màng tế bào gọi là `phân tử nhận thú (receptor molecules).
    Chúng là tai mắt của thế giới nội tâm, rất nhạy cảm đối với các tín hiệu phát ra từ các phân tử khác, những phân tử này khuếch tán cùng khắp các dung dịch của cơ thể.
    Các phân tử nhận thu còn được gọi là `lổ khóá, vì khi có một hóa chất tương ưng được dung dịch ngoài tế bào chuyển đến nơi chúng thời chúng thay đổi hình dạng thành như một lổ khóa để tiếp nhận cái chìa khóa là hóa chất tương ưng đó. Quá trình thu nhận hóa chất tương ưng theo kiểu ấy được chỉ danh là `hiện tượng liên kết'''' (binding).
    Nhà thần kinh học Candice Pert nhận xét: `Đó là cách ******** ở tầng mức phân tử''''.
    Khi thu nhận được tín hiệu hóa chất tương ưng, phân tử nhận thu liền chuyển vào bên trong tế bào, khởi đầu một chuổi biến cố sinh hóa do đó tế bào chế tạo nhiều protein mới, hay chế tiết một hóa chất đặc thù. Các hóa chất tương ưng, gọi chung là hóa chất liên kết (ligand), phân làm ba loại.
    Loại thứ nhất gọi là thần kinh dẫn truyền (neurotransmitter) như dopamine, serotonin, và norepinephrine được giao phó nhiệm vụ di chuyển các thông điệp băng qua các diện tiếp hợp.
    Loại thứ hai là các thứ steroid như các homon dục tính testosterone, progesterone, và estrogen.
    Cuối cùng, loại peptid chiếm phần lớn trong số các hóa chất liên kết, có công dụng điều tiết hầu hết mọi quá trình sinh lý căn bản của sự sống. Tất cả phân tử nhận thu và hóa chất liên kết được xem như là thông tin phân tử (information molecules) vì nhờ chúng mà hết thảy mọi tế bào của cơ thể thường xuyên liên lạc giao tiếp với nhau.
    Mạng lưới sinh hóa này có khả năng ruyền thông qua khắp các hệ, hệ thần kinh suy tưởng, hệ tuyến nội tiết, hệ miễn dịch, hệ dạ dày-ruột, nhờ vậy cơ thể mới có thể phối hợp và điều hành hết thảy mọi sinh hoạt của nó.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:15 ngày 03/12/2004
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Nào chúng ta lại tiếp tục lãi nhãi nhé .
    (Tiếp Theo)
    Nhưng đừng có phàn nàn về sai lầm của amygdala. Xúc cảm đặt nền móng cho suy nghĩ có ý thức vì một lí do rất quan trọng: nếu amygdala không làm thế thì tất cả chúng ta bị rắn cắn chết từ lâu rồi. Và dòng cuối cùng là trong tình trạng sợ hãi, suy nghĩ thì mất quá nhiều thời gian, và khi sự sống của chúng ta đang bị đe dọa chúng ta luôn chọn an toàn hơn là bị giết chết.
    Nguồn gốc tiến hóa của nỗi sợ hãi
    Có một điều rất thuận lợi cho tổ tiên loài người khi biết sợ: nó cho phép khởi động cơ chế đề phòng, là cho tay chân khỏe mạnh để hành động và có được sự khéo léo tuyệt vời để tồn tại. Thực tế, các kinh nghiệm của đời sống hiện đại cho thấy sức mạnh tuyệt với của adrenalin; tất cả chúng ta đều nghe một câu chuyện về một người nào đó đánh được một con rắn dài mét rưỡi hoặc đánh ngã một con gấu đen chỉ bằng một cú đấm.
    Thậm chí còn có những ví dụ khi phản ứng sợ bản năng xuất hiện thách thức sức chịu đượng của con người.
    Liệu một bà già có thể nhấc được một cái xe tải để cứu cháu bé dưới bánh xe?
    Các phản xạ vô thức rất nhanh mà khởi động những phản ứng sinh hóa mạnh mẽ rõ ràng là một ví dụ điển hình về bản năng con người. Nhưng những điều đó từ đau đến?
