1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    TẢN MẠN VỀ TƯ DUY SÁNG TẠO KHOA HỌC, NGHỆ THUẬT: VÔ THỨC & Ý THỨC
    Tôi muốn mượn tiêu đề bài báo của giáo sư sinh lý học Robert Root-Berstein, Viện Đại Học tiểu bang Michigan, trên tạp chí Nhà khoa học Mỹ đầu năm 1997 để bàn về mối quan hệ giữa ý thức và vô thức, giữa trí tưởng tượng và tư duy phân tích trong sáng tạo văn học nghệ thuật và sáng tạo khoa học kỹ thuật, một chủ đề hấp dẫn từng gây nhiều tranh cãi không chỉ tại Việt Nam ta.
    Theo Root-Berstein, ?ocon đường đi tới tính khác quan trong khoa học được trải bằng tính chủ quan?. Ông dẫn Einstein, rằng trong khoa học sáng tạo, ?otrí tưởng tượng quan trọng hơn hiểu biết?; và ?okhoa học như cái đích theo đuổi cuối cùng mang tính chủ quan và phụ thuộc tâm lý như bất cứ lĩnh vực văn hóa nào của loài người?. Ông nhấn mạnh, mục đích các thí nghiệm, chứng minh và phân tích là xoá bỏ tính chủ quan này trong những kết quả luận cuối cùng của thực tiễn khoa học; nhưng nều bỏ qua nó, thậm chí các cội nguồn tư chất của trí tưởng tượng trong khoa học sẽ làm giảm khả năng của chủ thể.
    Để minh hoạ, ông dẫn trường hợp Desmond Morris, người nổi danh không chỉ như một nhà sinh học hành vi mà còn như một hoạ sĩ và nhà sản xuất phim theo trường phái siêu thực.
    Ngay từ năm 21 tuổi, Morris đã tham gia triển lãm tranh chung với Joan Miró, một trong những hoạ sĩ siêu thực lừng danh nhất. Ông theo đuổi nghệ thuật trước khi nghiên cứu khoa học và quả thật một trong những động cơ nghiên cứu hành vi động vật là ông muốn cải thiện kỹ năng quan sát và vẽ tranh của mình. Như một hệ quả, phong cách khoa học của Morris cũng xuất phát chủ yếu từ chủ nghĩa siêu thực. Nghệ thuật và khoa học của Morris có chung một cơ sở phương pháp luận. Như mọi nhà siêu hình thực, ông dùng giấc mơ để vẽ tranh từ những cảm xúc vô thức. Hơn là điều khiển các hình ảnh, người nghệ sĩ trở thành phương tiện để các bức tranh biểu đạt. Morres cũng dùng phương cách đó trong khoa học. Trong mơ ông trở thành động vật để chiêm nghiệm cái bản ngã của chúng: ?oTôi gắng đặt bản thân vào vị trí con vật để những vấn đề của nó trở thành của tôi; và tôi không theem một chút gì xa lạ vào cách hành xử của nó. Chỉ giấc mơ là lên tiếng?.
    Xem những bức tranh in trong bài cùng lời bình của Root-Berstein, ta sẽ hiểu vì sao Morris được xem như một nhà tiên phong chủ nghĩa của nghệ thuật ngoại nhân hay nghệ thuật động vật, với mục đích thu thập và phân tích những cái gì là tranh hay bức vẽ của khỉ và vượn. Giống như một số nhà khoa học kiêm người nghệ sĩ khác, Morris cho rằng nghệ thuật đã hướng dẫn con mắt khoa học của ông cách thức ?oquan sát? chứ không chỉ ?onhìn?. Dướng như nghệ thuật cũng giúp Morris phát triển cái mà nhà tập tính học Konrad Lorenz gọi là ?obí mật của cái nhìn?: ?oĐể thực sự hiểu động vật và hành vi của chúng, bạn cần có mỹ cảm về cái đẹp của chúng?. Thiếu niềm vui trong cái nhìn đó, ngay cả một nhà yoga cũng không tìm được sự kiên nhẫn. Nhiều nhà dân tộc học khác cũng nhấn mạnh, chính những xúc cảm thẩm mỹ là chìa khoá thành công của họ.
