1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Một trong những Ng tiếp nhận tiếp cận phân tâm học một cách đại trà ở VN, như ông Đỗ Lai Thúy (1*) đã thực hiện với các tác fẫm đồ sộ như:
    - Phân tâm học và tình yêu (Đỗ Lai Thuý. Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin phát hành năm 2003)
    - Phân tâm học và văn hóa tâm linh (2001)
    - Phân tâm học với những vấn đề văn hóa (Đỗ Lai Thuý chủ biên), 3 tập, NXB Văn hóa Thông tin, 2000, 2002, 2003
    - Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, NXB Văn hóa Thông tin, 1999
    -Phân tâm học và phê bình văn học ở Việt Nam [1 & 2] VV...
    ông Đỗ Lai Thúy (1*) đà gặp fãi k0 ít các fãn biện về v/đề ông tiếp nhận tiếp cận phân tâm học một cách không phê phán qua các học giã, & các nhà nghiên cứu sau đây :
    * A) Nguyễn Hữu Liêm (2*) trong bài viết sau đây của ông:
    Ghi chú:
    các cụm từ trong {*} là của người viết
    Bài viết dưới đây của ông Nguyễn Hữu Liêm nhìn nhận và đánh giá học thuyết về vô thức của Freud từ góc độ triết học. Đây cũng là bài trao đổi với ông Đỗ Lai Thúy nhân bài Phân tâm học và phê bình văn học ở Việt Nam của ông Thúy đăng trên eVăn ngày 25/5/2004.

    Freud và huyền thoại vô thức: Một ngữ nghiệp về tham chiếu và biểu đạt (gửi Đỗ Lai Thúy)
    Nguyễn Hữu Liêm (2*)
    Nếu Nietzsche là cha đẻ của "giải cấu luận" (deconstructionism) vốn đã mở màn một phương cách suy tưởng mới cho giai đoạn hậu hiện đại (post-modernity) ở cuối Thế kỷ 19, thì Freud, cùng với Marx và Darwin, đã mở ra một cánh cửa ý thức mới về con người, đánh đổ cái truyền thống giả định về giá trị nhân bản vốn là nền tảng của thời đại Khai sáng của Âu châu. Cái gia sản trí thức lớn của Freud là cống hiến một phạm trù tư tưởng, một tiền đề lý thuyết, một hệ thống phương pháp luận mới nhằm giúp con người Tây phương tái định nghĩa và định vị lại chính mình trên căn bản ý thức. Cũng như Marx trên tiền đề kinh tế và giai cấp, Freud, với tiền đề vô thức (the unconscious), muốn đem ra ánh sáng cái cơ sở năng lực nội tại con người - và từ đó, năng tố quyết định cho lịch sử, văn minh - vốn còn nằm trong bóng tối mà tư tưởng Tây phương mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 19 vẫn còn chưa công nhận. Nếu Marx đã thay đổi được lịch sử nhân loại trong suốt thế kỷ qua; thì cũng trong thời gian này, Freud đã thay đổi được con người Tây phương trên chiều hướng tự biết về chính mình (1).
    Freud muốn đánh đổ cái huyền thoại bản thể luận {*ontology} về con người vốn mang đầy màu sắc thánh linh của Âu châu bằng một huyền thoại mới. Ðó là huyền thoại vô thức - the myth of the unconscious. Trên cơ sở mới của biện minh khoa học thực nghiệm, cái huyền thoại về vô thức sử dụng toàn bộ hệ thống khái niệm và phương pháp luận của khoa học để mang cho mình một chính thống tính cho thời đại. Và từ đó, Freud khai sinh ra một "khoa học" mới: phân tâm học (psychoanalysis). Phân tâm học và phân tâm học trị liệu (psychotherapy) là một nỗ lực đem ánh sáng ý thức vào góc tối của ẩn ức vô thức nhằm khai thông những nguồn mạch của ý chí và động cơ, nhằm điều chỉnh và giải hóa những hiện tượng tâm thần tiêu cực cho con người.
    Ðây không phải là lần đầu. Phật giáo là một hệ thống phân tâm học đồ sộ với một nền tảng bản thể luận {*ontology} và siêu hình học khác. (2) Nhưng đối với Tây phương, vốn xa lạ với Phật học, thì Freud là một giáo hoàng mới mang chiếc áo khoa học lộng lẫy và cũng là một cô dâu tươi trẻ với ngôn ngữ xác thịt đầy quyến rũ làm say mê biết bao nhiêu thế hệ trí thức Âu Mỹ muốn giải phóng năng ý tính dục cho mình.
    Tuy nhiên, trên góc độ triết học thì Freud và huyền thoại vô thức cũng đã cống hiến một tri thức luận {* nhận thức luận} mới - a new epistemology. Thay vì ý thức quyết định sự hữu của con người với công thức của Descartes, cogito ergo sum, thì đối với Freud, vô thức là nền tảng cho ý thức và sự hữu của cá nhân. Tri thức (the mind) không là thống nhất và toàn bộ như Descartes đã đưa ra. Với vô thức, tri thức là một căn nhà bị chia hai: tầng trên với ánh sáng của ý thức và tầng dưới đất (basement) thì vẫn còn đang nằm trong bóng tối. Ðời sống ý thức chỉ là một tảng băng nổi trên mặt biển - mà vô thức là phần ở dưới nước không thấy được thì to lớn gấp muôn lần vốn quyết định tất cả những sinh hoạt và nội dung ý thức. Cái góc tối của vô thức chứa những năng lực đầy khả năng kiểm soát - mà năng lực lớn nhất là libido: năng lực tính dục ẩn ức chỉ muốn thoả mãn bằng mọi phương diện và mọi giá. Từ đó, nhị thể luận Descartes giữa thân (body) đối với thức (mind) được Freud chuyển qua libido (dục) đối với ego (ngã), eros (tình) đối với thanatos (tử). Với tiền đề vô thức và động cơ tính dục, Freud giải thích tất cả hiện tượng ý chí, suy tưởng, tâm lý, và các biến dạng tiêu cực của chúng bằng libido và eros.
    Từ mặc cảm Oediphus mang năng thức dục tính đối với cha mẹ, đến hội chứng ***** envy (ganh tỵ *********) quyết định tính chất cảm thụ về đối thể nghệ thuật giữa trai và gái, hành vi nút nắm tay của trẻ con sơ sinh, tất cả đều được Freud cống hiến cho con người Tây phương một quần chúng nạn nhân mới, mà trong đó, tất cả những gì mà con người ham muốn và nuôi ý chí hành động đều có thể được giải thích (explained away) bằng ngôn ngữ tính dục.
    Ngay cả giấc mơ cũng mang một nội dung vô thức khác: cái năng ý thỏa mãn ước muốn ngấm ngầm được biểu lộ hóa qua màn ảnh ý thức trong lúc đang ngủ say. Từ đó, văn minh và lịch sử con người chỉ là màn bi kịch lớn diễn lộ và khai mở những nỗi uẩn ức dục tính - chứ không là của năng ý Tinh thần, Thượng đế hay là của đấu tranh giai cấp. Những thượng tầng kiến trúc của tư duy như là văn chương, nghệ thuật, đạo đức hay là tôn giáo đều được phát xuất từ năng lực dồn nén và nội tại hóa tính dục.
    Và khi sự dồn nén này không còn khoảng trống, nó trở nên ý chí tự phủ định: lòng hiếu chiến đối với thế giới khách quan chỉ là sự ngoại thân hoá cái bản năng muốn chết (death instinct). Con người và lịch sử, do vậy, là một trường chiến cuộc liên miên giữa ý thức và vô thức, giữa lý tính và vô lý tính, giữa bản năng và phản bản năng.
    Tuy nhiên cái bản án tử hình đón chờ Freud và đứa con pseudo-science phân tâm học đang nằm trên bàn cân phạm trù nhân-quả (categorical causality): chiếc cầu tương tác giữa vô thức và ý thức chỉ là những giả định về khái niệm tuỳ thuộc vào vận hành lý luận (logical operation) hơn là được kiểm chứng và minh xác bởi phương pháp và chứng cớ thực nghiệm. Freud hiểu lầm và trộn lẫn giữa hai phạm trù của bằng chứng lý tính (rational proofs) đối với chứng cớ thực nghiệm (empirical evidence).
    * Bằng chứng lý tính chỉ biện minh được tính hợp lý của logic (logical vali***y) chứ không phải là cơ sở biện minh cho liên hệ nhân-quả giữa hai định thể tách biệt.
    Nhị thể luận (ontological dualism) Descartes bị sụp đổ vì liên hệ nhân-quả giữa mind (thức) và body (thân) đã không được giải thích (3) nay bị lập lại bởi Freud với tiền đề "vô thức" versus "ý thức"- tất cả là những giả định thuần lý thuyết, mang bản chất văn chương hoang tưởng, hơn là có cơ sở khoa học có giá trị thực nghiệm.
    Ðây chính là điều mà Sebastiano Timpanaro, dựa theo Karl Popper, có nói, "Cái thực chất phản khoa học của một lý thuyết nằm ở chỗ nó có khả năng trốn tránh - bằng nguỵ biện - tất cả mọi khả năng chứng minh sai lầm"(4). Phân tâm học của Freud có thể phán giảng về một thể loại ẩn ức nhằm giải thích cho nội dung một giấc mơ bằng nhiều loại dồn nén vô thức khác nhau - mà cái nào cũng có lý như tất cả mọi cái khác trong khi không thể trưng dẫn chứng cớ trị liệu (clinical evidence) cho tính liên hệ nhân quả từ ẩn ức vô thức đến nội dung giấc mơ.
