1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Ghi Chú 1:
    Các Bạn có thể tải 1 movie Clip về V/đ này để xem theo Link sau đây:
    http://www.pbs.org/wgbh/evolution/library/01/1/quicktime/l_011_01.html
    Ghi Chú 2:
    Các Bạn có thể tải toàn bộ movie Clip về chương trình này để xem theo Link sau đây:
    http://www.pbs.org/wgbh/evolution/about/overview_series.html
    Cần có QuickTime hay RealPlayer
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:01 ngày 11/02/2005
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    * Lại Chuyện con mắt:
    Trong cuốn "Trí óc con người" (The Human Brain: A Guided Tour xuất bản 1998 (Phoenix Press) ), Susan Greenfield {*Giám đốc Viện Hoàng gia Anh (Royal Institution of Great Britain), người đoạt huy chương Michael Faraday về phổ biến kiến thức Khoa học từ Hiệp hội hoàng gia Anh (Royal Society) } mô tả trường hợp, một cậu bé sáu tuổi lớn lên với một con mắt bị mù. Các bác sĩ nhãn khoa đã kiểm tra tất cả các nguyên nhân có khả năng gây bệnh mù nhưng họ không thể tìm thấy bất kì một sai hỏng nào. Sau khi kiểm tra lại toàn bộ bệnh lí của cậu bé, người ta thấy rằng khi còn nhỏ, cậu ấy bị bịt mắt trong hai tuần vì một chỗ nhiễm trùng.
    Kết quả là các mạch thần kinh xử lí các tín hiệu đến từ mắt không phát triển hoàn hảo - thực tế, các mạch thần kinh này đã chuyển sang thực hiện các chức năng hoàn toàn khác khác nên một bên mắt bị mù {* Như chúng ta đả biết ;các tế bào của mắt người có nguồn gốc từ não bộ. Ngày nay, con người vẫn còn có các tế bào nhạy ánh sáng ở trong não, phát hiện ánh sáng và tác động đến nhịp hoạt động hàng ngày của con người.}
    Môi trường con người lớn lên rất quan trọng cho sự phát triển của bản năng con người. Điều này được thấy rõ khi các đứa trẻ lớn lên mà không có sự hiện diện của con người.
    Một bộ phim rất cảm động "Điều bí ẩn của Kaspar Hauser" (**) của Đức do Werner Herzog thực hiện vào năm 1975 (*đả được chiếu tại VN trong mục:Thế giới qua những thước phim của Werner Herzog 08/04/2004
    (VietNamNet) - Từ 9-16/4/2004, Viện Goethe giới thiệu đến khán giả Hà Nội một chùm phim của đạo diễn nổi tiếng người Đức, Werner Herzog tại rạp 22A Hai Bà Trưng. Bên cạnh đó, một cuộc triển lãm ảnh về Werner Herzog cũng đả được tổ chức song song.*), Phim dựa trên một câu chuyện có thực vào thế kỉ thứ mười tám kể về một thiếu niên đã trải qua những năm đầu đời bị giam hãm trong một cái hầm không có bất cứ liên hệ nào với con người. Sau đó người ta thả cậu ta ra một cách bí mật và theo dõi cậu ta khi một số dân làng tốt bụng tìm thấy cậu ấy. Người ta thấy rằng, cậu bé mất đi một số bản năng cơ bản như là nói và sợ hãi, sau đó cậu ta phải học các bản năng đó không phải hoàn thiện để có tính người hơn.
    * Bi Kịch Những đứa trẻ Người Sói hoang dã
    - những đứa trẻ lớn lên trong thế giới hoang dã, thường được chó sói hoặc các loài động vật hoang dã nuôi cung cấp những khái niệm bí ẩn của bản năng con người. Có vài ví dụ rất tuyệt về các đứa trẻ hoang dã, không ai trong chúng được nghiên cứu một cách nghiêm túc và khách quan, tuy nhiên chúng cũng cung cấp cho chúng ta một số cái nhìn sâu về sự phát triển của bản tính tự nhiên của con người phụ thuộc vào những người khác và nền văn hóa xung quanh chúng ta.
    Vào một ngày trong Năm 1920, đức cha /mục sư J.ẠL. Singh người Ấn Độ sáng lập trại trẻ & điều hành cô nhi viện Midnapore thuộc tỉnh Bengale nông thôn của Ấn độ đã tiếp xúc với một "Manush-Bagha", hay một người-ma trong một cánh rừng cách ngôi làng của ông vài km. Người ta cho rằng đây là sự xuất hiện của một sinh vật có hình người với đầu óc của ma quỉ. Người ma thường chạy bằng bốn chân vào rừng sâu.
    Đức cha rất tò mò và quyết tâm lặn lội vào rừng sâu, đi cùng với ông còn có một số người bảo vệ khác.
    Họ đến một cái ụ đất trắng rất lớn, tình cờ phát hiện có một đàn sói trú dưới một hầm mỏ: đó là một cái tổ ong , cao bằng một tòa nhà hai tầng
    Xung quanh ụ đất, có bẩy cái lỗ hổng lớn có thể đi vào trong lòng của tổ ong. Đức cha Singh và nhóm của ông bố trí xung
    quanh ụ đất và kiên nhẫn chờ đợi người-ma. Khi trời chạng vạng tối, một con sói đầu đàn xuất hiện ở một trong những lỗ hổng, tiếp sau là vài con sói lớn và hai con sói con. Bò sau những con sói con đó là người-ma, đi bằng bốn chân. Cơ thể đúng là của một đứa trẻ, một người sống trong hang, đầu tóc rối bù, đôi mắt toát lên vẻ hung tợn.
    Singh quyết định trở về để lấy thêm dụng cụ phá đổ ụ đất và xông khói để các con vật cứ trú trong đó phải chạy ra. Khi xẻng đất đầu tiên được đào lên, một con sói cái lớn chạy ra, nó bị người của Singh bắn chết. Khi họ đào sâu vào bên trong của tổ ong họ tìm thấy hai con sói con và hai "con ma" nằm túm lại với nhau ở một góc Trong đám "sói con" là hai đứa bé, chúng chống cự lại vị mục sư còn dũng mãnh hơn cả những con sói thực thụ. để chống lại những người phá tổ ong, chúng nhe răng nhưng bị những người đàn ông trói vào trong một tấm vải và kéo đi.
    Hai "con ma" đó là hai đứa bé gái, một đứa còn ở trong thời kì bế ẵm, khuôn mặt gần như bị che khuất bởi vẻ hoang dã của mái tóc bù xù.
    Chúng có thân hình và chân tay người nhưng di chuyển bằng cả tứ chi. Đầu của chúng giống một quả cầu lông, rất khó nhận dạng khuôn mặt .
    Cuối cùng thì chúng cũng bình tĩnh lại. Sau khi đưa hai đứa bé về cô nhi viện, mục sư Singh hớt đi lớp lông dày bao phủ đầu chúng và xác định được đấy là hai bé gái, một đứa khoảng 8 tuổi, đứa kia khoảng 1 tuổi rưỡi. Singh có thể cho chúng uống sữa và nước. Ông cắt tóc cho chúng và Ông đặt tên đứa lớn là Kamala và đứa nhỏ là Amala.. Ông đoán Kamala khoảng 8 tuổi và Amala khoảng 18 tháng tuổi.
