1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.567
    Đã được thích:
    49
    (Tiếp Theo)
    Hệ thần kinh hóa chất là một phần di vật do quá trình tiến hóa lưu lại đến nay trong cơ thể con người. Nhiều loại phân tử nhận thu và hóa chất liên kết trong cơ thể con người được tìm thấy trong cơ thể của hết thảy động vật có xương sống khác và của một số côn trùng.
    Não bộ áp dụng phương thức nào để amidan ghi nhớ các xúc động tình cảm một cách sâu đậm và lâu dài?
    Mổì khi quá lo âu hay mừng quýnh, những khi thần kinh bị căng thẳng, một chùm dây thần kinh chạy từ não đến các tuyến trên thận xúc khởi sự tiết ra các hoocmon adrenaline và orepinephrine.
    Các hoocmon này truyền tín hiệu khẩn cấp khắp thân thể và chuẩn bị mọi cơ quan sẳn sàng ứng phó một nguy biến sắp xảy đến, hoặc chống trả hoặc chạy trốn (fight-or-flight response). Chúng kích động những cơ quan nhận cảm của dây thần kinh X (vagus nerve) nơi sọ. Amidan (Amygdala) là bộ phận tiếp nhận những tín hiệu khẩn cấp do dây X chuyển lại .
    Những tín hiệu này được các neuron của amidan biến cải thành những hiệu lệnh truyền bảo các vùng não lân cận ghi nhớ kỹ lưỡng và sâu đậm những xúc động cảm giác kinh nghiệm.
    1 V/đ lý thú là cùng theo dòng chảy hóa chất + các hoạt dộng của các dây thần kinh liên kết này lại cung cấp cho chúng ta 1 cái nhìn mới về bản năng tình yêu theo quan điểm khoa học:
    Tạp chí Y học Surfmed của Đức, số ra mới đây, vừa công bố các giai đoạn phát triển của tình yêu, theo cách nhìn của hóa sinh và sinh lý học.
    Kiến thức lớn nhất về ái tình mà hai bộ môn này cung cấp là:
    Những cơ chế tạo nên sự hình thành và phát triển của tình yêu không hề đơn giản, mà đã đạt đến độ phức tạp khủng khiếp. Cơ chế đó như chúng ta đả đề cập theo trên chính là trung tâm não bộ. Đây là bộ phận sinh lý quan trọng nhất của cơ thể, chi phối mọi cảm xúc của con người. Não bộ điều khiển các hoóc môn và neuron, khiến chúng cất lên tiếng vĩ cầm đầu tiên của bản nhạc tình ái, đồng thời quyết định giai điệu, tần số và độ ngân dài ngắn (trường độ) của nó.
    Sau đây là các giai đoạn phát triển của tình yêu:
    1. Khởi thủy (sinh lý) của tình yêu
    Bụng Bạn thót lại, trái tim đập thình thình như muốn nhảy ra hỏi ***g ngực, lý trí biến mất. Thế là một lần nữa, mũi tên của thần ái tình Amor đã phóng trúng đích.
    Sau lúc trái tim chỉ chực nhảy khỏi ***g ngực và lý trí biến mất, sau thời say mèm vì "chén rượu tình", sau cả dư âm của chén rượu nhạt, bạn mới có hạnh phúc gia đình. Cảm giác nôn nao như bị " bùa ngải" này trước hết liên quan đến các Neuron truyền tín hiệu. Chúng mang các phân tử hóa học, kích thích các tế bào ở trung tâm não bộ.
    Còn các hoóc môn cũng đóng vai trò quan trọng không kém khi khuếch đại những kích thích này.
    2. Chén rượu tình
    Dù thanh niên hay người già, khi đã đặt môi vào chén rượu tình, ai cũng có cảm giác choáng váng bồng bềnh. Tất nhiên, sự "sa ngã" này chẳng có gì là tồi tệ. Miêu tả cảm giác này, đại thi hào Goethe của Đức viết:
    Hôm nay tất cả đều kỳ lạ với tôi, ước gì cứ mãi như thế
    Bởi tôi đã thấy tình yêu trong đôi mắt thủy tinh của nàng ...
    Cái cảm giác khiến Goethe "nhìn đời qua cặp kính màu hồng" thực chất có liên quan mật thiết đến những "phân tử hóa học tình yêu" sau đây:
    - Adrenalin:
    Adrenalin là một hoóc môn gây cảm xúc mạnh nhất. Trong trường hợp người bị stress, hoóc môn này được giải phóng ra khỏi thận, thấm vào máu, đặt cơ thể vào tình trạng báo động tức thời. Huyết áp dâng cao, tim đập nhanh hơn và bàn tay thì ướt đẫm mồ hôi. Đối với những người đang yêu, adrenalin tạo ra trạng thái nôn nao, đôi khi khá căng thẳng. Chỉ cần một cái nhìn sâu của người yêu, hay sự hồi hộp trước buổi hẹn đã khiến cơ thể giải phóng một lượng adrenalin lớn, đưa người vào trạng
    thái nóng lạnh như sốt. Hệ quả là: Toàn bộ tâm trí chỉ hướng tới người mình yêu, và cả nhân loại trở nên vô nghĩa.
    Cũng may là trạng thái này thường kéo dài không lâu, bởi nó ngốn nhiều năng lượng khủng khiếp và không một cơ thể sinh học nào có thể chịu đựng được nó trong một thời gian dài. Tuy nhiên, những đợt sóng adrenalin nhẹ nhàng và thường xuyên lại có tác dụng rất tốt. Chúng giúp cơ thể có khả năng đề kháng.
    Bởi vậy, xét về mặt sinh học, mỗi một lần yêu mới là một lần thử thách với cơ thể, khiến nó cứng cáp hơn.