    Ðây là điều mà các tiêu chuẩn khoa học từ Aristotle đến Bacon đã cảnh giác: cái bệnh lý thuyết trước rồi tìm bằng chứng biện minh sau - để rồi tất cả bằng chứng đều được giải thích từ lý thuyết đã có sẵn với chứng cớ thực nghiệm không vững chắc. Nói theo triết luận của Wittgenstein thì cơ đồ lý thuyết và phân tâm học của Freud là một trận đồ ngôn ngữ mà trong đó quy pháp diễn đạt đã được quy hoạch cố định trước và từ đó tất cả mọi giải thích trên cơ sở bằng chứng đều không thoát khỏi cái khung cửa hẹp của quy tắc diễn đạt vốn đã bị bắt buộc (5).
    Wittgenstein so sánh thuyết vô thức của Freud với triết học logic của chính ông, "Cái ác ôn của logic Russell và của tôi trong Tractatus (Logico-Philosophicus) là ở chỗ khi một mệnh đề được củng cố bằng một vài trường hợp điển hình thì (chúng tôi) đã vội cho rằng nó đã được thấu hiểu (và biện minh) hoàn toàn trên bình diện phổ quát"(6). Wittgenstein đã nói đến cái bệnh say máu trong ngôn từ và khái niệm của giới trí thức ưa lý thuyết hóa mọi sự để rồi tưởng tượng trong mê hoặc rằng lý thuyết của mình đã được lên ngôi vua chúa chân lý cho một vương quốc khoa học thực nghiệm khách quan.
    Từ đó, tiền đề vô thức với gia sản phân tâm học của Freud - nhất là trên lý thuyết về giấc mơ và phương pháp luận diễn giải về nó - phần lớn chỉ là một loại khoa học tiếm danh, a pseudo-science, đầy lừa dối và thiếu lương thiện trí thức (7).
    Thế nhưng, thế giới triết học và tâm lý học Tây phương sau Freud bị choáng ngợp bởi cái màu sắc dục tính, cái cơ đồ lộng lẫy đầy bóng tối, đầy bệnh hoạn đã hồ hởi chụp lấy cái trò chơi ngôn ngữ, cái quy pháp diễn tả, nhảy lên chuyến tàu khái niệm mới của Freud để vừa giải trí cho đầu óc, vừa đánh lận con đen lường gạt và làm tiền đám quần chúng thành thị ngây thơ và trưởng giả Tây Âu trong một thời đại và những xã hội đầy nhàm chán và bực bội. Khi bệnh lý vô thức được thay thế cho ý chí tội lỗi thì chính là lúc mà Freud tìm ra được chiếc ghế nằm (couch) để cho bệnh nhân tâm thần được kể lể tâm sự với bác sĩ phân tâm học (với một giá tiền thời gian đắt như vàng) nhằm thay thế cho phép quỳ gối xưng tội với các giáo sĩ trong nhà thờ.
    (còn tiếp)
    * * *
    Phụ lục:
    (2*) Nguyễn Hữu Liêm: Giáo sư Triết học; Chủ nghiệm khoa Triết, Đại học San Jose College, California, Mỹ. Tác phẩm chính: Dân chủ pháp trị: Luật pháp, công lý, tự do và trật tự xã hội, California, 1991; Tự do và Đạo lý: Một khai giải về triết học pháp quyền của Hegel, California, 1994; Thời lý và Hiện hữu, California,1996.
    (1*) Đỗ Lai Thúy : Tiến sĩ Lịch sử văn hóa. Sinh năm 1948 tại Quốc Oai, Hà Tây;
    Phó tổng biên tập Tạp chí Văn hóa - Nghệ thuật, Bộ Văn hóa; Tác phẩm chính: Mắt thơ, NXB Lao Động, 1992; Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, NXB Văn hóa Thông tin, 1999; Từ cái nhìn văn học, NXB Văn học dân tộc, 1999; Chân trời có người bay, NXB Văn hóa Thông tin, 2002; Phê bình văn học là gì?, eVăn, 2003; Phân tâm học với những vấn đề văn hóa (chủ biên), 3 tập, NXB Văn hóa Thông tin, 2000; Nghệ thuật như là thủ pháp - giới thiệu lý thuyết văn học của chủ nghĩa hình thức Nga (chủ biên), NXB Hội nhà văn, 2002.
    ____________________
    Chú thích của Nguyễn Hữu Liêm:
    (1) Cho một phân tích rộng lớn hơn về một lịch sử tư tưởng Tây phương trên cơ sở logic và tinh thần triết học, xin đọc Nguyễn Hữu Liêm, Từ Thế Giới đến Việt Nam: Kiểm thảo và Ðề nghị, Hợp Lưu, số 76, tháng 4-5/2004.
    (2) Ðây là một nhận định quá tổng quan mà khuôn khổ bài viết nầy - vốn chỉ là một triết luận, chứ không phải là một nghiên cứu - không cho phép đi vào chi tiết. Xin đọc Manly Hall, Buddhism and Psychotherapy, Los Angeles, USA, 1979.
    (3) Vấn đề căn bản của nhị thể luận giữa "thức" (mind) và "thân" (body) nằm ở trên phương diện tương tác nhân quả (casual relationship): Nếu thức và thân là hai cơ sở khác biệt và tách rời (distinct and seperate) thì tại sao ý thức có thể cử động chân tay?
    (4) Nguyên văn: "The actual non-scientificity of the theory resides precisely in its capacity to elude - by way of sophistry - every possibility of falsification", Sebastiano Timpanara, The Freudian Slip, bản dịch tiếng Anh của Kate Soper, New Jersey, 1976. (Trích từ Bouveresse, Wittgenstein Reads Freud.).
    (5) Jacques Bouveresse, Wittgenstein Reads Freud: The Myth of The Unconscious, bản dịch Anh ngữ của Carol Cosman, Princeton, 1995. Ðể thông hiểu hơn những vấn đề ở đây, xin đọc Ludwig Wittgenstein, Philosophical Investigations.
    (6) Sđd, tr. 50. Nguyên văn: "The basic evil of Russell"s logic, as also of mine in the Tractatus, is that what a proposition is is illustrated by a few common place examples, and then presupposed as understood in full generality". Xin đọc Wittgenstein, Tractatus Logico-Philosophicus.
    (7) Về những xảo thuật và gian lận về bằng chứng cho lý thuyết của Freud, xin đọc J. M. Masson, Freud: The Assault on Truth - Freud"s Suppression of the Seduction Theory, New York, USA, 1984.

    Nguồn eVăncọm vn (2004)


    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 10:33 ngày 10/06/2005
  2. Lochness

    Lochness Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2003
    Bài viết:
    245
    Đã được thích:
    0
    1/
    Nếu có một Chiếc cầu từ vô thức tới hữu thức, móng sẽ là các ca hysteri, tức là từ thực nghiệm. Đến vô thức qua một hệ thống các cơ chế phòng vệ và liên tưởng tự do và đưa đến kết luận cái cầu đó biến một sự đè nén thành vết thương thể chất. Bắt đầu từ một căn bệnh, kết thúc bằng việc chưa khỏi nó. Các vận hành lý luận được thực hành. Phạm trù nhân quả được chứng minh trên một diện rộng, và thấy được qua bệnh - khỏi bệnh. Freud có thể không có bằng chứng thực nghiệm cho từng phần nhỏ một - phóng chiếu, chuyển dịch, liên tưởng...nhưng toàn bộ quá trình có thể hiểu đã được kiểm nghiệm bằng việc bệnh nhân hysteria khỏi bệnh.
    Nếu phê phán Freud, chỉ có thể nói ông thường khái quát hoá dựa trên số ít các bằng chứng thực nghiệm mà không tìm cách kiểm chứng nó một cách khoa học hơn. Điều nayd cũng dễ hiểu vì thời đó máy móc hạn chế.
    Việc bắt đầu từ các ca hysteri là bắt đầu từ bằng chứng thực nghiệm, không phải từ lý thuyết, rồi lý thuyết hoá, lại quay lại thực nghiệm. Không thể nói lý thuyết trước rồi gò các kết quả thực nghiệm và lý luận dựa trên một cái khung có sẵn được.hơn nữa, trong lý luận của Freud có phần về việc con người thường hợp lý hoá các động cơ" của mình. Việc này thường tiến hành vô thức chứng tỏ Freud hiểu rõ được hạn chế của điều này.
    2/ Lý thuyết của Freud cũng đã bị các nhà khoa học thời đó chỉ trích rất nhiều, nhưng giờ đây, Freud hầu như có mặt trong hầu hết các sách giáo khoa tâm lý. Các khám phá về vô thức, về các giai đoạn phát triển liên quan đến tính dục là các phát minh xuất sắc và được mọi người công nhận.
    3/ Triết học hiện đại có rất nhiều quan niệm mới mẻ dựa trên những tiến bộ của khoa học khác như vật lý lượng tử. Các phạm trù nhân quả đã lỗi thời nếu hiểu một cách duy nhất trong khoa học. Con ngươi được hiểu như tổng hợp các trường năng lượng và thông tin. Thời gian không phải là tuyệt đối, nó chỉ là cách để con người tư duy dựa trên hệ quy chiếu cái Tôi. Việc đối lập tách rời giữa tinh thần - thể xác, hay giữa sinh - tử, giữa libido và ego là không hợp lý. Các tiến bộ về khám phá bản đồ ghen con người đưa đến các nhận định mới mẻ. Mà thực ra tôi cũng chưa thấy Freud đối lập libido và ego mà chỉ thấy ego chỉ là kết quả sự nhào nặn libido dưới ảnh hưởng của cái ấy và cái siêu tôi, cộng với sự thích nghi với môi trường, XH.
