1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. muadonglainhodenanh

    muadonglainhodenanh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    11/11/2004
    Bài viết:
    85
    Đã được thích:
    0
    Chào dumb và mọi người .
    Mình xin tự giới thiệu mình là người mới bắt đầu tìm hiểu về phân tâm học nên có gì sai sót mọi người bỏ qua nhé !
    Mình đã đọc qua các bài viết của dumb , không biết dumb có học ngành tâm lý không chứ mình thấy kiến thức về tâm lý của bạn ấy rất vững chắc , và có ích ( ít ra đối với mình ) . Cám ơn bạn nhiều lắm .
    Ở trên dumb có nhắc tới khái niệm " Mình ý thức " , mình nghĩ đây cũng là Tự ý thức .
    Vậy mong dumb thử phân biệt hai khái niệm Mình Ý Thức Ý Thức giúp mình .
    Theo mình thì hai cái này có quan hệ chặt chẽ với nhau , Ý Thức là những hiểu biết về thực tại khách quan , còn Mình Ý Thức lại là những ý thức về chính bản thân mình , nhận thấy mình là một cá thể trong cộng đồng .. theo mình nghĩ Mình ý thức cũng là một sản phẩm của Ý thức , hai cái này đều bắt nguồn từ các điều kiện tồn tại và phát triển của con người ,có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ... ngoài ra người ta còn có khả năng Tự Ý Thức dựa vào trực giác , tức là một dạng tâm trí tiềm tàng nơi họ , như khái niệm Ngộ cũng là một quá trình tự ý thức .
    Mình chỉ phỏng đoán vậy thôi , rất mơ hồ phải không , mong dumb viết bài trả lời mình , còn nếu bạn ấy bận quá thì xin chờ hồi âm của người khác vậy
    Câu hỏi thứ hai mình muốn hỏi là về vấn đề archetype trong Vô Thức Tập Thể , mình có đọc đi đọc lại những bài viết của dumb nhưng quả thực khái niệm này quá trừu tượng đối với mình . Nếu được mong bạn phân tích kĩ hơn và cho nhiều ví dụ sinh động .
    Thx
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Bản năng và gen di truyền
    Nhưng Trước hết , khi bàn về V/đ vô thức/ ý thức & Khái niệm về Cổ mẫu (Archetype) của Jung, để tôi thử xác định từ "bản năng" có nghĩa là gì.
    Gánh nặng di truyền là 1 ý niệm cúa đề tài này. Và Charles Darwin nói gì về V/đ này ra sao nhỉ?
    Ông viết trong cuốn Nguồn gốc các loài như sau: "Tôi sẽ không cố thử định nghĩa bản năng đâu.
    Dễ dàng thấy rằng một số hoạt động trí óc thông thường thuộc về bản năng; tất cả mọi người đều hiểu ý nghĩa khi nói rằng bản năng thúc đẩy loài chim cu cu di cư và đẻ trứng vào tổ của những con chim khác". Bạn có thể nói rằng, thế là quá nhiều cho cha đẻ của thuyết tiến hóa rồi.
    Nhưng Darwin đã đúng khi chỉ ra rằng không một đặc tính nào liên quan đến khái niệm "bản năng" có tính phổ quát cao; chúng
    chỉ là những trường hợp đặc biệt của bản năng mà thôi.
    Tất nhiên chúng ta có thể có một định nghĩa chấp nhận được, và một định nghĩa như thế phải nêu được sự khác biệt giữa trí óc bẩm sinh của chúng ta và trí óc nhân tạo do học tập, văn hóa, xã hội tạo nên.
    Do đó, bản năng là một phần của hành vi con người không phải do học tập mà có.
    Tuy vậy, môi trường của chúng ta (và do đó việc học tập của chúng ta) có thể có ảnh hưởng rất mạnh đến đến cách thể hiện bản năng.
    Bản năng là những yếu tố của hành vi, dục vọng, lí trí, và cách ứng xử của chúng ta mà chúng ta được kế thừa, và những bản năng đặc trưng của con người là những bản năng đã được mài rũa trong thời kì loài người ở trên đồng cỏ savan miền Đông Phi.
    Ngày nay chúng ta biết được nhiều đặc tính kế thừa hơn Darwin - chúng ta biết rằng, chúng được di truyền thông qua gen.
    Việc giải mã bản đồ hệ thống gen của con người là một bước ngoặt trong lịch sử khoa học nhân loại.
    Một nhân vật quan trọng trong chương trình nghiên cứu quốc tế này là John Sulston (*Người đạt giải Nobel y học năm 2002*), người lãnh đạo viện nghiên cứu Sanger (Anh).
    Khó có thể nắm hết các thành tựu của Sulston và đồng nghiệp của ông như nhà nghiên cứu người Mĩ Francis Collins và Eric Lander. Năm 1985, lần đầu tiên, nhiều nhà khoa học tiếng tăm trong lĩnh vực y học tập trung ở Santa Cruz để thảo luận ý tưởng và kết luận rằng về căn bản, giải mã bản đồ gen người là không thể thực hiện được.
    Nhưng vào năm 1988 dự án đó đã được chính phủ Mĩ đóng dấu chính thức. Một số người đã ví nhiệm vụ này giống bắn đại bác lên mặt trăng, còn đối với những người tham gia chương trình này họ có cảm tưởng như họ đã hứa đưa người lên sao Hỏa. Nhưng cảm giác đó đã nhanh chóng thay đổi cùng với những bước tiến rất nhanh trong kĩ thuật tách DNA và sức mạnh của siêu máy tính. Và chương trình bản đồ gen người (human genome atlas project) đã hoàn thành vào năm 2001.
    Thế kỉ hai mươi khẳng định các thành tựu hoa học thật là ấn tượng, bắt đầu bằng lí thuyết tương đối hẹp và tương đối rộng của Einstein, lí thuyết đã táo bạo thách thức tính chính thống của vật lí Newton. Không lâu sau đó nó đã được chứng minh bằng việc giải thích những dị thường trong quĩ đạo của sao Thuỷ và tiên đoán chính xác tia sáng của một ngôi sao bị bẻ cong khi đến gần mặt trời khi nhật thực xảy ra. Thế giới lại phải thừa nhận một khẳng định cực kì rõ ràng và bạo lực về tính chính xác của lí thuyết Einstein khi Mĩ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki và Hiroshima.
    Nhưng các ngành khoa học xã hội và những cố gắng để soi sáng bản chất con người thì sao?
    Các nhà nhân chủng học đã trở lại từ những hòn đảo thần tiên xa vời cũng như từ những khu ổ chuột trong thành phố với những câu chuyện tuyệt vời về những kì dị văn hoá, các lễ nghi và tín ngưỡng kì lạ và khác thường.
    Một số nhà nhân chủng học khác đã cố gắng xây dựng một lí thuyết lớn và có tầm phổ quát rộng về việc làm thế nào mà bản chất và văn hoá của con người lại có những điểm tương đồng và khác biệt từ nơi này đến nơi khác trên thế giới và lúc này đến lúc khác theo thời gian.
    Nhưng sau một thời gian, các lí thuyết của họ như là thuyết chức năng hoặc thuyết cấu trúc chìm dần hoặc không có ai tin.
    (còn tiếp)
    Được Hoailong sửa chữa / chuyển vào 04:07 ngày 07/01/2005
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Bản năng và gen di truyền
    Nhưng Trước hết , khi bàn về V/đ vô thức/ ý thức & Khái niệm về Cổ mẫu (Archetype) của Jung, để tôi thử xác định từ "bản năng" có nghĩa là gì.
    Gánh nặng di truyền là 1 ý niệm cúa đề tài này. Và Charles Darwin nói gì về V/đ này ra sao nhỉ?
    Ông viết trong cuốn Nguồn gốc các loài như sau: "Tôi sẽ không cố thử định nghĩa bản năng đâu.
    Dễ dàng thấy rằng một số hoạt động trí óc thông thường thuộc về bản năng; tất cả mọi người đều hiểu ý nghĩa khi nói rằng bản năng thúc đẩy loài chim cu cu di cư và đẻ trứng vào tổ của những con chim khác". Bạn có thể nói rằng, thế là quá nhiều cho cha đẻ của thuyết tiến hóa rồi.