    - Dopamine:
    Hoóc môn này tác động trực tiếp tới trung tâm nhận phần thưởng trong não bộ, đem lại niềm vui, cảm giác sung sướng và thỏa mãn. Khi tình yêu tiến triển, hoóc môn này càng gia tăng và gây tác động không nhỏ tới cơ thể khiến người ăn uống không thấy ngon hoặc ngủ ít đi. Đây chính là trạng thái "ốm dở chết dở" khá phổ biến mà các thi sĩ thường gọi là tương tư.
    - Noradrenalin:
    Neurontruyền tín hiệu này tụ hợp năng lượng ái tình, khiến cơ thể nóng lên. Đôi khi, noradrenalin làm người ta không thể kìm giữ được cảm xúc của mình. Hơn thế, nó còn tác động đến thùy hypothalamus, làm tiết ra các hoóc môn ********, khiến người ta có hứng ********.
    3. Khi các hoóc môn "nguội" dần .
    Tất cả những kẻ đang yêu đều cầu mong rằng, cái cảm giác choáng váng bồng bềnh đừng bao giờ biến mất. Đáng tiếc, điều này lại trái với nền tảng của bộ môn hóa sinh. Nhiều nhất là một năm, mà thường là sớm hơn, não bộ sẽ tự động "giải thoát" ra khỏi trạng thái bồng bềnh do các "hoóc môn tình yêu" gây ra. Điều này xảy ra là do trung tâm nhận phần thưởng trong não bộ đã quen dần với dopamin, khiến nó chẳng còn có cảm xúc gì nữa. Lúc ấy, những gì là "cuồng nhiệt" ban đầu đều
    biến mất. Đây là điều không thể tránh khỏi, vì nó nằm ngoài ý muốn và tầm kiểm soát của con người - một cấu trúc hữu cơ bị chi phối khắt khe bởi các quy luật hóa học và sinh học. Có lẽ chỉ có một tình yêu mới mới đem lại cảm giác ban đầu mà thôi!
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 07:31 ngày 11/12/2004
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.567
    Đã được thích:
    49

    (Tiếp Theo)
    4. Tình yêu lớn (cảm xúc --> khoái cảm --> cực khoái)
    Ai vượt qua được giai đoạn sóng gió của những cảm xúc mới yêu sẽ đạt được một điều quý giá khác (tuy không dữ dội), đó là hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng.
    Một trong những hoóc môn giúp người ta duy trì hạnh phúc này là endorphine. Nó có tác dụng như một thứ ma túy nhè nhẹ, đưa đến cảm giác dễ chịu, giúp con người thoát khỏi nỗi sợ hãi về những điều bất ổn của cuộc sống, và trong một số trường hợp nhất định, thậm chí nó còn đem lại những khoái cảm kỳ lạ. Đó chính là khởi điểm của một tình yêu lớn.
    Nhà nhân chủng học Mỹ Helen Fisher cho rằng những quan tâm dịu dàng và sự chia sẻ với bạn đời góp phần kích thích hoóc môn endorphine.
    Ai đã yêu, ắt hiểu thế nào là nhớ, và theo Fisher, cảm giác này có quan hệ trực tiếp tới endorphine. Những người từng cai nghiện thuốc lá hoặc ma túy hiểu cảm giác này hơn cả: Hoóc môn cứ tiết ra, khiến người ta có cảm giác thèm khát ghê gớm.
    Việc "nghiện" ái ân cũng có thể hiểu như vậy, và khi điều ấy không được thỏa mãn thì hậu quả tất yếu sẽ là sự trầm cảm và đau khổ.
    Nhưng đến đây, các nhà khoa học đã chạm vào một câu hỏi thuộc phạm trù đạo đức: Vậy thì các cặp vợ chồng sống với nhau chẳng qua vì họ sợ chia tay sẽ không thể chịu nổi cái cảm giác thiếu thốn, y như một con nghiện khi phải tách rời khỏi ma túy hay sao?
    Tất nhiên, các nhà khoa học không dừng lại ở đây, bởi nếu như vậy, họ có thể nói gì về lòng chung thủy mà rõ ràng là có hiện hữu?
    Nền tảng hóa sinh của lòng chung thủy ở con người:
    Khác với đa số loài động vật mà con đực và con cái chỉ cặp nhau để giao phối, hoặc cùng lắm là chung sống với nhau một thời gian nhất định sau khi con non ra đời, con người thường sống với nhau lâu dài trong mối quan hệ vợ chồng. Điều này không chỉ có nguồn gốc từ nỗi sợ hãi việc phải xa rời những khoái cảm của hoóc môn endorphine như một thứ ma túy, mà họ cảm thấy dễ chịu thực sự khi sống chung với nhau.
    Tất nhiên, ngay trong trường hợp ấy, con người cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của các hoóc môn. Hai nhà sinh học Mỹ Sue Carter và Thomas Insel đã nghiên cứu "hiện tượng" chung thủy trên nền tảng hóa sinh và đã rút ra một số kết luận như
    sau:
    Ở chuột:
    Carter và Insel đã quan sát giống chuột núi và giống chuột sống trên đồng cỏ ở Mỹ. Bề ngoài chúng giống hệt nhau. Chuột núi thường xuyên thay đổi ********, thậm chí con đực chỉ giao phối một lần với một con cái nào đó. Chuột đồng lại khác hẳn: Chúng sống cả đời bên nhau. Theo Thomas Insel, điều này có lẽ liên quan đến hoóc môn oxytocin và vasopressin. Nồng độ của hai hoóc môn này trong máu chuột đồng nhiều hơn hẳn chuột núi.
    Bằng kỹ thuật chuyển gene, các nhà khoa học đã tạo ra giống chuột núi có nhiều hoóc môn oxytocin và vasopressin hơn. Kết quả, chúng tỏ ra chung thủy hơn hẳn và sẵn sàng "chiến đấu" khi có kẻ khác đến gạ gẫm ********.