    4/ Mặc cảm Ơ đíp và một vài vấn đề về cách giải thích giấc mơ của Freud đã không được nhiều người bàn đến nữa. Đơn giản, khoa học đã quá tiến bộ để không chấp nhận sự tự biện mơ hồ đó.
    5/ Đánh giá Freud tại thời điểm này không tính tới yếu tố lịch sử, lại trên cơ sở triết học là không thể chấp nhận được. Kết luận học thuyết Freud là khoa học tiếm danh hay thiếu lương thiện tri thức là võ đoán, chụp mũ.
    Được lochness sửa chữa / chuyển vào 16:40 ngày 11/06/2005
  3. Lochness

    Lochness Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2003
    Bài viết:
    245
    Đã được thích:
    0
    1/
    Nếu có một Chiếc cầu từ vô thức tới hữu thức, móng sẽ là các ca hysteri, tức là từ thực nghiệm. Đến vô thức qua một hệ thống các cơ chế phòng vệ và liên tưởng tự do và đưa đến kết luận cái cầu đó biến một sự đè nén thành vết thương thể chất. Bắt đầu từ một căn bệnh, kết thúc bằng việc chưa khỏi nó. Các vận hành lý luận được thực hành. Phạm trù nhân quả được chứng minh trên một diện rộng, và thấy được qua bệnh - khỏi bệnh. Freud có thể không có bằng chứng thực nghiệm cho từng phần nhỏ một - phóng chiếu, chuyển dịch, liên tưởng...nhưng toàn bộ quá trình có thể hiểu đã được kiểm nghiệm bằng việc bệnh nhân hysteria khỏi bệnh.
    Nếu phê phán Freud, chỉ có thể nói ông thường khái quát hoá dựa trên số ít các bằng chứng thực nghiệm mà không tìm cách kiểm chứng nó một cách khoa học hơn. Điều nayd cũng dễ hiểu vì thời đó máy móc hạn chế.
    Việc bắt đầu từ các ca hysteri là bắt đầu từ bằng chứng thực nghiệm, không phải từ lý thuyết, rồi lý thuyết hoá, lại quay lại thực nghiệm. Không thể nói lý thuyết trước rồi gò các kết quả thực nghiệm và lý luận dựa trên một cái khung có sẵn được.hơn nữa, trong lý luận của Freud có phần về việc con người thường hợp lý hoá các động cơ" của mình. Việc này thường tiến hành vô thức chứng tỏ Freud hiểu rõ được hạn chế của điều này.
    2/ Lý thuyết của Freud cũng đã bị các nhà khoa học thời đó chỉ trích rất nhiều, nhưng giờ đây, Freud hầu như có mặt trong hầu hết các sách giáo khoa tâm lý. Các khám phá về vô thức, về các giai đoạn phát triển liên quan đến tính dục là các phát minh xuất sắc và được mọi người công nhận.
    3/ Triết học hiện đại có rất nhiều quan niệm mới mẻ dựa trên những tiến bộ của khoa học khác như vật lý lượng tử. Các phạm trù nhân quả đã lỗi thời nếu hiểu một cách duy nhất trong khoa học. Con ngươi được hiểu như tổng hợp các trường năng lượng và thông tin. Thời gian không phải là tuyệt đối, nó chỉ là cách để con người tư duy dựa trên hệ quy chiếu cái Tôi. Việc đối lập tách rời giữa tinh thần - thể xác, hay giữa sinh - tử, giữa libido và ego là không hợp lý. Các tiến bộ về khám phá bản đồ ghen con người đưa đến các nhận định mới mẻ. Mà thực ra tôi cũng chưa thấy Freud đối lập libido và ego mà chỉ thấy ego chỉ là kết quả sự nhào nặn libido dưới ảnh hưởng của cái ấy và cái siêu tôi, cộng với sự thích nghi với môi trường, XH.
    4/ Mặc cảm Ơ đíp và một vài vấn đề về cách giải thích giấc mơ của Freud đã không được nhiều người bàn đến nữa. Đơn giản, khoa học đã quá tiến bộ để không chấp nhận sự tự biện mơ hồ đó.
    5/ Đánh giá Freud tại thời điểm này không tính tới yếu tố lịch sử, lại trên cơ sở triết học là không thể chấp nhận được. Kết luận học thuyết Freud là khoa học tiếm danh hay thiếu lương thiện tri thức là võ đoán, chụp mũ.
    Được lochness sửa chữa / chuyển vào 16:40 ngày 11/06/2005
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Chào Bạn Lochness, Hoan nghinh bạn góp ý . HL xin post tiếp tục bài :
    Freud và huyền thoại vô thức: Một ngữ nghiệp về tham chiếu và biểu đạt (gửi Đỗ Lai Thúy)
    Nguyễn Hữu Liêm (2*)
    (tiếp theo & Hết)
    Sai lầm của Freud là sai lầm lớn của một trí thức lớn - nhưng là một thứ sai lầm, nói theo Wittgenstein, của khôn ngoan (cleveness) chứ không phải là của trí tuệ (wisdom) (8) - một thứ sai lầm từ một ý chí ưa diễn đạt và một bệnh lý đi tìm khoái lạc qua ngôn ngữ và khái niệm. Khi đám tang của Freud đang tiến hành (tháng 9 năm 1939), thì thi sĩ W. H. Auden của Anh quốc, viết,
    If often he was wrong and, at times, absurd
    to us he is no more a person
    now but a whole climate of opinion
    under whom we conduct our diffrent lives.
    Nếu ông ta đã từng sai, nhiều khi đến độ nực cười
    với chúng ta, con người đó nay không còn nữa
    nhưng giờ đây, dưới cả một bầu trời quan điểm
    chúng ta hành hoạt với những cuộc đời đã khác xưa. (9)
    Những cuộc đời mới của trí thức Âu châu mà Freud đã gián tiếp đẻ ra là những Marcuse, là Lacan, là Foucault, Deleuze và những cơn say lý thuyết triền miên của trí thức Âu châu, nhất là Pháp (10). Nhưng những cơn say này nay đã đi qua. Cái còn lại của Freud và vô thức luận chỉ là một thể loại tự kiểm thảo (self-critique) - một phương pháp luận mang bản chất giả thuyết và suy lý (theoretical speculation), nhằm nhắc nhở con người thuần lý của thời đại ngày nay rằng, lý tính không phải là cơ sở duy nhất cho sự hữu (being) của con người.
    Và trí thức của thế giới ngoài Âu Mỹ - nhất là ở Việt Nam hiện nay - cũng phải ý thức đến điều này: Freud chỉ là một hiện tượng lý thuyết phát xuất từ ý chí tự kiểm thảo, tự điều chỉnh trong truyền thống trí thức Tây phương - vốn chỉ có giá trị nội tại trong luồng văn minh đó mà thôi. (11) Và vì thế, hãy đừng có bắt chước ngôn từ, khái niệm của Freud như là một thứ thời thượng mang chân lý khoa học - một thứ khoa học phù thuỷ, một trò diễu cợt sâu sắc và quyến rũ - vốn đã giãy chết từ lâu trên quê hương của chúng. (12)
    California, 5/2004
    Nguồn (c) eVăn 2004
    ______________________
    Chú thích của Nguyễn Hữu Liêm:
    (8) Jacques Bouveresse, sđd, tr. 14.
    (9) W. H. Auden, In Memory of Sigmund Freud, 1939.
    (10) Jacques Lacan có thể là trường hợp chính xác hơn cho những phê bình về phân tâm học trên cơ sở triết ngữ. Tôi xin mượn lời T. K. Seung của Ðại Học Texas để gọi những lý thuyết của triết học Âu châu từ cấu trúc luận, giải cấu luận, thông diễn luận (hermeneutics)... là "the karma of reference and representation." ("một thứ ngữ nghiệp về tham chiếu và biếu đạt.", Seung, Structuralism and Hermeneutics, Columbia, 1982). Vấn đề còn đi xa hơn. Ðó là vấn đề của "cám dỗ của khái niệm và ngôn từ" mà trí thức văn bản thường bị rơi vào mê hồn trận. Sau cơn say Hegel, hầu hết triết học của Pháp đã biến thành văn chương.
    (11) Cho một phân tích về tiền đề này, xin đọc Ashis Nandy, The Savage Freud and other Essays on Possible and Retrievable Selves, Princeton, 1995 và Harvie Ferguson, The Lure of Dreams: Sigmund Freud and the Construction of Modernity, London, 1996.
    (12) Khi đang trên giường bệnh và sắp lìa đời vào năm 1951, Wittgenstein có nói với người bạn thân, "Tất cả những triết học của tôi đều là những mẫu chuyện hài ước. Tiếc rằng tôi viết hài ước hơi bị dở." (Xem phim Wittgenstein, A Life). Ở đoạn áp chót của "Tractatus" (6.54), Wittgenstein viết, "Ai hiểu được tôi thì cuối cùng đều nhận ra rằng những gì tôi nói ra đều chỉ là vô nghĩa (senseless)". Tinh thần này cũng nên áp dụng cho trường hợp của Freud.