    Tuy nhiên bạn không cần phải là nhà dân tộc học mới nhấn mạnh vai trò thẩm mỹ. Thomas Eisner, nhà sinh thái học Urugoay nghiên cứu các hệ thống thông tin và bảo vệ hoá học của côn trùng, cũng có các giấc mộng như Morris. Ông kể rằng ông từng nói chuyện với côn trùng bằng tiếng Tây Ban Nha: ?oMột lần tôi mơ thấy mình là một côn trùng và nói với các côn trùng khác rằng, tôi mơ thầy mình biến thành người?.
    Con Barbara McClintock, người nhận giải Nobel cho những nghiên cứu về di truyền, cũng thường thấy mình hành xử như những nhiễm sắc thể: ?oTôi thấy càng làm việc nhiều với chúng, chúng ta càng trở nên to lớn hơn; và khi tôi thật sự làm việc, tôi thấy mình không ở ngoài mà ngay bên trong.
    Tôi là một phần của hệ thống khảo cứu... Khi bạn ngắm nhìn chúng, chúng trở thành một phần của bạn. Và bạn phải quên bản thân đi. Vấn đề là bạn phải quên bản thân bạn đi?.
    Khả năng đồng nhất với đối tượng nghiên cứu cũng phổ biến trong số các nhà khoa học nghiên cứu thế giới động vật. Nhà sinh học Joshua Lederberg và nhà vật lý Jocob Shalam cùng viết là, nhà khoa học cần có khả năng trở thành diễn viên trên sân khấu, đóng thật đạt những vai diễn khác nhau.
    Các gien hành xử như thế nào? Cái gì là ý nghĩa ?" thậm chí cảm xúc ?" vật lý của một hệ phương trình?
    Jonas Salk thấy mình biến thành virus và tưởng tượng cách đáp ứng của hệ miễn dịch. Nobel gia Jacques Monod đồng nhất mình với ?ophân tử protein?, hai nhà hoá học Peter Debye và Robert. Woodward vận dụng phương thức tương tự để xem các nguyên tử carbon ?omuốn? làm gì.
    Theo các nhà khoa học trên, sự thấu hiểu từ bên trong đó phát lộ không từ các phương trình hay từ ngữ, mà từ những cảm xúc thấu hiểu đối tượng nghiên cứu toàn thiện đến mức, họ đồng cảm với đối tượng, trở thành một thể thống nhất với nó. Như Eintein có lần viết: ?oCác thực thể tâm kinh dường như đóng vai trò những cấu tử trong tưởng tượng, trong trường hợp của tôi, thường có bản chất thị giác...Từ ngữ mô tả truyền thống hay các ký hiệu (toán học) khác chỉ xuất hiện ở giai đoạn tiếp sau?. Tương tự là ý kiến nhà luyện kim C.S.Smith: ?oGiai đoạn khám phá thuần tuý là cảm xúc và toán học chỉ cần thiết để có thể trao đổi với người khác?.
    Tóm lại, Morris và những người cùng quan điểm cho rằng, để đạt được một khoa học tốt, có những điều nằm ngoài các giáo trình vẫn thường giảng dạy.
    Theo họ, logic có thể chúng minh nhưng không thể phát minh. Sự thấu hiểu và cảm hứng khoa học bắt nguồn từ những thấu cảm, cảm xúc, giấc mơ, những cảnh mộng, hay đơn giản hơn theo lời Max Planck (cha để môn cơ học lượng tử và là một nghệ sĩ piano) là sức tưởng tượng sáng tạo mang tính nghệ sĩ.
    Morris đang có kế hoạch hướng dẫn mọi người cách kết hợp ?otrí tưởng tượng và khả năng phân tích ?" nghệ sĩ và nhà khoa học- làm một?. Theo Root ?" Berstein, chỉ với cách này các giáo điều hiện hành mới có thể bị thách thức, các khả năng tưởng tượng và các vương quốc của những điều có thể mới được khám phá một cách hữu hiệu.