    Các quá trình nhanh và tự động gợi ý cho chúng ta rằng chúng ta có một nền tảng phần cứng được chương trình hóa trong bộ não của chúng ta xác định các hành động của chúng ta đối với nguy hiểm. Tất cả các loài động vật có vú đều có chung cơ chế đặc biệt đó, điều này cho thấy rằng khi chúng ta sinh ra đã có bản năng này.
    Nằm bên cạnh amidan, đồi hà mã có chức năng ghi nhớ giống như amidan, nhưng chỉ ghi nhớ những dữ kiện khô khan từ trạng huống phát xuất biểu tượng hay quan niệm, còn phần xúc động tình cảm câu khởi cùng với những dữ kiện ấy thì do amidan đảm trách. Khi đồi hà mã tìm kiếm dữ liệu thông tin, thì amidan xác định dữ liệu thông tin ấy có giá trị tình cảm xúc động hay không.
    Như LeDoux nói: `Đồi hà mã rất cần thiết để anh nhận ra một cái mặt như cái mặt của ngườì chị họ chẳng hạn. Nhưng chính amidan nhớ thêm rằng anh không ưa thích cái mặt đó.''''
    Trên đây sự phát sinh những xúc động tình cảm được giải thích tựa vào mô hình não vận hành như một mạng lưới dây điện. Mạng lưới này chằng chịt các đường dây nối kết neuron truyền dẫn các thế tác động (action potentials) hay xung thần kinh do neuron phát xạ xuyên qua các diện tiếp hợp.
    Đồng thời với hoạt dụng của mạng lưới dây điện, các nhà thần kinh học cung đả phát hiện ra một dòng hóa chất chảy sóng đôi tương ứng với tâm tình và tập tính của chúng ta. Theo mô hình não hóa chất này, sự phối hợp mọi hoạt động của các cơ quan là do các hợp chất hóa học khuếch tán cùng khắp các dung dịch
    của cơ thể. Khuếch tán có nghỉa là tất cả nguyên tử, phân tử, hay ion trong một dung dịch mặc dầu luôn luôn chuyển động ngẫu nhiên nhưng có khuynh hướng tự nhiên di chuyển từ vùng nồng độ cao đến vùng nồng độ thấp đến khi nồng độ khắp dung dịch không còn sai biệt nữa.
    Mô hình não hóa chất chuyên khảo một loại protein của màng tế bào gọi là `phân tử nhận thú (receptor molecules).
    Chúng là tai mắt của thế giới nội tâm, rất nhạy cảm đối với các tín hiệu phát ra từ các phân tử khác, những phân tử này khuếch tán cùng khắp các dung dịch của cơ thể.
    Các phân tử nhận thu còn được gọi là `lổ khóá, vì khi có một hóa chất tương ưng được dung dịch ngoài tế bào chuyển đến nơi chúng thời chúng thay đổi hình dạng thành như một lổ khóa để tiếp nhận cái chìa khóa là hóa chất tương ưng đó. Quá trình thu nhận hóa chất tương ưng theo kiểu ấy được chỉ danh là `hiện tượng liên kết'''' (binding).
    Nhà thần kinh học Candice Pert nhận xét: `Đó là cách ******** ở tầng mức phân tử''''.
    Khi thu nhận được tín hiệu hóa chất tương ưng, phân tử nhận thu liền chuyển vào bên trong tế bào, khởi đầu một chuổi biến cố sinh hóa do đó tế bào chế tạo nhiều protein mới, hay chế tiết một hóa chất đặc thù. Các hóa chất tương ưng, gọi chung là hóa chất liên kết (ligand), phân làm ba loại.
    Loại thứ nhất gọi là thần kinh dẫn truyền (neurotransmitter) như dopamine, serotonin, và norepinephrine được giao phó nhiệm vụ di chuyển các thông điệp băng qua các diện tiếp hợp.
    Loại thứ hai là các thứ steroid như các homon dục tính testosterone, progesterone, và estrogen.
    Cuối cùng, loại peptid chiếm phần lớn trong số các hóa chất liên kết, có công dụng điều tiết hầu hết mọi quá trình sinh lý căn bản của sự sống. Tất cả phân tử nhận thu và hóa chất liên kết được xem như là thông tin phân tử (information molecules) vì nhờ chúng mà hết thảy mọi tế bào của cơ thể thường xuyên liên lạc giao tiếp với nhau.