    (Hết)
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Chào Bạn Lochness, Hoan nghinh bạn góp ý . HL xin post tiếp tục bài :
    Freud và huyền thoại vô thức: Một ngữ nghiệp về tham chiếu và biểu đạt (gửi Đỗ Lai Thúy)
    Nguyễn Hữu Liêm (2*)
    (tiếp theo & Hết)
    Sai lầm của Freud là sai lầm lớn của một trí thức lớn - nhưng là một thứ sai lầm, nói theo Wittgenstein, của khôn ngoan (cleveness) chứ không phải là của trí tuệ (wisdom) (8) - một thứ sai lầm từ một ý chí ưa diễn đạt và một bệnh lý đi tìm khoái lạc qua ngôn ngữ và khái niệm. Khi đám tang của Freud đang tiến hành (tháng 9 năm 1939), thì thi sĩ W. H. Auden của Anh quốc, viết,
    If often he was wrong and, at times, absurd
    to us he is no more a person
    now but a whole climate of opinion
    under whom we conduct our diffrent lives.
    Nếu ông ta đã từng sai, nhiều khi đến độ nực cười
    với chúng ta, con người đó nay không còn nữa
    nhưng giờ đây, dưới cả một bầu trời quan điểm
    chúng ta hành hoạt với những cuộc đời đã khác xưa. (9)
    Những cuộc đời mới của trí thức Âu châu mà Freud đã gián tiếp đẻ ra là những Marcuse, là Lacan, là Foucault, Deleuze và những cơn say lý thuyết triền miên của trí thức Âu châu, nhất là Pháp (10). Nhưng những cơn say này nay đã đi qua. Cái còn lại của Freud và vô thức luận chỉ là một thể loại tự kiểm thảo (self-critique) - một phương pháp luận mang bản chất giả thuyết và suy lý (theoretical speculation), nhằm nhắc nhở con người thuần lý của thời đại ngày nay rằng, lý tính không phải là cơ sở duy nhất cho sự hữu (being) của con người.
    Và trí thức của thế giới ngoài Âu Mỹ - nhất là ở Việt Nam hiện nay - cũng phải ý thức đến điều này: Freud chỉ là một hiện tượng lý thuyết phát xuất từ ý chí tự kiểm thảo, tự điều chỉnh trong truyền thống trí thức Tây phương - vốn chỉ có giá trị nội tại trong luồng văn minh đó mà thôi. (11) Và vì thế, hãy đừng có bắt chước ngôn từ, khái niệm của Freud như là một thứ thời thượng mang chân lý khoa học - một thứ khoa học phù thuỷ, một trò diễu cợt sâu sắc và quyến rũ - vốn đã giãy chết từ lâu trên quê hương của chúng. (12)
    California, 5/2004
    Nguồn (c) eVăn 2004
    ______________________
    Chú thích của Nguyễn Hữu Liêm:
    (8) Jacques Bouveresse, sđd, tr. 14.
    (9) W. H. Auden, In Memory of Sigmund Freud, 1939.
    (10) Jacques Lacan có thể là trường hợp chính xác hơn cho những phê bình về phân tâm học trên cơ sở triết ngữ. Tôi xin mượn lời T. K. Seung của Ðại Học Texas để gọi những lý thuyết của triết học Âu châu từ cấu trúc luận, giải cấu luận, thông diễn luận (hermeneutics)... là "the karma of reference and representation." ("một thứ ngữ nghiệp về tham chiếu và biếu đạt.", Seung, Structuralism and Hermeneutics, Columbia, 1982). Vấn đề còn đi xa hơn. Ðó là vấn đề của "cám dỗ của khái niệm và ngôn từ" mà trí thức văn bản thường bị rơi vào mê hồn trận. Sau cơn say Hegel, hầu hết triết học của Pháp đã biến thành văn chương.
    (11) Cho một phân tích về tiền đề này, xin đọc Ashis Nandy, The Savage Freud and other Essays on Possible and Retrievable Selves, Princeton, 1995 và Harvie Ferguson, The Lure of Dreams: Sigmund Freud and the Construction of Modernity, London, 1996.
    (12) Khi đang trên giường bệnh và sắp lìa đời vào năm 1951, Wittgenstein có nói với người bạn thân, "Tất cả những triết học của tôi đều là những mẫu chuyện hài ước. Tiếc rằng tôi viết hài ước hơi bị dở." (Xem phim Wittgenstein, A Life). Ở đoạn áp chót của "Tractatus" (6.54), Wittgenstein viết, "Ai hiểu được tôi thì cuối cùng đều nhận ra rằng những gì tôi nói ra đều chỉ là vô nghĩa (senseless)". Tinh thần này cũng nên áp dụng cho trường hợp của Freud.
    (Hết)
  6. Lochness

    Lochness Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2003
    Bài viết:
    245
    Đã được thích:
    0
    Phê bình học thuyết Freud
    Các ý tưởng của Freud đã từng có tác động to lớn đối với phong cách nhiều nhà tâm lý học suy nghĩ về những phương diện bình thường và bất thường của nhân cách. Tuy nhiên, có nhiều nhà tâm lý học có lẽ phê phán các quan niệm của Freud hơn là ủng hộ. Vậy cái gì là cơ sở cho những phê phán đó?
    Trước hết, những khái niệm phân tâm học là những khái niệm mơ hồ. Bởi lẽ chúng thiếu những định nghĩa rõ ràng về mặt thao tác, nên phần lớn học thuyết khó được lượng giá một cách khoa học. Bằng cách nào những khái niệm libido, giai đoạn hậu môn hoặc dồn nén có thể được nghiên cứu một cách trực tiếp? Bằng cách nào có thể tiên đoán liệu một người lo hãi công khai sẽ vận dụng các cơ chế phóng chiếu, phủ nhận hoặc tổ chức phản ứng nhằm bảo vệ cái Tôi đang bị đe dọa?
    Điều phê bình thứ hai có liên quan là: học thuyết Freud có giá trị về mặt lịch sử nhưng ít có giá trị về mặt khoa học. Nó không tiên đoán một cách đáng tin cậy điều gì sẽ xẩy ra, nó được ứng dụng mang tính hồi cứu, nghĩa là sau khi các sự kiện đã diễn ra rồi. Do quá nhấn mạnh đến nguồn gốc lịch sử của ứng xử hiện nay, nên học thuyết này không hướng sự chú ý vào các sự kiện hiện thời có thể đã dấn tới và duy trì ứng xử.
    Học thuyết Freud được xây dựng từ việc suy đoán về những bệnh nhân được điều trị trên lâm sàng, hầu hết đều là những phụ nữ với các triệu chứng giống nhau. Do vậy, một mục tiêu phê bình khác nói rằng thuyết này ít nói về những lối sống lành mạnh, là những lối sống không phải chủ yếu là tự vệ hoặc có rối nhiễu. Thay vì, nó đưa ra một cái nhìn bi quan rằng bản chất người bắt nguồn từ những xung đột, chấn thương và những lo hãi. Nó không thừa nhận đầy đủ phương diện tích cực của cuộc sống chúng ta, nó cũng không mang lại những thông tin nào về những nhân cách lành mạnh đang phấn đấu cho hạnh phúc và thực hiện trọn vẹn tiềm năng của mình.
    Các nhà phê bình học thuyết Freud đã đưa ra những cách lý giải khác về cấu trúc và vận hành nhân cách. Thực vậy, một số những cộng sự ban đầu của Freud đã đưa ra các giả thuyết rất khác của ông,mặc dầu những lý thuyết của họ đều dựa vào những khái niệm và những giả định phân tâm học.
    Để kết thúc phần bàn luận này dựa trên điều ghi nhận tích cực hơn, sự lượng giá mới đây mang tính phê bình các ý tưởng của Freud đã công nhận giá trị nhiều luận điểm của ông về điều nhân cách có thể phát triển và tâm bệnh lý có thể phát sinh như thế nào trong cuộc sống con người( Fisher Greenberg, 1985). Dẫu người ta chấp nhận các lý thuyết của Freud hay kô, song phần lớn đều thừa nhận rằng Freud đã làm thay đổi cách chúng ta suy nghĩ về tâm trí con người, những khả năng phức tạp và những biến thái của nó
  7. Lochness

    Lochness Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2003
    Bài viết:
    245
    Đã được thích:
    0
    Phê bình học thuyết Freud
    Các ý tưởng của Freud đã từng có tác động to lớn đối với phong cách nhiều nhà tâm lý học suy nghĩ về những phương diện bình thường và bất thường của nhân cách. Tuy nhiên, có nhiều nhà tâm lý học có lẽ phê phán các quan niệm của Freud hơn là ủng hộ. Vậy cái gì là cơ sở cho những phê phán đó?
    Trước hết, những khái niệm phân tâm học là những khái niệm mơ hồ. Bởi lẽ chúng thiếu những định nghĩa rõ ràng về mặt thao tác, nên phần lớn học thuyết khó được lượng giá một cách khoa học. Bằng cách nào những khái niệm libido, giai đoạn hậu môn hoặc dồn nén có thể được nghiên cứu một cách trực tiếp? Bằng cách nào có thể tiên đoán liệu một người lo hãi công khai sẽ vận dụng các cơ chế phóng chiếu, phủ nhận hoặc tổ chức phản ứng nhằm bảo vệ cái Tôi đang bị đe dọa?
    Điều phê bình thứ hai có liên quan là: học thuyết Freud có giá trị về mặt lịch sử nhưng ít có giá trị về mặt khoa học. Nó không tiên đoán một cách đáng tin cậy điều gì sẽ xẩy ra, nó được ứng dụng mang tính hồi cứu, nghĩa là sau khi các sự kiện đã diễn ra rồi. Do quá nhấn mạnh đến nguồn gốc lịch sử của ứng xử hiện nay, nên học thuyết này không hướng sự chú ý vào các sự kiện hiện thời có thể đã dấn tới và duy trì ứng xử.