    Việc phân chia trí tuệ con người một cách nhị nguyên như thế co thể thấy ở nhiều nơi. Chẳng hạn đầu những năm 80 tại Trung Quốc từng nổ ra một cuộc tranh luận về chủ đề, giữa nhà khoa học và người nghệ sĩ, ai có tâm hồn phong phú hơn. Các văn nghệ sĩ đã khẳng định tính ưu việt bản thân cho đến khi một nhà khoa học đoạt giải Nobel lên tiếng phản bác. Những ý kiến đề cao vô thức, đề cao trực giác, linh hứng, giấc mơ, lên đồng...trong văn học nghệ thuật, trong sáng tạo văn hoá như trên có thể tìm thấy ở mọi thời đại ở khắp nơi trên thế giới. Người ta tin rằng, Mendeleev từng phát hiện Bảng hệ thống tuần hoàn trong một giấc mơ; còn phương trình trường của Einstein, phương trình sóng Schrodinger trong cơ học lượng tử cũng được viết như một sự kết hợp linh diệu giữa logic khoa học và trực giác nghệ sĩ.
    Vậy vô thức có vai trò như thế nào trong hoạt động sáng tạo? Đó là câu hỏi gây nhiều tranh cãi. Trong khi các nhà khoa học, nhất là trong lĩnh vực tự nhiên, nhấn mạnh chủ yếu tới ý thức, thì các văn nghệ sĩ đang có khuynh hướng đề cao vô thức. Tại nước ta, sau mấy chục năm độc tôn vô thức, việc đề cao đó cũng là dễ hiểu.
    Tuy nhiên nếu đề cao một chiều thì lại rơi vào cực đoan, bởi lẽ hoạt động tinh thần là một thể thống nhất mang tính toàn thể, trong đó các quá trình vô thức dưới vỏ và ý thức mức vỏ não luôn hoà quyện với nhau như hình với bóng.
    Suy cho cùng trí tưởng tượng và khả năng phân tích, tư duy hình tượng và tư duy logic chỉ là hai mặt của một đồng xu, nhấn mạnh quá mức bất cứ mặt nào cũng là phiến diện.
    Vậy đâu là vai trò của trực giác, linh cảm, chiêm bao, lên đồng....?
    Quả thật đó là tiếng nói vô thức, nhưng nếu không có vai trò của ý thức, thì chúng chỉ là những trò chơi tự phát của hệ Neuron dưới vỏ não mà ý nghĩa của chúng thì chính vô thức cũng không hiểu!
    Theo quan điểm của môn tâm ?" sinh lý học thần kinh, ý thức liên quan với trí nhớ ngắn hạn, còn vô thức thì với trí nhớ dài hạn. Quá trình nhận thức bắt đầu bằng việc tạo một khuôn mẫu trong trí nhớ ngắn hạn và được tiếp nối bằng sự truy xét cái đồng dạng trong trí nhớ dài hạn. Khi muôn mẫu và cái đồng dạng đủ đồng nhất, hai mạng neuron sẽ cộng hưởng, dẫn tời sự nhận biết có ý thức. Như vậy theo khoa học nhận thức học, sáng tạo là quá trình giao thoa của ý thức, tiềm thức và vô thức, dưới sự chỉ đạo của ý thức {*??}.
    Phải chăng vô thức của một nhà siêu thực không quan hệ mật thiết với ý thức?
    Phải chăng một giấc mơ không gắn bó với hiện thực?
    Phải chăng cánh diều vô thức bay lượn tự do trên bầu trời siêu thực, không chịu bất cứ sự chi phối nào của mặt đất hiện thực? Câu trả lời thật ra không quá khó khăn.
    Cánh diều chỉ có thể tự do bay lượn nhờ những làn gió siêu thực khi và chỉ khi nó được cột chặt với mặt đất hiện thực bằng sợi dây ý thức. Chính sợi dây ý thức đó quy định cái khoảng không vùng vẫy, cái chiều kích thích cao rộng của cánh diều.
    Không có sợi dây ý thức, không thể có trò chơi siêu thực của cánh diều vô thức. Vì lẽ đó chỉ Mendeleev mới mơ thấy Bảng tuần hoàn, chỉ Einstein mới trực giác ra Tương đối luận.
    Chúng ta phân biệt nhà sáng tạo ?" cho dù là nhà thơ, nghệ sĩ hay nhà khoa học ?" với kẻ tâm thần chính ở chỗ có hay không có sợi dây ràng buộc và định hướng vô hình đó.

    Nguồn Hanoiportal.com
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:59 ngày 06/09/2005
  2. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Đến đây HL xin tạm ngưng fần tranh luận về VÔ THỨC, HỬU THỨC để đề cập đến :
    1 Xu hướng Ứng Dụng tích cực trong tâm lý học giáo dục theo hành trình tư duy :
    Trong khi các nhà giáo dục đang tìm cách thay đổi hiện trạng thụ động, bất cập của giáo dục từ cấp quản lý vĩ mô, thì có một nhóm bạn trẻ lại đang tìm cho mình một hướng đi khác để có thể chủ động gia tăng hiệu quả trong học tập và trong cuộc sống.