    Rõ ràng, chung thủy là một đặc tính được quyết định bởi gene.
    ... và ở người
    Người cũng có hai loại "hoóc môn chung thủy" như ở chuột đồng.
    Tuy nhiên, liệu chúng có tác dụng như ở chuột hay không vẫn còn là một dấu hỏi. Đến nay người ta mới chỉ biết rất ít về chúng:
    Sau mỗi lần đạt cực khoái, lượng hoóc môn oxytocin trong máu tăng mạnh. Trong một thực nghiệm, các nhà khoa học đã dùng cách hãm oxytocin của những người đàn ông. Kết quả, họ vẫn có khoái cảm như thường khi quan hệ ********, nhưng cảm giác dễ chịu và thư giãn thì mất hẳn.
    Rõ ràng, oxytocin giúp con người có những cảm giác dễ chịu lâu dài trong quan hệ vợ chồng, làm nền tảng cho lòng chung thủy, khiến người ta không chán nhau, dù cảm giác ngất ngây của tình yêu ban đầu đã nguội lạnh.
    Nhưng nếu ai nuôi hy vọng dùng cách nào đấy (ví dụ như kích thích gene) để làm tăng nồng độ oxytocin trong máu, mong giữ được tình chung với bạn đời, người ấy đã mắc một sai lầm cơ bản. Bởi lẽ, khác với chuột đồng, con người không phải là những tên nô lệ ngoan ngoãn của các định luật hóa học và sinh học, mà ở những khoảnh khắc nhất định (mặc kệ hoóc môn!), họ còn biết rung lên sợi tơ lòng (như thi hào Goethe đả mô tã):
    Hôm nay tất cả đều kỳ lạ với tôi, ước gì cứ mãi như thế
    Bởi tôi đã thấy tình yêu trong đôi mắt thủy tinh của nàng
    (J.W. Goethe)
    (theo Surfmed)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 07:18 ngày 11/12/2004
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.567
    Đã được thích:
    49

    (Tiếp Theo)
    4. Tình yêu lớn (cảm xúc --> khoái cảm --> cực khoái)
    Ai vượt qua được giai đoạn sóng gió của những cảm xúc mới yêu sẽ đạt được một điều quý giá khác (tuy không dữ dội), đó là hạnh phúc của cuộc sống vợ chồng.
    Một trong những hoóc môn giúp người ta duy trì hạnh phúc này là endorphine. Nó có tác dụng như một thứ ma túy nhè nhẹ, đưa đến cảm giác dễ chịu, giúp con người thoát khỏi nỗi sợ hãi về những điều bất ổn của cuộc sống, và trong một số trường hợp nhất định, thậm chí nó còn đem lại những khoái cảm kỳ lạ. Đó chính là khởi điểm của một tình yêu lớn.
    Nhà nhân chủng học Mỹ Helen Fisher cho rằng những quan tâm dịu dàng và sự chia sẻ với bạn đời góp phần kích thích hoóc môn endorphine.
    Ai đã yêu, ắt hiểu thế nào là nhớ, và theo Fisher, cảm giác này có quan hệ trực tiếp tới endorphine. Những người từng cai nghiện thuốc lá hoặc ma túy hiểu cảm giác này hơn cả: Hoóc môn cứ tiết ra, khiến người ta có cảm giác thèm khát ghê gớm.
    Việc "nghiện" ái ân cũng có thể hiểu như vậy, và khi điều ấy không được thỏa mãn thì hậu quả tất yếu sẽ là sự trầm cảm và đau khổ.
    Nhưng đến đây, các nhà khoa học đã chạm vào một câu hỏi thuộc phạm trù đạo đức: Vậy thì các cặp vợ chồng sống với nhau chẳng qua vì họ sợ chia tay sẽ không thể chịu nổi cái cảm giác thiếu thốn, y như một con nghiện khi phải tách rời khỏi ma túy hay sao?
    Tất nhiên, các nhà khoa học không dừng lại ở đây, bởi nếu như vậy, họ có thể nói gì về lòng chung thủy mà rõ ràng là có hiện hữu?
    Nền tảng hóa sinh của lòng chung thủy ở con người:
    Khác với đa số loài động vật mà con đực và con cái chỉ cặp nhau để giao phối, hoặc cùng lắm là chung sống với nhau một thời gian nhất định sau khi con non ra đời, con người thường sống với nhau lâu dài trong mối quan hệ vợ chồng. Điều này không chỉ có nguồn gốc từ nỗi sợ hãi việc phải xa rời những khoái cảm của hoóc môn endorphine như một thứ ma túy, mà họ cảm thấy dễ chịu thực sự khi sống chung với nhau.
    Tất nhiên, ngay trong trường hợp ấy, con người cũng không thoát khỏi ảnh hưởng của các hoóc môn. Hai nhà sinh học Mỹ Sue Carter và Thomas Insel đã nghiên cứu "hiện tượng" chung thủy trên nền tảng hóa sinh và đã rút ra một số kết luận như
    sau:
    Ở chuột:
    Carter và Insel đã quan sát giống chuột núi và giống chuột sống trên đồng cỏ ở Mỹ. Bề ngoài chúng giống hệt nhau. Chuột núi thường xuyên thay đổi ********, thậm chí con đực chỉ giao phối một lần với một con cái nào đó. Chuột đồng lại khác hẳn: Chúng sống cả đời bên nhau. Theo Thomas Insel, điều này có lẽ liên quan đến hoóc môn oxytocin và vasopressin. Nồng độ của hai hoóc môn này trong máu chuột đồng nhiều hơn hẳn chuột núi.
    Bằng kỹ thuật chuyển gene, các nhà khoa học đã tạo ra giống chuột núi có nhiều hoóc môn oxytocin và vasopressin hơn. Kết quả, chúng tỏ ra chung thủy hơn hẳn và sẵn sàng "chiến đấu" khi có kẻ khác đến gạ gẫm ********.
