1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Lochness

    Lochness Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2003
    Bài viết:
    245
    Đã được thích:
    0

    Lại nói về sự khác nhau giữa sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật và sự dồn nén libido.
    Mọi người hay nói đến toán học như một ngành khoa học khô khan, chính xác và ít tưởng tưởng. Và văn học nghệ thuật đòi hỏi một tư duy phân tán, từ một biểu tượng, liên tưởng đến một cái khác, rồi cái nữa. Nó không cần đến quan hệ nhân quả, từ A ====> B. Nó không cần nhiều đến logic. (Nói tương đối thôi, vì thơ cũng cần có niêm luật...).
    Thực tế thì sáng tạo nghệ thuật dường như là sự giải toả những ám ảnh, dồn nén vì nó thiên về chuyển cái không đến được tận cùng thành một cái dễ đạt hơn nhằm mục đích tự sướng....
    Còn về những sáng tạo khoa học. Ai đó nó là hệ quả của sự dồn nén, có lẽ không đúng. Phải nói nó là sự tưởng tưởng, thăng hoa.
    Hãy xem những sơ đồ này: Con người, sinh ra bình thường sẽ được tập nhiễm để có được mọi thứ theo một trình tự hợp lý, từ A ===>B1, B2, B3...====>C1, C2, C3.....
    Khi người ta đi theo những con đường của sự hợp lý, từ A ====>B1,B2....====>C1,C2...mà không có gặp phaỉ một điểm chết, quán tính của nó sẽ thúc đẩy người ta tiếp tục sáng tạo ra những caí D1, D2..., tức là theo sự hợp lý và phát triển, hướng về phía trước... Cái đó gọi là thăng hoa
    Còn khi đến C1,C2 mà không có sức tưởng tượng, sáng tạo để phát minh đi đến các mức tiếp theo hợp lý là D1, D2...thì người ta sẽ bị dồn nén và chuyển hướng theo một con đường khác, không bao h đến được các D mà sẽ quay lại về các B, thậm chí là A. Những người đó là những đứa trẻ hay tự huyễn, mộng tưởng...Libído lúc này bị ngưng trệ và sớm muộn thì cũng mắc 1 chứng tâm thần nào đó.
    Còn nếu phá ngang sang được những cái B_1, B_2..(chẳng hạn như đang học toán chuyển sang sáng tác thơ văn - còn gọi là dở hơi, đứt mạch...), có thể sẽ được người đời coi là các tài năng. Hướng của libido là hướng lên(thăng hoa), nhưng nội dung của nó thì lại rẽ sang hướng khác.
    Bài viết này không có ý ám chỉ và coi thường công việc của các nhà văn hay các nghệ sĩ thực thụ, những người có một đam mê và được định hướng từ sớm và sản phẩm là tình yêu tràn trề với cuộc sống, với cái đẹp. Nó chỉ là góp thêm một lời giải thích trước những hiện tượng "thiên tài" khó giải thích và những kẻ nhờ sự láu cá của trí tuệ, biết biến chuyển những dồn nén, bế tắc của mình thành sản phẩm chung có ích cho nhiều người.
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Trước khi bàn về tư duy sáng tạo khoa học và sáng tạo nghệ thuật và sự dồn nén libido (Theo ngữ cảnh phân tâm học);
    Chúng ta tiếp tục phần nói về hai bài viết của Nguyễn Hữu Liêm (2*) & Đỗ Lai Thúy (1*)
    B/ Ông Đỗ Kiên Cường, Sinh năm 1957 là 1 nhà Nghiên cứu vật lý Y sinh học (Biomedical Engineering) và triết học thuộc Trung tâm Vật lý Y sinh học - TP Hồ Chí Minh; Ngoài các Tác phẩm tiêu biểu như:
    - Đại cương laser y học và laser ngoại khóa (đồng tác giả, NXB Y học, 1999),
    - Lý giải các hiện tượng dị thường (NXB Trẻ, 2000),
    - Hiện tượng tâm linh (NXB Trẻ, 2001),
    - Tâm linh dưới góc nhìn khoa học (NXB Thanh Niên, 2002),
    -Khoa học và tâm linh (NXB Trẻ, 2003).
    Ông còn cộng tác và viết 1 số bài báo giải thích về các hiện tượng dị thường như: chuyện cô gái có thể điều khiển chiếc thang ; người phát sáng vv...
    Ông củng đả có những nhận xét về thuyết phân tâm học của Freud trong các bài viết sau đây :
    "Tại sao Freud gây nhiều tranh cãi?" (nguồn eVăn:)
    Bài này của tác giả Đỗ Kiên Cường là một bài viết độc lập về phân tâm học, vốn không liên quan tới hai bài viết của Đỗ Lai Thúy và Nguyễn Hữu Liêm. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng nó hoàn toàn có thể được đặt vào cuộc tranh luận về cái gọi là huyền thoại vô thức - phân tâm học có phải là một khoa học tiếm danh (a pseudo-sience)? hoặc về mối liên hệ giữa vô thức và sáng tạo nghệ thuật.
    Tại sao Freud gây nhiều tranh cãi? [1/2]
    Đỗ Kiên Cường
    Là một trong số những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất tới tư duy hiện đại cùng Marx, Darwin và Einstein, đương nhiên Sigmund Freud được hâm mộ, trích dẫn, tranh cãi và phê phán trên toàn thế giới. Trong giới trí thức thì dường như văn nghệ sĩ là những người chuộng Freud và phân tâm học hơn cả. Các thuật ngữ vô thức, dục năng, cái tôi, cái siêu tôi? thường xuyên xuất hiện trên nhiều trang viết. Đã có nhiều tác giả cố gắng lý giải hiện tượng đó, lý giải sức lôi cuốn của phân tâm học. Bài viết dưới đây sẽ cố gắng tìm hiểu phân tâm học dưới góc độ như nó vốn có, góc độ các khoa học tâm trí, và lược thuật những đánh giá mới về phân tâm học nói chung, Freud nói riêng. Xin hãy xem đây là một tiếng nói thêm nhằm rộng đường dư luận.
    Rất khó trình bày tư tưởng của Freud chỉ trong một bài viết, vì ông thường xuyên thay đổi nó. Hơn thế nữa, ông đã dùng vài triệu chữ để trình bày những suy nghĩ của mình; và học trò phải dùng ít nhất 100 triệu chữ để diễn giải cái mà họ cho là quan niệm của ông! Vì thế người đời sau thường đánh giá Freud qua con mắt người khác hơn là bằng cái nhìn riêng của mình.
    Lý thuyết hình học của tâm trí
    Năm 1900, trong tác phẩm Giải đoán giấc mơ, Freud đưa ra ?olý thuyết hình học? của tâm trí, trong đó ông chia tâm trí thành ba vùng: vô thức, tiềm thức và ý thức. Vì Freud đi tới lý thuyết nhờ các khám phá về vô thức và vì ông luôn xem vô thức là yếu tố quyết định nhân cách con người, nên trước tiên ta hãy khảo sát nó.
    Vô thức
    Ngay từ khi nghe những bệnh nhân đầu tiên kể về mắc mứu của mình, Freud đã nhận thấy họ đang kìm nén những ước muốn đáng sợ và những ký ức méo mó vốn không thể chấp nhận ngay cả với bản thân họ. Thi thoảng những ý nghĩ và cảm xúc bị cấm đoán đó lộ ra ở ý thức qua giấc mơ hay sự lỡ lời, thường dưới dạng ngụy trang hay tượng trưng. Vậy thì chúng từ đâu đến, tại sao chúng khủng khiếp, và cái gì ngăn không cho chúng xuất hiện ở ý thức?
    Các ước muốn không được chấp nhận đó từ đâu xuất hiện? Sau khi khảo sát cẩn trọng giấc mơ của bệnh nhân, Freud kết luận: ?oCái là vô thức trong cuộc sống tinh thần cũng chính là cái thơ trẻ?. Freud nhận thấy người lớn ít khi nhớ những gì xảy ra lúc năm hay sáu tuổi, nhưng chúng vẫn được lưu trong vô thức. Khi thức, một phần tâm trí đè nén hay ?okiểm duyệt? chúng. Nhưng khi ngủ, bộ phận kiểm duyệt nghỉ ngơi và ký ức có thể lọt lên tầng ý thức, tất nhiên dưới hình thức ngụy trang.
    Về vấn đề tại sao chúng có dạng bất thường, Freud viết: ?oNhu cầu khoái cảm ?" dục năng (libido), như chúng ta gọi nó ?" chọn đối tượng một cách không cấm đoán, và thực tế là thích chọn trái cấm: không chỉ vợ người khác, mà cả đối tượng loạn luân? mẹ và em gái, cha và anh trai? Sự căm hận cũng bùng phát không kìm nén. Ước muốn trừng phạt và cái chết? không phải là hiếm. Những ước muốn bị kiểm soát đó xuất hiện từ Địa ngục; và khi đã được giải đoán lúc ta thức giấc thì không một sự kiểm soát nào đáng xem là hà khắc nữa?.
    Bản chất chống xã hội của những ước muốn bị kìm nén đó chứng tỏ con người là ác quỷ? Freud không cho là vậy. Tâm năng chỉ ?olà chính nó?. Những mong ước đó xuất hiện rất sớm, trước khi bệnh nhân được xã hội hóa. Chúng chỉ gây rắc rối khi người lớn xem là xấu xa, và đó là lý do tại sao chúng bị ?okiểm duyệt? để không xuất hiện ở ý thức.
    Ý thức
    Ý thức là khái niệm khó định nghĩa chính xác về mặt khoa học. Rất lâu trước khi Freud chia tâm trí thành ba phần, giới tâm lý Đức thường liên hệ ý thức với sân khấu trong một nhà hát. Luồng sáng hẹp của đèn pha chiếu qua chiếu lại trên sân khấu, chiếu sáng những gì đang được chiếu sáng. Ngồi trong nhà hát, ta có thể thấy một dòng liên tục các hình ảnh xuất hiện dưới ánh đèn rồi biến mất vào bóng tối. Luồng sáng hẹp đó chính là ý thức hiện tại của bạn. Phần sân khấu còn lại cũng có thể nhìn thấy ?" nếu được chiếu sáng. Nhưng tại mỗi một thời điểm thì tất cả những gì mà bạn thấy chỉ nằm gọn trong luồng sáng đèn pha.
    Tiềm thức
    Theo chân các nhà triết học Đức, Freud cho rằng tiềm thức là bất kỳ cảm giác hay tư duy nào mà ta có thể biết ?" nếu và khi được đèn pha ý thức chiếu sáng.
    Hai hệ thống tâm trí
    Theo Freud, có hai hệ thống quyết định cuộc sống tinh thần là hệ tìm kiếm khoái cảm vô thức và hệ kiểm soát tiềm thức. Hệ tìm kiếm khoái cảm gắn với dục năng, mục đích là thu được sự thỏa mãn tức thời các đòi hỏi. Mục đích của hệ kiểm soát tiềm thức là ngăn chặn không cho luồng sáng ý thức chiếu tới những vùng ?olộn xộn? không muốn thấy. Những gì bạn nghĩ ?" đặc biệt những gì bạn nằm mơ ?" là do tương tác giữa hai hệ thống qui định.
    Nguyên lý khoái cảm
    Hệ vô thức được vận hành bằng nguyên lý khoái cảm. Đó là, bất cứ sự thỏa mãn nhu cầu dục năng nào cũng dẫn tới trạng thái khoái cảm về thể chất hay tinh thần. Nếu nhu cầu không được thỏa mãn, ta thấy đau đớn hay - theo Freud ?" không khoan khoái.
    Freud cho rằng có hai cách thỏa mãn tâm năng. Đầu tiên là thỏa mãn thực, như khi đói thì sữa làm em bé khoan khoái. Không có sữa thì em bé tìm cách thỏa mãn ?oảo? hay ?otượng trưng?, chẳng hạn mút tay hay mơ thấy được ăn.
    Nguyên lý hiện thực
    Khi lớn lên, em bé dần nhận thấy, cách ?othực? dẫn tới sự tưởng thưởng kéo dài và thú vị hơn cách ?oảo?. Và bé ngày càng nhận rõ sự khác biệt giữa hai phương cách. Khi đó bé bắt đầu hướng theo cái mà Freud gọi là nguyên lý hiện thực. Hệ tiềm thức bắt đầu tìm kiếm ở môi trường xung quanh những gì có thể thỏa mãn khoái cảm một cách thực tế (chẳng hạn vú mẹ). Quá trình tìm kiếm đó dần đưa bé tới ?osự tự làm chủ?.
    Giấc mơ
    Tất nhiên người lớn có khả năng tự làm chủ và phân biệt rõ ràng hai cách thỏa mãn. Tuy nhiên vô thức vẫn tìm kiếm sự thỏa mãn các ước vọng trẻ thơ ?" và những ước vọng này thường có tính chống xã hội nên không thể thỏa mãn trên thực tế. Vậy người lớn mơ để thực hiện những ước vọng bị ngăn cấm.
    Giấc mơ có vai trò quan trọng, vì nó có thể thỏa mãn một phần các nhu cầu vô thức trong khi vẫn duy trì được tiêu chuẩn đạo đức. Freud xem giấc mơ là ?ocon đường vương giả? dẫn tới vô thức. Ông nói: ?oTất cả chúng ta, kể cả người tốt, đều có bản chất dã thú vô pháp lộ ra trong giấc ngủ?. Nhưng vì vô thức hành động cả khi hiện thực không tồn tại, nên có thể thỏa mãn đòi hỏi của nó một cách tượng trưng. Như vậy bộ phận kiểm soát có thể thỏa mãn hầu hết các nhu cầu vô thức bằng cách trình bày chúng dưới dạng hóa trang.
    Bản năng
    Năm 1915, Freud định nghĩa bản năng là ?obiểu diễn tinh thần của nhu cầu vật chất?. Theo ông, nó có bốn đặc trưng là áp lực, mục đích, đối tượng và cội nguồn.
    Càng thiếu ăn thì ta càng đói, càng chịu áp lực tìm kiếm và tiêu thụ thức ăn. Mục đích của mọi bản năng là giảm áp lực. Như vậy mục đích cuối cùng của bản năng đói là ăn. Mút tay là mục đích trung gian vì nó có thể tạm thời làm dịu đói. Thỏa mãn tượng trưng một nhu cầu nào đó luôn là mục đích trung gian của bản năng tương ứng. Hầu hết các nhu cầu chỉ có thể thỏa mãn bằng đối tượng thực: Vú mẹ trở thành đối tượng để em bé săn lùng khi đói. Muộn hơn đối tượng có thể là bình sữa hay ngón tay. Và cội nguồn của bản năng là các quá trình vật lý và hóa học trong cơ thể.
    Tình yêu và cái chết
    Năm 1920, Freud cho rằng có hai bản năng chủ yếu: Eros (thần tình yêu trong thần thoại Hy Lạp) là lực sống và Thanatos (thần chết) là bản năng chết. Theo cách diễn giải của ông, Eros là bản năng sáng tạo có tổ chức để bảo tồn sự sống và giống loài. Eros là tình yêu và sự khoái cảm.
    Thanatos là bản năng phá vỡ sự tổ chức của nhân cách và đưa cơ thể tới ?ocon đường tự thân dẫn tới cái chết?. Thanatos là sự tự căm thù, gây hấn và buồn đau.
    Hầu hết những người theo phân tâm học chấp nhận Eros nhưng bác bỏ Thanatos. Để bảo vệ quan điểm về tình yêu và cái chết, Freud đưa ra ?omô hình tâm trí? mới.
    Mô hình cấu trúc của tâm trí
    Thành phần chính trong lý thuyết hình học là vô thức và tiềm thức. Năm 1923, Freud cho rằng mô hình này không chính xác nên đưa ra ba cấu trúc mới: cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi.
    Cái ấy
    ?oMột cách nguyên mẫu, hãy tin rằng, mọi thứ là cái ấy?. Bằng cách diễn đạt như vậy, Freud xem cái ấy là thành phần nguyên thủy nhất của nhân cách. Nó tồn tại từ lúc mới sinh và chứa tất cả các bản năng cơ bản. Freud gọi nó là ?ocái vạc đầy ắp những kích thích sục sôi?. Theo ông, cái ấy ?okhông biết đánh giá các giá trị: không thiên thần và ác quỉ, không đạo đức? Nó không có tổ chức, không tạo ra ý chí tập thể, mà chỉ hành động nhằm thỏa mãn các nhu cầu bản năng dưới con mắt theo dõi của nguyên lý khoái cảm?.
    Cái tôi
    Với bản chất tham lam, cái ấy sẽ sớm tự phá hủy bản thân ?" và nhân cách. Tuy nhiên, theo Freud, ngay những năm đầu đời, cái tôi bắt đầu thoát thai từ cái ấy. Sự phát triển cái tôi là hệ quả của việc con người có nhu cầu kiềm chế cái ấy và đáp ứng một cách thích hợp những đòi hỏi của môi trường xung quanh. ?oChúng ta có thể nói rằng cái tôi ứng với lý trí và cảm xúc tốt trong khi cái ấy ứng với các cảm xúc mạnh mẽ không được thuần hóa?. Cái ấy chứa libido và tuân theo nguyên lý khoái cảm. Cái tôi tuân theo nguyên lý hiện thực. Khi hành động như vậy, cái tôi có quyền quyết định vấn đề, liệu một nhu cầu bản năng nên được thỏa mãn tức thời hay cần phải kìm nén.