    Họ đi vào lĩnh vực rất mới với những người VN, đó là nghiên cứu não trên phương diện tư duy để tìm ra các qui luật hoạt động giúp sử dụng hiệu quả.
    Học cách làm việc với não
    8g sáng tại Viện Nghiên cứu CON NGƯỜI, hơn 20 bậc giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ đều đã ngoại tứ tuần đang chuyên chú lắng nghe một nhóm người trẻ thuyết trình. Não hoạt động ra sao? Qui luật nào của riêng bộ não? Làm thế nào để sử dụng não hiệu quả? Phương thức gia tăng trí nhớ, năng lực tư duy của bộ não, sức mạnh của trí tưởng tượng?
    9g sáng, những người trẻ ấy tỏa về các phòng trong trung tâm để cùng các bậc đàn anh, cha chú thực hành làm việc với mindmap (sơ đồ tư duy).
    Liên - ĐH Ngoại ngữ Hà Nội - tập thuyết trình cách thiết lập điểm trung tâm và các mạch nối dẫn truyền, liên thông giữa các ý tạo một mạch tư duy hệ thống trong khi triển khai các nhánh nhỏ của ?ocây thông tin?.
    Những bài học dài ngoằng và rối rắm trở nên đơn giản, dễ hiểu, dễ ghi nhớ...
    Đây là một buổi làm việc giữa các thành viên nhóm NTG - New Thinking với cán bộ của Viện Nghiên cứu con người nhằm cố gắng đưa các kết quả mà NTG đã tìm hiểu, nghiên cứu được ứng dụng trong thực tế. Họ đang là sinh viên năm 2, 3 của nhiều trường đại học ở Hà Nội.
    Hành động theo qui luật của não
    Đó là phương châm nghiên cứu của NTG. Trưởng nhóm Hà Huy Thanh nói: ?oTrước đây chúng ta cứ bắt não phải làm việc theo yêu cầu của chúng ta mà không hiểu các qui luật hoạt động của não. Không hiểu thì làm sao sử dụng hiệu quả. Một nghiên cứu mới đây nhất đã cho thấy chúng ta mới sử dụng hiệu quả 4% não, 96% còn lại chưa được sử dụng - một lãng phí lớn?.
    Nay các bạn trẻ này có ý tưởng lại là chúng ta fải học tập và làm việc theo qui luật của não
    Qui luật ba não {3 khối theo P. Mc Lean} (& khả năng phản ứng của con người trước một vấn đề:
    1- não bò sát - hoặc ?ochiến? hoặc ?obiến? {Fight/Flight},
    2- não thú {cổ thú & Động vật có vú} - chỉ thấy đen hoặc trắng, & {trung tâm xúc cảm (Hệ viền)}
    3- não người - luôn tìm giải pháp) giúp phát huy và phát triển não người, hạn chế và khống chế phản ứng của não thú và não bò sát.
    Thực trạng thụ động, khả năng ghi nhớ kém có nguyên do từ sự hạn chế trong khả năng kết hợp hai bán cầu não và việc sử dụng các công cụ tư duy, phát triển các năng lực tư duy tiềm ẩn trong mỗi người.

    Tại sao chúng ta luôn cảm thấy ngộp trong bể kiến thức?
    Tại sao lại ?ohọc tài thi phận??
    Tại sao sinh viên luôn thụ động với các bài giảng, khả năng ghi nhớ kém, kết thúc môn học là quên luôn kiến thức?
    Nghiên cứu của các bạn trẻ trong NTG đã cố gắng làm sáng tỏ những thắc mắc của chính họ. Hải - ĐH Ngoại thương Hà Nội - thú thật: ?oTôi đã từng ù đầu vì những môn học lê thê và khó nuốt như triết học, kinh tế chính trị? Khi đem mindmap vào ứng dụng, tôi nắm được khá nhanh, hiểu rõ và chắc vấn đề. Điểm 9 học phần triết Mác cũng thật sự không phải kỳ công lắm?.