    Rõ ràng, chung thủy là một đặc tính được quyết định bởi gene.
    ... và ở người
    Người cũng có hai loại "hoóc môn chung thủy" như ở chuột đồng.
    Tuy nhiên, liệu chúng có tác dụng như ở chuột hay không vẫn còn là một dấu hỏi. Đến nay người ta mới chỉ biết rất ít về chúng:
    Sau mỗi lần đạt cực khoái, lượng hoóc môn oxytocin trong máu tăng mạnh. Trong một thực nghiệm, các nhà khoa học đã dùng cách hãm oxytocin của những người đàn ông. Kết quả, họ vẫn có khoái cảm như thường khi quan hệ ********, nhưng cảm giác dễ chịu và thư giãn thì mất hẳn.
    Rõ ràng, oxytocin giúp con người có những cảm giác dễ chịu lâu dài trong quan hệ vợ chồng, làm nền tảng cho lòng chung thủy, khiến người ta không chán nhau, dù cảm giác ngất ngây của tình yêu ban đầu đã nguội lạnh.
    Nhưng nếu ai nuôi hy vọng dùng cách nào đấy (ví dụ như kích thích gene) để làm tăng nồng độ oxytocin trong máu, mong giữ được tình chung với bạn đời, người ấy đã mắc một sai lầm cơ bản. Bởi lẽ, khác với chuột đồng, con người không phải là những tên nô lệ ngoan ngoãn của các định luật hóa học và sinh học, mà ở những khoảnh khắc nhất định (mặc kệ hoóc môn!), họ còn biết rung lên sợi tơ lòng (như thi hào Goethe đả mô tã):
    Hôm nay tất cả đều kỳ lạ với tôi, ước gì cứ mãi như thế
    Bởi tôi đã thấy tình yêu trong đôi mắt thủy tinh của nàng
    (J.W. Goethe)
    (theo Surfmed)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 07:18 ngày 11/12/2004
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.567
    Đã được thích:
    49

    Chúng ta thường gặp những trường hợp khó quyết định, một bên là lý trí, một bên là tình cảm. Khi tình cảm thắng thì người ta thường nói là nghe theo tiếng gọi của con tim (TÂM). Từ ngày khoa học tiến bộ, người ta có thể dùng tim nhân tạo hay ghép tim, nhân loại biết rằng con tim (TÂM) không giữ vai trò gì trong tình cảm con người nhưng trong mọi nền văn hoá, người ta vẫn còn giữ thói quen là con tim (TÂM) tượng trưng cho tình cảm con người.
    Thói quen này chắc sẽ còn tồn tại lâu vì mỗi khi cảm xúc mạnh, nhịp tim đập nhanh hơn nên bình thường người ta vẫn có cảm giác là tình cảm xuất phát từ con tim (TÂM).
    Thực tế thì như chúng ta đả biết qua phần trình bày trên:.
    trong bộ óc con người có hai phần rõ rệt, phần lý trí và phần cảm xúc (amidan). Người ta thường cho rằng phần cảm xúc có tính chất thiên nhiên vì đó là phần tình cảm của con người; và phần lý trí có tính cách khoa học, do học hỏi luyện tập tạo ra.
    Trên thực tế, nếu mọi hành động của chúng ta chỉ dựa trên lý trí thì không những cuộc sống cá nhân khô khan thiếu ý nghĩa mà ngay cả những thành công ngoài đời sẽ bị rất hạn chế và đôi khi cuộc đời không còn hạnh phúc. Nhưng phần lý trí thì ngoài bản chất thiên phú thường được trau dồi bằng học tập và kinh nghiệm sống; trong khi đó phần cảm xúc thường mang tính cách vô thức nên ít được chú trọng. Phải chăng chúng ta có thể luyện tập phần cảm xúc để bù đắp những thiếu sót của phần lý trí?
    Ai đã chẳng từng hơn một lần nghe theo tiếng gọi của con tim (TÂM -phần cảm xúc của não bộ). Phải chăng mệnh lệnh của con tim (TÂM) đôi khi vượt qua khả năng của lý trí?
    Não bộ của các động vật đã tiến hoá từ hàng triệu năm từ thấp lên cao. Não bộ nguyên thủy điều hành mọi sự vận động cần thiết cho sự sinh sống của cơ thể, chẳng hạn như sự hô hấp, sự tiêu hoá, sự chuyển hoá của các bộ phận của cơ thể, các phản ứng, phản xạ v.v?(hệ thần kinh thực vật ?" chắc bạn đọc còn nhớ, hệ thần kinh điều khiển các phản xạ sinh lí như tim, tốc độ thở - cũng như điều khiển các vùng khác của bộ não xử lí các dữ liệu cảm giác vào cơ thể.)
    Não bộ nguyên thủy ?(hệ thần kinh thực vật ) có lẽ không suy nghĩ và học hỏi được. Do sự tiến hoá, trung tâm thần kinh về cảm xúc (amygdala) được tạo ra từ não bộ nguyên thủy. Hàng triệu năm sau, trung tâm thần kinh về lý trí (vỏ não mới /neocortex) được tạo ra từ trung tâm cảm xúc. Nói một cách khác, phần cảm xúc hiện hữu trước phần lý trí từ rất lâu trong quá trình tiến hoá của não bộ.
    Phần lý trí của não bộ loài người tiến hoá vượt xa phần lý trí của mọi loài động vật .
    Nhiều khi chúng ta hối tiếc đã có những hành động thiếu bình tĩnh, những hành động dại dột thiếu suy nghĩ.