    Vì cái tôi thoát thai từ cái ấy, cái tôi cần tìm nơi chứa tâm năng. Một phần năng lượng này hướng tới những đối tượng bên ngoài có thể thỏa mãn nó. Freud gọi đó là dục năng đối tượng. Phần năng lượng còn lại của cái tôi được dùng để chống lại ?obản năng chết?. Cái tôi ?olàm trung gian? giữa các nhu cầu trẻ thơ của cái ấy và đòi hỏi của hiện thực bên ngoài. Và khi thực hiện điều đó, nó phải gắn với yếu tố thứ ba của tâm trí - cái siêu tôi.
    Cái siêu tôi
    Đối tượng đầu tiên mà cái tôi em bé đầu tư là vú mẹ. Chẳng chóng thì chầy, cái ?odục năng đối tượng? đó sẽ được mở rộng cho cả người mẹ. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian mà Freud gọi là giai đoạn tiềm tàng, bé buộc phải chấm dứt việc xem mẹ là ?ođối tượng tình yêu?. Khi bị ?omất mẹ? như vậy, cái tôi sẽ bù cho cái ấy bằng cách lựa chọn một số đặc trưng từ người mẹ. ?oKhi cái tôi lựa chọn đường nét của đối tượng (đã mất), có thể nói, nó tự buộc mình xem cái ấy như đối tượng tình yêu bằng cách nói: ?oHãy nhìn đi, bạn có thể yêu tôi đấy ?" Tôi rất giống đối tượng??.
    Quá trình ?otrở thành giống đối tượng đã mất? như thế được gọi là sự đồng nhất. Và từ sự đồng nhất đó mà cái siêu tôi thành hình. Nói một cách đơn giản thì cái siêu tôi xuất hiện khi đứa trẻ học cách đồng nhất với cha mẹ.
    Vì hình thành khi đứa trẻ còn bé, nên cái siêu tôi xây dựng một hình ảnh lý tưởng hóa về cha mẹ. Cái ?oý niệm lý tưởng hóa? đó hầu như không hơn tập hợp các hành vi được xã hội cho phép. Nên cái siêu tôi hành xử như ?olương tâm xã hội?. Trong hầu hết tình huống, cái siêu tôi buộc cái tôi (và cái ấy) tuân theo chuẩn mực đạo đức xã hội, bất kể chúng khắc khe đến mức nào.
    Theo Freud, nhiệm vụ của cái tôi không chỉ là giữ vai trò trung gian giữa cái ấy và hiện thực, mà khi làm như vậy, nó còn phải thỏa mãn cấu trúc của cái siêu tôi. Với một chút phân vân, ông nhắc nhở cái tôi điều đó: ?oCuộc sống chẳng dễ dàng gì!?.
    (Tạm ngưng)
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    (Tiếp Tục)
    Phần {*} là của Người Post bài
    Tại sao Freud gây nhiều tranh cãi? [2/3]
    Đỗ Kiên Cường
    Sự phát triển tính dục
    Tâm năng hay libido đóng vai trò then chốt trong cuộc sống tinh thần. Vậy nó được tổ chức hay thể hiện như thế nào trong các giai đoạn phát triển nhân cách khác nhau?
    Freud cho rằng tính dục phát triển qua năm giai đoạn.
    Trong giai đoạn miệng (đến một tuổi), dục năng biểu hiện ở miệng, còn trong giai đoạn hậu môn (từ hai tới ba tuổi), libido giải phóng qua hậu môn. T
    rong giai đoạn ********* (từ ba tới năm tuổi), tâm năng được tổ chức qua kích thích *********. Dục năng bị kiềm chế trong giai đoạn tiềm (từ sáu tới tám tuổi), nhưng tìm lại mình qua các hoạt động tính dục khác giới trong giai đoạn sinh dục (từ tuổi thiếu niên).
    Đương nhiên libido có các vùng và đối tượng khác nhau trong từng giai đoạn; chẳng hạn vùng dục năng thay đổi từ miệng hay ngón tay tới bộ phận sinh dục ngoài, còn đối tượng thì thay đổi từ vú mẹ tới người khác giới.
    Đáng chú ý là việc Freud giải quyết mặc cảm loạn luân Oedipus. Ông cho rằng bé trai bắt đầu mặc cảm Oedipus khi sợ cha sẽ thiến mình. Bé giải quyết nỗi sợ bằng cách tiếp nhận các giá trị của cha qua ba bước:
    1) chấm dứt đối tượng tình yêu ban đầu, tức người mẹ;
    2) đồng nhất với cha qua việc tiếp nhận các giá trị và quan điểm của cha; và
    3) phát triển cái siêu tôi hay lương tâm, với cơ sở ban đầu là quan điểm đạo đức của cha mẹ.
    Bé gái thì trải qua mặc cảm Electra, khi bắt đầu nhận thấy mình không có ********* và giận mẹ vì ?othảm họa? đó. Bé liền chấm dứt đối tượng yêu ban đầu là mẹ để hướng tới cha. Freud tin rằng, mặc cảm Electra bị phân tán ở bé gái khi bé tiếp nhận các giá trị và hành vi phụ nữ từ mẹ để hấp dẫn cha. Cùng với thời gian, ?othảm họa *********? giảm dần và bé lại gần gũi mẹ.
    Tuy nhiên vì mặc cảm Electra chỉ bị phân tán chứ không được giải quyết đến cùng, nên phụ nữ phát triển lương tâm hay cái siêu tôi không mạnh như nam giới.
    Tương tác giữa hai mô hình
    Năm 1933, Freud hợp nhất hai mô hình hình học và cấu trúc với nhau. Ông xem cái tôi nằm chủ yếu ở vùng ý thức và tiềm thức, nhưng cũng lấn sâu xuống vô thức. Cái siêu tôi chủ yếu nằm ở tiềm thức và vô thức; còn cái ấy nằm ở vô thức. Tuy nhiên Freud cảnh báo về việc thảo luận sơ đồ hợp nhất của ông một cách quá cơ giới. Ông cho rằng: ?oChúng ta không thể phán xét đặc trưng tâm trí bằng các đường nét tuyến tính như trong một bức tranh cổ, mà nên bằng các mảng màu tan vào nhau của hội họa hiện đại. Sau khi tạo ra sự chia tách, chúng ta phải nhập cái mà chúng ta vừa chia tách lại với nhau?.
    Trong lý thuyết Freud, chính mối tương quan động giữa các thành tố ?" cái ấy, cái tôi, cái siêu tôi; vô thức, tiềm thức, ý thức ?" quyết định bản chất nhân cách con người.
    Trên đây là đường nét chính của phân tâm học Freud, chủ yếu dựa theo cuốn:
    Nhập môn tâm lý học của Hilgard, NXB Harcourt Brace, xuất bản lần 12, 1996; và nhất là cuốn Tìm hiểu hành vi con người của James V. McConnell, Đại học Michigan, NXB Holt, Rinechart & Winston, xuất bản lần 6, 1989.
    Khi xuất hiện lần đầu vào năm 1974, nó đã tạo cuộc cách mạng trong viết và in sách nhờ bốn tiêu chí: họa tiết đầu và cuối chương, ngôn ngữ giản dị, phong cách tường thuật và ?ochú giải chạy? (là chú giải không ở cuối sách như truyền thống, mà ở ngay trang cần thiết. Hiện ngay cả báo chí cũng dùng cách chú giải này).
    Sức lôi cuốn, ảnh hưởng và đóng góp của Freud
    Năm 1929, nhà tâm lý Boring viết trong cuốn giáo khoa Lịch sử tâm lý học thực nghiệm rằng, tâm lý học không có một tượng đài như Darwin hay Helmholtz. Hai mốt năm sau, trong lần tái bản năm 1950, ông ca ngợi Freud: ?oÔng được xem là khởi nguồn vĩ đại nhất của tất cả, tác nhân của tinh thần thời đại, người hoàn thành sứ mạng phổ biến tâm lý học bằng nguyên lý của quá trình vô thức?
    Không có chuyện lịch sử tâm lý học ba trăm năm tới thiếu tên Freud mà vẫn được xem là lịch sử chính thống. Và đó chính là tiêu chuẩn về sự vĩ đại: danh tiếng sau khi mất
    ? (Schultz DP,Lịch sử tâm lý học hiện đại, NXB Harcourt Brace, xuất bản lần 6, 1996, trang 398).
    Năm 1982, hai nhà tâm lý Leak và Christopher đánh giá: ?oÍt nghi ngờ rằng phân tâm học Freud là ?olực đẩy đầu tiên? trong tâm lý học thế kỷ XX.
    Phân tâm học như một lý thuyết nhân cách toàn diện nhất, chi tiết hóa cấu trúc, động lực và sự phát triển nhân cách ở một mức độ mà không đối thủ nào vượt qua được
    ?.
    Đây là ưu điểm lớn nhất mang lại cho phân tâm học vinh quang và sức lôi cuốn.
    Phân tâm học giải thích tất cả, bằng những khái niệm dường như chính xác nhưng lại đủ mơ hồ và huyền ảo để ai cũng có cách diễn giải riêng ?" một đặc điểm rất giống với các triết thuyết và tôn giáo phương Đông xưa. Điều đó tạo nên sức lôi cuốn mà không một hệ tư tưởng mang tính thực chứng nào có được.
    Tuy nhiên theo triết gia Popper thì một hệ tư tưởng được xem là khoa học khi và chỉ khi nó mang tính tự phủ định nhằm tạo điều kiện cho hệ tư tưởng bao quát hơn ra đời. Nói cách khác, hệ tư tưởng nào thì cũng không thể giải thích tất cả; và các khái niệm cần được giới thuyết rõ ràng để phản biện.
    Vì thế đặc điểm trên của phân tâm học cũng chính là điểm mấu chốt để các nhà phê bình liên tục tấn công, thường là hiệu quả
    .
    Sức thu hút của phân tâm học cũng đến từ một hướng khác.
    Nói chung trong tâm lý học có hai kiểu tư duy: Kiểu tường thuật và kiểu duy lý / giải quyết vấn đề.
    Freud được ưa chuộng vì ông là một cây bút siêu hạng. Phong cách kể truyện của ông xuất sắc đến mức ông từng được đề nghị trao giải Nobel văn học! {* Thực tế Freud đả nhận giãi thưởng Goethe về văn chương sau này có thêm vào giãi học bổng về Phân tâm Học của viện Goethe (The Goethe Award for Psychoanalytic Scholarship)}
    Theo McConnell thì không thể hiểu được sức mạnh ngòi bút Freud khi chưa đắm mình vào những trang ông viết về lịch sử bệnh lý bệnh nhân. Những cái tên đầy sức gợi mà Freud đặt cho người bệnh ?" người rắn, người chó sói, Hans bé nhỏ ?" vừa miêu tả chính xác đặc tính của họ, vừa thể hiện sức tưởng tượng phi thường của ông. Và các thuật ngữ khoa học cái ấy, cái tôi, cái siêu tôi ?" cùng nhiều thuật ngữ khác, thì có lẽ chỉ Freud mới nghĩ ra. Người ta dùng chúng thường xuyên không chỉ trong các hội thảo tâm lý, mà còn trong cuộc sống hàng ngày.
    Phân tâm học còn được phổ biến nhờ một thực tế không thể bỏ qua, đó là sức hấp dẫn khác thường của chủ đề tính dục. Mặc dù Freud cho rằng kìm hãm tính dục là cần thiết cho sự tồn tại của văn minh, điều có vẻ ngược với quan điểm về vai trò động lực của dục năng, chính việc nhấn mạnh tính dục đã góp phần phổ biến tư tưởng của ông. Theo Schultz trong sách đã dẫn thì ngay trên các tạp chí khoa học, bài viết về *** cũng tạo nên sức lôi cuốn đầy cảm xúc. Và đó cũng có thể là lý do đông khách của mấy bộ phim trong nước gần đây.
    Phê phán phân tâm học
    Như đã trình bày, Freud xem vô thức là thành tố chủ yếu của tâm trí và nhân cách con người. Nhiều người ủng hộ phân tâm học nhưng quên quan điểm của ông về vô thức, về những ký ức và ước vọng bị kìm nén (vì thường có tính bản năng và chống xã hội). Đó vừa là đóng góp vừa là sai lầm của ông. Sai lầm đó xuất phát từ cách Freud thu thập số liệu.
    Nhiều người đã phê phán Freud ở khía cạnh thu thập bằng chứng thực tế, bước đầu tiên của việc xây dựng lý thuyết khoa học. Nói chung nó không đầy đủ, phiến diện và không chính xác. Thực tế Freud chỉ tiến hành quan sát trên phạm vi đối tượng rất hẹp: những người loạn thần kinh thuộc tầng lớp trên tại Vienna. Cái nhìn lệch về bản năng vô thức, về bản chất chống xã hội khá là dễ hiểu. Và đó cũng là lý do tâm lý học Freud là tâm lý học về sự giải thoát tình trạng căng thẳng, chứ không hướng tới sự thăng hoa (như Jung, Adler và các nhà tân Freud khác). Đao to búa lớn thì Freud phạm chính khiếm khuyết của các triết gia cổ đại:lấy tư biện thay cho bằng chứng khách quan. Vì thế phân tâm học ít được bằng chứng thực nghiệm ủng hộ.
    Chẳng hạn khoa học thần kinh không ủng hộ quan niệm giấc mơ là con đường chủ yếu để khám phá vô thức. Nói chung trên 80% số người được hỏi mơ thấy bị treo hay bị săn đuổi. Lẽ nào bị treo lại là ước vọng vô thức của con người? Vì thế giải đoán giấc mơ của Freud sai là chính. Không thể đồng ý với ông rằng, ngôi nhà mặt tiền nếu bằng phẳng thì biểu tượng cơ thể nam, xù xì thì ứng với cơ thể phụ nữ; vật dụng dài như cành cây tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam, còn vật đóng như bao diêm thì cho bộ phận sinh dục nữ. Càng vô lý hơn nếu quan niệm khi mơ thấy leo cầu thang, lái xe, cưỡi ngựa, đi qua cầu, đó chính là lúc ta mong sinh hoạt ******** (!). {* Xem thêm
    (*) J Allan Hobson: 13 Dreams Freud Never Had : The New Mind Science hay:
    - The Meaning of Dreams (Jonathan Winson):
    http://people.brandeis.edu/~teuber/dreams.pdf
    (2002 Scientific American)
    - Self-Organization in the Dreaming Brain :
    http://www.stanleykrippner.com/papers/self-organization_dreamingbrain.htm}
    Quan niệm về phát triển tính dục của Freud bị công kích khá dữ dội. Cách giải quyết mặc cảm Oedipus hay Electra cũng chịu chung số phận vì dường như thiếu nhân tính và trọng nam khinh nữ. Quan niệm tâm năng thường chọn trái cấm, kể cả bậc sinh thành, là cái nhìn sai lệch về bản chất Darwin của loài người. Theo tiến hóa luận thì bậc sinh thành dám hy sinh tất cả vì sự sinh tồn của con cái, vì đó là cách duy nhất để gene của họ có thể chống chọi với thời gian. Nên ngay từ lúc mới ra đời, một số quan niệm của Freud đã bị nhà tâm lý Mỹ John B. Watson, người cha của tâm lý học hành vi, gọi là ?otà thuật?.
    Tuy nhiên phê phán Freud chủ yếu tập trung ở điểm chốt sau đây. Giống như mọi lý thuyết mang phong cách trần thuật khác trong khoa học, phân tâm học có khuynh hướnggiải thích tất cả nhưng hầu như không tiên lượng gì. Như lưu ý ở trên, đó là lý do Freud hấp dẫn những người nhân văn chủ nghĩa ?" họa sĩ và nhà thơ, nhà triết học và lịch sử tự nhiên ?" hơn là những nhà khoa học thực nghiệm thiên về cái nhìn thực chứng, theo kiểu chỉ thực tiễn cây đời mới mãi xanh tươi. Đánh giá của nhà tâm lý Parisi, năm 1987, có thể là minh họa rõ nhất cho nhận định này: ?oTôi không cố cãi rằng Freud đúng hay lý thuyết của ông đúng. Nếu buộc phải lựa chọn ?" đúng hay sai ?" tất nhiên ai cũng phải thừa nhận rằng Freud sai ở nhiều khía cạnh. Nhưng ông sai trong sự phong phú?.
    _
    (Tạm ngưng)
    {(*) J. Allan Hobson: là nhà tâm thần học và nghiên cứu giấc ngủ hàng đầu tại Đại học Y khoa Harvard
    (đồng tác giả của thuyết hoạt hóa ?" tổng hợp hóa học về bản chất giấc mơ cùng Robert W. McCarley năm 1977) }
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:17 ngày 21/07/2005
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Phần {*} là của Người Post bài
    Tại sao Freud gây nhiều tranh cãi? [3/3]
    Đỗ Kiên Cường
    (Tiếp Tục)