    Còn PGS.TS Phạm Thành Nghị, viện phó Viện Nghiên cứu con người, rất tâm đắc: ?oMột trong những phương pháp học tập tiên tiến, làm việc hiệu quả. Từ trước đến nay lối giáo dục của chúng ta theo kiểu chuyên chú lấy kiến thức, thông tin mà không đào tạo phương pháp, kỹ năng. Lý thuyết không mới ở nước ngoài nhưng lại là những cái rất thiếu và rất cần đối với người VN hiện nay, đặc biệt với giới trẻ. Ít nhất và có lẽ ít nhiều tác động đến không ít cán bộ trong viện?.
    Kết nối mới cho lập trình tư duy
    Kết nối đầu tiên là khởi sự kinh doanh, ứng dụng các kết quả nghiên cứu về tư duy trong các dự án kinh doanh của nhóm.
    Dự án 113 với đội cơ động sửa máy tính nhanh, dự án về nhà sách tri thức? chỉ là một trong số rất nhiều dự án mà các thành viên đang khởi sự.
    Sau khóa học về kỹ năng làm việc theo nhóm do Tổ chức Thanh niên vì nếp sống lành mạnh của Thụy Điển IOGT tổ chức, NTG đang bắt tay cùng Thành đoàn Hà Nội để nhân rộng mô hình NTG, phát triển các kỹ năng quan trọng nhất là kỹ năng làm việc với con người, kỹ năng làm việc theo nhóm? ?oCòn rất nhiều việc phải làm?, Thanh cho biết.
    Và 59C Văn Miếu, Hà Nội đã thành địa chỉ quen thuộc của nhiều bạn trẻ ngay trong mùa hè.
    Theo TuoiTreonline
    ___
    Tài liệu tham khảo thêm (tiếng Anh /Nếu Bạn nào có hứng thú nhờ dịch giùm)
    http://www.vobs.at/ludescher/pdf%20files/brain-friendly.pdf
    http://users.chartertn.net/portwood/AL/whole.htm
    Đọc xong các fần này; Các bạn có ý kiến thế nào ?
    Có thể nhân rộng mô hình & tác dụng của việc này đối với các bạn ra sao ?
    Cần nhất là fản hồi (feedback) của các Bạn Để chúng ta cùng trau đổi & học hỏi .
    Hy Vọng rằng mô hình sẻ được nhân rộng rãi trên toàn quốc .
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 09:19 ngày 27/09/2005
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    VÔ THỨC, HỬU THỨC dưới cái nhìn của Người Xưa
    Có 1 giai thoại về Giáo sư Cao Xuân Huy trong lúc giảng bài như sau:
    Một hôm, giảng đến câu "quân tử thực vô cầu bão; cư vô cầu an ?"... Giáo sư Cao Xuân Huy viết lên bảng, rồi quay lại, hỏi : "Anh nào dịch câu này ? Anh kia dịch ! Ngồi xuống"...
    Hầu như ai cũng "Thưa thầy, người quân tử ăn không cần no, ở không cần yên" ạ. Giáo sư Cao Xuân Huy cười, rồi hỏi : Dù quân tử hay tiểu nhân đi chăng nữa, thì ăn no ở yên vẫn là điều tốt. Hà tất gì hễ là quân tử lại cứ phải ăn chẳng cần no ?
    Dịch non choẹt ! Đến đây ông luyện cho học trò về ngữ pháp một câu văn cổ : Thế động từ đâu ?
    - Ông hỏi : "Thực ạ. Cầu ạ ". Hê, hê... ê... ê ! ... ông cười vang. Không . Nó ở chữ "vô" ấy . Các anh chẻ đôi "chữ vô" ra mà xem : VÔ là gì ? là "bất hữu".
    Hữu mới là động từ (Verbe Avoir). Còn bất là phó từ (Adverbre). Phải dịch thế này mới rõ : cái việc ăn của người quân tử ấy, không có cái sự (cái mục đích) cầu cho thật no. Nghĩa là ăn no thì càng tốt, chẳng no cũng không sao. "Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn". Nên nhớ rằng chữ bão có hai nghĩa chính là "no" và "chán". Người quân tử xem việc ăn là phụ, không bao giờ có cái khát vọng, cái niềm chăm chắm, canh cánh vì mục đích "no xôi chán chè " thừa mứa.