    Học thuyết Freud được xây dựng từ việc suy đoán về những bệnh nhân được điều trị trên lâm sàng, hầu hết đều là những phụ nữ với các triệu chứng giống nhau. Do vậy, một mục tiêu phê bình khác nói rằng thuyết này ít nói về những lối sống lành mạnh, là những lối sống không phải chủ yếu là tự vệ hoặc có rối nhiễu. Thay vì, nó đưa ra một cái nhìn bi quan rằng bản chất người bắt nguồn từ những xung đột, chấn thương và những lo hãi. Nó không thừa nhận đầy đủ phương diện tích cực của cuộc sống chúng ta, nó cũng không mang lại những thông tin nào về những nhân cách lành mạnh đang phấn đấu cho hạnh phúc và thực hiện trọn vẹn tiềm năng của mình.
    Các nhà phê bình học thuyết Freud đã đưa ra những cách lý giải khác về cấu trúc và vận hành nhân cách. Thực vậy, một số những cộng sự ban đầu của Freud đã đưa ra các giả thuyết rất khác của ông,mặc dầu những lý thuyết của họ đều dựa vào những khái niệm và những giả định phân tâm học.
    Để kết thúc phần bàn luận này dựa trên điều ghi nhận tích cực hơn, sự lượng giá mới đây mang tính phê bình các ý tưởng của Freud đã công nhận giá trị nhiều luận điểm của ông về điều nhân cách có thể phát triển và tâm bệnh lý có thể phát sinh như thế nào trong cuộc sống con người( Fisher Greenberg, 1985). Dẫu người ta chấp nhận các lý thuyết của Freud hay kô, song phần lớn đều thừa nhận rằng Freud đã làm thay đổi cách chúng ta suy nghĩ về tâm trí con người, những khả năng phức tạp và những biến thái của nó
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Lochness nói rất đúng:
    giờ đây, Freud hầu như có mặt trong hầu hết các sách giáo khoa tâm lý tại VN . Chẳng những thế, Các Khái niệm mà ông fát kiến ra lại xâm nhập vào trong các kho tàng chuyện chưỡng của KIM DUNG (**) như Nhà Văn Vũ Đức Sao Biển mÔ tả như sau:
    THỬ NHÌN LIBIDO QUA TÁC PHẨM KIM DUNG {*} :
    Tôi không có tham vọng đem khái niệm Libido của triết học Tây phương để mổ xẻ các vấn đề thuộc phạm trù tâm lý, tình cảm trong tác phẩm văn học Đông phương.
    Tuy nhiên con người khắp nơi trên thế giới đều có những mẫu số chung trong hoạt động tâm lý, tình cảm, bởi họ đều là con người. Và tôi đã thận trọng giới hạn vấn đề mình sắp bàn đến trong hai chữ ?othử nhìn?.
    Tâm phân học (Psychanalyse) là một trường phái triết học Tây phương mà ông tổ sản sinh ra nó là Sigmund Freud.
    Tâm phân học đạt được một số thành tựu nhất định trong việc góp phần cắt nghĩa các hoạt động của năng lực ********; cắt nghĩa Ngã (Moi), Đại Ngã (Grand Moi) và Siêu Ngã (Sur-Moi); thế giới của ý thức, vô thức và tiềm thức? Tôi nhìn thấy trong các tác phẩm võ hiệp Kim Dung một số vấn đề khá gần gũi với cách cắt nghĩa của tâm phân học.
    Khi sáng tạo và giải thích tâm phân học, Sigmund Freud cùng các đồ đệ của ông như Alfred Adler, Karl Gustav Jung có tham vọng phân tích trạng thái tâm lý con người như là 1 thực thể, được chia cắt ra thành nhiều phần khác nhau. Thế giới tâm lý không còn là thế giới trừu tượng nữa; nó có hình thù hẳn hoi: có đáy, có đỉnh, có miền, có khu vực? Libido là 1 thuật ngữ khá đặc biệt của tâm phân học, được hiểu như là năng lực ******** (énergie de la pulsion ***uelle). Libido được coi như nền tảng của hoạt động tâm lý, giữ vai trò hình nhi hạ trong khi tình yêu giữ vai trò hình nhi thượng. Nếu hoạt động tâm lý được coi như 1 tam giác cân thì Libido là cái đáy mà tình yêu là cái đỉnh. Libido là năng lực bẩm sinh trong từng con người, năng lực ấy được thể hiện một cách khác nhau trong từng thời kỳ trưởng thành của cá nhân. Thí dụ: ở trẻ sơ sinh là thời kỳ bú mút, ở tuổi dậy thì là thời kỳ thủ dâm, và sau đó là thời kỳ ********?
    Khi Libido được thỏa mãn, cá nhân mới giữ được trạng thái thăng bằng. Nếu Libido bị ngăn trở, cá nhân bị ẩn ức. Ẩn ức là trạng thái các khuynh hướng bị ngăn trở, không thực hiện được, trở thành một thứ xung động nội tâm, được gọi là refoulement.
    Hãy hình dung ẩn ức như một quả bong bóng bơm căng, không có chỗ để thoát hơi ra, tức là không có chỗ để thỏa mãn được theo sự đòi hỏi của tự nhiên của năng lực ********. Trong trường hợp này, cá nhân tự đi tìm một trong hai cách thế để phát tiết. Một - Libido bị sa đọa, cá nhân trở thành đồng tính luyến ái, ghê sợ ********, điên loạn, tâm thần phân liệt, trầm cảm? Hai - Libido được thăng hoa trở thành những tình cảm, khát vọng cao thượng: say mê tôn giáo, khoa học, đam mê sáng tạo văn học, nghệ thuật, âm nhạc? Hiểu theo quan điểm của tâm phân học thì những người trong các nhà thương tâm thần là những người bị sa đọa Libido; thành quả âm nhạc rực rỡ của Beethoven, Mozart, Tchaikovsky là sự thăng hoa của Libido.
    Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đã chứng minh được một số trường hợp năng lực Libido sa đọa. Tiếu ngạo giang hồ xây dựng nhân vật Đông Phương Bất Bại của Triêu Dương thần giáo ham luyện Quỳ hoa bảo điển, đã tự ?ophăng teo? cái ?oxíu xiu? nam giới của mình, trở thành kẻ đồng tính luyến ái. Ấy, bởi vì câu mở đầu của Quỳ hoa bảo điển ghi: ?oVõ lâm xưng hùng, dẫn đao tự cung??~ (Muốn xưng hùng võ lâm, phải dùng dao tự thiến). ?oTự cung? tức là triệt tiêu hẳn năng lực ********. Hắn đâm ra mê lú, ?oyêu? tên đệ tử to con tốt tướng Dương Liên Đình, đánh nhau với người khác bằng một mũi kim thêu và với tư chức mỹ lệ của một phụ nữ! Tiếu ngạo giang hồ cũng xây dựng 2 trường hợp ?otự cung? khác- Nhạc Bất Quần và Lâm Bình Chi. Cả hai đều mất giới tính và sau đó, mất cả nhân tính. Nhạc Bất Quần bức tử vợ là Ninh Trung Tắc; Lâm Bình Chi giết vợ là Nhạc Linh San. Đau đớn thay, khi Nhạc Linh San chết đi, cô hãy còn là trinh nữ.
    Hiệp khách hành xây dựng một trường hợp Libido sa đọa khác. Đó là nàng Mai Phương Cô yêu Thạch Thanh mà không được chung sống cùng chàng. Mai Phương Cô đã bắt cóc đứa con nhỏ của vợ chồng Thạch Thanh ?" Mẫn Nhu đưa về hoang sơn nuôi, gọi tên thằng bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Nói theo Alfred Adler, Mai Phương Cô đã làm 1 động tác bù trừ: trả thù tình nhân, tình địch không được, Mai Phương Cô thóa mạ con của tình nhân, tình địch cho bõ ghét. Người phụ nữ ấy sống trong trạng thái trầm cảm, tự rạch bộ mặt mỹ miều của mình cho xấu xí và suốt đời không xuất hiện trước một ai. Khi Thạch Thanh lên núi tìm ra tông tích con trai, Mai Phương Cô tự vẫn.
    Trong Thiên Long bát bộ, Mộ Dung Phục là hậu duệ của dòng giống Tiên Ty nước Đại Yên, suốt đời đam mê khát vọng phục quốc. Từ chối mối tình đằm thắm của nàng thiếu nữ xinh đẹp Vương Ngữ Yên, Mộ Dung Phục sang Tây Hạ hy vọng được tuyển làm chồng của công chúa Ngân Xuyên, trở thành phò mã Tây Hạ, đem quân Tây Hạ về đánh Trung Quốc để phục hưng Đại Yên. Nỗi đam mê ấy biến Mộ Dung Phục trở thành kẻ bạc nghĩa, vô tình, giết luôn đám thủ hạ thân tín của mình, sẵn sàng làm con nuôi Đoàn Diên Khánh, nghĩa là từ chối họ Mộ Dung. Cuối cùng Mộ Dung Phục đã phát điên, ngồi trên gò mả, đội mũ lá làm vua, gọi các trẻ em chăn bò đến làm quan và đem kẹo phân phát cho chúng.