    Về mặt hành vi, những đứa trẻ này không phải là người, điều này thì thấy rất rõ. Trong sinh hoạt hàng ngày, Kamala và Amala không bao giờ rời nhau; chúng nằm ngủ sát nhau như hai con sói nằm trong hang. Chúng mang những dấu vết của cuộc sống hoang dã, có thể chúng có nhiều vết thương, vết trầy xước và mụn nhọt. Chúng gần như ngủ suốt ngày và chạy đi tìm mồi lúc chạng vạng tối.
    Khi đêm xuống, thỉnh thoảng chúng tru lên man rợ. Đôi mắt chúng nhìn trong bóng đêm có vẻ tinh nhạy hơn mắt người thường.
    Singh kể rằng mắt chúng dường như thích hợp cho việc nhìn trong bóng tối. Chúng nhìn trong bóng đêm một cách dễ dàng, mặc dù về điểm này ông nói hơi phóng đại. Chúng tợp nước bằng lưỡi, ngậm thức ăn cứng đầy miệng và rất ưa thịt sống.
    Kamala có thể ngửi thấy mùi thịt từ khoảng cách khá xa, và khi nó đi săn thì lòng ruột của các con gà xấu số bị vứt bên ngoài của khu nhà cho trẻ mồ côi. Chúng không ăn bằng tay mà cúi xuống ăn bằng mồm như chó sói.
    Dù cho ông bà Singh rất cố gắng khôi phục nhân tính ở chúng, nhưng Kamala và Amala vẫn cư xử như những con sói. Chúng luôn đứng bằng cả bốn tay chân và chạy nhanh đến mức con người không thể đuổi kịp. Các khớp xương bị cứng lại nên chúng chỉ có thể đi bằng bốn chân, chúng không thể đứng lên được. Cơ bắp và khớp xương của chúng đã quá quen thuộc với cách di chuyển như vậy nên mỗi ngày, bà Singh đều dành thời gian xoa bóp chân tay cho chúng.
    Chúng lại hoạt động về đêm, ngủ ban ngày và tỉnh vào ban đêm & Chúng còn ăn thịt sống nữa.
    Chúng không có biểu hiện giao tiếp chỉ thỉnh thoảng Singh nghe thấy chúng phát ra một âm thanh có ý nghĩa. Chúng tiểu
    tiện và đại tiện bừa bãi và ngủ cuộn với nhau như những con sói con.
    Trong một thời gian ngắn trước khi hai đứa trẻ có vẻ như bị nhiễm trùng, chúng bắt đầu quấn quít vợ của Singh. Chúng trở nên tin tưởng hơn và hiếu động hơn nhưng vẫn không có dấu hiệu của ngôn ngữ hoặc bất kì biểu hiện cử chỉ ngôn ngữ cơ bản nào.
    Gần một năm trôi qua, cả hai đứa trẻ bị bệnh lị rất nặng, chúng bị nhiễm giun, chúng trở nên yếu hơn và chỉ di chuyển khi đưa nước và thuốc vào liệng chúng. Sau đó, đứa lớn Kamala có vẻ khá hơn còn đứa bé thì hấp hối mấy ngày sau đó.
    Sau 1 năm sống tại cô nhi viện một năm, Amala qua đời.
    Singh kể rằng khi Amala chết, Kamala cứ luẩn quẩn bên xác của em. Nó vuốt ve mặt của Amala, cố cạy mắt nó ra. Singh thấy hai giọt nước mắt chảy xuống từ đôi mắt của nó. Sáu ngày sau, Kamala chỉ ngồi trong góc phòng, một mình, bất động đối với bệnh tật và vuốt ve.
    Thỉnh thoảng Kamala ăn nhiều quá, nhiều đến nỗi làm cho nó bị ốm. Nó không thể giết con mồi được nữa, nhưng nếu nó tìm thấy một cái xác động vật chết nào đó nó sẽ mang về nhà và đôi khi còn đuổi các con chim kền kền chuyên ăn xác chết khỏi miếng mồi của nó.
    Cũng có khi nó giấu xác chết đâu đó quanh khu trại. Nó cũng biết cảm nhận vị ngọt nữa.
    Dần dần, nó học được vài từ như "vâng" và "quần áo", nó còn biết tên của một vài đứa trẻ trong trại trẻ mồ côi đó. Nó nhận ra các màu sắc và sử dụng được nhà vệ sinh. Nhưng ngoài những thứ đó ra, nó không có thêm tiến bộ gì đáng kể.
    Còn Kamala, sau 2 năm luyện tập, nó đã quỳ được bằng hai gối, nửa năm sau nữa bắt đầu đứng được nhưng phải đợi ba năm kể từ ngày trở về cộng đồng người nó mới tập tễn được những bước đầu tiên.
    Cuối năm 1924, Kamala đã khoảng 12 tuổi, nhưng chỉ biết được hơn 45 từ đơn tiết. Sau 9 năm sống với Singh và những người xung quanh, Kamala lại bị ốm một lần nữa và Nó chết vào ngày 14-11-1929 vì chứng tăng urê huyết.
    Quyển sách mà mục sư Singh và giáo sư R.Zingg viết để miêu tả những khảo sát của họ đối với hai đứa bé người sói đã gây một tiếng vang lớn và nhắc các nhà nghiên cứu về một số tình tiết đáng lưu ý. Trước tiên, sự cách biệt tuổi tác giữa Kamala và Amala chứng tỏ chúng được những con sói "nhặt được" trong hai thời điểm cách xa nhau và sự lặp lại như thế làm cho câu chuyện sói nuôi người càng kỳ lạ hơn.
    Mặt khác, người ta ghi nhận trong quá khứ, không chỉ chó sói mà nhiều loại động vật khác cũng đã từng nuôi con người: gấu, cừu hoang, lợn rừng, và cả báo nữa.
    Lịch sử đã ghi lại năm 1544, người ta đã gặp một thanh niên sống giữa bầy sói ở tỉnh Hesse (Đức) và về sau trường hợp này đã lôi cuốn sự quan tâm của nhà tư tưởng vĩ đại Jean Jeaques Rousseau (1712-1778). Ông đã đưa ra giải pháp buộc cây gỗ vào người sói để giúp chúng bỏ dần thói quen di chuyển bằng cả tứ chi.
    Năm 1661, các thợ săn đã gặp một đứa bé khoảng 9 tuổi sống chung với 1 bầy gấu trong rừng Lituanic. Khi bị bắt, nó dùng cả răng lẫn móng tay, móng chân để chống cự.
    Đến năm 1719, người ta phát hiện hai đứa trẻ người sơn dương trong dãy Pyrenées và năm 1815, tìm thấy một trường hợp người lợn.
    Gần đây hơn, một đứa bé người sơn dương bị một người đi ôtô rượt bắt được ở Liban. Nó khoảng 13-14 tuổi và không thể tiếp nhận một sự giáo dục nào. Ít lâu sau, không còn tin tức gì về nó nữa. Có tin đồn rằng những người nông dân được giao nhiệm vụ trông coi đã quá mệt mỏi với những vụ chạy trốn thường xuyên của nó nên đã cắt nhượng chân nó!