    Nhưng Darwin đã đúng khi chỉ ra rằng không một đặc tính nào liên quan đến khái niệm "bản năng" có tính phổ quát cao; chúng
    chỉ là những trường hợp đặc biệt của bản năng mà thôi.
    Tất nhiên chúng ta có thể có một định nghĩa chấp nhận được, và một định nghĩa như thế phải nêu được sự khác biệt giữa trí óc bẩm sinh của chúng ta và trí óc nhân tạo do học tập, văn hóa, xã hội tạo nên.
    Do đó, bản năng là một phần của hành vi con người không phải do học tập mà có.
    Tuy vậy, môi trường của chúng ta (và do đó việc học tập của chúng ta) có thể có ảnh hưởng rất mạnh đến đến cách thể hiện bản năng.
    Bản năng là những yếu tố của hành vi, dục vọng, lí trí, và cách ứng xử của chúng ta mà chúng ta được kế thừa, và những bản năng đặc trưng của con người là những bản năng đã được mài rũa trong thời kì loài người ở trên đồng cỏ savan miền Đông Phi.
    Ngày nay chúng ta biết được nhiều đặc tính kế thừa hơn Darwin - chúng ta biết rằng, chúng được di truyền thông qua gen.
    Việc giải mã bản đồ hệ thống gen của con người là một bước ngoặt trong lịch sử khoa học nhân loại.
    Một nhân vật quan trọng trong chương trình nghiên cứu quốc tế này là John Sulston (*Người đạt giải Nobel y học năm 2002*), người lãnh đạo viện nghiên cứu Sanger (Anh).
    Khó có thể nắm hết các thành tựu của Sulston và đồng nghiệp của ông như nhà nghiên cứu người Mĩ Francis Collins và Eric Lander. Năm 1985, lần đầu tiên, nhiều nhà khoa học tiếng tăm trong lĩnh vực y học tập trung ở Santa Cruz để thảo luận ý tưởng và kết luận rằng về căn bản, giải mã bản đồ gen người là không thể thực hiện được.
    Nhưng vào năm 1988 dự án đó đã được chính phủ Mĩ đóng dấu chính thức. Một số người đã ví nhiệm vụ này giống bắn đại bác lên mặt trăng, còn đối với những người tham gia chương trình này họ có cảm tưởng như họ đã hứa đưa người lên sao Hỏa. Nhưng cảm giác đó đã nhanh chóng thay đổi cùng với những bước tiến rất nhanh trong kĩ thuật tách DNA và sức mạnh của siêu máy tính. Và chương trình bản đồ gen người (human genome atlas project) đã hoàn thành vào năm 2001.
    Thế kỉ hai mươi khẳng định các thành tựu hoa học thật là ấn tượng, bắt đầu bằng lí thuyết tương đối hẹp và tương đối rộng của Einstein, lí thuyết đã táo bạo thách thức tính chính thống của vật lí Newton. Không lâu sau đó nó đã được chứng minh bằng việc giải thích những dị thường trong quĩ đạo của sao Thuỷ và tiên đoán chính xác tia sáng của một ngôi sao bị bẻ cong khi đến gần mặt trời khi nhật thực xảy ra. Thế giới lại phải thừa nhận một khẳng định cực kì rõ ràng và bạo lực về tính chính xác của lí thuyết Einstein khi Mĩ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki và Hiroshima.
    Nhưng các ngành khoa học xã hội và những cố gắng để soi sáng bản chất con người thì sao?
    Các nhà nhân chủng học đã trở lại từ những hòn đảo thần tiên xa vời cũng như từ những khu ổ chuột trong thành phố với những câu chuyện tuyệt vời về những kì dị văn hoá, các lễ nghi và tín ngưỡng kì lạ và khác thường.
    Một số nhà nhân chủng học khác đã cố gắng xây dựng một lí thuyết lớn và có tầm phổ quát rộng về việc làm thế nào mà bản chất và văn hoá của con người lại có những điểm tương đồng và khác biệt từ nơi này đến nơi khác trên thế giới và lúc này đến lúc khác theo thời gian.
    Nhưng sau một thời gian, các lí thuyết của họ như là thuyết chức năng hoặc thuyết cấu trúc chìm dần hoặc không có ai tin.
    (còn tiếp)
    Được Hoailong sửa chữa / chuyển vào 04:07 ngày 07/01/2005
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    (Tiếp Theo)
    Giáo sư Clifford Geertz, một nhà nhân chủng học rất có uy tín của trường đại học Princeton rất đúng khi chỉ ra rằng các nhà nhân chủng học đã không làm thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
    Ông nói: những nghiên cứu cố gắng chứng minh rằng mặc cảm Oedipus (*Oedipus người đã giết cha để lấy mẹ mình, mặc cảm này là một trong những vấn đề cơ bản của phân tâm học của Freud khi Oedipus phát hiện ra sự thật là vợ mình chính là mẹ mình*) xuất hiện chính là bước lùi của những người ở đảo Trobriand, hoặc lí thuyết cho rằng những người da đỏ Pueblo hoàn toàn không có tính hãnh tiến, chỉ là những lời giải thích hơn là những giả thiết được kiểm nghiệm và chứng minh một cách khoa học.
    Hành vi của con người hay thay đổi và không thể đoán trước được. Hằng ngày khả năng hành vi là vô cùng đa dạng.
    Hãy tưởng tượng rằng bạn đang ở trong một nhà hàng, háo hức đợi món súp của bạn. Bạn đang nhớ bữa trưa của bạn và bạn giống như một trong những con chó của Pavlov, nhỏ nước rãi khi nghĩ về món thịt sườn nướng, chín tới, rất ngon mà bạn đã gọi. Người bồi bàn đặt một cái đĩa trước mặt bạn, nhưng món thịt lại không được ngon lắm, chỗ thì sống chỗ thì cháy như những chiếc ủng cũ.
    Trái tim bạn lặng đi. Bạn phải làm gì nhỉ? Trả lại ư? Cãi lộn ư? Chỉ cho bồi thấy rằng thịt đã quá chín, hơi khét rồi cũng phải ăn ư? Đợi làm miếng thịt mới mà sẽ mất nhiều thời gian nữa ư? Hay đơn giản là rờikhỏi nhà hàng để đi ăn món cánh gà rán.
    Ngược lại, quĩ đạo chuyển động của sao Thuỷ lại có tính chính xác cao, bây giờ lí thuyết tương đối đã làm chính xác thêm mô hình Newton về chuyển động của các hành tinh, và trừ khi sao Thuỷ bất ngờ va chạm với một tiểu hành tinh hoặc một sao chổi nào đó (và thậm chí có như vậy chúng ta vẫn có thể đoán được chuyển động của nó) quĩ đạo đó vẫn có dạng như vậy cho đến khi mặt trời bị đốt cháy hết.
    Bây giờ hãy tưởng tượng một hạt bụi trôi nổi trong một căn phòng, được chiếu sáng bởi một tia sáng sáng mặt trời chiếu qua một chiếc cửa sổ. Hạt bụi này sẽ đi theo một đường trong không gian ba chiều, chuyển động của nó bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố:
    gió thổi qua cửa sổ, ánh sáng mặt trời làm nóng không khí dẫn đến hạt bụi sẽ bị luồng khí nóng bốc lên cao, những cơn gió xoáy phát sinh từ những dòng khí này, và cũng có thể sự va chạm rất hiếm hoi với một hạt bụi khác. Và cuối cùng là lực hấp dẫn và lực cản của không khí, các lực đó tác động lên hạt bụi giống như việc chúng tác dụng lên bất kì vật thể khác trôi
    nổi trong khí quyển. Vệt sáng có vẻ như đầy đặn bị xoắn và bị bẻ cong bị dịch chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Tại bất kì điểm nào trong thời gian các lực này tác động đồng thời. Một số lực như nhiệt năng của mặt trời và hấp dẫn tác động theo các hướng ngược nhau, và triệt tiêu lẫn nhau. Những lực khác sẽ tác động cùng nhau làm tăng vận tốc của hạt bụi theo một hướng
    Hành vi của con người cũng bị nhiều lực tác động giống như hạt bụi. Chúng ta bị đẩy và kéo theo tất cả các hướng bởi các lực sinh học, nhận thức và văn hóa. {Khi dặt v/đ nhận thức và văn hóa tôi đặc biệt nhấn mạnh đến văn hóa Phương Đông}.