    Một số nhận định về phân tâm học tại Việt Nam
    Tại nước ta lời khen tiếng chê Freud cũng không khác quan điểm chung trên toàn thế giới. Và những sai lầm trong đánh giá hay vận dụng phân tâm học cũng không thoát khỏi tình trạng đó.
    Sai lầm lớn nhất của một số văn nghệ sĩ là quan niệm sáng tạo chủ yếu do vô thức quyết định, chẳng hạn như cách diễn đạt của một cây bút: ?oMà, hình như, mọi sáng tạo đều bị thúc đẩy bởi những xung lực của vô thức?
    (T/c Văn hóa và nghệ thuật, số 1-2004, trang 81, cột 2, dòng 46-49).
    Có lẽ vì họ quá đề cao và (nên) không muốn giải mã sự sáng tạo về mặt khoa học, không muốn sáng tạo trở thành đối tượng của cái hiểu.
    Nếu biết rằng nhà thơ Steensen (1638-1686) từng viết (dịch ý):thấy thì đẹp, hiểu thì đẹp hơn, không hiểu thì đẹp nhất, ta có thể hiểu và thông cảm với tâm thức của ý tưởng đó.
    Tuy nhiên nếu vô thức là động lực sáng tạo, tại sao chỉ Mendeleev, là nhà hóa học, chứ không phải nhà yoga, là người vô thức hơn tất cả, mới mơ thấy bảng tuần hoàn?
    Và tại sao chỉ Nguyễn Trọng Tạo, chứ không phải một đệ tử Lưu Linh, mới xuất khẩu thành thơ :
    ?oSông Hương hóa rượu ta đến uống ?" Ta tỉnh kinh thành nghiêng ngả say? lúc tàn cuộc rượu? (Theo lời kể thì sáng hôm sau tỉnh rượu nhà thơ hỏi: Thơ ai mà hay quá vậy?).
    Và tại sao máy tính - vốn chỉ hành xử và hành xử rất giỏi ở mức vô thức, vì nó biết mà không biết rằng nó biết ?" không bị sự sáng tạo thôi thúc?
    Một nhà thơ khá nổi tiếng thì dùng khái niệmvô thức cộng đồng để giải thích phong trào sáng tác trường ca sau ngày thống nhất đất nước 1975. Ông cho rằng những thôi thúc trả món nợ không thể trả đối với đồng đội đã hy sinh, đối với mất mát của toàn dân tộc chính là động lực buộc các nhà thơ phải viết trường ca, như một cách trả nợ. Những gì ông viết đều đúng, chỉ có điều đó là ý thức công dân,ý thức cộng đồng, chứ không phải vô thức cộng đồng! Đó có thể là minh họa cho một kiểu vận dụng Freud và tân Freud: nặng về trang điểm hơn là hướng tới sự hiểu.
    Cần lưu ý thêm rằng, không chỉ người yêu mà ngay kẻ ghét cũng có thể sai lầm khi phê phán phân tâm học. Chẳng hạn khi phê phán quan điểm cơ bản của Freud (vô thức là động lực nhân cách), người ta thường xem vô thức là phần tối trong sự đối lập với ý thức là phần sáng. Và vì con người luôn hướng tới phần sáng nên đương nhiên Freud sai. Đây cũng là một kiểu phê bình bất cập vì đã dùng chính quan niệm vô thức của Freud ?" vốn sai lầm - để bác bỏ Freud.
    _
    Phát triển mới trong lý thuyết nhân cách
    Có thể hiểu rõ hơn vị trí của phân tâm học nếu lưu ý tới xu hướng phát triển mới trong các lý thuyết nhân cách sau Freud. Các xu hướng đó bao gồm:
    1) Sự dịch chuyển từ quan điểm ?otự nhiên? của Freud tới quan điểm ?ogiáo dục?, tới quan điểm ?otương tác? giữa tự nhiên và giáo dục.
    2) Quá trình thoát ly quan niệm cơ thể là ?ocỗ máy phản ứng thụ động? để chuyển sang quan niệm con người là ?okẻ tham gia tích cực? vào việc hình thành nhân cách bản thân.
    3) Xu hướng từ nhấn mạnh cảm xúc của Freud tới nhấn mạnh quá trình nhận thức.
    4) Thoát ly vô thức để hướng tới niềm tin, rằng các quá trình ý thức là quan trọng đối với nhân cách.
    5) Giảm quan tâm tới ?ocác giai đoạn phát triển?, tăng niềm tin rằng các hình thái phát triển nhân cách được quyết định nhờ sự tương giao liên tục giữa con người và môi trường xã hội.
    6) Một bước chuyển từ niềm tin Freud rằng nhân cách cố định ở tuổi 15 sang quan niệm con người có thể trưởng thành trong suốt cả cuộc đời.
    _
    Vô thức trong tâm lý học nhận thức
    Từ những gì đã trình bày, có thể tin rằng, những ai vốn coi trọng vô thức vẫn không hề lay chuyển niềm tin. Điều đó thực ra dễ hiểu, vì không thể đánh giá đúng vai trò vô thức trong mối tương quan với ý thức nếu không nhắc tới tâm lý học nhận thức, là hệ thống tâm lý tập trung tới sự hiểu, tới việc tâm trí tích cực sắp đặt và tổ chức các kinh nghiệm như thế nào. Nói một cách đơn giản thì tâm lý học nhận thức quan tâm trở lại tới các quá trình ý thức.
    Có thể gây ngạc nhiên, nhưng chính việc khảo sát ý thức một cách khoa học lại gây nên sự chú ý mới đối với các hoạt động vô thức. ?oSau gần 100 năm bị lãng quên, nghi ngờ và vô hiệu hóa, các quá trình vô thức lại chiếm một vị trí vững vàng trong tâm trí tập thể của các nhà tâm lý học?
    (Kihlstrom JF, Barnhardt M, Tataryn DJ,Vô thức tâm lý học: tìm thấy, mất đi và tái xuất hiện, T/cNhà tâm lý Mỹ, 1992, số 47, trang 788; dẫn lại theo Schultz, sách đã dẫn, trang 455)
    {* Kihlstrom, J. F., Barnhardt, T. M., & Tataryn, D. J. (1992). The psychological unconscious: Found, lost, and regained. American Psychologist, 47., 788-791.
    http://www.psychology.sunysb.edu/ewaters/345/2003_documents/unconscious_lost_found.pdf }.
    Tuy nhiên đây mới là mấu chốt vấn đề: đó không phải là vô thức như Freud đã lập thuyết, tức cái vô thức được vận hành nhờ các dục năng, ký ức và ước vọng bị kiểm soát, cũng như nhờ sự săn lùng khoái cảm. Và chúng chỉ có thể xuất đầu lộ diện ở ý thức qua quá trình phân tích tâm lý lâu dài và tốn kém. Vô thức mới được xem là lý trí hơn cảm xúc. Nó liên quan với giai đoạn đầu tiên của sự nhận thức trong hành động đáp ứng đối với một kích thích.
    Vô thức là yếu tố tích hợp của quá trình học và xử lý thông tin, và có thể khảo sát nó qua nhiều hình thức thực nghiệm có kiểm soát.
    Để phân biệt vô thức nhận thức học với vô thức phân tâm học (và trạng thái không biết về mặt thể chất, ngủ hay hôn mê), một số nhà nhận thức học ưa dùng thuật ngữphi ý thức (nonconscious) hơn làvô thức (unconscious). Khi đó giới nghiên cứu đồng ý rằng, phần lớn quá trình xử lý tâm thần diễn ra ở tầng phi ý thức.
    Điều đó không hạ thấp vai trò ý thức, vì theothuyết xử lý đối ngẫu Dixon, 1981, ý thức và vô thức là hai mặt của một đồng xu, chúng tồn tại không thể thiếu nhau, đối lập và thống nhất. Hãy so sánh khập khiễng ý thức với bộ tham mưu chiến lược, vô thức với phần còn lại của một đạo quân.
    Hiển nhiên phần lớn công việc thuộc về vô thức, nhưng phải chăng các quyết sách chiến lược lại kém phần quan trọng? Theo bạn thì Napoleon đúng khi coi trọng các tướng soái hay Lev Tolstoi đúng khi coi trọng những người lính vô danh trên mọi nẻo đường chiến dịch?
    _
    Tự nhiên và giáo dục, sinh học và môi trường
    Thực ra mọi tranh cãi về bài toán ý thức hay vô thức chỉ có thể giải quyết thỏa đáng trong khuôn khổ một bài toán bao quát hơn. Đó là bài toántự nhiên hay giáo dục,sinh học hay môi trường trong việc tìm hiểu bản chất con người.
    Nói cách khác, cái gì quyết định bản chất con người, hệ gene hay các thành tố văn hóa? Đây là bài toán từng gây tranh cãi gay gắt không chỉ trong khoa học, vì những hệ lụy khoa học, triết học, đạo đức, xã hội, thậm chí cả chính trị của nó. Từng có những quan niệm như quyết định luận sinh học của chủ nghĩa phát xít hay công nghệ xã hội của xã hội học cực đoan, cũng như nhiều quan niệm trung dung ở mức độ khác nhau (chẳng hạn do đề cao bản năng vô thức, phân tâm học thiên về tự nhiên hơn giáo dục, sinh học hơn môi trường).
    Ở đây cần trích dẫn nhà linh trưởng học Thụy Sĩ Hans Kummer {*} khi ông nhận xét về mối quan hệ nói trên. Theo ông, cố gắng xác định xem nhân cách được sắp xếp bằng gene hay môi trường nhiều ít ra sao cũng vô ích như việc cố gắng xác định xem tiếng trống từ xa vọng lại do trống hay người đánh trống.
    {* Xem thêm : Nature vs Nurture (tự nhiên đ/v giáo dục)
    http://environmentalet.org/psy111/naturenurture.htm }
    Cái có thể xác định chỉ là, hai tiếng trống khác nhau do hai cái trống hay do hai người đánh trống khác nhau. Cũng như vậy, có thể nói sự khác nhau trong phong cách của hai nhạc sĩ chủ yếu do di truyền hay giáo dục, chứ không thể nói phong cách từng người chỉ do thiên bẩm hay khổ luyện.
    Có thể thấy vấn đề rõ hơn qua chủ đề ưa thích của Freud,cấm kị loạn luân. Theo phân tâm học, dục năng ưa đối tượng loạn luân. Vậy tại sao loạn luân ít xảy ra?
    Vì cấm kỵ loạn luân là thiết chế đạo đức để kiểm soát và ngăn chặn. Theo giới Freud học thì đó chính là thắng lợi của văn hóa trước tự nhiên.
    Tuy nhiên ngay từ thời Freud, nhà xã hội học Phần Lan Edward Westermarch {*} đã giả định rằng, sự thân thuộc ngay từ lúc bé (như giữa mẹ con hay anh em) giết chết đòi hỏi tính dục. Ông cho rằng hầu như không có sự hấp dẫn tính dục giữa những người lớn lên bên nhau. Như một người Darwin chủ nghĩa, ông giả định đó chính là cơ chế tiến hóa để ngăn ngừa sự loạn luân, tức ngăn ngừa sự suy thoái của hệ gene di truyền. Quan niệm đó được khẳng định cả trên linh trưởng và trên người.
    {* Xem Thêm :
    http://www.kirjasto.sci.fi/ewester.htm
    www.glbtq.com/social-sciences/westermarck_e.html
    hay :
    http://www.stanford.edu/~scheidel/incest.htm }
    Cấm kỵ loạn luân không phải là thắng lợi của văn hóa trước sinh học, mà là sự giao thoa của chúng. Theo tiến hóa luận thì chúng ta là kết quả của hệ gene phù hợp với môi trường, nói cách khác là sản phẩm giao thoa giữa sinh học và môi trường. Và như thành tố của một xã hội cụ thể, mỗi chúng ta là sản phẩm của quá trình tương tác không ngưng nghỉ giữa các yếu tố văn hóa và tự nhiên đã tạo nên xã hội đó.
    Kết thúc bài báo khoa học {*} ?oChấm dứt cuộc tranh cãi tự nhiên chống giáo dục? trên tạp chí Người Mỹ khoa học số 12-1999, nhà động vật và đạo đức học Frans de Waal viết: ?oThay cho việc coi văn hóa là phản đề của tự nhiên, chúng ta có thể hiểu sâu sắc hơn hành vi con người nếu im lặng mang cuộc tranh cãi xưa cũ tự nhiên/giáo dục tới nấm mồ của nó?.
    {* de Waal, F. B. M. (1999). The end of nature versus nurture. Scientific American 281 (6): 94-99.
    http://www.sfu.ca/~dant/projects/psyc100/de_waal_nature_nurture.pdf }
    Xin noi gương ông mà mạnh dạn cho rằng, có thể hiểu rõ hơn quá trình sáng tạo cũng như các hoạt động tinh thần khác của con người nếu chúng ta lẳng lặng đem cuộc quyết đấu ý thức hay vô thức chôn sâu dưới ba thước đất._
    Thành phố Hồ Chí Minh, 19/2/2004
    eVăn 2004
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:58 ngày 26/07/2005
  5. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Não bộ tiết lộ bí mật
    Nguồn : Trích từ Tri Thức trẻ 5-2005.
    Nền y học hiện đại có trong tay những pp nghiên cứu não bộ rất chính xác. chúng cho phép kiểm tra chính xác hoạt động của từng bộ phận. Nhằm mục đích đó, người ta sử dụng thiết bị cộng hưởng từ chức năng (fMRI),chụp X-quang và điện não đồ( EEG). Thông qua những thiết bị đó, chyên gia có thể dễ dàng đánh giá mức độ tổn thất não bộ do hậu quả gây ra bởi stress - thủ phạm hiện tượng phát sinh các bệnh tâm lý như trầm cảm.
    Thiết bị cộng hưởng từ cũng cho phép phát hiện chứng khó đọc ở trẻ em - đối tượng vẫn chưa biết đọc, biết viết. Các nhà khoa học quan sát trong thấy trong não bộ những trẻ em này vùng vỏ não chịu trách nhiệm chuyển giao những ấn tượng thị giác có diện tích nhỏ hơn những đứa trẻ đồng lứa. Nhờ kỹ thuật fRMI, các nhà thần kinh học sẽ biết, những tế bào thần kinh thuộc vùng vỏ não này ở đối tượng là nạn nhân hoạt động kém tích cực hơn. Cũng may , có thể cải thiện chức năng vùng vỏ não này nhờ thực hiện những bài tập thích hợp. " Bởi bộ não trẻ có năng lực đàn hồi tốt, nên việc luyện tập sẽ không khó cải thiện năng lực đọc." - GS Jhon Gabrieli (Stanford Univeristy) giải thích.
    ( Chú thích thêm của dumb: Về khả năng đàn hồi của não bộ, có thể tham khảo "Lý thuyết về các dạng Trí thông minh" của nhà tâm lý học Howảd Gardner - chuyên gia về vấn đề này.
    Chụp X - quang cho phép kiểm tra giới trẻ phản ứng thế nào với các hợp chất gây nghiện - Cho đối tượng lượng rất nhỏ hợp chất có nguồn gốc tương tự ma tuý, sau đó quan sát phản ứng của não bộ. Với người phản ứng mạnh mẽ - đối tượng sẽ dễ trở thành nghiện. Việc nghiên cứu hoạt động của hệ viền (limbi) - chịu trách nhiệm cảm xúc - sẽ cho phép đánh giá thiên hướng hành vi bạo ngược và ngộ độc ni cô tin..
    Tất cả các phản ứng như thức giấc, hoảng loạn và bạo ngược đều do hạnh nhân(amygdal) trong não bộ điều khiển. Ở đàn ông, thể đó có tỷ lệ lớn hơn so với đàn bà. Chính vì vậy, đàn ông nhìn chung bốc đồng hơn phụ nữ. Ở phụ nữ, xúc cảm tiêu cực được "đạo diễn"(hay điều khiển - chú thích của dumb) bởi vũng vỏ não phát triển dưới trán - GS Ruben Gur (University of Pensylvania), lý giải. Thể hạnh nhân lớn hơn, khiến cho đàn ông không chỉ hung dữ hơn, mà còn có uy lực hơn., ngay trong giới mày râu, khả năng ******** phụ thuộc vào kích thước hạnh nhân.
    (còn tiếp)
    ================================================
    Chú thích thêm của dumb Về vai trò của vòng mạch giữa vỏ não trán trước và hạnh nhân:
    Hạnh nhân là phần não thuộc hệ viền(limbi) chịu trách nhiệm về các xúc cảm bộc phát như hoảng sợ, âu lo, giận dữ. Vì sự nhạy cảm của nó, cộng với những sự kiện trong quá khứ đã ghi dấu vào trong hạnh nhân, khiến nó rất dễ bị kích thích trước những tác động hiện thời làm cho chúng ta thương có những phản xạ tự động như chạy trốn, toát mồ hôi, giận dữ, lo âu hay đánh lộn. Nếu vỏ não trán trước kịp thời nhận ra những kích thích này, lục lại những dữ kiện thô ráp( kô có cảm xúc đi kèm được lưu trữ trong một bộ phận khác của hệ viền - hải mã (hyppocamp) - rồi ra lệnh cho các bộ phận khác phản ứng lại - đồng thời chế ngự sự bùng nổ của hạnh nhân, thì vòng mạch này sẽ làm cho các cảm xúc khởi phát từ hạnh nhân có được trí tuệ từ sự phân tích và khống chế của vỏ não trước trán - do đó có cụm từ Trí tuệ cảm xúc.
    Bài viết trên đã cho biết là phụ nữ có vùng vỏ não trước trán phát triển hơn nên đó là một nguyên nhân khiến họ có EQ cao hơn. Nhân đây, cũng giải thích là khi yêu, người ta thường mềm tính hơn, đó là do khi người đàn ông yêu, vỏ não trước trán của họ hoạt động tích cực hơn khi bình thường - giúp họ nhận biệt - điều tiết cảm xúc của mình tốt hơn.
    =============================================
  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Bước ngoặt linh cảm
    Nhờ những nghiên cứu về não, không lâu nữa sẽ có thể xác định được thiên hướng nghề nghiệp của đối tượng. Với trẻ em, nhằm mục đích này, người ta thực hiện cái gọi là trắc nghiệm chức năng - ra lệnh cho đối tượng thực hiện bài tập nhất định, ghi hình hoạt động của vỏ não, yếu tố cho phép đánh giá mức độ lanh lợi. Cũng có thể nghiên cứu năng lực nhận biết thông qua hoạt động của vùng hải mã - GS Jerzy Valaceki (Viện khoa học thực nghiệm Ba Lan), khẳng định rằng ông có thể phát hiện, liệu đối tượng xét nghiệm có năng khiếu âm nhạc hay không - ai có đường rãnh chia vùng vỏ não đỉnh đầu và thái dương hằn sâu hơn bình thường, người đó chắc chắn có năng khiếu âm nhạc.
    Theo các nhà nghiên cứu thuộc Washington University ở St. Louis, những thiết bị EEG và và fMRI xác định mức độ thông minh hiệu quả hơn hẳn những trắc nghiệm tâm lý. Năng lực tập trung suy nghĩ và giải quyết những vấn đề mới, tức cái gọi là trí thông minh động phụ thuộc hoạt động được tăng cường của vùng vỏ não trước trán và phía sau đỉnh đầu. Nhờ thế, trí tuệ tự tách ra khỏi những yếu tố kích thích khả dĩ cản trở hoạt động của trí tuệ. Tuy nhiên, hoạt động chung của các tế bào thần kinh ở các đối tượng có chỉ số IQ cao thấp hơn hẳn so với đối tuợng trí tuệ bình thường. Lý giải điều đó, GS Aljoscha Neubauer thuộc University Grazu(Áo) cho rằng, ở những người kém thông minh thường khởi động những phần não bộ hoàn toàn không cần thiết trong thời điểm đó - yếu tố làm rối loạn quá trình phân tích sự kiện.
    Kết quả giải phẫu cho thấy vùng não thái dương của nhà bác học thiên tài Albert Einstein lớn hơn 15% so với người bình thường. Chính bộ phận này của hệ thần kinh đảm trách trí tưởng tượng không gian và tư duy toán học. Trong thành phần những mảng vỏ não ấy, vùng có tên là khúc ngoặt phía trên thái dương có tụ điểm linh cảm - cơ quan giúp việc thực hiện những phát minh có tính bước ngoặt. Theo GS . Edward Bowden (Northwestern University), chính nhờ tụ điểm đó, Achimedes đã hét lên :" Eureka!", còn Issac Newton liên kết quả táo rụng từ trên cây với lực hấp dẫn.
    NEUROMARKETING
    Những nghiên cứu não bộ đã tìm thấy được ứng dụng thực tế. Giới chuyên gia dùng nó vào cái gọi là neuromaketing tức kiểm tra phản ứng đích thực của một người với sản phẩm quảng cáo. Trong thời gian nghiên cứu thăm dò tiếp thị, những cán bộ thực thi thường lừa dối, để có kết quả tốt hơn hoăcj thoả mãn kỳ vọng của đối tượng tham gia. Nhờ thiết bị cộng hưởng từ, người ta sẽ dễ dàng biết được, liệu dân chúng có thực sự muốn mua sản phẩm được quảng cáo hay có ủng hộ ai trong cuộc bầu cử sắp diễn ra. Gần đây, người ta đã ứng dụng neuromaketing để nghiên cứu khả năng bỏ phiếu của cử tri Mỹ. "Chúng tôi quan sát thấy rằng, phản ứng của đảng viên Đảng dân chủ và Cộng hòa đối với quảng cáo khác xa nhau. Những người dân chủ dị ứng nhiều hơn với những thành phần liên quan đến việc sử dụng vũ lực." - GS. Marco lacoboni(University of Pennsylvania) giải thích. Tuy nhiên, để trắc nghiệm cho kết quả chân thật, đối tượng nhất thiết phải có thái độ cộng tác thực sự, chỉ cần khẽ động đậy trong thời gian chiếu chụp, sự dối lừa sẽ không bao giờ bị bóc trần.
  7. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2