    Khám phá của Ledoux cho chúng ta thấy chẳng qua đó là vì phản ứng mau lẹ của phần cảm xúc của não bộ & cả chức năng của 1 hệ sinh hoá phức tạp tham dự vào, hay nói một cách khác, chẳng qua vì mệnh lệnh của con tim (TÂM).
    Phần cảm xúc của não bộ đã được tiến hoá hàng triệu năm trước phần lý trí của não bộ; nó đã giúp cho loài người mưu sinh thoát hiểm hàng triệu năm qua; nó tạo ra những cảm xúc; những hành động mang tính cách phản xạ để tự vệ v.v? Người ta đã thí nghiệm bằng cách cắt phần cảm xúc của não bộ của thú vật và quan sát thấy những thú vật đó không còn biết sợ hãi, giận dữ nữa.
    Những cảm giác do giác quan thông báo cho não bộ được truyền bằng đường tắt cho phần cảm xúc (amygdala). Phần này làm cho chúng ta có phản ứng tức thời, trong khi phần lý trí (Trong vỏ não mới/ neocortex) được thông báo chậm hơn nhưng đầy đủ hơn, vạch định chương trình phản ứng chi tiết hơn.
    Trước những khó khăn muôn vàn trong cuộc sống, nhiều khi phần lý trí hoàn toàn bị tê liệt, và con người phải rơi vào cảnh:
    Cũng liều nhắm mắt đưa chân
    Thử xem con tạo xoay vần đến đâu
    (trích Kiều)
    thì phần cảm xúc (amygdala) luôn luôn ra những "mệnh lệnh của con tim (TÂM)" để bảo vệ cơ thể.
    Tóm lại: Pascal (*) bằng 1 trực quan tuệ giác & tỉnh quan phi thường đả có lý khi nói rằng:
    "con tim (TÂM) có những (LÝ) lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu nổi".
    "Le c"ur a ses raisons que la raison ne connaĩt point"
    ___
    (*) Blaise Pascal (1623 - 1662) thần đồng Toán học, nhà bác học kiêm triết gia; kiêm văn sĩ.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 11:07 ngày 19/12/2004
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.567
    Đã được thích:
    49

    Chúng ta thường gặp những trường hợp khó quyết định, một bên là lý trí, một bên là tình cảm. Khi tình cảm thắng thì người ta thường nói là nghe theo tiếng gọi của con tim (TÂM). Từ ngày khoa học tiến bộ, người ta có thể dùng tim nhân tạo hay ghép tim, nhân loại biết rằng con tim (TÂM) không giữ vai trò gì trong tình cảm con người nhưng trong mọi nền văn hoá, người ta vẫn còn giữ thói quen là con tim (TÂM) tượng trưng cho tình cảm con người.
    Thói quen này chắc sẽ còn tồn tại lâu vì mỗi khi cảm xúc mạnh, nhịp tim đập nhanh hơn nên bình thường người ta vẫn có cảm giác là tình cảm xuất phát từ con tim (TÂM).
    Thực tế thì như chúng ta đả biết qua phần trình bày trên:.
    trong bộ óc con người có hai phần rõ rệt, phần lý trí và phần cảm xúc (amidan). Người ta thường cho rằng phần cảm xúc có tính chất thiên nhiên vì đó là phần tình cảm của con người; và phần lý trí có tính cách khoa học, do học hỏi luyện tập tạo ra.
    Trên thực tế, nếu mọi hành động của chúng ta chỉ dựa trên lý trí thì không những cuộc sống cá nhân khô khan thiếu ý nghĩa mà ngay cả những thành công ngoài đời sẽ bị rất hạn chế và đôi khi cuộc đời không còn hạnh phúc. Nhưng phần lý trí thì ngoài bản chất thiên phú thường được trau dồi bằng học tập và kinh nghiệm sống; trong khi đó phần cảm xúc thường mang tính cách vô thức nên ít được chú trọng. Phải chăng chúng ta có thể luyện tập phần cảm xúc để bù đắp những thiếu sót của phần lý trí?
    Ai đã chẳng từng hơn một lần nghe theo tiếng gọi của con tim (TÂM -phần cảm xúc của não bộ). Phải chăng mệnh lệnh của con tim (TÂM) đôi khi vượt qua khả năng của lý trí?
    Não bộ của các động vật đã tiến hoá từ hàng triệu năm từ thấp lên cao. Não bộ nguyên thủy điều hành mọi sự vận động cần thiết cho sự sinh sống của cơ thể, chẳng hạn như sự hô hấp, sự tiêu hoá, sự chuyển hoá của các bộ phận của cơ thể, các phản ứng, phản xạ v.v?(hệ thần kinh thực vật ?" chắc bạn đọc còn nhớ, hệ thần kinh điều khiển các phản xạ sinh lí như tim, tốc độ thở - cũng như điều khiển các vùng khác của bộ não xử lí các dữ liệu cảm giác vào cơ thể.)
    Não bộ nguyên thủy ?(hệ thần kinh thực vật ) có lẽ không suy nghĩ và học hỏi được. Do sự tiến hoá, trung tâm thần kinh về cảm xúc (amygdala) được tạo ra từ não bộ nguyên thủy. Hàng triệu năm sau, trung tâm thần kinh về lý trí (vỏ não mới /neocortex) được tạo ra từ trung tâm cảm xúc. Nói một cách khác, phần cảm xúc hiện hữu trước phần lý trí từ rất lâu trong quá trình tiến hoá của não bộ.
    Phần lý trí của não bộ loài người tiến hoá vượt xa phần lý trí của mọi loài động vật .
    Nhiều khi chúng ta hối tiếc đã có những hành động thiếu bình tĩnh, những hành động dại dột thiếu suy nghĩ.
    Khám phá của Ledoux cho chúng ta thấy chẳng qua đó là vì phản ứng mau lẹ của phần cảm xúc của não bộ & cả chức năng của 1 hệ sinh hoá phức tạp tham dự vào, hay nói một cách khác, chẳng qua vì mệnh lệnh của con tim (TÂM).