    Một số lực đó có hướng ngược nhau {tương khắc} và một số khác lại có cùng hướng {tương sinh} .
    Hai xu hướng bản năng hoàn toàn có thể hành động ngược nhau {tương khắc}.
    Nhưng không có nghĩa là các lực này không thể cùng tồn tại; nó chỉ có nghĩa là các dấu vết để lại trong không gian rất khó có thể hiểu được.
    Chỉ vì chúng ta có một cơ chế thích ứng, cơ chế này khuyến khích bạo lực và mặt khác, nó khuyến khích hợp tác.
    Chúng ta bị kéo theo một hướng và bị đẩy theo hướng khác, thách thức đối với chúng ta là làm rõ các lực và giải thích nguồn gốc của chúng.
    Lí thuyết hỗn loạn {Chaos Theory) cho chúng ta thấy rằng có được dấu vết của hạt bụi là rất khó và hoàn toàn không thể đoán trước.
    Lí do cho điều này là "hiệu ứng cánh ****" (butterfly effect), hiệu ứng này được lí thuyết hóa như sau: sự vỗ cánh của một con **** ở Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến lịch trình của một cơn bão trên biển Ca-ri-bê {hay thị trường Chứng Khoán Brasil} .
    Những dịch chuyển rất nhỏ bé của điều kiện ban đầu có thể có những ảnh hưởng to lớn đến kết quả cuối cùng trong 1 hệ hỗn loạn, và điều này áp dụng rất nhiều vào hành vi của con người giống như áp dụng vào thế giới vật lí.
    Việc mô hình hóa hành vi của con người là hoàn toàn không thể vì có quá nhiều yếu tố tham gia.
    Mỗi một yếu tố đều có khả năng có tác động giống như cái vỗ cánh của con ****.. Và còn thêm một điều phức tạp nữa, đó là con người có ý chí tự do.
    Việc giải thích một loạt những hành vi của con người là một quá trình cực kì phức tạp. Đấy là tổng hợp của rất nhiều các yếu tố khác nhau - bản năng, tình cảm, vật lí, lí trí.
    Các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng thời gian của người phản ứng với một chớp sáng thay đổi không theo một mô hình rõ ràng nào.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 07:07 ngày 15/01/2005
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    (Tiếp Theo)
    Giáo sư Clifford Geertz, một nhà nhân chủng học rất có uy tín của trường đại học Princeton rất đúng khi chỉ ra rằng các nhà nhân chủng học đã không làm thực nghiệm trong phòng thí nghiệm.
    Ông nói: những nghiên cứu cố gắng chứng minh rằng mặc cảm Oedipus (*Oedipus người đã giết cha để lấy mẹ mình, mặc cảm này là một trong những vấn đề cơ bản của phân tâm học của Freud khi Oedipus phát hiện ra sự thật là vợ mình chính là mẹ mình*) xuất hiện chính là bước lùi của những người ở đảo Trobriand, hoặc lí thuyết cho rằng những người da đỏ Pueblo hoàn toàn không có tính hãnh tiến, chỉ là những lời giải thích hơn là những giả thiết được kiểm nghiệm và chứng minh một cách khoa học.
    Hành vi của con người hay thay đổi và không thể đoán trước được. Hằng ngày khả năng hành vi là vô cùng đa dạng.
    Hãy tưởng tượng rằng bạn đang ở trong một nhà hàng, háo hức đợi món súp của bạn. Bạn đang nhớ bữa trưa của bạn và bạn giống như một trong những con chó của Pavlov, nhỏ nước rãi khi nghĩ về món thịt sườn nướng, chín tới, rất ngon mà bạn đã gọi. Người bồi bàn đặt một cái đĩa trước mặt bạn, nhưng món thịt lại không được ngon lắm, chỗ thì sống chỗ thì cháy như những chiếc ủng cũ.
    Trái tim bạn lặng đi. Bạn phải làm gì nhỉ? Trả lại ư? Cãi lộn ư? Chỉ cho bồi thấy rằng thịt đã quá chín, hơi khét rồi cũng phải ăn ư? Đợi làm miếng thịt mới mà sẽ mất nhiều thời gian nữa ư? Hay đơn giản là rờikhỏi nhà hàng để đi ăn món cánh gà rán.
    Ngược lại, quĩ đạo chuyển động của sao Thuỷ lại có tính chính xác cao, bây giờ lí thuyết tương đối đã làm chính xác thêm mô hình Newton về chuyển động của các hành tinh, và trừ khi sao Thuỷ bất ngờ va chạm với một tiểu hành tinh hoặc một sao chổi nào đó (và thậm chí có như vậy chúng ta vẫn có thể đoán được chuyển động của nó) quĩ đạo đó vẫn có dạng như vậy cho đến khi mặt trời bị đốt cháy hết.
    Bây giờ hãy tưởng tượng một hạt bụi trôi nổi trong một căn phòng, được chiếu sáng bởi một tia sáng sáng mặt trời chiếu qua một chiếc cửa sổ. Hạt bụi này sẽ đi theo một đường trong không gian ba chiều, chuyển động của nó bị ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố:
    gió thổi qua cửa sổ, ánh sáng mặt trời làm nóng không khí dẫn đến hạt bụi sẽ bị luồng khí nóng bốc lên cao, những cơn gió xoáy phát sinh từ những dòng khí này, và cũng có thể sự va chạm rất hiếm hoi với một hạt bụi khác. Và cuối cùng là lực hấp dẫn và lực cản của không khí, các lực đó tác động lên hạt bụi giống như việc chúng tác dụng lên bất kì vật thể khác trôi
    nổi trong khí quyển. Vệt sáng có vẻ như đầy đặn bị xoắn và bị bẻ cong bị dịch chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Tại bất kì điểm nào trong thời gian các lực này tác động đồng thời. Một số lực như nhiệt năng của mặt trời và hấp dẫn tác động theo các hướng ngược nhau, và triệt tiêu lẫn nhau. Những lực khác sẽ tác động cùng nhau làm tăng vận tốc của hạt bụi theo một hướng
    Hành vi của con người cũng bị nhiều lực tác động giống như hạt bụi. Chúng ta bị đẩy và kéo theo tất cả các hướng bởi các lực sinh học, nhận thức và văn hóa. {Khi dặt v/đ nhận thức và văn hóa tôi đặc biệt nhấn mạnh đến văn hóa Phương Đông}.
    Một số lực đó có hướng ngược nhau {tương khắc} và một số khác lại có cùng hướng {tương sinh} .
    Hai xu hướng bản năng hoàn toàn có thể hành động ngược nhau {tương khắc}.
    Nhưng không có nghĩa là các lực này không thể cùng tồn tại; nó chỉ có nghĩa là các dấu vết để lại trong không gian rất khó có thể hiểu được.
    Chỉ vì chúng ta có một cơ chế thích ứng, cơ chế này khuyến khích bạo lực và mặt khác, nó khuyến khích hợp tác.
    Chúng ta bị kéo theo một hướng và bị đẩy theo hướng khác, thách thức đối với chúng ta là làm rõ các lực và giải thích nguồn gốc của chúng.
    Lí thuyết hỗn loạn {Chaos Theory) cho chúng ta thấy rằng có được dấu vết của hạt bụi là rất khó và hoàn toàn không thể đoán trước.
    Lí do cho điều này là "hiệu ứng cánh ****" (butterfly effect), hiệu ứng này được lí thuyết hóa như sau: sự vỗ cánh của một con **** ở Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến lịch trình của một cơn bão trên biển Ca-ri-bê {hay thị trường Chứng Khoán Brasil} .
    Những dịch chuyển rất nhỏ bé của điều kiện ban đầu có thể có những ảnh hưởng to lớn đến kết quả cuối cùng trong 1 hệ hỗn loạn, và điều này áp dụng rất nhiều vào hành vi của con người giống như áp dụng vào thế giới vật lí.