    Mạng lưới sinh hóa này có khả năng ruyền thông qua khắp các hệ, hệ thần kinh suy tưởng, hệ tuyến nội tiết, hệ miễn dịch, hệ dạ dày-ruột, nhờ vậy cơ thể mới có thể phối hợp và điều hành hết thảy mọi sinh hoạt của nó.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:15 ngày 03/12/2004
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    (Tiếp Theo)
    Hệ thần kinh hóa chất là một phần di vật do quá trình tiến hóa lưu lại đến nay trong cơ thể con người. Nhiều loại phân tử nhận thu và hóa chất liên kết trong cơ thể con người được tìm thấy trong cơ thể của hết thảy động vật có xương sống khác và của một số côn trùng.
    Não bộ áp dụng phương thức nào để amidan ghi nhớ các xúc động tình cảm một cách sâu đậm và lâu dài?
    Mổì khi quá lo âu hay mừng quýnh, những khi thần kinh bị căng thẳng, một chùm dây thần kinh chạy từ não đến các tuyến trên thận xúc khởi sự tiết ra các hoocmon adrenaline và orepinephrine.
    Các hoocmon này truyền tín hiệu khẩn cấp khắp thân thể và chuẩn bị mọi cơ quan sẳn sàng ứng phó một nguy biến sắp xảy đến, hoặc chống trả hoặc chạy trốn (fight-or-flight response). Chúng kích động những cơ quan nhận cảm của dây thần kinh X (vagus nerve) nơi sọ. Amidan (Amygdala) là bộ phận tiếp nhận những tín hiệu khẩn cấp do dây X chuyển lại .
    Những tín hiệu này được các neuron của amidan biến cải thành những hiệu lệnh truyền bảo các vùng não lân cận ghi nhớ kỹ lưỡng và sâu đậm những xúc động cảm giác kinh nghiệm.
    1 V/đ lý thú là cùng theo dòng chảy hóa chất + các hoạt dộng của các dây thần kinh liên kết này lại cung cấp cho chúng ta 1 cái nhìn mới về bản năng tình yêu theo quan điểm khoa học:
    Tạp chí Y học Surfmed của Đức, số ra mới đây, vừa công bố các giai đoạn phát triển của tình yêu, theo cách nhìn của hóa sinh và sinh lý học.
    Kiến thức lớn nhất về ái tình mà hai bộ môn này cung cấp là:
    Những cơ chế tạo nên sự hình thành và phát triển của tình yêu không hề đơn giản, mà đã đạt đến độ phức tạp khủng khiếp. Cơ chế đó như chúng ta đả đề cập theo trên chính là trung tâm não bộ. Đây là bộ phận sinh lý quan trọng nhất của cơ thể, chi phối mọi cảm xúc của con người. Não bộ điều khiển các hoóc môn và neuron, khiến chúng cất lên tiếng vĩ cầm đầu tiên của bản nhạc tình ái, đồng thời quyết định giai điệu, tần số và độ ngân dài ngắn (trường độ) của nó.
    Sau đây là các giai đoạn phát triển của tình yêu:
    1. Khởi thủy (sinh lý) của tình yêu
    Bụng Bạn thót lại, trái tim đập thình thình như muốn nhảy ra hỏi ***g ngực, lý trí biến mất. Thế là một lần nữa, mũi tên của thần ái tình Amor đã phóng trúng đích.
    Sau lúc trái tim chỉ chực nhảy khỏi ***g ngực và lý trí biến mất, sau thời say mèm vì "chén rượu tình", sau cả dư âm của chén rượu nhạt, bạn mới có hạnh phúc gia đình. Cảm giác nôn nao như bị " bùa ngải" này trước hết liên quan đến các Neuron truyền tín hiệu. Chúng mang các phân tử hóa học, kích thích các tế bào ở trung tâm não bộ.
    Còn các hoóc môn cũng đóng vai trò quan trọng không kém khi khuếch đại những kích thích này.