    (**)Trường hợp người sói Kaspar Hauser đặc biệt hơn vì mang tính chất lịch sử trinh thám. Được tìm thấy vào ngày 16-5-1828 tại một địa điểm thuộc Nuremberg (Đức) ở độ tuổi khoảng 16-17, sống dưới cống ngầm, tâm lý, ý thức của nó chỉ bằng đứa trẻ lên ba. Lúc đầu K. Hauser chỉ biết nói vài từ vô nghĩa nhưng sau đó học nói rất nhanh. Có tin đồn K. Hauser là người thừa kế duy nhất của một dòng hoàng tộc châu Âu, do đó trở thành đối tượng bị truy sát. Đến năm 1833, Hauser đột ngột biến mất, vĩnh viễn mang theo mình những bí mật cho đến nay vẫn chưa được sáng tỏ.
    Được HoaILong sửa chữa / chuyển vào 09:05 ngày 22/02/2005
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    * Lại Chuyện con mắt:
    Trong cuốn "Trí óc con người" (The Human Brain: A Guided Tour xuất bản 1998 (Phoenix Press) ), Susan Greenfield {*Giám đốc Viện Hoàng gia Anh (Royal Institution of Great Britain), người đoạt huy chương Michael Faraday về phổ biến kiến thức Khoa học từ Hiệp hội hoàng gia Anh (Royal Society) } mô tả trường hợp, một cậu bé sáu tuổi lớn lên với một con mắt bị mù. Các bác sĩ nhãn khoa đã kiểm tra tất cả các nguyên nhân có khả năng gây bệnh mù nhưng họ không thể tìm thấy bất kì một sai hỏng nào. Sau khi kiểm tra lại toàn bộ bệnh lí của cậu bé, người ta thấy rằng khi còn nhỏ, cậu ấy bị bịt mắt trong hai tuần vì một chỗ nhiễm trùng.
    Kết quả là các mạch thần kinh xử lí các tín hiệu đến từ mắt không phát triển hoàn hảo - thực tế, các mạch thần kinh này đã chuyển sang thực hiện các chức năng hoàn toàn khác khác nên một bên mắt bị mù {* Như chúng ta đả biết ;các tế bào của mắt người có nguồn gốc từ não bộ. Ngày nay, con người vẫn còn có các tế bào nhạy ánh sáng ở trong não, phát hiện ánh sáng và tác động đến nhịp hoạt động hàng ngày của con người.}
    Môi trường con người lớn lên rất quan trọng cho sự phát triển của bản năng con người. Điều này được thấy rõ khi các đứa trẻ lớn lên mà không có sự hiện diện của con người.
    Một bộ phim rất cảm động "Điều bí ẩn của Kaspar Hauser" (**) của Đức do Werner Herzog thực hiện vào năm 1975 (*đả được chiếu tại VN trong mục:Thế giới qua những thước phim của Werner Herzog 08/04/2004
    (VietNamNet) - Từ 9-16/4/2004, Viện Goethe giới thiệu đến khán giả Hà Nội một chùm phim của đạo diễn nổi tiếng người Đức, Werner Herzog tại rạp 22A Hai Bà Trưng. Bên cạnh đó, một cuộc triển lãm ảnh về Werner Herzog cũng đả được tổ chức song song.*), Phim dựa trên một câu chuyện có thực vào thế kỉ thứ mười tám kể về một thiếu niên đã trải qua những năm đầu đời bị giam hãm trong một cái hầm không có bất cứ liên hệ nào với con người. Sau đó người ta thả cậu ta ra một cách bí mật và theo dõi cậu ta khi một số dân làng tốt bụng tìm thấy cậu ấy. Người ta thấy rằng, cậu bé mất đi một số bản năng cơ bản như là nói và sợ hãi, sau đó cậu ta phải học các bản năng đó không phải hoàn thiện để có tính người hơn.
    * Bi Kịch Những đứa trẻ Người Sói hoang dã
    - những đứa trẻ lớn lên trong thế giới hoang dã, thường được chó sói hoặc các loài động vật hoang dã nuôi cung cấp những khái niệm bí ẩn của bản năng con người. Có vài ví dụ rất tuyệt về các đứa trẻ hoang dã, không ai trong chúng được nghiên cứu một cách nghiêm túc và khách quan, tuy nhiên chúng cũng cung cấp cho chúng ta một số cái nhìn sâu về sự phát triển của bản tính tự nhiên của con người phụ thuộc vào những người khác và nền văn hóa xung quanh chúng ta.
    Vào một ngày trong Năm 1920, đức cha /mục sư J.ẠL. Singh người Ấn Độ sáng lập trại trẻ & điều hành cô nhi viện Midnapore thuộc tỉnh Bengale nông thôn của Ấn độ đã tiếp xúc với một "Manush-Bagha", hay một người-ma trong một cánh rừng cách ngôi làng của ông vài km. Người ta cho rằng đây là sự xuất hiện của một sinh vật có hình người với đầu óc của ma quỉ. Người ma thường chạy bằng bốn chân vào rừng sâu.
    Đức cha rất tò mò và quyết tâm lặn lội vào rừng sâu, đi cùng với ông còn có một số người bảo vệ khác.
    Họ đến một cái ụ đất trắng rất lớn, tình cờ phát hiện có một đàn sói trú dưới một hầm mỏ: đó là một cái tổ ong , cao bằng một tòa nhà hai tầng
    Xung quanh ụ đất, có bẩy cái lỗ hổng lớn có thể đi vào trong lòng của tổ ong. Đức cha Singh và nhóm của ông bố trí xung
    quanh ụ đất và kiên nhẫn chờ đợi người-ma. Khi trời chạng vạng tối, một con sói đầu đàn xuất hiện ở một trong những lỗ hổng, tiếp sau là vài con sói lớn và hai con sói con. Bò sau những con sói con đó là người-ma, đi bằng bốn chân. Cơ thể đúng là của một đứa trẻ, một người sống trong hang, đầu tóc rối bù, đôi mắt toát lên vẻ hung tợn.
    Singh quyết định trở về để lấy thêm dụng cụ phá đổ ụ đất và xông khói để các con vật cứ trú trong đó phải chạy ra. Khi xẻng đất đầu tiên được đào lên, một con sói cái lớn chạy ra, nó bị người của Singh bắn chết. Khi họ đào sâu vào bên trong của tổ ong họ tìm thấy hai con sói con và hai "con ma" nằm túm lại với nhau ở một góc Trong đám "sói con" là hai đứa bé, chúng chống cự lại vị mục sư còn dũng mãnh hơn cả những con sói thực thụ. để chống lại những người phá tổ ong, chúng nhe răng nhưng bị những người đàn ông trói vào trong một tấm vải và kéo đi.
    Hai "con ma" đó là hai đứa bé gái, một đứa còn ở trong thời kì bế ẵm, khuôn mặt gần như bị che khuất bởi vẻ hoang dã của mái tóc bù xù.
    Chúng có thân hình và chân tay người nhưng di chuyển bằng cả tứ chi. Đầu của chúng giống một quả cầu lông, rất khó nhận dạng khuôn mặt .