    Việc mô hình hóa hành vi của con người là hoàn toàn không thể vì có quá nhiều yếu tố tham gia.
    Mỗi một yếu tố đều có khả năng có tác động giống như cái vỗ cánh của con ****.. Và còn thêm một điều phức tạp nữa, đó là con người có ý chí tự do.
    Việc giải thích một loạt những hành vi của con người là một quá trình cực kì phức tạp. Đấy là tổng hợp của rất nhiều các yếu tố khác nhau - bản năng, tình cảm, vật lí, lí trí.
    Các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng thời gian của người phản ứng với một chớp sáng thay đổi không theo một mô hình rõ ràng nào.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 07:07 ngày 15/01/2005
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Những kết quả như thế này rất có tác dụng khi 1 người bị một con sư tử săn đuổi, chúng ta có thể đổi hướng, nhảy sang phải, sang trái theo một cách không thể đoán trước được, như thế, chúng ta có thể thoát được mà không hề hấn gì.
    Sự ngẫu nhiên là 1 phần của cấu tạo thần kinh não bộ của chúng ta. Vào một buổi tối bạn có thể ăn miếng thịt rán, nhưng
    một buổi tối khác bạn có thể đánh người bồi bàn.
    Nhưng chúng ta có thể đưa ra những giả thiết hợp lí về cuộc sống đã diễn ra trên thảo nguyên Savan đông Phi như thế nào và tổ tiên loài người đã phản ứng với kinh nghiệm sống hàng ngày như thế nào.
    Chúng ta biết rằng các nguyên tắc vật lí cơ bản trên hành tinh này không bị thay đổi:
    Có ngày/đêm, có nắng, có mưa, có sự thay đổi nhiệt độ.
    Có đồi để leo, có sông để vượt và thỉnh thoảng có cả hạn hán nữa.
    Chúng ta biết rằng có rất nhiều loài thú ăn thịt lớn thuộc họ nhà mèo vì chúng ta đã tìm thấy xương của chúng. Người hiện đại rất dễ bị ăn thịt. Cũng có những đàn linh dương, hươu và các loài động vật có vú ăn cỏ khác là mồi của các loài thú ăn thịt và cũng có thể là mồi của người hiện đại nữa.
    Thực vật có thể là một nguồn dinh dưỡng nhưng đồng thời nó cung chứa chấp côn trùng có nọc độc cũng như có thể có quả độc nữa.
    .Chúng ta cũng có thể giả thiết rằng đồng cỏ Savan đông Phi không phải là nguồn cung cấp nguồn thức ăn vô hạn.
    Vườn địa đàng này, hay nói đúng hơn là hỗn hợp nhiều vườn địa đàng, không phải là một mảnh đất trù phú với đầy hoa trái trên cây, súc vật trên đồng, chỉ đợi con người đến để săn bắn, hái lượm. Hoa trái, súc vật, nơi trú ẩn như thế đều không nhiều, tức là cần phải cạnh trranh mới có được chúng. Con người không chỉ cạnh tranh với các loài động vật khác mà còn phải cạnh tranh với ngay cả con người. Hay nói cách khác, chúng ta đã biết đến chiến tranh từ thời đó.
    Những dự kiện này là cơ sở cho tiến hóa lấy gen làm trung tâm.
    Trong 50 năm vừa qua chúng ta đã thu thập được rất nhiều chi tiết để làm sáng tỏ chọn lọc tự nhiên đã diễn ra thế nào và lí luận đó đã cho những lời giải thích cực kì hiệu quả.
    Trung tâm của khái niệm này là ý tưởng về gen ích kỉ, chúng ta sẽ thấy, gen ích kỉ có ảnh hưởng to lớn về phát triển tiến hóa
    và tâm lí học con người hiện tại. Nó không chỉ ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh giành nguồn thức ăn và giành quyền giao phối, nó còn định nghĩa các khái niệm quyết định đến sự tiến hóa của cuộc sống ******** và cuộc sống gia đình chúng ta.
    Phần lớn các giả thiết đưa ra đều dựa vào các bằng chứng kém thuyết phục và không chắc chắn: di tích của xương và răng người và vật, các dụng cụ bằng đá, các bằng chứng cho thấy con người làm lều trại, săn bắn trên mặt đất và chế biến thức ăn. Những điều cần làm sáng tỏ thêm là kích thước của nhóm người và thói quen ăn uống. Nhưng chúng ta cũng không nên đáng giá thấp sức mạnh của khảo cổ học vì những chiếc xương đó có thể mang lại rất nhiều thông tin lí thú.
    Chúng ta học thêm về thế giới mà tổ tiên của chúng ta đã sống một thời gian dài. Đó chính là nơi mà trí não và bản năng của chúng ta tiến hóa. Các điều kiện trên các cánh đồng cỏ Savan đông Phi có một vai trò cực kì quan trọng trong việc xác định các yếu tố trí tuệ được thích nghi trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
    Chọn lọc tự nhiên và sự thích nghi
    Thích nghi thể chất khá dễ dàng được nhận biết.
    Lưỡi của con ong nghệ (bumble-bee) có hình dáng hoàn hảo để hút mật hoa ở tận sâu bên trong một bông hoa. Những loài ong như thế với cái lưỡi ngắn thỉnh thoảng còn được gọi là "kẻ cướp mật hoa", chúng hút mật hoa bằng cách đục một cái lỗ trên cánh hoa, gần đáy của tràng hoa và rút mật theo đường đó.
    Tương tự như vậy, cánh của hầu hết các loài chim đã được thích nghi rất tốt để vẫy, để lượn, và để nâng. Điều đó không có nghĩa là đôi cánh được thiết kế để thuận lợi cho việc bay mà đơn giản là các loài chim đó được thừa hưởng gen được mã hóa cho đôi cánh có tác dụng hơn và do đó sẽ có cơ hội sống sót và sinh sản cao hơn.
    Nên khi nói rằng đặc điểm X được thích nghi cho 1chức năng Y nhất định, tôi không muốn truyền đạt bất kì một ý nghĩa về mục đích hoặc kế hoạch nào.
    Cái lưỡi của con ong nghệ và đôi cánh của loài chim là những công cụ tinh vi để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Vẻ tao nhã, tính đối xứng và tính hiệu quả của thích nghi sinh học có thể thấy mọi nơi trong tự nhiên.
    Nhưng sự tiến hóa cũng không phải là hoàn hảo. Chúng ta không nên bị mắc lừa khi nghĩ rằng chọn lọc tự nhiên là giải pháp tuyệt vời nhất, "rẻ" nhất, và tao nhã nhất cho tất cả các vấn đề được đưa ra. Nhiều sự thích nghi được xem là các công trình của một nhà thiết kế thiên tài, nhưng cũng có nhiều ví dụ cho thấy chúng có vẻ như rất thô thiển, thiếu suy nghĩ và rất vụng về.
    Đôi mắt của chúng ta là một ví dụ khá điển hình.
    Đôi mắt thực sự có khả năng nhìn và khả năng phân biệt màu sắc tuyệt vời. Nếu ở trạng thái làm việc tốt, mắt có thể tự động điều chỉnh tiêu cự rất nhanh và có thể điều chỉnh lượng ánh sáng vào mắt một cách chính xác. Hơn nữa, mắt có thể tự làm sạch và được đặt rất thông minh trong một hõm mắt để bảo vệ nó khỏi tác động mạnh từ bên ngoài. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta bị cận thị và bệnh đục nhân mắt rất phổ biến. Và có một sai lầm lớn về thiết kế:
    Võng mạc (retina) nhạy ánh sáng nằm sau một lớp mạch máu và dây thần kinh, và những "ống dịch vụ" này đã giới hạn lượng ánh sáng tới võng mạc. Sự sắp xếp này cũng đòi hỏi có một cái hố sau võng mạc để cho các mạch máu và dây thần kinh có thể đi qua và nối với bộ óc, cái hố này chính là điểm mù (blind spot).
    Và nghiêm trọng hơn, võng mạc có thể bị tách rời dễ dàng. Nếu võng mạc được bố trí ở phía trước thì sẽ tốt hơn rất nhiều, chúng ta có thể thấy thiết kế "cao cấp" này ở các động vật thân mềm như mực ống hay bạch tuộc .