    Khối óc và cách thức nó hoạt động:
    Tất cả chúng ta đều ý thức về những điều kỳ diệu mà máy vi tính có thể thực hiện được, nhưng không có một máy vi tính nào có thể thay thế được bộ óc con người về tính phức tạp trong xây dựng biểu đồ và tính uyển chuyển sinh hoạt. Khối óc gồm hàng tỷ tế bào thần kinh. Ngay sự kiện đó cũng khó mà hiểu được, bởi vì chúng ta phải vất vả lắm mới quan niệm được số lượng bao la như vậy. Bây giờ hãy cộng thêm sự kiện là mỗi một tế bào thần kinh lại có hàng trăm hay hàng ngàn giao lưu trao đổi đến từng tế bào thần kinh khác: số lượng trao đổi giữa giữa các tế bào có thể nhận thức được trở thành vấn nạn thực sự rắc rối cho trí não của chúng ta. Như một nhà khoa học tiên phong về thần kinh đã ví von khối óc con người: "...là một khung dệt tuyệt vời với hàng triệu con thoi lấp lánh đang dệt một tấm vải mà tự nó tan mất đi...". Những nhóm tế bào thần kinh tạo thành những trung tâm kiểm soát rất đặc thù trong khối óc. Những sợi thần kinh từ các trung tâm tủa ra tạo thành những lối đi, liên kết các trạm kiểm soát lại với nhau. Bên trong những trung tâm và giữa các trung tâm, những tế bào thần kinh trao đổi với nhau bằng cách gửi đi các tín hiệu điện tử qua những tia sóng dài. Khi xung thần kinh đi tới điểm cuối của dây thần kinh, những túi đựng ở cuối dây thần kinh thải ra một chất gọi là chất xung biến thần kinh - những hoá chất có nhiệm vụ chuyển các xung biến qua một khoảng không nhỏ phân cách đầu cuối dây thần kinh khỏi khối thể của tế bào thần kinh kế tiếp. Những sứ giả hoá chất này kích động những "xúc tu" tiếp nhận của các khối thể tế bào thần kinh khác, đến lượt chúng các khối thần kinh này lại trở nên xung động.
    Nếu bạn tưởng tượng về tiến trình này trong một phút, bạn sẽ thấy, sau khi thông tin được chuyển đi và nhận lại, xung biến thần kinh, một cách nào đó, bị loại ra khỏi hiện rtrường, hay bị ngưng hoạt động; nếu không nó sẽ tiếp tục gửi các sứ điệp không ngừng. Chính trong khối óc cũng tồn tại một phương cách khai trừ những sứ giả hoá chất đã được sử dụng. Một trong những phương thức đó là:
    "Nâng cấp một lần nữa": những xung biến thần kinh trở lại với tế bào đã gửi chúng đi và tại đây chúng nằm trong bao chứa và được cất giữ để sử dụng lại trong tương lai. Tiến trình của hoá chất phân ly và ngưng hoạt động cũng là một cách khác để cho các xung biến thần kinh được khai trừ ra khỏi hiện trường. Các nhà khoa học thần kinh đã thu thập được những chứng cớ có tính thuyết phục rằng những rối loạn đơn thuần là do sự phân ly trong hệ thống sứ điệp của hoá chất phiền toái này. Suy thoái đơn thuần chỉ là một trong những tình huống tâm bệnh có vẻ phản ánh lại những vấn đề sinh hoá của khối óc.
    Nguồn :
    A Parent''''s Guide To Depression In Children and Adolescents. của D.Ingersoll, S. Goldstein
    Người dịch: Nguyến Văn Khi
    ./.
  8. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2