    2. Chén rượu tình
    Dù thanh niên hay người già, khi đã đặt môi vào chén rượu tình, ai cũng có cảm giác choáng váng bồng bềnh. Tất nhiên, sự "sa ngã" này chẳng có gì là tồi tệ. Miêu tả cảm giác này, đại thi hào Goethe của Đức viết:
    Hôm nay tất cả đều kỳ lạ với tôi, ước gì cứ mãi như thế
    Bởi tôi đã thấy tình yêu trong đôi mắt thủy tinh của nàng ...
    Cái cảm giác khiến Goethe "nhìn đời qua cặp kính màu hồng" thực chất có liên quan mật thiết đến những "phân tử hóa học tình yêu" sau đây:
    - Adrenalin:
    Adrenalin là một hoóc môn gây cảm xúc mạnh nhất. Trong trường hợp người bị stress, hoóc môn này được giải phóng ra khỏi thận, thấm vào máu, đặt cơ thể vào tình trạng báo động tức thời. Huyết áp dâng cao, tim đập nhanh hơn và bàn tay thì ướt đẫm mồ hôi. Đối với những người đang yêu, adrenalin tạo ra trạng thái nôn nao, đôi khi khá căng thẳng. Chỉ cần một cái nhìn sâu của người yêu, hay sự hồi hộp trước buổi hẹn đã khiến cơ thể giải phóng một lượng adrenalin lớn, đưa người vào trạng
    thái nóng lạnh như sốt. Hệ quả là: Toàn bộ tâm trí chỉ hướng tới người mình yêu, và cả nhân loại trở nên vô nghĩa.
    Cũng may là trạng thái này thường kéo dài không lâu, bởi nó ngốn nhiều năng lượng khủng khiếp và không một cơ thể sinh học nào có thể chịu đựng được nó trong một thời gian dài. Tuy nhiên, những đợt sóng adrenalin nhẹ nhàng và thường xuyên lại có tác dụng rất tốt. Chúng giúp cơ thể có khả năng đề kháng.
    Bởi vậy, xét về mặt sinh học, mỗi một lần yêu mới là một lần thử thách với cơ thể, khiến nó cứng cáp hơn.
    - Dopamine:
    Hoóc môn này tác động trực tiếp tới trung tâm nhận phần thưởng trong não bộ, đem lại niềm vui, cảm giác sung sướng và thỏa mãn. Khi tình yêu tiến triển, hoóc môn này càng gia tăng và gây tác động không nhỏ tới cơ thể khiến người ăn uống không thấy ngon hoặc ngủ ít đi. Đây chính là trạng thái "ốm dở chết dở" khá phổ biến mà các thi sĩ thường gọi là tương tư.
    - Noradrenalin:
    Neurontruyền tín hiệu này tụ hợp năng lượng ái tình, khiến cơ thể nóng lên. Đôi khi, noradrenalin làm người ta không thể kìm giữ được cảm xúc của mình. Hơn thế, nó còn tác động đến thùy hypothalamus, làm tiết ra các hoóc môn ********, khiến người ta có hứng ********.
    3. Khi các hoóc môn "nguội" dần .
    Tất cả những kẻ đang yêu đều cầu mong rằng, cái cảm giác choáng váng bồng bềnh đừng bao giờ biến mất. Đáng tiếc, điều này lại trái với nền tảng của bộ môn hóa sinh. Nhiều nhất là một năm, mà thường là sớm hơn, não bộ sẽ tự động "giải thoát" ra khỏi trạng thái bồng bềnh do các "hoóc môn tình yêu" gây ra. Điều này xảy ra là do trung tâm nhận phần thưởng trong não bộ đã quen dần với dopamin, khiến nó chẳng còn có cảm xúc gì nữa. Lúc ấy, những gì là "cuồng nhiệt" ban đầu đều
    biến mất. Đây là điều không thể tránh khỏi, vì nó nằm ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người - một cấu trúc hữu cơ bị chi phối khắt khe bởi các quy luật hóa học và sinh học. Có lẽ chỉ có một tình yêu mới mới đem lại cảm giác ban đầu mà thôi!
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 07:31 ngày 11/12/2004
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này