    Tiến hóa không hoàn hảo bởi vì nó luôn bao gồm sự thay đổi:
    Mắt người tiến hóa từ một số các tế bào nhạy ánh sáng trên da. Một khi các tế bào nhạy sáng này liên lạc với bộ não bằng các dây thần kinh và các cơ sở cấu trúc của mắt người được hình thành thì tiến hóa không thể thoái lui để tái tổ chức lại hệ thống. Các bước lùi hầu như không bao giờ xảy ra.
    Một sự phức tạp phụ nữa là chọn lọc tự nhiên bao gồm một loạt các áp lực tiến hóa đồng thời. Không có sự lựa chọn đơn giản và rõ ràng cho một thị lực tốt hơn mà không có một hiệu ứng kích thích lên một khía cạnh khác của con người chúng ta. Có thể một phần của bộ não được sử dụng để sử lí các tín hiệu thị giác đồng thời nó cũng được dùng cho các mục đích khác.
    Không có sự thích nghi nào xuất hiện độc lập và chúng ta được lấp đầy bởi các thỏa hiệp và các chức năng đan chéo.
    (còn tiếp)
    Được hOAILONG sửa chữa / chuyển vào 08:33 ngày 21/01/2005
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Những kết quả như thế này rất có tác dụng khi 1 người bị một con sư tử săn đuổi, chúng ta có thể đổi hướng, nhảy sang phải, sang trái theo một cách không thể đoán trước được, như thế, chúng ta có thể thoát được mà không hề hấn gì.
    Sự ngẫu nhiên là 1 phần của cấu tạo thần kinh não bộ của chúng ta. Vào một buổi tối bạn có thể ăn miếng thịt rán, nhưng
    một buổi tối khác bạn có thể đánh người bồi bàn.
    Nhưng chúng ta có thể đưa ra những giả thiết hợp lí về cuộc sống đã diễn ra trên thảo nguyên Savan đông Phi như thế nào và tổ tiên loài người đã phản ứng với kinh nghiệm sống hàng ngày như thế nào.
    Chúng ta biết rằng các nguyên tắc vật lí cơ bản trên hành tinh này không bị thay đổi:
    Có ngày/đêm, có nắng, có mưa, có sự thay đổi nhiệt độ.
    Có đồi để leo, có sông để vượt và thỉnh thoảng có cả hạn hán nữa.
    Chúng ta biết rằng có rất nhiều loài thú ăn thịt lớn thuộc họ nhà mèo vì chúng ta đã tìm thấy xương của chúng. Người hiện đại rất dễ bị ăn thịt. Cũng có những đàn linh dương, hươu và các loài động vật có vú ăn cỏ khác là mồi của các loài thú ăn thịt và cũng có thể là mồi của người hiện đại nữa.
    Thực vật có thể là một nguồn dinh dưỡng nhưng đồng thời nó cung chứa chấp côn trùng có nọc độc cũng như có thể có quả độc nữa.
    .Chúng ta cũng có thể giả thiết rằng đồng cỏ Savan đông Phi không phải là nguồn cung cấp nguồn thức ăn vô hạn.
    Vườn địa đàng này, hay nói đúng hơn là hỗn hợp nhiều vườn địa đàng, không phải là một mảnh đất trù phú với đầy hoa trái trên cây, súc vật trên đồng, chỉ đợi con người đến để săn bắn, hái lượm. Hoa trái, súc vật, nơi trú ẩn như thế đều không nhiều, tức là cần phải cạnh trranh mới có được chúng. Con người không chỉ cạnh tranh với các loài động vật khác mà còn phải cạnh tranh với ngay cả con người. Hay nói cách khác, chúng ta đã biết đến chiến tranh từ thời đó.
    Những dự kiện này là cơ sở cho tiến hóa lấy gen làm trung tâm.
    Trong 50 năm vừa qua chúng ta đã thu thập được rất nhiều chi tiết để làm sáng tỏ chọn lọc tự nhiên đã diễn ra thế nào và lí luận đó đã cho những lời giải thích cực kì hiệu quả.
    Trung tâm của khái niệm này là ý tưởng về gen ích kỉ, chúng ta sẽ thấy, gen ích kỉ có ảnh hưởng to lớn về phát triển tiến hóa
    và tâm lí học con người hiện tại. Nó không chỉ ảnh hưởng đến cuộc đấu tranh giành nguồn thức ăn và giành quyền giao phối, nó còn định nghĩa các khái niệm quyết định đến sự tiến hóa của cuộc sống ******** và cuộc sống gia đình chúng ta.
    Phần lớn các giả thiết đưa ra đều dựa vào các bằng chứng kém thuyết phục và không chắc chắn: di tích của xương và răng người và vật, các dụng cụ bằng đá, các bằng chứng cho thấy con người làm lều trại, săn bắn trên mặt đất và chế biến thức ăn. Những điều cần làm sáng tỏ thêm là kích thước của nhóm người và thói quen ăn uống. Nhưng chúng ta cũng không nên đáng giá thấp sức mạnh của khảo cổ học vì những chiếc xương đó có thể mang lại rất nhiều thông tin lí thú.
    Chúng ta học thêm về thế giới mà tổ tiên của chúng ta đã sống một thời gian dài. Đó chính là nơi mà trí não và bản năng của chúng ta tiến hóa. Các điều kiện trên các cánh đồng cỏ Savan đông Phi có một vai trò cực kì quan trọng trong việc xác định các yếu tố trí tuệ được thích nghi trong quá trình chọn lọc tự nhiên.
    Chọn lọc tự nhiên và sự thích nghi
    Thích nghi thể chất khá dễ dàng được nhận biết.
    Lưỡi của con ong nghệ (bumble-bee) có hình dáng hoàn hảo để hút mật hoa ở tận sâu bên trong một bông hoa. Những loài ong như thế với cái lưỡi ngắn thỉnh thoảng còn được gọi là "kẻ cướp mật hoa", chúng hút mật hoa bằng cách đục một cái lỗ trên cánh hoa, gần đáy của tràng hoa và rút mật theo đường đó.
    Tương tự như vậy, cánh của hầu hết các loài chim đã được thích nghi rất tốt để vẫy, để lượn, và để nâng. Điều đó không có nghĩa là đôi cánh được thiết kế để thuận lợi cho việc bay mà đơn giản là các loài chim đó được thừa hưởng gen được mã hóa cho đôi cánh có tác dụng hơn và do đó sẽ có cơ hội sống sót và sinh sản cao hơn.
    Nên khi nói rằng đặc điểm X được thích nghi cho 1chức năng Y nhất định, tôi không muốn truyền đạt bất kì một ý nghĩa về mục đích hoặc kế hoạch nào.
    Cái lưỡi của con ong nghệ và đôi cánh của loài chim là những công cụ tinh vi để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Vẻ tao nhã, tính đối xứng và tính hiệu quả của thích nghi sinh học có thể thấy mọi nơi trong tự nhiên.
    Nhưng sự tiến hóa cũng không phải là hoàn hảo. Chúng ta không nên bị mắc lừa khi nghĩ rằng chọn lọc tự nhiên là giải pháp tuyệt vời nhất, "rẻ" nhất, và tao nhã nhất cho tất cả các vấn đề được đưa ra. Nhiều sự thích nghi được xem là các công trình của một nhà thiết kế thiên tài, nhưng cũng có nhiều ví dụ cho thấy chúng có vẻ như rất thô thiển, thiếu suy nghĩ và rất vụng về.
    Đôi mắt của chúng ta là một ví dụ khá điển hình.