    Không chỉ vì lý do vốn sống phong phú hơn, mà các bậc cha mẹ ngày càng khó hiểu hành vi của con cái. Những khác biệt lớn nhất có thể ẩn giấu trong cấu trúc hơi dị biệt trong não bộ của chúng - khu vực hình thành lâu hơn dự báo. Quá trình phức tạ này không tự kết thúc trong thời niên thiếu - nó kéo dài, thậm chí đến giai đoạn trưởng thành.
    Khám phá bất ngờ trở thành một trong những chủ đề chính tại cuộc hội thảo quốc tế nhân " Ngày thế giới về não" diễn ra đầu tháng 3 vừa rồi. Tạp chí chuyên ngành, "Nature", nhân dịp này đã công bố tập bản đồ 3 chiều trình bày sự phát triển của não bộ trẻ em từ 3 đến 15 tuổi. Tài liệu đã làm thay đổi khái niệm vốn có về cơ chế hoạt động của bộ não. Lần đầu tiên, nó thể hiện rõ nét quá tình hình thành từng bộ phận riêng biệt của não bộ, theo từng lứa tuổi - nhà thần kinh học nổi tiếng thế giới, G.S Arthur Toga thuộc đại học Tổng hợp California phát biểu.
    Trí tuệ của con trẻ
    Thực ra trước đây, các nhà khoa học đã từng nghiên cứu cơ chế hình thành và phát triển não bộ trẻ em và tuổi vị thành niên, song chưa bao giờ thực hiện với qui mô chính xác cao như thế. Với thiết bị tái tạo từ trường, cứ vài ba tháng, họ ghi lại tất cả thay đổi xuất hiện trong não bộ con trẻ. Kết quả vượt xa sự mong đợi của bản thân người nghiên cứu. Té ra, não người, ngay sau khi đứa trẻ cất tiếng chào đời, không phải là sản phẩm duy nhất giống hệt máy điện toán - thiết bị duy nhất chỉ cần lập trình tốt, theo thời gian.
    Ngoài những mối liên kết mới giữa các nơ ron thần kinh, còn xuất hiện trong đó những biến đổi giải phẫu học có thể so sánh với cái gọi là tuning có khả năng cho phép những kiểu xe hơi mới chạy nhanh hơn, hấp dẫn hơn.
    Các nhà thần kinh học tự ý thức được điều đó, nhưng vẫn đinh ninh rằng, quá trình này diễn ra duy nhất trong giai đoạn thơ ấu và kết thúc cùng thời điểm đứa trẻ qua bậu cửa lớp học - chậm nhất vào năm 8 -12 tuổi. Kết quả những nghiên cứu mới nhất lại phủ nhận điều đó, cho thấy " những tế bào chất xám" tự hoàn thiện cả trong giai đoạn đến tuổi thành niên. Trong một số trung tâm não bộ, số lượng các nơ ron gia tăng, thậm chí gấp đôi - quá trình được bổ sung bằng sự xuất hiện các môí liên kết mới. Tiếp theo là quá trình củng cố hệ thống, mà kết quả là những tế bào và mối liên kết không cần thiết sẽ bị loại bỏ. Trình tự đó tiến triển cho đến thời gian trưởng thành - khi bước qua ngưỡng tuổi 20.
    Thời kỳ não bộ hình thành đầy đủ la giai đoạn dễ xảy ra khủng hoảng nhất đối với trẻ vị thành niên - TS Jay Giedd, nhà trị liệu tâm thần thuộc Viện nghiên cứu sức khoẻ Tâm lý học quốc gia Mỹ, nhấn mạnh. Theo TS Giedd, những đam mê của thanh thiếu niên trong độ tuổi này - thể thao, âm nhạc, hay khoa học - là tấm gương phản ánh thiên hướng phát triển trí tuệ của chúng.
    Với lứa tuổi này, tác động của gia đình với thế hệ trẻ là rất hạn chế, bởi chúng đã bắt đầu tạo ra thế giới riêng của mình và hướng theo con đường của bản thân, không thích lệ thuộc. đúng như bài học " Dậy con từ thủo còn thơ" hết sức thông thái của người Á đông, người lớn - nếu như có thể tác động cái gì đó đối với con cháu, duy nhất chỉ có thể trong tuổi mẫu giáo và những năm đầu cắp sách đến trường. Song cũng chỉ mang tính định hướng, kích thích, chứ không thể nhào nặn theo ý muốn.
    Sự xuất hiện con người
    Tự nhiên, quá trình phát triển cảm xúc không theo kịp sự phát triển trí tuệ. Đến năm 12 tuổi, chậm nhất là năm 16 tuổi, lớp "chất xám" trên vỏ não mới phát triển - nó cũng được gọi là lớp tột đỉnh của vỏ não - liên kết với mảng cảm xúc và trung tâm ngôn ngữ, sẽ giữ vai trò trụ sở những năng lực ảo và không gian. Xấp xỉ đến hết tuổi 16, lớp vỏ não 2 bên thái dương liên quan đến trung tâm thính giác và ngôn từ cũng kết thúc giai đoạn hoàn chỉnh. Muộn hơn nhiều, mãi đến năm tuổi 20, mới hình thành lớp chất xám nằm ở phía trước não bộ ( vị trí trán) đảm đương vai trò điều tiết tình cảm, năng lực làm chủ bản thân thực hiện đánh giá chính xác và kế hoạch hoá các hoạt động.
    Những bước đầu tiên của sự phát triển trung tâm trên sớm hơn, từ năm 11 - 12 tuổi. Thế nhưng, trong những năm tiếp theo, tốc độ phát triển lại chậm lại đáng kể, dường như nhường sức cho quá trình hoàn thiện những trung tâm khác, quan trọng hơn. Việc ngày càng khó tìm tiếng nói chung với trẻ con, từ giai đoạn này chính là hậu quả từ tình trạng đó. Không nghi ngờ rằng, sự khác biệt về tuổi tác, tình cảm quan điểm và vốn sống đóng vai trò mang tính quyết định, nhưng thủ phạm cũng có thể là sự thiếu năng lực nhận biết tình cảm từ gương mặt và cử chỉ của người khác của trẻ con, thuộc lứa tuổi này. Những nghiên cứu não bộ đối tượng cho thấy: những khu vực vỏ não chịu trách nhiêmj thực hiện phần việc trên phản ứng rất yếu. Có lẽ, con trẻ trong lứa tuổi này vẫn chưa có khả năng can thiệp cần thiết vào những thông tin mang tính ảo, trí tuệ và tình cảm.
    Tương tự, bộ phận lớn nhất, dài khoảng 7-10 cm kết nối giữa 2 bán cầu não trái và phải, tác động đến trí tuệ và ý thức cũng có thời gian hoàn thiện rất dài. Thường kết thúc vào tuổi 30. Trái lại, trung tâm đảm đương năng lực ngôn ngữ hình thành sớm hơn nhiều: Những thay đổi lớn nhất hình thành trong giai đoạn từ 6 - 15 tuổi. Có điều, ngay sau tuổi 12 khả năng làm chủ ngoại ngữ sa sút đột ngột. Việc phát triển năng khiếu âm nhạc và toán học cần phải thực hiện sớm hơn. Tuy vậy, với nhiều năng lực khác, thời gian bắt đầu dường như không bao giờ là quá muộn. Chìa khoá thành đạt không phải là chỉ số thông minh cao và đa tài. Kết quả nhiều nghiên cứu thực tế chỉ ra rằng, đa số những thiên tài và những nhân vật lỗi lạc đều là những cá nhân có nghị lực phi thường, có động cơ làm việc lớn, có cá tính mạnh mẽ và khả năng tập trung cao độ vào mục tiêu đã chọn ./.
    Nguồn:
    Focus số 13/2000
  9. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2