    Phần cảm xúc của não bộ đã được tiến hoá hàng triệu năm trước phần lý trí của não bộ; nó đã giúp cho loài người mưu sinh thoát hiểm hàng triệu năm qua; nó tạo ra những cảm xúc; những hành động mang tính cách phản xạ để tự vệ v.v? Người ta đã thí nghiệm bằng cách cắt phần cảm xúc của não bộ của thú vật và quan sát thấy những thú vật đó không còn biết sợ hãi, giận dữ nữa.
    Những cảm giác do giác quan thông báo cho não bộ được truyền bằng đường tắt cho phần cảm xúc (amygdala). Phần này làm cho chúng ta có phản ứng tức thời, trong khi phần lý trí (Trong vỏ não mới/ neocortex) được thông báo chậm hơn nhưng đầy đủ hơn, vạch định chương trình phản ứng chi tiết hơn.
    Trước những khó khăn muôn vàn trong cuộc sống, nhiều khi phần lý trí hoàn toàn bị tê liệt, và con người phải rơi vào cảnh:
    Cũng liều nhắm mắt đưa chân
    Thử xem con tạo xoay vần đến đâu
    (trích Kiều)
    thì phần cảm xúc (amygdala) luôn luôn ra những "mệnh lệnh của con tim (TÂM)" để bảo vệ cơ thể.
    Tóm lại: Pascal (*) bằng 1 trực quan tuệ giác & tỉnh quan phi thường đả có lý khi nói rằng:
    "con tim (TÂM) có những (LÝ) lẽ của nó mà lý trí không thể hiểu nổi".
    "Le c"ur a ses raisons que la raison ne connaĩt point"
    ___
    (*) Blaise Pascal (1623 - 1662) thần đồng Toán học, nhà bác học kiêm triết gia; kiêm văn sĩ.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 11:07 ngày 19/12/2004
  6. lesromansfrancais

    lesromansfrancais Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2003
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    xoá do đả kích cá nhân.
    Được lesromansfrancais sửa chữa / chuyển vào 17:53 ngày 18/12/2004
    Được luuthuy sửa chữa / chuyển vào 20:07 ngày 18/12/2004
  7. lesromansfrancais

    lesromansfrancais Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2003
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    xoá do đả kích cá nhân.
    Được lesromansfrancais sửa chữa / chuyển vào 17:53 ngày 18/12/2004
    Được luuthuy sửa chữa / chuyển vào 20:07 ngày 18/12/2004
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.567
    Đã được thích:
    49
    Xem qua lại bài 9 & Bài 10 của bạn Dumb; tôi xin có 1 số
    ý kiến bổ sung thêm . Nếu có gì sai sót mong các bạn góp ý
    quote-dumb viết lúc 15:26 ngày 13/02/2004:
    Bài 9
    Phân biệt giữa bản năng và vô thức tập thể
    Mình thử tham gia trong việc phân biệt giữa cái bản năng và vô thức theo sự hiểu biết của mình xem sao nhé. Mong các bạn góp ý:
    "Một đặc điểm trong vô thức tập thể là nguồn gốc di truyền của nó - không giống như vô thức cá nhân đến từ kinh nghiệm cá nhân. Vô thức tập thể được tạo nên bởi các cổ mẫu (archetype), đó là các hình thức tiền tồn hay những hình thức nguyên thuỷ. Jung cho rằng các bản năng [những xu hướng bẩm sinh không biết] rất gần với các cổ mẫu, đến mức mà trên thực tế thì có một lý do đủ độ tin cậy khi cho rằng các cổ mẫu là những hình ảnh vô thức của chính những bản năng, hay nói cách khác chúng là khuôn mẫu của các hành vi bản năng."
    (Trích từ cuốn "Jung đã thực sự nói gì" . Tác giả Bùi Lưu Phi Khanh. NXB Văn hoá thông tin 2002)
    Với định nghĩa nói trên, có thể coi vô thức tập thể được tạo ra(lấy chất liệu) từ bản năng dưới hình thức các kiểu, các kiểu này gọi là cổ mẫu. Hiểu nôm na thì vô thức tập thể được hiểu như là sản phẩm đầu ra, đầu vào là các bản năng, các bản năng này được nhào nặn theo cái khuôn là các cổ mẫu.
    Thực tế thì bản năng thường được coi như cái nguyên sơ, khi một cá nhân sinh ra, anh ta đã có bản năng được qui định theo gen di truyền. Nhưng để thành vô thức, tức là nó đã phải trải qua một quá trình được định hướng nhờ các cổ mẫu. Và khi thành vô thức, được gọi là vô thức, nó thường được gắn (đi kèm với) một kết cục.
    Còn bản năng, có thể ngầm ẩn bên trong một cá nhân mà không bao giờ bộc lộ. Có những người có thể kìm chế bản năng suốt đời. Còn khi một một người làm một hành động mà anh ta không kiểm soát được, thông thường nó liên quan trực tiếp đến vô thức, cái vô thức đó được sinh từ bản năng.
    Nhưng trong ngôn ngữ thông thường, một hành động theo bản năng thường là một hành động chống ý thức, tức là vẫn có hiện diện của ý thức, nhưng ta không theo nó, mà theo cái nhu cầu của bản năng. Chẳng hạn như hành động cưỡng hiếp phụ nữ. Trong khi đó, một hành động vô thức thường là hành động không có sự hiện diện của ý thức, và ta hoàn toàn bất ngờ, như những giấc mơ, phút xuất thần của nghệ sĩ, và một hành động tàn ác phi nhân tính mà chính bản thân người đó sau đó cũng thấy khó hiểu như phút lên cơn của một người mắc chứng tâm thần (có thể lấy ví dụ là hành động của kẻ giết người hàng loạt), hay như một cú sét ái tình, có thể yêu một người trước đây ta không hình dung nổi sẽ yêu ngay lần gặp đầu tiên.