    Đôi mắt thực sự có khả năng nhìn và khả năng phân biệt màu sắc tuyệt vời. Nếu ở trạng thái làm việc tốt, mắt có thể tự động điều chỉnh tiêu cự rất nhanh và có thể điều chỉnh lượng ánh sáng vào mắt một cách chính xác. Hơn nữa, mắt có thể tự làm sạch và được đặt rất thông minh trong một hõm mắt để bảo vệ nó khỏi tác động mạnh từ bên ngoài. Nhưng rất nhiều người trong chúng ta bị cận thị và bệnh đục nhân mắt rất phổ biến. Và có một sai lầm lớn về thiết kế:
    Võng mạc (retina) nhạy ánh sáng nằm sau một lớp mạch máu và dây thần kinh, và những "ống dịch vụ" này đã giới hạn lượng ánh sáng tới võng mạc. Sự sắp xếp này cũng đòi hỏi có một cái hố sau võng mạc để cho các mạch máu và dây thần kinh có thể đi qua và nối với bộ óc, cái hố này chính là điểm mù (blind spot).
    Và nghiêm trọng hơn, võng mạc có thể bị tách rời dễ dàng. Nếu võng mạc được bố trí ở phía trước thì sẽ tốt hơn rất nhiều, chúng ta có thể thấy thiết kế "cao cấp" này ở các động vật thân mềm như mực ống hay bạch tuộc .

    Tiến hóa không hoàn hảo bởi vì nó luôn bao gồm sự thay đổi:
    Mắt người tiến hóa từ một số các tế bào nhạy ánh sáng trên da. Một khi các tế bào nhạy sáng này liên lạc với bộ não bằng các dây thần kinh và các cơ sở cấu trúc của mắt người được hình thành thì tiến hóa không thể thoái lui để tái tổ chức lại hệ thống. Các bước lùi hầu như không bao giờ xảy ra.
    Một sự phức tạp phụ nữa là chọn lọc tự nhiên bao gồm một loạt các áp lực tiến hóa đồng thời. Không có sự lựa chọn đơn giản và rõ ràng cho một thị lực tốt hơn mà không có một hiệu ứng kích thích lên một khía cạnh khác của con người chúng ta. Có thể một phần của bộ não được sử dụng để sử lí các tín hiệu thị giác đồng thời nó cũng được dùng cho các mục đích khác.
    Không có sự thích nghi nào xuất hiện độc lập và chúng ta được lấp đầy bởi các thỏa hiệp và các chức năng đan chéo.
    (còn tiếp)
    Được hOAILONG sửa chữa / chuyển vào 08:33 ngày 21/01/2005
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Một trong những khám phá gần đây nhất của ngành Sinh học Phân tử là Giải quyết thách thức lớn nhất của Darwin: bí mật về sự tiến hóa của mắt
    Khi những người nghi ngờ Darwin phê phán Thuyết tiến hóa, họ thường tập trung vào vấn đề con mắt. Bản thân Darwin cũng đã thừa nhận là "phi lý" khi cho rằng mắt người đã tiến hóa thông qua sự đột biến tự phát và chọn lọc tự nhiên.
    Các nhà khoa học ở Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử của châu Âu đã giải quyết thách thức lớn của Darwin trong một nghiên cứu về tiến hóa được đăng tải trong Tạp chí Science mới đây. Họ đã giải thích được nguồn gốc tiến hóa của mắt người.
    Các nhà nghiên cứu ở các phòng thí nghiệm của Detlev Arendt và Jochen Wittbrodt đã phát hiện thấy các tế bào nhạy cảm ánh sáng của mắt người, là các tế bào hình que và hình côn, có nguồn gốc tiến hóa bất ngờ: chúng xuất hiện từ quần thể cổ xưa của các tế bào nhạy cảm ánh sáng ban đầu có ở trong não bộ.
    Theo Wittbrodt, không có gì lạ khi các tế bào của mắt người có nguồn gốc từ não bộ. Ngày nay, con người vẫn còn có các tế bào nhạy ánh sáng ở trong não, phát hiện ánh sáng và tác động đến nhịp hoạt động hàngngày của con người. Rất có thể mắt người đã có nguồn gốc từ các tế bào nhạy ánh sáng trong não. Chỉ có sau này trong quá trình tiến hóa, các tế bào não này mới di chuyển vào mắt và có khả năng nhìn.
    Các nhà khoa học phát hiện thấy hai loại tế bào nhạy ánh sáng tồn tại trong mắt của các tổ tiên động vật ban đầu của chúng ta: thể que và tiêm mao. Ở hầu hết động vật, tế bào thể que trở thành một bộ phận của mắt và tế bào tiêm mao được giữ lại trong não. Tuy nhiên, quá trình tiến hóa của mắt người rất đặc biệt, các tế bào tiêm mao được sử dụng để nhìn có thể đã làm gia tăng các tế bào que và tế bào côn của võng mạc.
    Các nhà nghiên cứu của Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử của châu Âu rốt cuộc đã phát hiện ra sự tiến hóa của mắt như thế nào? Bằng cách nghiên cứu một "hóa thạch sống", là Platynereis dumerilii, một loài giun biển vẫn còn giống các tổ tiên ban đầu đã sống cách đây 600 triệu năm, Arendt đã quan sát những hình ảnh của não của loài giun này do nhà nghiên cứu Adriaan Dorresteijn (ở trường Đại học Mianz, CHLB Đức) chụp. Khi quan sát những hình ảnh này, Arendt thấy hình dạng của các tế bào trong não của giun giống các tế bào que và côn trong mắt người. Ngay lập tức Arendt có ý tưởng là cả hai tế bào nhạy cảm ánh sáng này có thể có cùng một nguồn gốc tiến hóa. Để thử nghiệm giả thuyết này, Arendt và Wittbrodt đã sử dụng một công cụ mới của các nhà sinh học về tiến hóa hiện nay là "dấu nhận dạng phân tử" ("molecular fingerprints"). Dấu nhận dạng phân tử là sự kết hợp độc đáo của các phân tử có ở một tế bào đặc hiệu. Theo Arendt, nếu các tế bào của các loài có dấu nhận dạng phân tử giống nhau, thì các tế bào này rất có thể có cùng một tế bào tổ tiên chung.
    Nhà khoa học Kristin Tessmar-Raible đã cung cấp bằng chứng quan trọng hỗ trợ giả thuyết này. Với sự hỗ trợ của nhà nghiên cứu Heidi Snyman của Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử của châu Âu, Tessmar-Raible đã xác định dấu nhận dạng phân tử của tế bào ở não giun. Tessmar-Raible phát hiện thấy opsin, là phân tử nhạy cảm ánh sáng, ở giun giống một cách kỳ lạ với opsin ở tế bào hình que và hình côn của động vật có xương sống. Theo Tessmar-Raible, khi nhìn thấy phân tử có kiểu giống ở động vật có xương sống hoạt động trong tế bào của não giun Playtnereis thì rõ ràng là các tế bào này và các tế bào hình que và hình côn của động vật có xương sống có cùng một dấu nhận dạng phân tử. Đây là bằng chứng cụ thể về nguồn gốc tiến hóa chung. Cuối cùng thì các nhà khoa học cũng đã giải quyết được một trong những bí ẩn về sự tiến hóa của mắt người.
    (Nguồn trích: Sciencedaily, 28/10/2004 )
    Và trong Lời Nói Đầu của cuốn sách: "Tiến Hóa: Sự Chiến thắng Của Một Ý Tưởng" (Evolution: The Triumph of an Idea), tác giả là Carl Zimmer, một cuốn sách đi kèm với chương trình dài 8 tiếng đồng hồ của đài truyền hình PBS về thuyết Tiến Hóa (a companion to the PBS 8-hour television series on Evolution), Richard Hutton , nhà đạo diễn chương trình truyền hình Tiến Hóa trên đài PBS, đã viết :
    "Triết gia Daniel Dennett (* Daniel Dennett giám đốc Trung tâm nghiên cứu Nhận thức kiêm GS triết ĐH Austin B. Fletcher Tufts University Medford, MA ) đã có lần viết về thuyết Tiến Hóa: "Nếu tôi được trao một giải thưởng cho một ý tưởng (về khoa học. TCN) duy nhất và hay nhất từ xưa tới nay, tôi phải trao nó cho Darwin, trước cả Newton và Einstein và mọi người khác. Chỉ trong một sáng kiến, ý tưởng về tiến hóa do chọn lọc tự nhiên đã kết hợp cảnh giới của sự sống, ý nghĩa, và mục đích của sự sống với cảnh giới của không gian và thời gian, nhân và quả, cơ chế vận hành và luật vật lý. Nhưng nó không chỉ là một ý tưởng kỳ diệu. Đó là một ý tưởng nguy hiểm."