    Ở trạng thái thứ 2, năng lực Libido được thăng hoa trở thành những khát vọng, tình cảm cao thượng. Kim Dung cũng đã khắc họa cho người đọc một số hình ảnh cụ thể. Đó là Nhất Đăng đại sư, vốn là vua nước Đại Lý, được thuật trong Xạ điêu anh hùng truyện. Nhà vua đặc biệt sủng ái nàng thứ phi Anh Cô. Thế nhưng, Châu Bá Thông của phái Toàn Chân đến chơi Đại Lý, quan hệ ******** với nàng Anh Cô khiến nàng sinh ra một đứa con không được thừa nhận. Hiểu ra điều ấy, nhà vua đau đớn bỏ hoàng gia đi tu, trở thành một nhà sư Phật lực cao cường, từ bi đạo hạnh. Và trong Thần điêu hiệp lữ thuật lại, đôi bạn Vương Trùng Dương và Lâm Triều Anh yêu thương nhau. Đáng lẽ, họ đã sống đời sống lứa đôi, nhưng tình yêu lại trắc trở. Vương Trùng Dương suốt đời sống trong Trùng Dương cung; Lâm Triều Anh suốt đời sống trong ngôi cổ mộ dưới núi Chung Nam, tự xem mình là một người Sống-đã-chết (Hoạt tử nhân).
    Chung Nam sơn hạ
    Hữu Hoạt tử nhân
    (Dưới Chân núi Chung Nam
    Có người sống đã chết).
    Họ thăng hoa mối tình tuyệt vọng kia thành niềm say mê sáng tạo và nghiên cứu võ học. Vương Trùng Dương lập nên Toàn Chân phái; Lâm Triều Anh lập ra Cổ Mộ phái, trong đó có môn võ danh tiếng Ngọc Nữ kiếm pháp (kiếm pháp của gái đồng trinh). Khát vọng thăng hoa của Cổ Mộ phái truyền qua những đời sau trở thành một thứ quy luật: chỉ thu nhận gái đồng trinh và chỉ có gái đồng trinh mới làm được chưởng môn Cổ Mộ phái.
    Làm thế nào xác định được 1 cô gái đồng trinh?
    Một cách lãng mạn, Kim Dung đã đặt vào trong cánh tay của các nữ nhân vật của mình một dấu đỏ được cấy bằng chu sa, gọi là Thủ cung sa. Khi cô gái mất trinh, dấu Thủ cung sa ấy sẽ biến mất và những đồng môn sẽ xác định được dấu hiệu phạm tội. Những nhân vật kế tục Lâm Triều Anh như Lý Mạc Sầu, Hồng Lăng Ba đều giữ được dấu Thủ cung sa ấy. Họ tự ép mình phải xa lánh ******** như sư tổ nên tính tình biến đổi, trở thành những kẻ khắc bạc, độc ác. Riêng Tiểu Long Nữ, cô gái trong sáng, dịu dàng nhất của phái Cổ Mộ lại yêu thương người học trò Dương Qua (còn đọc là Quá ?" lỗi lầm). Thế nhưng, cô không giữ được sự trinh trắng vì bị một đệ tử phái Toàn Chân hiếp dâm. Vết Thủ cung sa mất đi, Dương Qua đau đớn bỏ ra đi, Tiểu Long Nữ cũng một đời đi tìm Dương Qua?
    Đạo gia Trung Quốc quan niệm có ba yếu tố cấu tạo thành hồn sống của một đời người: Tinh, Khí, Thần.
    * Khí (hơi thở) có biểu hiện trong hơi nói (trung khí).
    * Thần (sắc diện) có thể biểu hiện nơi khuôn mặt, ánh mắt, các động tác của chân tay.
    * Còn Tinh (trong khái niệm tinh dịch, tinh khí) là cái gì quý giá nhất, tiềm ẩn bên trong con người. Đạo gia đưa ra chủ trương ?obế tinh? (không cho *********) để con người có thể sống thọ.
    Mà ?obế tinh? có nghĩa là kìm hãm sự hoạt động thực tế của năng lực Libido.
    Người đàn ông nào giữ được năng lực ********, không ******** với phụ nữ được gọi là Thuần dương? Ỷ thiên Đồ long ký, Trương Tam Phong, ***** sang lập phái Võ Đang, sống trên trăm tuổi, vẫn chưa gần nữ sắc, có môn Thuần dương vô cực công rất vi diệu. Cũng trong Ỷ thiên Đồ long ký, chàng Vô Kỵ tuổi ngoài 20, có 4 cô bạn gái xinh đẹp nhưng vẫn không gần gũi nữ sắc, vẫn giữ được chất thuần dương. Chất thuần dương ấy là 1 trong nhiều điều kiện đưa Vô Kỵ trở thành người anh hùng vô địch của võ lâm Trung Quốc.
    Nói cách khác theo Kim Dung, phải kìm hãm năng lực Libido để hướng nó tới mục tiêu đạt tuyệt đỉnh tối cao trong võ học.
    Lộc Đỉnh ký xây dựng nhân vật giáo chủ Hồng An Thông. Hồng giáo chủ của Thần Long giáo này có tham vọng ?othiên thu trường trị, nhất thống giang hồ?, có 1 cô vợ trẻ măng là Tô Thuyên nhưng không bao giờ chung chăn gối.
    Lý do: nếu mất tinh khí thì võ công cái thế của Hồng giáo chủ sẽ trôi theo mây nước. Vì vậy Vi Tiểu Bảo đã ?ocuỗm? Tô Thuyên của Hồng giáo chủ làm người vợ lớn tuổi nhất của hắn.
    Cuối cùng những tham vọng của Hồng giáo chủ cũng tan thành mây khói, lão bị thuộc hạ giết chết.
    Cá biệt có những nhân vật giải phóng hết năng lực ******** của họ, trở thành những tên giặc dâm chuyên cưỡng gian phụ nữ. Kim dung gọi họ là ?oThái hoa dâm tặc?.
    Thí dụ như Điền Bá Quang trong Tiếu ngạo giang hồ, Âu Dương công tử trong Xạ điêu anh hùng truyện. Những người này hoạt động ******** đến nỗi khô kiệt cả tinh khí.
    Kim Dung bàn đế một thủ pháp gọi là Thái âm bổ dương (lấy cái tinh túynhất của phụ nữ để bồi bổ cho người đàn ông).
    Trong các loại ******** kinh của Trung quốc cũng có nhắc đến thuật này, tỷ như Tố nữ kinh hay Phòng trung thuật.
    Cái tinh túy nhất của phụ nữ là gì nếu không là tinh? Còn biện pháp ?oThái âm? ấy thế nào thì quả là 1 điều nhiêu khê rắc rối.
    Nói cách khác, Kim Dung vẫn đồng ý với Đạo gia rằng có thể phục hồi năng lực Libido trong trường hợp năng lực ấy bị sử dụng đến mức gần như cạn kiệt.
    Việc phục hồi ấy như thế nào không được tác giả bàn tới. Dẫu sao, truyện võ hiệp không phải là sách thuốc mà Kim Dung cũng không phải là nhà nghiên cứu về nghệ thuật phòng the?
    _____
    (**) Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh tháng 2, 1924 là Tiểu thuyết gia võ hiệp của Trung Quốc được yêu mến nhất Ở Việt Nam hiện nay (chắc chắn ai cũng khẳng định rằng đó chính là nhà văn Kim Dung -)
    tiểu thuyết võ hiệp đầu tay : " Thư Kiếm Ân Cừu Lục " với bút hiệu Kim Dung.
    Năm 1956 : Sáng tác và đăng báo " Bích Huyết Kiếm ".
    Năm 1957 : Viết và đăng truyện " Xạ Điêu Anh Hùng "
    Năm 1959 : Viết, đăng truyện " Tuyết Sơn Phi Hồ ", truyện dài rất ngắn của Kim Dung.
    Giữa năm 1959, khởi viết " Thần Điêu Hiệp Lữ ", đến năm 1962 mới xong.
    Năm 1960 - 1961 : Viết, đăng " Phi Hồ Ngoại Truyện "
    Năm 1963 : Viết, đăng truyện " Liên Thành Quyết " ( hay " Tố Tâm Kiếm " ) trên Minh Báo (Hồng Kông ) và trên báo Đông Nam Á ở Singapore.
    Cùng năm 1963, viết, đăng " Thiên Long Bát Bộ " ( hay Lục Mạch Thần Kiếm ) trên hai báo vừa kể.
    Năm 1965 : Viết, đăng " Lộc Đỉnh Ký " trên Minh Báo.
    Năm 1975: Viết, đăng " Việt Nữ Kiếm ", truyện Võ hiệp ngắn nhất của Kim Dung.
    Trong khoảng thời gian hai mươi năm từ 1950 đến 1970, ngoài các công việc của một phóng viên, biên tập viên, dịch các thông tin quốc tế, Kim Dung đã sáng tác 15 tập truyện Võ hiệp rất dài - trừ Tuyết Sơn Phi Hồ và Việt Nữø Kiếm - theo thứ tự thời gian như sau :
    1. Thư Kiếm Ân Cừu.
    2. Bích Huyết Kiếm.
    3. Tuyết Sơn Phi Hồ.
    4. Phi Hồ Ngoại truyện.
    5. Xạ Điêu Anh Hùng truyện.
    6. Thần Điêu Hiệp Lữ.
    7. Ỷ Thiên Đồ Long Ký.