    Có thể tạm đưa ra sơ đồ :
    (1) Bản năng ----------->Vô thức tập thể---------->Ý thức + phần dồn nénI(ý thức không nhận thức được) + phần dồn nénII (ý thức lúc đầu chấp nhận hay nhận thức được nhưng do không được thoả mãn hay do sự cấm kỵ của nhiều yếu tố nên bị dồn nén)
    (2) Phần dồn nén II ------->vô thức cá nhân ========> Ý thức(một phần)
    (A)
    (3) Phần dồn nén I---------> vô thức tập thể ========> Ý thức(một phần)
    (B)
    Lưu ý:
    * ------- : Đó là xu hướng tất yếu. Phép biến đổi này là gần như hoàn toàn.
    ** ==== : Đó là xu hướng có thể biến đổi nhờ sự tác động chủ quan của con người. Phép biến đổi này không hoàn toàn, nghĩa là chắc chắn vẫn còn vô thức can nhân(A) và vô thức tập thể (B).
    *** Sản phẩm cuối trong sơ đồ (1) là cấu trúc của tâm thần của con người.
    [/QUOTE]
    Theo Định nghỉa "Con Người" ; "Con Người" vừa là "con" vừa là "Người" .
    Về mặt "Con " thì "Con Người" vừa là 1 con vật chịu sự tác động của các bản năng .
    Về mặt " Người" thì "Con Người" vừa là con vật chịu sự tác động của Tâm trí .

    Xét về mặt Quan hệ thì Có nhửng quan hệ: (Nó với chính Bản thân nó).
    Ngoài ra có nhửng quan hệ ngang : là nhửng quan hệ giửa " Người" & " Người" " Người" & " Vật") (Đồng thời).
    & nhửng quan hệ dọc : là nhửng quan hệ (Di truyền,bản năng , văn hoá vv...theo thời gian) trong đó có nhửng quan hệ động & quan hệ tỉnh của nó
    - Về mặt "Con " thì "Con Người" Ngoài bản năng tự thân còn có bản năng bầy đàn .
    -Về mặt " Người" thì "Con Người" Ngoài nhửng quan hệ dọc
    (Di truyền,bản năng xuất phát từ quan hệ bầy đàn ) còn có nhửng quan hệ ngang giửa " Người" & " Người" : Đó là các quan hệ xả hội ; " Người" & Vật (quan hệ sản xuất)
    Tức là 2 v/đ : cá nhân & tập thể :
    Bản năng củng phải có 2 yếu tố là Bản năng cá nhân & tập thể
    Phần sơ đồ có thể bổ sung như sau:
    (A) Bản năng (cá nhân, nhu cầu sinh lý vv... )----------->Vô thức (cá nhân) ---------->Ý thức (cá nhân ví dụ như tình yêu trai gái, )
    (B) Bản năng (bầy đàn )----------->Vô thức tập thể---------->Ý thức Xả hội (Lòng yêu nước, tình làng nghiã xóm Vv...)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:01 ngày 21/12/2004
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.567
    Đã được thích:
    49
    Xem qua lại bài 9 & Bài 10 của bạn Dumb; tôi xin có 1 số
    ý kiến bổ sung thêm . Nếu có gì sai sót mong các bạn góp ý
    quote-dumb viết lúc 15:26 ngày 13/02/2004:
    Bài 9
    Phân biệt giữa bản năng và vô thức tập thể
    Mình thử tham gia trong việc phân biệt giữa cái bản năng và vô thức theo sự hiểu biết của mình xem sao nhé. Mong các bạn góp ý:
    "Một đặc điểm trong vô thức tập thể là nguồn gốc di truyền của nó - không giống như vô thức cá nhân đến từ kinh nghiệm cá nhân. Vô thức tập thể được tạo nên bởi các cổ mẫu (archetype), đó là các hình thức tiền tồn hay những hình thức nguyên thuỷ. Jung cho rằng các bản năng [những xu hướng bẩm sinh không biết] rất gần với các cổ mẫu, đến mức mà trên thực tế thì có một lý do đủ độ tin cậy khi cho rằng các cổ mẫu là những hình ảnh vô thức của chính những bản năng, hay nói cách khác chúng là khuôn mẫu của các hành vi bản năng."
    (Trích từ cuốn "Jung đã thực sự nói gì" . Tác giả Bùi Lưu Phi Khanh. NXB Văn hoá thông tin 2002)
    Với định nghĩa nói trên, có thể coi vô thức tập thể được tạo ra(lấy chất liệu) từ bản năng dưới hình thức các kiểu, các kiểu này gọi là cổ mẫu. Hiểu nôm na thì vô thức tập thể được hiểu như là sản phẩm đầu ra, đầu vào là các bản năng, các bản năng này được nhào nặn theo cái khuôn là các cổ mẫu.
    Thực tế thì bản năng thường được coi như cái nguyên sơ, khi một cá nhân sinh ra, anh ta đã có bản năng được qui định theo gen di truyền. Nhưng để thành vô thức, tức là nó đã phải trải qua một quá trình được định hướng nhờ các cổ mẫu. Và khi thành vô thức, được gọi là vô thức, nó thường được gắn (đi kèm với) một kết cục.
    Còn bản năng, có thể ngầm ẩn bên trong một cá nhân mà không bao giờ bộc lộ. Có những người có thể kìm chế bản năng suốt đời. Còn khi một một người làm một hành động mà anh ta không kiểm soát được, thông thường nó liên quan trực tiếp đến vô thức, cái vô thức đó được sinh từ bản năng.