    Tại sao lại nguy hiểm? Richard Hutton giải thích :
    "Nguy hiểm vì, đối với những người tin những gì viết trong Thánh Kinh, ý tưởng này đe dọa những niềm tin tôn giáo mà họ trân quý về một quá trình sáng tạo (ra vũ trụ) trong 6 ngày."
    Trong cuốn Tiến Hóa Là Gì? (What Evolution Is?), mới xuất bản gần đây, Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard, đã viết :
    Tiến Hóa không chỉ đơn thuần là một ý tưởng, một lý thuyết, hay một quan niệm, mà là tên của một quá trình trong thiên nhiên. Sự xảy ra của quá trình này có thể chứng minh bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng mà không ai có thể phủ bác được. Ngày nay, xét đến số lượng to lớn những bằng chứng đã được khám phá ra trong 140 năm nay để chứng minh sự hiện hữu của tiến hóa, thật là lạc dẫn khi ta coi Tiến Hóa như là một thuyết. Tiến Hóa không còn là một thuyết, nó đơn giản là một sự kiện.
    Một ví dụ điển hình khác về tiến hóa do chọn lọc tự nhiên đó là xương búa (malleus) và xương đe (incus), những xương nhỏ ở tai trong được dùng để truyền và khuyếch đại âm thanh từ màng tai (ear drum).
    Những chiếc xương nhỏ này có rất nhiều điểm tương đồng với xương tìm thấy ở hàm dưới của loài bò sát và mang của loài cá.
    Có những điểm tương tự đó là bởi vì động vật có vú, bò sát hiện đại và cả cá nữa thừa hưởng chiếc xương này từ một tổ tiên chung. Sự khác biệt xuất hiện trong quá trình tiến hóa, động vật có vú đã kết nạp những chiếc xương đó cho mục đích riêng của chúng.
    Do đó, sự thích nghi này bị giới hạn vì những chiếc xương đó đã từng được sử dụng cho những việc hoàn toàn khác; và để biến xương hàm thành xương tai thì quá trình đó chỉ xảy ra để ưu tiên những đặc điểm có chọn lọc cho loài liên quan. Chọn lọc tự nhiên không thể đơn giản bắt đầu từ sự phân loại và chọn ra giải pháp có khả năng nhất.
    Nếu chúng ta định thiết kế tai người từ đầu thì chiếc tai đó sẽ tốt hơn chiếc tai tạo thành từ miếng xương bị teo. Giống như việc máy bay chở khách Boeing 747 hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều so với bất cứ cái máy bay nào được cải tiến từ kinh khi cầu.
    Nhưng vào lúc này tôi chỉ nhấn mạnh rằng mặc dù trí óc con người được thích nghi để thực hiện những nhiệm vụ nào đó, điều đó không có nghĩa là chúng ta đang nghiên cứu quá trình thích nghi thực sự.
    Ở các loài vật, đặc biệt là các loài mà hành vi của chúng có vẻ như chỉ gồm các quá trình và phản ứng thì việc xác định cái gì là sự thích nghi hay không phải sự thích nghi dễ dàng hơn một chút.
    Việc định hướng trên không của loài chim và công việc {định hướng, xây tổ vv...} do con ong thợ thực hiện có vẻ như là kết
    quả của chọn lọc tự nhiên và chúng được ghi vào bộ gen.
    Chúng là những giải pháp rất tốt cho những vấn đề cực kì phức tạp nảy sinh trong lịch sử tiến hóa. Cơ hội cho các sinh vật học được các mánh khóe trong vô vàn những hành động hỗn độn, ví dụ việc chúng ta đọc sách chẳng hạn, là cực kì nhỏ bé.
    Một số loại hành vi con người không thay đổi khi đi từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác không có nghĩa là chúng được xác định bởi gen. Giống như Daniel Dennett (* giám đốc Trung tâm nghiên cứu Nhận thức kiêm GS triết ĐH Austin B. Fletcher Tufts University Medford, MA ) đã chỉ ra rằng, tất cả các xã hội đều dùng giáo mác và chĩa đầu nhọn về phía kẻ thù, nhưng không có nghĩa là chúng ta có cái gen "chĩa đầu nhọn về phía kẻ thù".
    Tầm quan trọng của xã hội hóa
    Khi các em bé chào đời và bắt đầu nhận thức sự tồn tại của thế giới bên ngoài thì quá trình phát triển thần kinh cực kì phức tạp bắt đầu. Các bản năng lần lượt trỗi dậy, một chuỗi các phương cách tồn tại cũng thức tỉnh cùng với đứa trẻ sơ sinh.
    Nhưng trí não không thể phát triển trừ khi nó nhận được những tác nhân kích thích hợp lí.
    (Còn tiếp)
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Một trong những khám phá gần đây nhất của ngành Sinh học Phân tử là Giải quyết thách thức lớn nhất của Darwin: bí mật về sự tiến hóa của mắt
    Khi những người nghi ngờ Darwin phê phán Thuyết tiến hóa, họ thường tập trung vào vấn đề con mắt. Bản thân Darwin cũng đã thừa nhận là "phi lý" khi cho rằng mắt người đã tiến hóa thông qua sự đột biến tự phát và chọn lọc tự nhiên.
    Các nhà khoa học ở Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử của châu Âu đã giải quyết thách thức lớn của Darwin trong một nghiên cứu về tiến hóa được đăng tải trong Tạp chí Science mới đây. Họ đã giải thích được nguồn gốc tiến hóa của mắt người.
    Các nhà nghiên cứu ở các phòng thí nghiệm của Detlev Arendt và Jochen Wittbrodt đã phát hiện thấy các tế bào nhạy cảm ánh sáng của mắt người, là các tế bào hình que và hình côn, có nguồn gốc tiến hóa bất ngờ: chúng xuất hiện từ quần thể cổ xưa của các tế bào nhạy cảm ánh sáng ban đầu có ở trong não bộ.
    Theo Wittbrodt, không có gì lạ khi các tế bào của mắt người có nguồn gốc từ não bộ. Ngày nay, con người vẫn còn có các tế bào nhạy ánh sáng ở trong não, phát hiện ánh sáng và tác động đến nhịp hoạt động hàngngày của con người. Rất có thể mắt người đã có nguồn gốc từ các tế bào nhạy ánh sáng trong não. Chỉ có sau này trong quá trình tiến hóa, các tế bào não này mới di chuyển vào mắt và có khả năng nhìn.
    Các nhà khoa học phát hiện thấy hai loại tế bào nhạy ánh sáng tồn tại trong mắt của các tổ tiên động vật ban đầu của chúng ta: thể que và tiêm mao. Ở hầu hết động vật, tế bào thể que trở thành một bộ phận của mắt và tế bào tiêm mao được giữ lại trong não. Tuy nhiên, quá trình tiến hóa của mắt người rất đặc biệt, các tế bào tiêm mao được sử dụng để nhìn có thể đã làm gia tăng các tế bào que và tế bào côn của võng mạc.
    Các nhà nghiên cứu của Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử của châu Âu rốt cuộc đã phát hiện ra sự tiến hóa của mắt như thế nào? Bằng cách nghiên cứu một "hóa thạch sống", là Platynereis dumerilii, một loài giun biển vẫn còn giống các tổ tiên ban đầu đã sống cách đây 600 triệu năm, Arendt đã quan sát những hình ảnh của não của loài giun này do nhà nghiên cứu Adriaan Dorresteijn (ở trường Đại học Mianz, CHLB Đức) chụp. Khi quan sát những hình ảnh này, Arendt thấy hình dạng của các tế bào trong não của giun giống các tế bào que và côn trong mắt người. Ngay lập tức Arendt có ý tưởng là cả hai tế bào nhạy cảm ánh sáng này có thể có cùng một nguồn gốc tiến hóa. Để thử nghiệm giả thuyết này, Arendt và Wittbrodt đã sử dụng một công cụ mới của các nhà sinh học về tiến hóa hiện nay là "dấu nhận dạng phân tử" ("molecular fingerprints"). Dấu nhận dạng phân tử là sự kết hợp độc đáo của các phân tử có ở một tế bào đặc hiệu. Theo Arendt, nếu các tế bào của các loài có dấu nhận dạng phân tử giống nhau, thì các tế bào này rất có thể có cùng một tế bào tổ tiên chung.