    Khám phá bí mật vô thức qua góc nhìn sinh lý học thần kinh
    Vô thức từ lâu đã được các nhà khoa học coi như một "lãnh địa bí hiểm" trong cơ thể con người. Các cuộc nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học đã dần làm sáng tỏ một số hiện tượng bí mật của vô thức, giúp ta hiểu rõ hơn về các hiện tượng này.
    1- Từ một trường hợp lâm sàng hy hữu
    Nếu có một ngày đáng nhớ trong lịch sư nghành thần kinh hõ, thì đó chắc hẳn phải là ngày 13/9 năm 1948. Vào ngày đó, Phireas Gage quản đốc Công trường của Công ty xây dựng Ruthland và Burlington đã gặp phải tai nạn:
    Phần trước của não bộ bị một ống thép dầy 3cm và dài 129 cm xuyên thủng. Sau 2 tháng được điều trị tại bệnh viện, Gage đã hoàn toàn được chữa khỏi, trí nhớ và trí thông minh vẫn nguyên vẹn. Nhưng chàng thanh niên trước kia dịu dàng và chăm chỉ, nay là con người thô tục và đỏng đảnh, không thể theo nổi một công việc. Theo các bác sĩ, một sự thay đổi triệt để về tâm tạng là do các thuỳ trán - cơ quan phụ trách các chức năng của não bộ như :
    Ra quyết định, quản lý các cảm xúc và tự nhận thức về bản thân - đã bị tai nạn làm tổn thương trầm trọng.
    Từ sau trường hợp của Gage, nhiều công trình nghiên cứu các cá nhân bị thương tổn thần kinh đã giúp cho các nhà khoa học xác định tốt hơn hàng rào ngăn cách các quá trình ý thức và vô thức. Nếu không có những trường hợp lâm sáng này, các kỹ thuật thăm dò chức năng của bộ não không thể đưa ra các kết quả chính xác và tinh vi đến vậy.
    2- Đến Hội chứng bàn tay lạ
    Một bệnh nhân người Mỹ 67 tuổi thường thức dậy vào ban đêm với bàn tay trái xiết chặt quanh cổ. Do kô thể xác định được nguyên nhân, các bác sĩ thuộc trung tâm ý tế Rush đã nhanh chóng đưa ra kết luận cuối cùng: Đây là hội chứng bàn tay lạ.
    Sự phân ly giữa ý chí nhận thức và các cử động của một bàn tay luôn hầu như có liên quan đến một sự thương tổn của não tác động lên thể chai, cơ quan giữ chức năng truyền các thông tin giữa 2 bán cầu của não bộ. Nếu mối liên hệ giữa hai bán cầu bị cắt đứt, mỗi bán cầu có thể đưa ra những mệnh lệnh trái ngược nhau.
    Một nữ bệnh nhân khác cũng phàn nàn về hiện tượng "bàn tay lạ"
    đẩy những quần áo do "bàn tay đúng" chọn, và chọn những quần áo khác. Đối với tiến sĩ Alan Parkin thuộc trường Đại học Sus***( Anh) , lời giải thích thật đơn giản:
    Bàn tay lạ tiếp nhận một cách thuật lại chậm trễ và méo mó mệnh lệnh ban đầu. Biết là nó phải làm điều gì đó hợp với chiếc áo nhưng cử chỉ "chọn" đã được thực hiện, bàn tay liền chọn cử chỉ " thay đổi".
    Nhưng tại sao trong TH này, các quần áo mới được chọn thường nhiều màu sắc và loè loẹt hơn những quần áo ban đầu? Có thể là do bàn tay lạ thường là bàn tay trái, được điều khiển bởi bán cầu phải ít lý tính hơn bán cầu trái, và trong bán cầu phải, các nhà khoa học tìm thấy những vùng liên quan đến cảm xúc, các giấc mơ. Có rất nhiều các bác sĩ chuyên khoa cho rằng các cử chỉ không kiểm soát được này là cách bộc lộ của sự nhận thức thứ hai thường không thể nói lên do sự ngự trị của bán cầu kia. Đây là một dạng bản ngã thứ hai, bản ngã bị che dấu.
    Nguồn : Tri thức trẻ 2/2000.
    ------------------------------------
    Lời bình của tôi:
    Trong sự biến đổi nhân cách trong trường hợp lâm sàng đầu, cũng như một hành vi không kiểm soát ở ví dụ hai, đều là sự thực hiện cái bị dồn nén (vô thức) khi cái hữu thức bị suy yếu tương đối so với cái vô thức . Trong TH đầu, hữu thức bị suy yếu do tai nạn. Và phần nhân cách "thô tục" vốn trước đây bị phần nhân cách hữu thức "dịu dàng" đè nén, được bộc lộ. Trong TH thứ hai, đó là do cái vô thức bị dồn nén trở nên mạnh lên và tương đối lấn át so với hữu thức, gây nên hành vi bị lỡ. Nó chỉ là một dấu vết của nhân cách vô thức.
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Trước khi chúng ta trở lại với đề tài SINH LÍ HỌC Thần kinh, HL xin mạn fép Post tiếp loạt bài của ông Đỗ Kiên Cường về 2 bài viết của Nguyễn Hữu Liêm & Đỗ Lai Thúy :
    Phần {*} là của ng POST