    8. Bạch Mã Khiếu Tây Phong ( 1960 ).
    9. Uyên Ương Đao.
    10. Liên Thành Quyết ( 1963 ).
    11. Thiên Long Bát Bộ ( 1964-1968 ).
    12. Hiệp Khách Hành ( 1965 ).
    13. Việt Nữ Kiếm.
    14. Tiếu Ngạo Giang Hồ.
    15. Lộc Đỉnh Ký .
    - là tiểu thuyết gia võ hiệp duy nhất được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp trao tặng Huân chương văn học nghệ thuật vào tháng 10/2004
    Hiện là Viện trưởng Nhân văn Đại học Triết Giang (Trung Quốc)
    __
    {*} Nguồn : "Kim Dung Giữa Đời Tôi " Quyển Hạ
    Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo
    Tác giả: Vũ Đức Sao Biển
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 09:09 ngày 15/06/2005
  9. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Lochness nói rất đúng:
    giờ đây, Freud hầu như có mặt trong hầu hết các sách giáo khoa tâm lý tại VN . Chẳng những thế, Các Khái niệm mà ông fát kiến ra lại xâm nhập vào trong các kho tàng chuyện chưỡng của KIM DUNG (**) như Nhà Văn Vũ Đức Sao Biển mÔ tả như sau:
    THỬ NHÌN LIBIDO QUA TÁC PHẨM KIM DUNG {*} :
    Tôi không có tham vọng đem khái niệm Libido của triết học Tây phương để mổ xẻ các vấn đề thuộc phạm trù tâm lý, tình cảm trong tác phẩm văn học Đông phương.
    Tuy nhiên con người khắp nơi trên thế giới đều có những mẫu số chung trong hoạt động tâm lý, tình cảm, bởi họ đều là con người. Và tôi đã thận trọng giới hạn vấn đề mình sắp bàn đến trong hai chữ ?othử nhìn?.
    Tâm phân học (Psychanalyse) là một trường phái triết học Tây phương mà ông tổ sản sinh ra nó là Sigmund Freud.
    Tâm phân học đạt được một số thành tựu nhất định trong việc góp phần cắt nghĩa các hoạt động của năng lực ********; cắt nghĩa Ngã (Moi), Đại Ngã (Grand Moi) và Siêu Ngã (Sur-Moi); thế giới của ý thức, vô thức và tiềm thức? Tôi nhìn thấy trong các tác phẩm võ hiệp Kim Dung một số vấn đề khá gần gũi với cách cắt nghĩa của tâm phân học.
    Khi sáng tạo và giải thích tâm phân học, Sigmund Freud cùng các đồ đệ của ông như Alfred Adler, Karl Gustav Jung có tham vọng phân tích trạng thái tâm lý con người như là 1 thực thể, được chia cắt ra thành nhiều phần khác nhau. Thế giới tâm lý không còn là thế giới trừu tượng nữa; nó có hình thù hẳn hoi: có đáy, có đỉnh, có miền, có khu vực? Libido là 1 thuật ngữ khá đặc biệt của tâm phân học, được hiểu như là năng lực ******** (énergie de la pulsion ***uelle). Libido được coi như nền tảng của hoạt động tâm lý, giữ vai trò hình nhi hạ trong khi tình yêu giữ vai trò hình nhi thượng. Nếu hoạt động tâm lý được coi như 1 tam giác cân thì Libido là cái đáy mà tình yêu là cái đỉnh. Libido là năng lực bẩm sinh trong từng con người, năng lực ấy được thể hiện một cách khác nhau trong từng thời kỳ trưởng thành của cá nhân. Thí dụ: ở trẻ sơ sinh là thời kỳ bú mút, ở tuổi dậy thì là thời kỳ thủ dâm, và sau đó là thời kỳ ********?
    Khi Libido được thỏa mãn, cá nhân mới giữ được trạng thái thăng bằng. Nếu Libido bị ngăn trở, cá nhân bị ẩn ức. Ẩn ức là trạng thái các khuynh hướng bị ngăn trở, không thực hiện được, trở thành một thứ xung động nội tâm, được gọi là refoulement.
    Hãy hình dung ẩn ức như một quả bong bóng bơm căng, không có chỗ để thoát hơi ra, tức là không có chỗ để thỏa mãn được theo sự đòi hỏi của tự nhiên của năng lực ********. Trong trường hợp này, cá nhân tự đi tìm một trong hai cách thế để phát tiết. Một - Libido bị sa đọa, cá nhân trở thành đồng tính luyến ái, ghê sợ ********, điên loạn, tâm thần phân liệt, trầm cảm? Hai - Libido được thăng hoa trở thành những tình cảm, khát vọng cao thượng: say mê tôn giáo, khoa học, đam mê sáng tạo văn học, nghệ thuật, âm nhạc? Hiểu theo quan điểm của tâm phân học thì những người trong các nhà thương tâm thần là những người bị sa đọa Libido; thành quả âm nhạc rực rỡ của Beethoven, Mozart, Tchaikovsky là sự thăng hoa của Libido.
    Tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đã chứng minh được một số trường hợp năng lực Libido sa đọa. Tiếu ngạo giang hồ xây dựng nhân vật Đông Phương Bất Bại của Triêu Dương thần giáo ham luyện Quỳ hoa bảo điển, đã tự ?ophăng teo? cái ?oxíu xiu? nam giới của mình, trở thành kẻ đồng tính luyến ái. Ấy, bởi vì câu mở đầu của Quỳ hoa bảo điển ghi: ?oVõ lâm xưng hùng, dẫn đao tự cung??~ (Muốn xưng hùng võ lâm, phải dùng dao tự thiến). ?oTự cung? tức là triệt tiêu hẳn năng lực ********. Hắn đâm ra mê lú, ?oyêu? tên đệ tử to con tốt tướng Dương Liên Đình, đánh nhau với người khác bằng một mũi kim thêu và với tư chức mỹ lệ của một phụ nữ! Tiếu ngạo giang hồ cũng xây dựng 2 trường hợp ?otự cung? khác- Nhạc Bất Quần và Lâm Bình Chi. Cả hai đều mất giới tính và sau đó, mất cả nhân tính. Nhạc Bất Quần bức tử vợ là Ninh Trung Tắc; Lâm Bình Chi giết vợ là Nhạc Linh San. Đau đớn thay, khi Nhạc Linh San chết đi, cô hãy còn là trinh nữ.
    Hiệp khách hành xây dựng một trường hợp Libido sa đọa khác. Đó là nàng Mai Phương Cô yêu Thạch Thanh mà không được chung sống cùng chàng. Mai Phương Cô đã bắt cóc đứa con nhỏ của vợ chồng Thạch Thanh ?" Mẫn Nhu đưa về hoang sơn nuôi, gọi tên thằng bé là Cẩu Tạp Chủng (chó lộn giống). Nói theo Alfred Adler, Mai Phương Cô đã làm 1 động tác bù trừ: trả thù tình nhân, tình địch không được, Mai Phương Cô thóa mạ con của tình nhân, tình địch cho bõ ghét. Người phụ nữ ấy sống trong trạng thái trầm cảm, tự rạch bộ mặt mỹ miều của mình cho xấu xí và suốt đời không xuất hiện trước một ai. Khi Thạch Thanh lên núi tìm ra tông tích con trai, Mai Phương Cô tự vẫn.
    Trong Thiên Long bát bộ, Mộ Dung Phục là hậu duệ của dòng giống Tiên Ty nước Đại Yên, suốt đời đam mê khát vọng phục quốc. Từ chối mối tình đằm thắm của nàng thiếu nữ xinh đẹp Vương Ngữ Yên, Mộ Dung Phục sang Tây Hạ hy vọng được tuyển làm chồng của công chúa Ngân Xuyên, trở thành phò mã Tây Hạ, đem quân Tây Hạ về đánh Trung Quốc để phục hưng Đại Yên. Nỗi đam mê ấy biến Mộ Dung Phục trở thành kẻ bạc nghĩa, vô tình, giết luôn đám thủ hạ thân tín của mình, sẵn sàng làm con nuôi Đoàn Diên Khánh, nghĩa là từ chối họ Mộ Dung. Cuối cùng Mộ Dung Phục đã phát điên, ngồi trên gò mả, đội mũ lá làm vua, gọi các trẻ em chăn bò đến làm quan và đem kẹo phân phát cho chúng.
    Ở trạng thái thứ 2, năng lực Libido được thăng hoa trở thành những khát vọng, tình cảm cao thượng. Kim Dung cũng đã khắc họa cho người đọc một số hình ảnh cụ thể. Đó là Nhất Đăng đại sư, vốn là vua nước Đại Lý, được thuật trong Xạ điêu anh hùng truyện. Nhà vua đặc biệt sủng ái nàng thứ phi Anh Cô. Thế nhưng, Châu Bá Thông của phái Toàn Chân đến chơi Đại Lý, quan hệ ******** với nàng Anh Cô khiến nàng sinh ra một đứa con không được thừa nhận. Hiểu ra điều ấy, nhà vua đau đớn bỏ hoàng gia đi tu, trở thành một nhà sư Phật lực cao cường, từ bi đạo hạnh. Và trong Thần điêu hiệp lữ thuật lại, đôi bạn Vương Trùng Dương và Lâm Triều Anh yêu thương nhau. Đáng lẽ, họ đã sống đời sống lứa đôi, nhưng tình yêu lại trắc trở. Vương Trùng Dương suốt đời sống trong Trùng Dương cung; Lâm Triều Anh suốt đời sống trong ngôi cổ mộ dưới núi Chung Nam, tự xem mình là một người Sống-đã-chết (Hoạt tử nhân).
    Chung Nam sơn hạ
    Hữu Hoạt tử nhân
    (Dưới Chân núi Chung Nam
    Có người sống đã chết).
    Họ thăng hoa mối tình tuyệt vọng kia thành niềm say mê sáng tạo và nghiên cứu võ học. Vương Trùng Dương lập nên Toàn Chân phái; Lâm Triều Anh lập ra Cổ Mộ phái, trong đó có môn võ danh tiếng Ngọc Nữ kiếm pháp (kiếm pháp của gái đồng trinh). Khát vọng thăng hoa của Cổ Mộ phái truyền qua những đời sau trở thành một thứ quy luật: chỉ thu nhận gái đồng trinh và chỉ có gái đồng trinh mới làm được chưởng môn Cổ Mộ phái.