    Nhà khoa học Kristin Tessmar-Raible đã cung cấp bằng chứng quan trọng hỗ trợ giả thuyết này. Với sự hỗ trợ của nhà nghiên cứu Heidi Snyman của Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử của châu Âu, Tessmar-Raible đã xác định dấu nhận dạng phân tử của tế bào ở não giun. Tessmar-Raible phát hiện thấy opsin, là phân tử nhạy cảm ánh sáng, ở giun giống một cách kỳ lạ với opsin ở tế bào hình que và hình côn của động vật có xương sống. Theo Tessmar-Raible, khi nhìn thấy phân tử có kiểu giống ở động vật có xương sống hoạt động trong tế bào của não giun Playtnereis thì rõ ràng là các tế bào này và các tế bào hình que và hình côn của động vật có xương sống có cùng một dấu nhận dạng phân tử. Đây là bằng chứng cụ thể về nguồn gốc tiến hóa chung. Cuối cùng thì các nhà khoa học cũng đã giải quyết được một trong những bí ẩn về sự tiến hóa của mắt người.
    (Nguồn trích: Sciencedaily, 28/10/2004 )
    Và trong Lời Nói Đầu của cuốn sách: "Tiến Hóa: Sự Chiến thắng Của Một Ý Tưởng" (Evolution: The Triumph of an Idea), tác giả là Carl Zimmer, một cuốn sách đi kèm với chương trình dài 8 tiếng đồng hồ của đài truyền hình PBS về thuyết Tiến Hóa (a companion to the PBS 8-hour television series on Evolution), Richard Hutton , nhà đạo diễn chương trình truyền hình Tiến Hóa trên đài PBS, đã viết :
    "Triết gia Daniel Dennett (* Daniel Dennett giám đốc Trung tâm nghiên cứu Nhận thức kiêm GS triết ĐH Austin B. Fletcher Tufts University Medford, MA ) đã có lần viết về thuyết Tiến Hóa: "Nếu tôi được trao một giải thưởng cho một ý tưởng (về khoa học. TCN) duy nhất và hay nhất từ xưa tới nay, tôi phải trao nó cho Darwin, trước cả Newton và Einstein và mọi người khác. Chỉ trong một sáng kiến, ý tưởng về tiến hóa do chọn lọc tự nhiên đã kết hợp cảnh giới của sự sống, ý nghĩa, và mục đích của sự sống với cảnh giới của không gian và thời gian, nhân và quả, cơ chế vận hành và luật vật lý. Nhưng nó không chỉ là một ý tưởng kỳ diệu. Đó là một ý tưởng nguy hiểm."
    Tại sao lại nguy hiểm? Richard Hutton giải thích :
    "Nguy hiểm vì, đối với những người tin những gì viết trong Thánh Kinh, ý tưởng này đe dọa những niềm tin tôn giáo mà họ trân quý về một quá trình sáng tạo (ra vũ trụ) trong 6 ngày."
    Trong cuốn Tiến Hóa Là Gì? (What Evolution Is?), mới xuất bản gần đây, Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard, đã viết :
    Tiến Hóa không chỉ đơn thuần là một ý tưởng, một lý thuyết, hay một quan niệm, mà là tên của một quá trình trong thiên nhiên. Sự xảy ra của quá trình này có thể chứng minh bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng mà không ai có thể phủ bác được. Ngày nay, xét đến số lượng to lớn những bằng chứng đã được khám phá ra trong 140 năm nay để chứng minh sự hiện hữu của tiến hóa, thật là lạc dẫn khi ta coi Tiến Hóa như là một thuyết. Tiến Hóa không còn là một thuyết, nó đơn giản là một sự kiện.
    Một ví dụ điển hình khác về tiến hóa do chọn lọc tự nhiên đó là xương búa (malleus) và xương đe (incus), những xương nhỏ ở tai trong được dùng để truyền và khuyếch đại âm thanh từ màng tai (ear drum).
    Những chiếc xương nhỏ này có rất nhiều điểm tương đồng với xương tìm thấy ở hàm dưới của loài bò sát và mang của loài cá.
    Có những điểm tương tự đó là bởi vì động vật có vú, bò sát hiện đại và cả cá nữa thừa hưởng chiếc xương này từ một tổ tiên chung. Sự khác biệt xuất hiện trong quá trình tiến hóa, động vật có vú đã kết nạp những chiếc xương đó cho mục đích riêng của chúng.
    Do đó, sự thích nghi này bị giới hạn vì những chiếc xương đó đã từng được sử dụng cho những việc hoàn toàn khác; và để biến xương hàm thành xương tai thì quá trình đó chỉ xảy ra để ưu tiên những đặc điểm có chọn lọc cho loài liên quan. Chọn lọc tự nhiên không thể đơn giản bắt đầu từ sự phân loại và chọn ra giải pháp có khả năng nhất.
    Nếu chúng ta định thiết kế tai người từ đầu thì chiếc tai đó sẽ tốt hơn chiếc tai tạo thành từ miếng xương bị teo. Giống như việc máy bay chở khách Boeing 747 hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều so với bất cứ cái máy bay nào được cải tiến từ kinh khi cầu.
    Nhưng vào lúc này tôi chỉ nhấn mạnh rằng mặc dù trí óc con người được thích nghi để thực hiện những nhiệm vụ nào đó, điều đó không có nghĩa là chúng ta đang nghiên cứu quá trình thích nghi thực sự.
    Ở các loài vật, đặc biệt là các loài mà hành vi của chúng có vẻ như chỉ gồm các quá trình và phản ứng thì việc xác định cái gì là sự thích nghi hay không phải sự thích nghi dễ dàng hơn một chút.
    Việc định hướng trên không của loài chim và công việc {định hướng, xây tổ vv...} do con ong thợ thực hiện có vẻ như là kết
    quả của chọn lọc tự nhiên và chúng được ghi vào bộ gen.
    Chúng là những giải pháp rất tốt cho những vấn đề cực kì phức tạp nảy sinh trong lịch sử tiến hóa. Cơ hội cho các sinh vật học được các mánh khóe trong vô vàn những hành động hỗn độn, ví dụ việc chúng ta đọc sách chẳng hạn, là cực kì nhỏ bé.
    Một số loại hành vi con người không thay đổi khi đi từ nền văn hóa này đến nền văn hóa khác không có nghĩa là chúng được xác định bởi gen. Giống như Daniel Dennett (* giám đốc Trung tâm nghiên cứu Nhận thức kiêm GS triết ĐH Austin B. Fletcher Tufts University Medford, MA ) đã chỉ ra rằng, tất cả các xã hội đều dùng giáo mác và chĩa đầu nhọn về phía kẻ thù, nhưng không có nghĩa là chúng ta có cái gen "chĩa đầu nhọn về phía kẻ thù".
    Tầm quan trọng của xã hội hóa
    Khi các em bé chào đời và bắt đầu nhận thức sự tồn tại của thế giới bên ngoài thì quá trình phát triển thần kinh cực kì phức tạp bắt đầu. Các bản năng lần lượt trỗi dậy, một chuỗi các phương cách tồn tại cũng thức tỉnh cùng với đứa trẻ sơ sinh.
    Nhưng trí não không thể phát triển trừ khi nó nhận được những tác nhân kích thích hợp lí.
    (Còn tiếp)
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.566
    Đã được thích:
    49
    Ghi Chú 1:
    Các Bạn có thể tải 1 movie Clip về V/đ này để xem theo Link sau đây:
    http://www.pbs.org/wgbh/evolution/library/01/1/quicktime/l_011_01.html
    Ghi Chú 2:
    Các Bạn có thể tải toàn bộ movie Clip về chương trình này để xem theo Link sau đây:
    http://www.pbs.org/wgbh/evolution/about/overview_series.html
    Cần có QuickTime hay RealPlayer
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:01 ngày 11/02/2005
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này