    Freud trở lại (trao đổi với Nguyễn Hữu Liêm và Đỗ Lai Thúy)
    (nguồn eVăn)

    Đỗ Kiên Cường
    Đọc các bài báo khoa học mang tính tổng quan như ?oTại sao Freud chưa chết?? (1) hay ?oFreud trở lại? (2), một mặt ta có thể không còn ngạc nhiên trước quan điểm coi phân tâm học chỉ là một ?okhoa học tiếm danh? (a pseudo-science) của Nguyễn Hữu Liêm (3); mặt khác ta cũng có thể nghi ngờ sơ đồ dồn nén => ẩn ức => thăng hoa (Đỗ Lai Thúy) (4), vì quan niệm hiện đại về cấu trúc và vận hành vô thức khác rất nhiều so với những gì mà Freud đã lập thuyết. Nói cách khác, có lẽ chân lý nằm giữa hai thái cực.
    Phân tâm học không phải là khoa học tiếm danh:
    Như đã trình bày (5), ngay từ khi mới ra đời, phân tâm học đã gây tranh luận gay gắt trong nhiều lĩnh vực. Tại phương Tây trong khoảng những năm 1950-1980, Freud bị tấn công triệt để cả về khoa học và triết học, đến mức bị xem là đang giãy chết. Nguyên do của tình trạng trên có thể là như sau:
    Đầu tiên, những thực nghiệm về hoạt động vô thức cho thấy, quan niệm về các ký ức, kinh nghiệm và dục năng bị kìm nén của Freud nói chung là sai.
    Chẳng hạn trong thí nghiệm cách ly cảm giác (sensory isolation) của nhà tâm lý Hebb tại Đại học McGill, Canada, 1951, chỉ ghi nhận được rất ít kinh nghiệm ******** so với các trải nghiệm dị thường (paranormal experiences) (6). Tiếp theo, trị liệu phân tâm (psychodynamic therapy) quá tốn kém thời gian và tiền bạc mà hiệu quả không được khẳng định chắc chắn so với các trị liệu dựa trên các lý thuyết tâm lý khác (trị liệu hành vi - nhận thức, trị liệu nhóm?). Thêm nữa, các tân dược như Prozac ?" từng được xem là ?othần dược? ?" hay sốc điện dựa trên tiếp cận sinh học (7) từng một thời xưng hùng xưng bá trong ngành tâm thần, cũng góp phần đẩy phân tâm học ra khỏi dòng chảy chính thống của khoa học.
    Tuy nhiên khoảng 10-15 năm trước, tình cờ trùng khớp với việc chấm dứt chiến tranh lạnh, dường như xuất hiện một làn sóng mới trong khoa học và triết học.
    Đặc trưng nổi bật của làn sóng này là, hoặc nó đưa ra những lý thuyết hoàn toàn mới về nguyên lý (hình học fractal và hình học không giao hoán trong toán học (8), lý thuyết dây trong vật lý (9), thuyết trước vụ nổ lớn trong vũ trụ học (10) v.v.), hoặc chiêm ngưỡng các giá trị truyền thống bằng một con mắt hiện đại
    (thuyết tiến hóa hiện đại hóa (11), ?othần học thần kinh? (12), nền văn hóa thứ ba (13) v.v.).
    Riêng trong thần kinh học và các khoa học tâm trí, đề án ?othập kỷ não? (14) do tổng thống Bush (cha) tuyên bố năm 1991 (nếu người viết bài này không nhầm) đã trở thành cú hích giúp khoa học tâm trí đi dần từ các suy nghiệm lý tính vốn không thể khẳng định một cách đơn nhất tới các bằng chứng thực nghiệm không thể bác bỏ.
    Những kỹ thuật mới dựa trên vật lý hiện đại như từ não đồ {*EEG}, cộng hưởng từ chức năng {*fMRI} , chụp ảnh bằng bức xạ điện tử dương PET {*Positron Emission Tomography} ? lần đầu tiên cho phép theo dõi các quá trình tư duy của bộ não, cho phép bắt được từng ý nghĩ, theo một cách ngoa ngôn (15). Với các bằng chứng mới thu thập được đó, không chỉ phân tâm học, mà mọi lý thuyết tâm trí đều được xem xét lại.
    Có vẻ như là quả báo, một thời các trị liệu như hành vi ?" nhận thức hay tân dược đã đẩy phân tâm học vào cánh gà, thì nay đến lượt chúng có vấn đề, giúp đối thủ cũ từng bước tái xuất hiện trên sân khấu. Thực ra điều đó không có gì lạ, vì khoa học tâm trí còn rất non trẻ, nơi các lý thuyết chỉ mới là thày bói xem voi, nơi không một học thuyết nào hoặc bị xem là khoa học tiếm danh, hoặc được tiếp nhận một cách không phê phán (16).
    Khác với thông tin về sự giãy chết, hiện thời phân tâm học vẫn có vị thế chính thống trong cộng đồng khoa học với phân hội độc lập trong Hội tâm lý học Mỹ. Ngoài ra là các tổ chức mang tính quốc tế như Hội phân tâm học thần kinh quốc tế với tạp chí chính thức Phân tâm học thần kinh (Neuro-Psychoanalysis) (17).
    Phân tâm học vẫn là một trong 5 dòng chảy chính thống trong tâm lý học {* có lẻ là 6 thì đúng hơn thêm fần Tâm lý học tiến hoá} .