    Làm thế nào xác định được 1 cô gái đồng trinh?
    Một cách lãng mạn, Kim Dung đã đặt vào trong cánh tay của các nữ nhân vật của mình một dấu đỏ được cấy bằng chu sa, gọi là Thủ cung sa. Khi cô gái mất trinh, dấu Thủ cung sa ấy sẽ biến mất và những đồng môn sẽ xác định được dấu hiệu phạm tội. Những nhân vật kế tục Lâm Triều Anh như Lý Mạc Sầu, Hồng Lăng Ba đều giữ được dấu Thủ cung sa ấy. Họ tự ép mình phải xa lánh ******** như sư tổ nên tính tình biến đổi, trở thành những kẻ khắc bạc, độc ác. Riêng Tiểu Long Nữ, cô gái trong sáng, dịu dàng nhất của phái Cổ Mộ lại yêu thương người học trò Dương Qua (còn đọc là Quá ?" lỗi lầm). Thế nhưng, cô không giữ được sự trinh trắng vì bị một đệ tử phái Toàn Chân hiếp dâm. Vết Thủ cung sa mất đi, Dương Qua đau đớn bỏ ra đi, Tiểu Long Nữ cũng một đời đi tìm Dương Qua?
    Đạo gia Trung Quốc quan niệm có ba yếu tố cấu tạo thành hồn sống của một đời người: Tinh, Khí, Thần.
    * Khí (hơi thở) có biểu hiện trong hơi nói (trung khí).
    * Thần (sắc diện) có thể biểu hiện nơi khuôn mặt, ánh mắt, các động tác của chân tay.
    * Còn Tinh (trong khái niệm tinh dịch, tinh khí) là cái gì quý giá nhất, tiềm ẩn bên trong con người. Đạo gia đưa ra chủ trương ?obế tinh? (không cho *********) để con người có thể sống thọ.
    Mà ?obế tinh? có nghĩa là kìm hãm sự hoạt động thực tế của năng lực Libido.
    Người đàn ông nào giữ được năng lực ********, không ******** với phụ nữ được gọi là Thuần dương? Ỷ thiên Đồ long ký, Trương Tam Phong, ***** sang lập phái Võ Đang, sống trên trăm tuổi, vẫn chưa gần nữ sắc, có môn Thuần dương vô cực công rất vi diệu. Cũng trong Ỷ thiên Đồ long ký, chàng Vô Kỵ tuổi ngoài 20, có 4 cô bạn gái xinh đẹp nhưng vẫn không gần gũi nữ sắc, vẫn giữ được chất thuần dương. Chất thuần dương ấy là 1 trong nhiều điều kiện đưa Vô Kỵ trở thành người anh hùng vô địch của võ lâm Trung Quốc.
    Nói cách khác theo Kim Dung, phải kìm hãm năng lực Libido để hướng nó tới mục tiêu đạt tuyệt đỉnh tối cao trong võ học.
    Lộc Đỉnh ký xây dựng nhân vật giáo chủ Hồng An Thông. Hồng giáo chủ của Thần Long giáo này có tham vọng ?othiên thu trường trị, nhất thống giang hồ?, có 1 cô vợ trẻ măng là Tô Thuyên nhưng không bao giờ chung chăn gối.
    Lý do: nếu mất tinh khí thì võ công cái thế của Hồng giáo chủ sẽ trôi theo mây nước. Vì vậy Vi Tiểu Bảo đã ?ocuỗm? Tô Thuyên của Hồng giáo chủ làm người vợ lớn tuổi nhất của hắn.
    Cuối cùng những tham vọng của Hồng giáo chủ cũng tan thành mây khói, lão bị thuộc hạ giết chết.
    Cá biệt có những nhân vật giải phóng hết năng lực ******** của họ, trở thành những tên giặc dâm chuyên cưỡng gian phụ nữ. Kim dung gọi họ là ?oThái hoa dâm tặc?.
    Thí dụ như Điền Bá Quang trong Tiếu ngạo giang hồ, Âu Dương công tử trong Xạ điêu anh hùng truyện. Những người này hoạt động ******** đến nỗi khô kiệt cả tinh khí.
    Kim Dung bàn đế một thủ pháp gọi là Thái âm bổ dương (lấy cái tinh túynhất của phụ nữ để bồi bổ cho người đàn ông).
    Trong các loại ******** kinh của Trung quốc cũng có nhắc đến thuật này, tỷ như Tố nữ kinh hay Phòng trung thuật.
    Cái tinh túy nhất của phụ nữ là gì nếu không là tinh? Còn biện pháp ?oThái âm? ấy thế nào thì quả là 1 điều nhiêu khê rắc rối.
    Nói cách khác, Kim Dung vẫn đồng ý với Đạo gia rằng có thể phục hồi năng lực Libido trong trường hợp năng lực ấy bị sử dụng đến mức gần như cạn kiệt.
    Việc phục hồi ấy như thế nào không được tác giả bàn tới. Dẫu sao, truyện võ hiệp không phải là sách thuốc mà Kim Dung cũng không phải là nhà nghiên cứu về nghệ thuật phòng the?
    _____
    (**) Kim Dung tên thật là Tra Lương Dung, sinh tháng 2, 1924 là Tiểu thuyết gia võ hiệp của Trung Quốc được yêu mến nhất Ở Việt Nam hiện nay (chắc chắn ai cũng khẳng định rằng đó chính là nhà văn Kim Dung -)
    tiểu thuyết võ hiệp đầu tay : " Thư Kiếm Ân Cừu Lục " với bút hiệu Kim Dung.
    Năm 1956 : Sáng tác và đăng báo " Bích Huyết Kiếm ".
    Năm 1957 : Viết và đăng truyện " Xạ Điêu Anh Hùng "
    Năm 1959 : Viết, đăng truyện " Tuyết Sơn Phi Hồ ", truyện dài rất ngắn của Kim Dung.
    Giữa năm 1959, khởi viết " Thần Điêu Hiệp Lữ ", đến năm 1962 mới xong.
    Năm 1960 - 1961 : Viết, đăng " Phi Hồ Ngoại Truyện "
    Năm 1963 : Viết, đăng truyện " Liên Thành Quyết " ( hay " Tố Tâm Kiếm " ) trên Minh Báo (Hồng Kông ) và trên báo Đông Nam Á ở Singapore.
    Cùng năm 1963, viết, đăng " Thiên Long Bát Bộ " ( hay Lục Mạch Thần Kiếm ) trên hai báo vừa kể.
    Năm 1965 : Viết, đăng " Lộc Đỉnh Ký " trên Minh Báo.
    Năm 1975: Viết, đăng " Việt Nữ Kiếm ", truyện Võ hiệp ngắn nhất của Kim Dung.
    Trong khoảng thời gian hai mươi năm từ 1950 đến 1970, ngoài các công việc của một phóng viên, biên tập viên, dịch các thông tin quốc tế, Kim Dung đã sáng tác 15 tập truyện Võ hiệp rất dài - trừ Tuyết Sơn Phi Hồ và Việt Nữø Kiếm - theo thứ tự thời gian như sau :
    1. Thư Kiếm Ân Cừu.
    2. Bích Huyết Kiếm.
    3. Tuyết Sơn Phi Hồ.
    4. Phi Hồ Ngoại truyện.
    5. Xạ Điêu Anh Hùng truyện.
    6. Thần Điêu Hiệp Lữ.
    7. Ỷ Thiên Đồ Long Ký.
    8. Bạch Mã Khiếu Tây Phong ( 1960 ).
    9. Uyên Ương Đao.
    10. Liên Thành Quyết ( 1963 ).
    11. Thiên Long Bát Bộ ( 1964-1968 ).
    12. Hiệp Khách Hành ( 1965 ).
    13. Việt Nữ Kiếm.
    14. Tiếu Ngạo Giang Hồ.
    15. Lộc Đỉnh Ký .
    - là tiểu thuyết gia võ hiệp duy nhất được Bộ trưởng Bộ Văn hóa Pháp trao tặng Huân chương văn học nghệ thuật vào tháng 10/2004
    Hiện là Viện trưởng Nhân văn Đại học Triết Giang (Trung Quốc)
    __
    {*} Nguồn : "Kim Dung Giữa Đời Tôi " Quyển Hạ
    Từ AQ đến Vi Tiểu Bảo
    Tác giả: Vũ Đức Sao Biển
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 09:09 ngày 15/06/2005
  10. hoatnhiendonngo

    hoatnhiendonngo Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/01/2005
    Bài viết:
    344
    Đã được thích:
    0
    Chào Hoailong ,
    Mình thấy những bài viết về sinh lý học thần kinh của bạn cập nhật nhiều thông tin mới rất hay . Trong các sách tâm lý học người ta cũng thường đề cập nhiều đến cơ sở sinh lý thần kinh của các quá trình tâm lý . Chỉ tiếc là ko thấy có sơ đồ của não nên khi đọc rất khó hình dung , như đỉnh - chẩm , thái dương , thùy trán vỏ não ... đọc mà chẳng biết nó nằm góc nào . Tất nhiên mình thì ko có tham vọng hiểu được chúng đâu , nhưng cũng rất tò mò muốn biết . Nếu được mong bạn post lên vài sơ đồ cấu tạo não nhiều góc độ có kèm theo chú giải được ko ?
    Cảm ơn bạn rất nhiều
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này