    Cuối cùng thì chúng cũng bình tĩnh lại. Sau khi đưa hai đứa bé về cô nhi viện, mục sư Singh hớt đi lớp lông dày bao phủ đầu chúng và xác định được đấy là hai bé gái, một đứa khoảng 8 tuổi, đứa kia khoảng 1 tuổi rưỡi. Singh có thể cho chúng uống sữa và nước. Ông cắt tóc cho chúng và Ông đặt tên đứa lớn là Kamala và đứa nhỏ là Amala.. Ông đoán Kamala khoảng 8 tuổi và Amala khoảng 18 tháng tuổi.
    Về mặt hành vi, những đứa trẻ này không phải là người, điều này thì thấy rất rõ. Trong sinh hoạt hàng ngày, Kamala và Amala không bao giờ rời nhau; chúng nằm ngủ sát nhau như hai con sói nằm trong hang. Chúng mang những dấu vết của cuộc sống hoang dã, có thể chúng có nhiều vết thương, vết trầy xước và mụn nhọt. Chúng gần như ngủ suốt ngày và chạy đi tìm mồi lúc chạng vạng tối.
    Khi đêm xuống, thỉnh thoảng chúng tru lên man rợ. Đôi mắt chúng nhìn trong bóng đêm có vẻ tinh nhạy hơn mắt người thường.
    Singh kể rằng mắt chúng dường như thích hợp cho việc nhìn trong bóng tối. Chúng nhìn trong bóng đêm một cách dễ dàng, mặc dù về điểm này ông nói hơi phóng đại. Chúng tợp nước bằng lưỡi, ngậm thức ăn cứng đầy miệng và rất ưa thịt sống.
    Kamala có thể ngửi thấy mùi thịt từ khoảng cách khá xa, và khi nó đi săn thì lòng ruột của các con gà xấu số bị vứt bên ngoài của khu nhà cho trẻ mồ côi. Chúng không ăn bằng tay mà cúi xuống ăn bằng mồm như chó sói.
    Dù cho ông bà Singh rất cố gắng khôi phục nhân tính ở chúng, nhưng Kamala và Amala vẫn cư xử như những con sói. Chúng luôn đứng bằng cả bốn tay chân và chạy nhanh đến mức con người không thể đuổi kịp. Các khớp xương bị cứng lại nên chúng chỉ có thể đi bằng bốn chân, chúng không thể đứng lên được. Cơ bắp và khớp xương của chúng đã quá quen thuộc với cách di chuyển như vậy nên mỗi ngày, bà Singh đều dành thời gian xoa bóp chân tay cho chúng.
    Chúng lại hoạt động về đêm, ngủ ban ngày và tỉnh vào ban đêm & Chúng còn ăn thịt sống nữa.
    Chúng không có biểu hiện giao tiếp chỉ thỉnh thoảng Singh nghe thấy chúng phát ra một âm thanh có ý nghĩa. Chúng tiểu
    tiện và đại tiện bừa bãi và ngủ cuộn với nhau như những con sói con.
    Trong một thời gian ngắn trước khi hai đứa trẻ có vẻ như bị nhiễm trùng, chúng bắt đầu quấn quít vợ của Singh. Chúng trở nên tin tưởng hơn và hiếu động hơn nhưng vẫn không có dấu hiệu của ngôn ngữ hoặc bất kì biểu hiện cử chỉ ngôn ngữ cơ bản nào.
    Gần một năm trôi qua, cả hai đứa trẻ bị bệnh lị rất nặng, chúng bị nhiễm giun, chúng trở nên yếu hơn và chỉ di chuyển khi đưa nước và thuốc vào liệng chúng. Sau đó, đứa lớn Kamala có vẻ khá hơn còn đứa bé thì hấp hối mấy ngày sau đó.
    Sau 1 năm sống tại cô nhi viện một năm, Amala qua đời.
    Singh kể rằng khi Amala chết, Kamala cứ luẩn quẩn bên xác của em. Nó vuốt ve mặt của Amala, cố cạy mắt nó ra. Singh thấy hai giọt nước mắt chảy xuống từ đôi mắt của nó. Sáu ngày sau, Kamala chỉ ngồi trong góc phòng, một mình, bất động đối với bệnh tật và vuốt ve.
    Thỉnh thoảng Kamala ăn nhiều quá, nhiều đến nỗi làm cho nó bị ốm. Nó không thể giết con mồi được nữa, nhưng nếu nó tìm thấy một cái xác động vật chết nào đó nó sẽ mang về nhà và đôi khi còn đuổi các con chim kền kền chuyên ăn xác chết khỏi miếng mồi của nó.
    Cũng có khi nó giấu xác chết đâu đó quanh khu trại. Nó cũng biết cảm nhận vị ngọt nữa.
    Dần dần, nó học được vài từ như "vâng" và "quần áo", nó còn biết tên của một vài đứa trẻ trong trại trẻ mồ côi đó. Nó nhận ra các màu sắc và sử dụng được nhà vệ sinh. Nhưng ngoài những thứ đó ra, nó không có thêm tiến bộ gì đáng kể.
    Còn Kamala, sau 2 năm luyện tập, nó đã quỳ được bằng hai gối, nửa năm sau nữa bắt đầu đứng được nhưng phải đợi ba năm kể từ ngày trở về cộng đồng người nó mới tập tễn được những bước đầu tiên.
    Cuối năm 1924, Kamala đã khoảng 12 tuổi, nhưng chỉ biết được hơn 45 từ đơn tiết. Sau 9 năm sống với Singh và những người xung quanh, Kamala lại bị ốm một lần nữa và Nó chết vào ngày 14-11-1929 vì chứng tăng urê huyết.
    Quyển sách mà mục sư Singh và giáo sư R.Zingg viết để miêu tả những khảo sát của họ đối với hai đứa bé người sói đã gây một tiếng vang lớn và nhắc các nhà nghiên cứu về một số tình tiết đáng lưu ý. Trước tiên, sự cách biệt tuổi tác giữa Kamala và Amala chứng tỏ chúng được những con sói "nhặt được" trong hai thời điểm cách xa nhau và sự lặp lại như thế làm cho câu chuyện sói nuôi người càng kỳ lạ hơn.
    Mặt khác, người ta ghi nhận trong quá khứ, không chỉ chó sói mà nhiều loại động vật khác cũng đã từng nuôi con người: gấu, cừu hoang, lợn rừng, và cả báo nữa.
    Lịch sử đã ghi lại năm 1544, người ta đã gặp một thanh niên sống giữa bầy sói ở tỉnh Hesse (Đức) và về sau trường hợp này đã lôi cuốn sự quan tâm của nhà tư tưởng vĩ đại Jean Jeaques Rousseau (1712-1778). Ông đã đưa ra giải pháp buộc cây gỗ vào người sói để giúp chúng bỏ dần thói quen di chuyển bằng cả tứ chi.
    Năm 1661, các thợ săn đã gặp một đứa bé khoảng 9 tuổi sống chung với 1 bầy gấu trong rừng Lituanic. Khi bị bắt, nó dùng cả răng lẫn móng tay, móng chân để chống cự.
    Đến năm 1719, người ta phát hiện hai đứa trẻ người sơn dương trong dãy Pyrenées và năm 1815, tìm thấy một trường hợp người lợn.