    Giới ủng hộ phân tâm học thường dẫn ra những nghiên cứu mới trong lĩnh vực thần kinh học để chứng tỏ rằng, quan niệm của Freud nhìn chung đúng đắn. Chẳng hạn vai trò của vô thức, cơ chế bảo vệ {*cơ chế fòng vệ: Defence Mechanism} hay nguyên lý khoái cảm, cũng như quan điểm xem giấc mơ mang một ý nghĩa nào đó.
    Tuy nhiên khi tạp chí Người Mỹ khoa học {* Scientìic American} đăng tải bài ?oFreud trở lại? của nhà phân tâm học thần kinh Mark Solms (trưởng khoa tâm lý thần kinh tại Đại học Cape Town, Nam Phi, giảng viên danh dự tại Đại học Y và Nha khoa Hoàng gia, London, giám đốc Trung tâm Phân tâm học thần kinh Arnold Pfeffer thuộc Viện Phân tâm học New York, cố vấn của Trung tâm Anna Freud, London), họ cũng đồng thời đăng ý kiến phản đối của J. Allan Hobson, nhà tâm thần học và nghiên cứu giấc ngủ hàng đầu tại Đại học Y khoa Harvard (đồng tác giả của thuyết hoạt hóa ?" tổng hợp hóa học về bản chất giấc mơ cùng Robert W. McCarley năm 1977) (18).
    Điều đó không lạ, vì theo Solms, với các nhà khoa học lớn tuổi, việc phản đối Freud xuất phát từ những bài học đầu tiên hay những trải nghiệm đầu sự nghiệp, khi phân tâm học đang bị đẩy vào bóng tối. Họ không chấp nhận bất cứ sự tái khẳng định nào dù chỉ là một phần; cái mà họ đòi hỏi là sự đoạn tuyệt hoàn toàn. Phải chăng đó cũng là điều có thể áp dụng để giải thích quan niệm ?okhoa học tiếm danh? hay sự giãy chết của Nguyễn Hữu Liêm?

    Không nên quên một thực tế rằng, nếu phân tâm học thiếu sức sống thì nó đã không phải chịu sự công kích dai dẳng và ác liệt đến như vậy. Theo nhà triết học Adolf Grunbaum tại Đại học Pittsburgh, một ?okẻ tử thù? của phân tâm học, thì ?otôi đã không phê phán dữ dội như thế nếu tôi không nghĩ phân tâm học có một điều gì đó? (1).
    Không nên tiếp nhận không phê phán:

    Trái ngược hoàn toàn với thái cực trên là việc tiếp nhận phân tâm học một cách không phê phán, như Đỗ Lai Thúy đã thực hiện (4).
    Đi ngược với tinh thần phản biện của triết gia Popper, Đỗ Lai Thúy mặc nhiên xem phân tâm học và tâm lý học phân tích là tiêu chuẩn chân lý, nên đã dùng các quan niệm của Freud và Jung về vô thức như phần chìm tảng băng trôi, mặc cảm Oedipe, vô thức tập thể, cổ mẫu (Archetype), tính đồng thời v.v. để giải mã thơ Hồ Xuân Hương và Hoàng Cầm.
    Đầu tiên xin được thưa rằng, mặc cảm Oedipe và hội chứng ganh tỵ ********* (ở nữ giới) nay không còn hợp khẩu vị với chính giới phân tâm học nữa. Theo lời Morris Eagle, chủ tịch phân hội phân tâm học thuộc Hội tâm lý học Mỹ (1996), ?ocòn rất ít nhà phân tích đi theo toàn bộ lập luận của Freud? (1).
    Tiếp theo, quan niệm tâm trí do vô thức quyết định, như tảng băng trôi do phầm chìm (chiếm đa phần trọng lượng) quyết định, là một quan niệm sai lầm.
    Lý thuyết xử lý đối ngẫu của Dixon, 1981, cho rằng, tâm trí có hai hệ thống độc lập và thống nhất nhau, hệ xử lý ý thức và hệ xử lý tiềm thức (19).
    Nói cách khác, ý thức và vô thức có vai trò ngang nhau trong việc quyết định bản chất con người. Cũng xin nhấn mạnh thêm một lần nữa, thực ra đó là phi ý thức của tâm lý học nhận thức, chứ không phải là vô thức như Freud từng quan niệm (20).
    Những quan niệm của Jung như vô thức tập thể, cổ mẫu, tính đồng thời? hầu như không còn được cộng đồng khoa học tiếp tục thảo luận {* ??}.
    Dường như chúng là những suy đoán lý tính hơn là những lập luận dựa trên và được phản biện nhờ các thực nghiệm có kiểm soát. Vì thế chúng khá ?odị thường? và đó là lý do Jung bị xem là có ảnh hưởng chủ yếu trong nghệ thuật và huyền bí học, chứ không phải trong tâm lý học (21) (*??}.
    Đến đây người viết bài này không thể không đặt câu hỏi: Liệu khi đem gieo trồng trên vùng đất khác một hệ quan niệm vốn sai lầm về mặt ?obản thể?, ta có thể gặt hái được gì hay không?
    Câu trả lời xin nhường cho bạn đọc.
    Vốn là người quan tâm chủ yếu tới vật lý lý thuyết (nơi tư biện được đẩy lên mức khá cực đoan nhưng vẫn đi đúng hướng nhờ các thực nghiệm kiểm chứng) và triết học tự nhiên, tôi rất ngạc nhiên khi thấy Đỗ Lai Thúy chấp nhận Freud và Jung một cách không phê phán. Đó là điều khá xa lạ với thao tác khoa học.
    Không nên quên rằng, các học thuyết triết học và khoa học phương Đông xưa sâu sắc và thú vị không kém, nếu không nói là hơn, các lý thuyết phương Tây cùng thời.
    Tuy nhiên do thiếu sự phản biện và phê phán thường xuyên mà chúng dần trở thành những tín điều bất biến với thời gian. Và đó là một trong những lý do khiến phương Đông chậm bước trên con đường hiện đại hóa. Bài học của quá khứ, lẽ nào chúng ta quên?

    TP Hồ Chí Minh 7-8/6/2004
    © eVăn 2004
    ***
    Chú thích của tác giả (Đỗ Kiên Cường):


    (1) J. Horgan, Why Freud isn?Tt dead, Scientific American, December 1996, pp 74-79. Giải thích vì sao phân tâm học sống sót trước vô số các chỉ trích.

    (2) M. Solms, Freud returns, Scientific American, May 2004, pp 56-62. Dẫn ra các bằng chứng thần kinh học bênh vực Freud.

    (3) Nguyễn Hữu Liêm, Freud và huyền thoại vô thức: Một ngữ nghiệp về tham chiếu và biểu đạt (gửi Đỗ Lai Thúy), eVăn, Thứ Ba, 1/6/2004. Nói chung xem phân tâm học là một khoa học tiếm danh và đang giãy chết tại phương Tây.

    (4) Đỗ Lai Thúy, Phân tâm học và phê bình văn học ở Việt Nam, eVăn, Thứ Ba, 25/5/2004.
    {* trang-13.ttvn}
    Dùng các quan niệm của Freud và Jung giải mã thơ Hồ Xuân Hương và Hoàng Cầm.

    (5) Đỗ Kiên Cường, Tại sao Freud gây nhiều tranh cãi?, eVăn, Thứ Sáu, 4/6/2004.
    {* trang-14.ttvn }
    Trình bày bản chất phân tâm học và những đánh giá mới về nó. Đặt phân tâm học trong bài toán tổng quát sinh học/môi trường.

    (6) J.V. McConnell, Understanding Human Behavior, Holt, Rinehart and Winston, New York, 6th e***ion, 1989. Có lẽ là cuốn giáo khoa thú vị nhất về tâm lý học.

    (7) R.S. Feldman, Understanding Psychology, McGraw-Hill, New York, 4th e***ion, 1996, pp 18-20.

    (8) J. Gleick, Chaos - Making a New Science, Penguin Books, New York, 1987. Cuốn sách mở đường về hỗn loạn và hình học fractal, một trong những hình học cơ bản nhất tự nhiên, cho phép mô tả cấu trúc phổi, hệ cành cây, hệ bờ biển, cấu trúc các thiên hà? Nó được xây dựng rất giản đơn bằng qui tắc tự đồng dạng. Hình học không giao hoán thì là cơ sở toán học của lý thuyết dây (string theory)

    (9) B. Greene, The Elegant Universe, Vintage Books, New York, 2000. Cuốn sách phổ biến lý thuyết dây, lý thuyết thống nhất giữa cơ lượng tử và thuyết tương đối, quan niệm bản thể vũ trụ là dây hay màng trong không thời gian 11 chiều. Giống sợi dây đàn khi dao động sẽ tạo nên các nốt nhạc, dây hay màng dao động sẽ tạo nên mọi hạt cơ bản đã biết và chưa biết.

    (10) Pre-Big Bang theory. Lý thuyết Big Bang dựa trên thuyết tương đối rộng cho rằng, tại Vụ nổ lớn 13.7 tỷ năm trước, vũ trụ và thời gian hình thành. Thuyết tiền Big Bang của G. Veneziano thì cho rằng, Big Bang chỉ là bước trung gian giữa hai chu trình co và giãn của vũ trụ. Nói cách khác, Big Bang không phải là khởi thủy của vũ trụ và không thời gian.

    (11) S.J. Gould, Structrure of Evolution Theory, Beldnap, 2002. Cuốn sách của nhà khoa học tiên phong về tiến hóa luận hiện đại, xem không chỉ các cá thể, mà các nhóm xã hội cũng trải nghiệm quá trình chọn lọc tự nhiên. Từ đó suy ra bản chất thiện tính của con người, một đặc trưng mang tính tiến hóa. Hệ luận đối với xã hội học và chính trị học cũng rất to lớn: hợp tác giai cấp có vai trò thúc đẩy xã hội không kém đấu tranh giai cấp.

    (12) Neural theology. Lĩnh vực thần kinh học nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt tính não với các kinh nghiệm tôn giáo hay tâm linh. Phát hiện thú vị: người có đức tin có thể khỏe mạnh hơn người thiếu đức tin, vì các kinh nghiệm tâm linh liên quan với hệ viền (limbic system), là hệ thống liên quan với các hoạt động sống cơ bản.
    (13) Third culture.
    * Nền văn hóa thứ nhất là các nhà khoa học xã hội và nhân văn, điển hình là giới triết học.
    * Nền văn hóa thứ hai là giới khoa học tự nhiên như Newton, Einstein, Darwin, Freud?
    * Nền văn hóa thứ ba là các nhà khoa học tự nhiên bàn về những vấn đề triết học thuộc chuyên ngành của họ, vì khoa học đã chuyên sâu đến mức người ngoài không hiểu. Điển hình là cuốn Lược sử thời gian - Từ vụ nổ lớn tới lỗ đen (A Brief History of Time - From The Big Bang to Black Holes) của S. Hawking. Không một nhà triết học thuần túy nào có thể lập luận như tác giả về bản chất thời gian hay ý nghĩa của khoa học.

    (14) Glimpse of mind, Time, 31-7-1995.

    (15) Các kỹ thuật này có đặc điểm chung là theo dõi được các quá trình chuyển hóa cơ bản đặc trưng cho tư duy, chẳng hạn dòng máu hay mức độ tiêu thụ glucose.

    (16) Nhận định này chỉ đúng đối với năm thày bói (tiếp cận) sau: thày bói sinh học, thày bói phân tâm, thầy bói nhân bản, thầy bói hành vi và thày bói nhận thức. Tổng hợp xúc giác của năm vị đại khái sẽ cho ta cái nhìn tổng quát về chú voi.

    (17) Website của Hội phân tâm học thần kinh quốc tế: www neuro-psa.org

    (18) J.A. Hobson, Freuds returns? Like a bad dream, Scientific American, May 2004, p 63.

    (19) N.F. Dixon, Preconscious Processing, Wiley, Chicester, 1981.

    (20) D.P. & S.E. Schultz, A History of Modern Psychology, Harcourt Brace, Fort Worth, 6th e***ion, 1996, p 455.
    (21) R.M. Goldenson, The Encyclopedia of Human Behavior, Doubleday, New York, 1970.
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 11:52 ngày 26/08/2005
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này