    Nhưng trong ngôn ngữ thông thường, một hành động theo bản năng thường là một hành động chống ý thức, tức là vẫn có hiện diện của ý thức, nhưng ta không theo nó, mà theo cái nhu cầu của bản năng. Chẳng hạn như hành động cưỡng hiếp phụ nữ. Trong khi đó, một hành động vô thức thường là hành động không có sự hiện diện của ý thức, và ta hoàn toàn bất ngờ, như những giấc mơ, phút xuất thần của nghệ sĩ, và một hành động tàn ác phi nhân tính mà chính bản thân người đó sau đó cũng thấy khó hiểu như phút lên cơn của một người mắc chứng tâm thần (có thể lấy ví dụ là hành động của kẻ giết người hàng loạt), hay như một cú sét ái tình, có thể yêu một người trước đây ta không hình dung nổi sẽ yêu ngay lần gặp đầu tiên.
    Có thể tạm đưa ra sơ đồ :
    (1) Bản năng ----------->Vô thức tập thể---------->Ý thức + phần dồn nénI(ý thức không nhận thức được) + phần dồn nénII (ý thức lúc đầu chấp nhận hay nhận thức được nhưng do không được thoả mãn hay do sự cấm kỵ của nhiều yếu tố nên bị dồn nén)
    (2) Phần dồn nén II ------->vô thức cá nhân ========> Ý thức(một phần)
    (A)
    (3) Phần dồn nén I---------> vô thức tập thể ========> Ý thức(một phần)
    (B)
    Lưu ý:
    * ------- : Đó là xu hướng tất yếu. Phép biến đổi này là gần như hoàn toàn.
    ** ==== : Đó là xu hướng có thể biến đổi nhờ sự tác động chủ quan của con người. Phép biến đổi này không hoàn toàn, nghĩa là chắc chắn vẫn còn vô thức can nhân(A) và vô thức tập thể (B).
    *** Sản phẩm cuối trong sơ đồ (1) là cấu trúc của tâm thần của con người.
    [/QUOTE]
    Theo Định nghỉa "Con Người" ; "Con Người" vừa là "con" vừa là "Người" .
    Về mặt "Con " thì "Con Người" vừa là 1 con vật chịu sự tác động của các bản năng .
    Về mặt " Người" thì "Con Người" vừa là con vật chịu sự tác động của Tâm trí .

    Xét về mặt Quan hệ thì Có nhửng quan hệ: (Nó với chính Bản thân nó).
    Ngoài ra có nhửng quan hệ ngang : là nhửng quan hệ giửa " Người" & " Người" " Người" & " Vật") (Đồng thời).
    & nhửng quan hệ dọc : là nhửng quan hệ (Di truyền,bản năng , văn hoá vv...theo thời gian) trong đó có nhửng quan hệ động & quan hệ tỉnh của nó
    - Về mặt "Con " thì "Con Người" Ngoài bản năng tự thân còn có bản năng bầy đàn .
    -Về mặt " Người" thì "Con Người" Ngoài nhửng quan hệ dọc
    (Di truyền,bản năng xuất phát từ quan hệ bầy đàn ) còn có nhửng quan hệ ngang giửa " Người" & " Người" : Đó là các quan hệ xả hội ; " Người" & Vật (quan hệ sản xuất)
    Tức là 2 v/đ : cá nhân & tập thể :
    Bản năng củng phải có 2 yếu tố là Bản năng cá nhân & tập thể
    Phần sơ đồ có thể bổ sung như sau:
    (A) Bản năng (cá nhân, nhu cầu sinh lý vv... )----------->Vô thức (cá nhân) ---------->Ý thức (cá nhân ví dụ như tình yêu trai gái, )
    (B) Bản năng (bầy đàn )----------->Vô thức tập thể---------->Ý thức Xả hội (Lòng yêu nước, tình làng nghiã xóm Vv...)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:01 ngày 21/12/2004
  10. lesromansfrancais

    lesromansfrancais Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/08/2003
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    0
    Ý tưởng của Hoài Long và Đùm về so sánh và phân biệt giữa 2 từ Vô Thức và bản năng rất thú vị , nhưng 2 bạn lưu ý là " cùng một từ ngữ , ban đầu được lấy từ những từ ngữ trong đời sống bình thường, rồi một hôm đẹp trời nào đó, một vị Giáo sư thân mến nào đó phát minh ra học thuyết của mình và khoác cho nó một ý nghĩa mới. Từ chữ đó trở lại phổ biến trong báo chí , dân chúng và mang một nghĩa khác . Hoặc một khái niệm của khoa học này , có thể là ý tưởng làm phát sinh ra khái niệm của khoa học khác . Như vậy là , cùng một từ chữ đó nhưng ở mỗi lĩnh vực khoa học, học thuật thì nó sẽ bao gồm những nội hàm rất khác nhau, đôi khi sự khác nhau chênh lệch , đem ra so sánh thì cộng lệch và rất buồn cười .
    Theo mình suy đoán thì từ bản năng xuất phát từ môn sinh học, xa hơn có thể là sinh lý học. Còn từ Vô thức thì xuất phát từ môn tâm lý học và triết học với sự xuất hiện của từ ý thức , ngược lại với ý thức, những điều rõ ràng có nghĩa, phân tâm học phát minh ra từ Vô thức , những điều dồn nén, mù mờ , ko phải vô nghĩa mà hoàn toàn có ý nghĩa khi tìm cách phân tích và giải mã .
    Lưu ý thêm là các từ đó dịch nguyên mấu tiếng Anh, hoạc Pháp, mỗi dịch giả sẽ phát minh ra một từ mới, có khi rất khác nhau mang nghĩa mới tuỳ vào chủ quan của ông ta . Điều này thì các bạn phải tham khảo bên ngành ngôn ngữ học. Ví dụ như từ nevose, dịch là nhiễu tâm , tâm căn , loạn thần kinh chức năng ,vv,
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này