    Gần đây hơn, một đứa bé người sơn dương bị một người đi ôtô rượt bắt được ở Liban. Nó khoảng 13-14 tuổi và không thể tiếp nhận một sự giáo dục nào. Ít lâu sau, không còn tin tức gì về nó nữa. Có tin đồn rằng những người nông dân được giao nhiệm vụ trông coi đã quá mệt mỏi với những vụ chạy trốn thường xuyên của nó nên đã cắt nhượng chân nó!
    (**)Trường hợp người sói Kaspar Hauser đặc biệt hơn vì mang tính chất lịch sử trinh thám. Được tìm thấy vào ngày 16-5-1828 tại một địa điểm thuộc Nuremberg (Đức) ở độ tuổi khoảng 16-17, sống dưới cống ngầm, tâm lý, ý thức của nó chỉ bằng đứa trẻ lên ba. Lúc đầu K. Hauser chỉ biết nói vài từ vô nghĩa nhưng sau đó học nói rất nhanh. Có tin đồn K. Hauser là người thừa kế duy nhất của một dòng hoàng tộc châu Âu, do đó trở thành đối tượng bị truy sát. Đến năm 1833, Hauser đột ngột biến mất, vĩnh viễn mang theo mình những bí mật cho đến nay vẫn chưa được sáng tỏ.
    Được HoaILong sửa chữa / chuyển vào 09:05 ngày 22/02/2005
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Trong quá trình nghiên cứu, các nhà tâm lý học và tâm bệnh học rất quan tâm đến các trường hợp người sói, người gấu... vì chính sự phân biệt những tập tính di truyền và những tập tính nhận được dưới tác động của môi trường sống là một trong những khó khăn cơ bản mà họ phải đương đầu.
    Những đứa trẻ người sói này từ khi trở về xã hội loài người đã gần như mất hẳn khả năng thích nghi với môi trường chung quanh.
    Hai đứa bé chó sói đó không thể tự biểu hiện những khái niệm cao cấp được.
    Câu chuyện về chúng còn cho chúng ta thấy tầm quan trọng của dưỡng dục (nurture) , kinh nghiệm và môi trường xã hội & "văn hóa (Culture)" mà chúng ta trưởng thành.
    Sự kiện chúng sống lạc loài giữa bầy sói đã là một bi kịch, nhưng quay trở về với con người còn là một bị kịch khủng khiếp hơn nhiều. Vì thế, hầu như không một đứa bé người sói nào chịu đựng được hoàn cảnh sống mới trong thời gian lâu dài.

    Sự kiện các đứa bé người sói còn cho biết cơ chế liên quan đến nhận thức của chúng ta để đối phó với thế giới - cho dù các cơ chế đó là sự nhận thức, ngôn ngữ hoặc phát triển tình cảm đi chăng nữa - chúng sẽ không xuất hiện nếu không có điều kiện phù hợp, nếu quá muộn thì các cơ chế đó không thể hoạt động được nữa.
    Cuối cùng, chúng vẫn là một dấu hỏi lớn ám ảnh các nhà tâm lý học và tâm thần học.
    Giống như sự phát triển của một đứa trẻ, quá trình tiến hóa gắn bó mật thiết với sự phát triển của văn hóa-Xã Hội và "văn hóa (Culture)" lại bắt đầu trước khi tiến hóa tạo nên chúng ta như ta thấy ngày nay.
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:43 ngày 07/03/2005
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Trong quá trình nghiên cứu, các nhà tâm lý học và tâm bệnh học rất quan tâm đến các trường hợp người sói, người gấu... vì chính sự phân biệt những tập tính di truyền và những tập tính nhận được dưới tác động của môi trường sống là một trong những khó khăn cơ bản mà họ phải đương đầu.
    Những đứa trẻ người sói này từ khi trở về xã hội loài người đã gần như mất hẳn khả năng thích nghi với môi trường chung quanh.
    Hai đứa bé chó sói đó không thể tự biểu hiện những khái niệm cao cấp được.
    Câu chuyện về chúng còn cho chúng ta thấy tầm quan trọng của dưỡng dục (nurture) , kinh nghiệm và môi trường xã hội & "văn hóa (Culture)" mà chúng ta trưởng thành.
    Sự kiện chúng sống lạc loài giữa bầy sói đã là một bi kịch, nhưng quay trở về với con người còn là một bị kịch khủng khiếp hơn nhiều. Vì thế, hầu như không một đứa bé người sói nào chịu đựng được hoàn cảnh sống mới trong thời gian lâu dài.

    Sự kiện các đứa bé người sói còn cho biết cơ chế liên quan đến nhận thức của chúng ta để đối phó với thế giới - cho dù các cơ chế đó là sự nhận thức, ngôn ngữ hoặc phát triển tình cảm đi chăng nữa - chúng sẽ không xuất hiện nếu không có điều kiện phù hợp, nếu quá muộn thì các cơ chế đó không thể hoạt động được nữa.
    Cuối cùng, chúng vẫn là một dấu hỏi lớn ám ảnh các nhà tâm lý học và tâm thần học.
    Giống như sự phát triển của một đứa trẻ, quá trình tiến hóa gắn bó mật thiết với sự phát triển của văn hóa-Xã Hội và "văn hóa (Culture)" lại bắt đầu trước khi tiến hóa tạo nên chúng ta như ta thấy ngày nay.
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:43 ngày 07/03/2005
  6. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Nhà văn Edgar Rice Burroughs (1875-1950) khi sáng tạo ra hình ảnh Tarzan chắc sẽ không ngờ rằng tác phẩm về nhân vật này sẽ được dịch ra 50 thứ tiếng và có số lượng bán trên 20 triệu bản. Củng có 1số người thắc mắc liệu hình tượng Tarzan nổi tiếng của ông là có thực?
    Lịch sử Những trường hợp thú nuôi người
    Tài liệu sớm nhất ghi nhận trường hợp người được thú nuôi là vào năm 1541. Cậu bé có tên là Hesse được tìm thấy đang sống hoang dã cùng một đàn chó sói. Lúc này cậu bé mới được khoảng 7 tuổi và sau đó được đưa về vùng Bavaria (Đức). Lúc đầu cậu vẫn giữ thói quen đi bốn chân và không chịu mặc bất kỳ loại quần áo nào. Hesse sống tới tận 80 tuổi và theo tự sự thì Hesse thích sống với chó sói hơn là với người.
    Năm 1657 người ta phát hiện một bé trai được gấu nuôi tại Lithuania. Những người săn gấu đã bắt được cậu ngay trước khi vua Ba Lan đến thăm Vácsava. Người ta gọi cậu là Joseph. Theo ghi nhận, Joseph thích ăn thịt sống và sau đó tuy được dạy dỗ nhưng cậu chỉ nói được một số câu cơ bản mà thôi.
    Nổi tiếng nhất và được ghi nhận kỹ lưỡng nhất trong số những người được thú nuôi là cậu bé có tên Peter Hoang dã (Wild Peter). Năm 1724, tại thị trấn Hamelin (Đức), một cậu bé da nâu trần truồng với mái tóc bù xù chạy như một con báo qua cánh đồng và sập bẫy thú của dân bản địa. Sau đó Wild Peter được chuyển tới Anh như một cống vật tặng cho vua George I. Trong suốt quãng đời còn lại, người ta dù đã cố mọi cách nhưng không thể dạy cho Peter ngôn ngữ của con người. Cũng không thấy Peter có nhu cầu về ******** và đặc biệt cậu chưa bao giờ cười. Tuy nhiên Peter rất thích âm nhạc. Cậu sống ở Anh cho đến năm 1785 và qua đời tại lâu đài Hertfordshire.
    Năm 1930, những người đốn củi phát hiện ra một cô gái đang leo trèo trong rừng ở Liberia. Sau khi được đưa về nuôi nấng, Assicia (tên cô gái) không thể nào học tiếng người được.
    Đến năm 1973, tại Sri Lanka, người dân làng Tissamaharama phát hiện ra một chú bé (sau này đặt tên là Tissa) đang dạo chơi cùng bầy khỉ trên... ngọn cây. Bà Pemawathie, người đã phát hiện và bắt được cậu bé sau đó đã đưa đến cảnh sát vì cậu ta gào rú và đập phá dữ dội. Cậu bé Tissa mang khá nhiều đặc tính của loài thú như gầm gừ giận dữ khi ai đó động đến phần thức ăn của mình. Tuy nhiên sau khi được nuôi dưỡng và điều trị tâm lý kỹ lưỡng, Tissa đã biết mỉm cười và đi lại bằng hai chân.
    Còn cậu bé Robert người Uganda thì được khỉ nuôi từ năm 3 tuổi. Khi nội chiến xảy ra năm 1982, bố mẹ cậu mất tích trong một trận càn tại làng Kampala. Lũ khỉ đã nuôi Robert trong vòng 3 năm cho đến khi quân lính phát hiện ra cậu bé đang sống hoang dã trong rừng. Khi mới được tìm ra, Robert không thể đứng mà chỉ ngồi xổm và cho đến nay vẫn chưa nói được.
    Chuyện một chú bé được cứu sống và nuôi dưỡng bởi thú vật không còn là chuyện hoang đường. Một câu chuyện tương tự như Cậu bé rừng xanh đã xảy ra ở làng Bambo thuộc Uganda. năm 1991, người dân làng Bam bo phát hiện ra trong quần thể khỉ xanh sinh sống trong rừng có một sinh vật rất giống người.
    Một nguời phụ nữ tên Millie phát hiện ra cậu đang trốn trên cây và gọi dân làng ra bắt cậu xuống. Người nó đầy bụi đất, râu tóc dài thậm thượt, phủ đầy chí rận. Sau khi bị bắt và đem tắm rửa sạch sẽ, người ta phát hiện ra rằng cậu bé chính là John Ssabunnya, bị mất tích cách đây 3 năm. Cậu bé John Ssebunya được lũ khỉ nuôi từ năm lên 4.
    Lúc 3 tuổi, cậu bé John vô tình chứng kiến cảnh cha giết mẹ một cách dã man. Quá sợ hãi, cậu trốn vào rừng. Nơi đó một bầy khỉ đã cứu sống và nuôi nấng cậu như một thành viên trong bầy. John đã sống với gia đình hoang dã của mình trong vòng 3 năm trước khi bị dân làng phát hiện.
    Từ đó đến nay cậu được trại trẻ mồ côi Kamuzinda Christian nuôi dưỡng và đang tập tành những phong cách sống của con người. Sau đó tổ chức cứu trợ trẻ em mồ côi của Paul và Molly Wasswa đã nhận nuôi John. Cậu đã được dạy chữ, học nói và hoà đồng dần cùng với cộng đồng dân cư bản địa. Ngày 13/10/1999, trong chương trình Bằng chứng sống (Living Proof) mang tên Cậu bé sống cùng bầy khỉ (The Boy who Live with Monkeys) của PJ Blumenthal trên đài truyền hình BBC, John đã kể lại quãng thời gian sống cùng bầy khỉ trong rừng sâu. Hiện giờ John đang có một cuộc sống rất hạnh phúc trong trung tâm cứu trợ nhân đạo tại Kampala, Uganda.
    Điểm nổi bật nhất ở cậu bé này chính là giọng hát rất trong trẻo. Hiện cậu đang là giọng ca khá nhất trong dàn đồng ca Pearl of Africa của nhà thờ. (TTNN)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:34 ngày 15/03/2005
  7. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Nhà văn Edgar Rice Burroughs (1875-1950) khi sáng tạo ra hình ảnh Tarzan chắc sẽ không ngờ rằng tác phẩm về nhân vật này sẽ được dịch ra 50 thứ tiếng và có số lượng bán trên 20 triệu bản. Củng có 1số người thắc mắc liệu hình tượng Tarzan nổi tiếng của ông là có thực?
    Lịch sử Những trường hợp thú nuôi người
    Tài liệu sớm nhất ghi nhận trường hợp người được thú nuôi là vào năm 1541. Cậu bé có tên là Hesse được tìm thấy đang sống hoang dã cùng một đàn chó sói. Lúc này cậu bé mới được khoảng 7 tuổi và sau đó được đưa về vùng Bavaria (Đức). Lúc đầu cậu vẫn giữ thói quen đi bốn chân và không chịu mặc bất kỳ loại quần áo nào. Hesse sống tới tận 80 tuổi và theo tự sự thì Hesse thích sống với chó sói hơn là với người.
    Năm 1657 người ta phát hiện một bé trai được gấu nuôi tại Lithuania. Những người săn gấu đã bắt được cậu ngay trước khi vua Ba Lan đến thăm Vácsava. Người ta gọi cậu là Joseph. Theo ghi nhận, Joseph thích ăn thịt sống và sau đó tuy được dạy dỗ nhưng cậu chỉ nói được một số câu cơ bản mà thôi.
    Nổi tiếng nhất và được ghi nhận kỹ lưỡng nhất trong số những người được thú nuôi là cậu bé có tên Peter Hoang dã (Wild Peter). Năm 1724, tại thị trấn Hamelin (Đức), một cậu bé da nâu trần truồng với mái tóc bù xù chạy như một con báo qua cánh đồng và sập bẫy thú của dân bản địa. Sau đó Wild Peter được chuyển tới Anh như một cống vật tặng cho vua George I. Trong suốt quãng đời còn lại, người ta dù đã cố mọi cách nhưng không thể dạy cho Peter ngôn ngữ của con người. Cũng không thấy Peter có nhu cầu về ******** và đặc biệt cậu chưa bao giờ cười. Tuy nhiên Peter rất thích âm nhạc. Cậu sống ở Anh cho đến năm 1785 và qua đời tại lâu đài Hertfordshire.
    Năm 1930, những người đốn củi phát hiện ra một cô gái đang leo trèo trong rừng ở Liberia. Sau khi được đưa về nuôi nấng, Assicia (tên cô gái) không thể nào học tiếng người được.
    Đến năm 1973, tại Sri Lanka, người dân làng Tissamaharama phát hiện ra một chú bé (sau này đặt tên là Tissa) đang dạo chơi cùng bầy khỉ trên... ngọn cây. Bà Pemawathie, người đã phát hiện và bắt được cậu bé sau đó đã đưa đến cảnh sát vì cậu ta gào rú và đập phá dữ dội. Cậu bé Tissa mang khá nhiều đặc tính của loài thú như gầm gừ giận dữ khi ai đó động đến phần thức ăn của mình. Tuy nhiên sau khi được nuôi dưỡng và điều trị tâm lý kỹ lưỡng, Tissa đã biết mỉm cười và đi lại bằng hai chân.
    Còn cậu bé Robert người Uganda thì được khỉ nuôi từ năm 3 tuổi. Khi nội chiến xảy ra năm 1982, bố mẹ cậu mất tích trong một trận càn tại làng Kampala. Lũ khỉ đã nuôi Robert trong vòng 3 năm cho đến khi quân lính phát hiện ra cậu bé đang sống hoang dã trong rừng. Khi mới được tìm ra, Robert không thể đứng mà chỉ ngồi xổm và cho đến nay vẫn chưa nói được.
    Chuyện một chú bé được cứu sống và nuôi dưỡng bởi thú vật không còn là chuyện hoang đường. Một câu chuyện tương tự như Cậu bé rừng xanh đã xảy ra ở làng Bambo thuộc Uganda. năm 1991, người dân làng Bam bo phát hiện ra trong quần thể khỉ xanh sinh sống trong rừng có một sinh vật rất giống người.
    Một nguời phụ nữ tên Millie phát hiện ra cậu đang trốn trên cây và gọi dân làng ra bắt cậu xuống. Người nó đầy bụi đất, râu tóc dài thậm thượt, phủ đầy chí rận. Sau khi bị bắt và đem tắm rửa sạch sẽ, người ta phát hiện ra rằng cậu bé chính là John Ssabunnya, bị mất tích cách đây 3 năm. Cậu bé John Ssebunya được lũ khỉ nuôi từ năm lên 4.
    Lúc 3 tuổi, cậu bé John vô tình chứng kiến cảnh cha giết mẹ một cách dã man. Quá sợ hãi, cậu trốn vào rừng. Nơi đó một bầy khỉ đã cứu sống và nuôi nấng cậu như một thành viên trong bầy. John đã sống với gia đình hoang dã của mình trong vòng 3 năm trước khi bị dân làng phát hiện.
    Từ đó đến nay cậu được trại trẻ mồ côi Kamuzinda Christian nuôi dưỡng và đang tập tành những phong cách sống của con người. Sau đó tổ chức cứu trợ trẻ em mồ côi của Paul và Molly Wasswa đã nhận nuôi John. Cậu đã được dạy chữ, học nói và hoà đồng dần cùng với cộng đồng dân cư bản địa. Ngày 13/10/1999, trong chương trình Bằng chứng sống (Living Proof) mang tên Cậu bé sống cùng bầy khỉ (The Boy who Live with Monkeys) của PJ Blumenthal trên đài truyền hình BBC, John đã kể lại quãng thời gian sống cùng bầy khỉ trong rừng sâu. Hiện giờ John đang có một cuộc sống rất hạnh phúc trong trung tâm cứu trợ nhân đạo tại Kampala, Uganda.
    Điểm nổi bật nhất ở cậu bé này chính là giọng hát rất trong trẻo. Hiện cậu đang là giọng ca khá nhất trong dàn đồng ca Pearl of Africa của nhà thờ. (TTNN)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 08:34 ngày 15/03/2005
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Gần đây, chuyện về 1 cậu bé được 1 đàn tinh tinh nuôi đáng làm cho chúng ta chú ý về các cơ chế phát triển về nhận thức, ngôn ngữ hoặc tình cảm trong 1 môi trường mà chỉ có bản năng bầy đàn là chính .
    Tại trung tâm bảo trợ trẻ em đặc biệt ở thành phố Kano, nam Nigeria, một cậu bé tàn tật khoảng 8 tuổi cứ nhảy choi choi như tinh tinh, chốc chốc lại vỗ hai tay vào đỉnh đầu và khum khum bàn tay như khỉ. Thay vì nói tiếng người, em kêu the thé những âm thanh hoang dại, dấu ấn của 18 tháng thơ ấu sống trong vòng tay tinh tinh...
    Bello là cái tên mà các cô bảo mẫu ở trung tâm Tudun Maliki Torrey đặt tên cho cậu bé của rừng. 6 năm trước đây, những người thợ săn đã tìm thấy em đang vui đùa cùng một gia đình tinh tinh trong rừng Falgora, cách Kano 150 km về phía nam, và mang về trung tâm bảo trợ. Khi đó, em khoảng 2 tuổi.
    Ông Abba lsa Muhammad, một quan chức tại trung tâm, phỏng đoán Bello có thể là con trai của một gia đình du mục Fulani, bị bỏ rơi khi họ đi qua vùng này.
    Bé Bello tàn tật về thể chất và rối loạn về tâm thần, với một cái trán vẹo vọ, vai phải quá xuôi và ngực dô ra phía trước, có lẽ đã trở thành gánh nặng cho cha mẹ và bị vứt vào rừng.
    Trong bộ tộc Fulani - những người chuyên đi lang thang qua các vùng rộng lớn ở Sahel, tây Phi - trẻ tàn tật bị bỏ rơi không phải là hiếm, và đa số trường hợp các em đều chết. Nhưng Bello may mắn hơn, em được một gia đình tinh tinh đùm bọc.
    "Chúng tôi không biết chính xác Bello đã sống cùng tinh tinh bao lâu. Nhưng dựa trên những đặc điểm mà em thể hiện, có thể đoán rằng em được tinh tinh chăm sóc từ khi chưa đầy 6 tháng tuổi", lsa Muhammad nói.
    Lúc mới đem về, Bello lớn và cân nặng bằng một đứa bé 4 tuổi. Cậu đi theo kiểu của tinh tinh, di chuyển bằng chân nhưng lại lê tay trên mặt đất. Cho đến giờ, cậu vẫn nhảy, vỗ hai tay trên đỉnh đầu nhiều lần và khum khum bàn tay như con khỉ. Thay vì nói tiếng người, cậu kêu the thé những âm thanh như của tinh tinh.
    "Hồi đầu, cậu bé rất hiếu động" - A''''isha Ibrahim, bà quản lý của trung tâm, nói - "Đêm khuya, cậu ấy nhảy từ giường này sang giường khác trong căn buồng tập thể.
    Cậu làm phiền những đứa trẻ khác, đập vỡ và quăng đồ đạc đi xa. Giờ thì cậu ấy đã trầm tính hơn". Bà Ibrahim cũng bổ sung thêm rằng nhân viên ở đây rất yêu mến Bello.
    Ông Isa Muhammad cho biết, lúc đầu, các nhân viên của trung tâm bảo trợ hy vọng sẽ ai có đó đến và nhận cậu bé, nhưng giờ thì họ thấy rõ chuyện đó không thể xảy ra. ?oChúng tôi sẽ cố gắng để xem có thể làm gì giúp em. Chúng tôi không biết cậu ấy có thể ở đây bao nhiêu năm nữa?, ông nói.
    B.H. (theo News.com)
    & Nguồn VNEXpress
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 13:24 ngày 21/03/2005
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Gần đây, chuyện về 1 cậu bé được 1 đàn tinh tinh nuôi đáng làm cho chúng ta chú ý về các cơ chế phát triển về nhận thức, ngôn ngữ hoặc tình cảm trong 1 môi trường mà chỉ có bản năng bầy đàn là chính .
    Tại trung tâm bảo trợ trẻ em đặc biệt ở thành phố Kano, nam Nigeria, một cậu bé tàn tật khoảng 8 tuổi cứ nhảy choi choi như tinh tinh, chốc chốc lại vỗ hai tay vào đỉnh đầu và khum khum bàn tay như khỉ. Thay vì nói tiếng người, em kêu the thé những âm thanh hoang dại, dấu ấn của 18 tháng thơ ấu sống trong vòng tay tinh tinh...
    Bello là cái tên mà các cô bảo mẫu ở trung tâm Tudun Maliki Torrey đặt tên cho cậu bé của rừng. 6 năm trước đây, những người thợ săn đã tìm thấy em đang vui đùa cùng một gia đình tinh tinh trong rừng Falgora, cách Kano 150 km về phía nam, và mang về trung tâm bảo trợ. Khi đó, em khoảng 2 tuổi.
    Ông Abba lsa Muhammad, một quan chức tại trung tâm, phỏng đoán Bello có thể là con trai của một gia đình du mục Fulani, bị bỏ rơi khi họ đi qua vùng này.
    Bé Bello tàn tật về thể chất và rối loạn về tâm thần, với một cái trán vẹo vọ, vai phải quá xuôi và ngực dô ra phía trước, có lẽ đã trở thành gánh nặng cho cha mẹ và bị vứt vào rừng.
    Trong bộ tộc Fulani - những người chuyên đi lang thang qua các vùng rộng lớn ở Sahel, tây Phi - trẻ tàn tật bị bỏ rơi không phải là hiếm, và đa số trường hợp các em đều chết. Nhưng Bello may mắn hơn, em được một gia đình tinh tinh đùm bọc.
    "Chúng tôi không biết chính xác Bello đã sống cùng tinh tinh bao lâu. Nhưng dựa trên những đặc điểm mà em thể hiện, có thể đoán rằng em được tinh tinh chăm sóc từ khi chưa đầy 6 tháng tuổi", lsa Muhammad nói.
    Lúc mới đem về, Bello lớn và cân nặng bằng một đứa bé 4 tuổi. Cậu đi theo kiểu của tinh tinh, di chuyển bằng chân nhưng lại lê tay trên mặt đất. Cho đến giờ, cậu vẫn nhảy, vỗ hai tay trên đỉnh đầu nhiều lần và khum khum bàn tay như con khỉ. Thay vì nói tiếng người, cậu kêu the thé những âm thanh như của tinh tinh.
    "Hồi đầu, cậu bé rất hiếu động" - A''''isha Ibrahim, bà quản lý của trung tâm, nói - "Đêm khuya, cậu ấy nhảy từ giường này sang giường khác trong căn buồng tập thể.
    Cậu làm phiền những đứa trẻ khác, đập vỡ và quăng đồ đạc đi xa. Giờ thì cậu ấy đã trầm tính hơn". Bà Ibrahim cũng bổ sung thêm rằng nhân viên ở đây rất yêu mến Bello.
    Ông Isa Muhammad cho biết, lúc đầu, các nhân viên của trung tâm bảo trợ hy vọng sẽ ai có đó đến và nhận cậu bé, nhưng giờ thì họ thấy rõ chuyện đó không thể xảy ra. ?oChúng tôi sẽ cố gắng để xem có thể làm gì giúp em. Chúng tôi không biết cậu ấy có thể ở đây bao nhiêu năm nữa?, ông nói.
    B.H. (theo News.com)
    & Nguồn VNEXpress
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 13:24 ngày 21/03/2005
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Pavlov và khả năng học của bộ não
    Ivan Petrovich Pavlov sinh năm 1849 tại Ryazan, một ngôi làng nhỏ miền trung nước Nga. Mặc dù gia đình muốn ông trở thành linh mục, nhưng ông lại bị ảnh hưởng bơi các cuốn sách của các nhà sinh lí học thời bấy giờ và của Darwin và ông quyết định theo đuổi sự nghiệp khoa học. Mặc dầu ban đầu ông quan tâm đến các cơ chế tiêu hóa và sự hoạt động của dịch vị, các công trình của ông tiến hành trên chó đặt nền móng cho việc hiểu bản chất của các phản xạ có điều kiện.
    Trong bản cóp-py của cuốn sách "Phản xạ có điều kiện"; ông mô tả Các thí nghiệm tiên phong cho thấy rằng động vật có thể học một số loại hành vi rất cơ bản, tương tự như các bản năng.
    Thí nghiệm nổi tiếng nhất của Pavlov là chiếu chùm sáng lên một đàn chó vài giây trước khi cho chúng ăn, họat động này được lặp đi lặp lại; đèn bật sáng và sau một vài giây thức ăn xuất hiện.
    Sau vài ngày như vậy, các con chó bắt đầu tiết nước bọt ngay khi đèn bật sáng, ngay cả khi chúng không nhìn thấy hoặc không ngửi thấy thức ăn. Những con chó này đã được lập trình một cách thành công.
    Bộ não của chúng đoán trước việc thức ăn đến, ngay khi mùi thức ăn chạm đến thính giác của chúng, cơ thể bắt đầu tạo ra nước bọt để chuẩn bị tiêu hóa thức ăn.
    Pavlov thay việc chiếu sáng bằng rung chuông trước khi cho đàn chó ăn và ông thu được kết quả như trên.
    Các quá trình thần kinh cơ bản nhất của chó đã xuất hiện để hưởng ứng với việc học theo một cách mà trước đây không ai có thể nghĩ là có thể xảy ra. Một điều thú vị nữa là nếu lặp lại việc rung chuông nhưng không đưa thúc ăn tới thì những con chó của Pavlov sẽ ngừng tiết nước bọt khi nghe thấy tiếng chuông.
    Bản thân Pavlov cũng dành rất ít thời gian cho tâm thần học và ông thích làm việc với cơ thể hơn là với bộ não.
    Nhưng ông cũng băn khoăn với các quan sát của ông về các phản xạ có điều kiện ở chó có thể giải thích những hành vi của những người bị bệnh tâm thần. Các con chó của ông được các nhà hành vi học (behaviourists), một nhánh của các nhà tâm lí học coi là điển hình.
    Những người này tin rằng bộ não có khả năng học một cách vô hạn và nó tiếp tục được hình thành bởi quá trình học tập những kinh nghiệm về đau đớn, khoái cảm, sợ hãi và hạnh phúc trong suốt cuộc đời.
    Họ xây dựng một tập hợp các lí thuyết phức tạp về bộ não con người như và coi bộ não ban đầu không hề chứa đựng thông tin giống như một tờ giấy trắng và các thông tin được ghi nhớ từ các kinh nghiệm từ khi sinh ra (tabula rasa).
    Nếu bạn ủng hộ cách suy nghĩ của các nhà hành vi học (behaviourists), bạn có thể cho rằng phản ứng của bộ não của bạn đối với một con rắn có được khi thấy người anh của bạn đã sợ hãi nó khi bạn còn nhỏ.
    Phản ứng đề phòng rắn là một phản ứng suốt đời và được khởi động khi xem bột bộ phim kinh dị nào đó mà trong đó xuất hiện một con rắn độc ác.
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 11:59 ngày 30/03/2005
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này