    ở cũng vậy. Ai mà không thích an nhàn, yên ổn, thư thả ? Nhưng nếu gặp bọn tiểu nhân, bọn "lái trâu buôn bè" gian manh, đạo tặc làm điều bất nghĩa tởm lợm thì dù có biết lụy đến thân cũng không thể làm ngơ. Đấng trượng phu tùy ngộ nhi an - Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn - Người quân tử phải tùy cảnh ngộ mà tự thích nghi, tự tìm lấy cái an lạc của riêng mình, phải biết "dĩ bất biến ứng vạn biến" để từ trong hoạn nạn vẫn tìm được cái an mà vui với Chân lý.
    Nghiên cứu, hiệu đính, khảo chứng các văn bản cổ cũng là nguồn hứng thú không bao giờ dứt trong các bài giảng và là công việc hằng ngày của Giáo sư Cao Xuân Huy {ông củng đả góp công hiệu đính quyển Nguồn Gốc Các Loài của Darwin} .
    Vì thế ông không ngại ngần dùng những từ "thiên tài", "vĩ đại" để ca ngợi người xưa. Đó là trường hợp Vương An Thạch. Cái vĩ đại, thiên tài của Vương An Thạch, theo Giáo sư Cao Xuân Huy là ở chỗ ông đã đặt được một dấu phẩy vào sau chủ VÔ trong Đạo đức kinh của Lão Tử : "Vô" (?) danh thiên địa chi thủy - Hữu (?) danh vạn vật chi mẫu". Hàng bao nhiêu năm rồi, trước và sau Vương An Thạch, không ai đặt nổi dấu phẩy vào đấy. Vì thế, thường người ta dịch : "Không - tên là gốc của trời đất. Có - tên, là mẹ của Vạn vật".
    Bằng nhãn quan triết học, Giáo sư Cao Xuân Huy giảng : Lão Tử, là một tác phẩm triết học bằng thơ. Tr­ước Lão Tử ở Trung Quốc không có triết học tự nhiên. Nhà triết học tự nhiên đầu tiên và vĩ đại nhất của Trung Quốc chính là Lão Tử.
    Chữ ĐẠO mà Lão Tử dùng làm một thuật ngữ triết học, chỉ cái Bản thể - phần chủ yếu của triết học tự nhiên mà "hữu-vô", "đa-nhất", "động-tĩnh", "tâm-vật" hợp thành nội dung của bản thể luận của nó, vì thế VÔ và HỮU ở đây chính là các phạm trù triết học.
    Dấu phẩy của Vương An Thạch đã làm được điều đó. Vì vậy phải hiểu là trong câu văn này, Lão Tử muốn nói : dùng cái chữ "Vô" (phạm trù vô) để gọi tên cái thuở ban đầu của trời đất {1 Hàm ý có lẻ là tự nhiên};
    dùng chữ "hữu" (phạm trù hữu) để gọi tên mẹ đẻ của vạn vật...{1 Hàm ý có lẻ là Dưỡng dục & Môi trường}
    Phóng tác Theo ĐÀO Thái Tôn.
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    "CÁI ĐẠO CỦA TÂM LÝ " ?
    Nhà vật lý học Fritjof Capra đả nổi tiếNG VỚI TÁC Phẩm "Đạo của Vật lý" Người Dịch: Ông Nguyễn Tường Bách (nguyên tác là The Tao of Physics: An Exploration of the parallels between modern Physics & Eastern Mysticism). TÁC Phẩm này Cùng với "Quyển Lược Sử Thời gian (A Brief History of Time) Stephen Hawking - 1 số Dịch Giả:Cao Chi và Phạm Văn Thiều Nhà Xuất Bản Khoa Học và Kỹ Thuật - Hanoi 2000 hay Thích Viên Lý Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới, USA ...
    là những TÁC Phẩm bất hủ trong văn chương vật lý hiện đại .
    Cùng với tư tưởng Cao Xuân Huy ta có chăng TÁC Phẩm "ĐẠO CỦA TÂM LÝ ? "
    Và TÁC Phẩm "Lược Sử Trí não Con Người" (A BRIEF HISTORY OF THE MIND (Oxford, 2004)
    của tác giả William H. Calvin mà các bạn có thể đọc theo dòng link sau đây:
    http://williamcalvin.com/BHM/
    Sự vật, Sự việc trong tự nhiên tồn tại "như nó vốn có (theo Bản thể luận của Cao Xuân Huy) ". Cái "vốn có " bên trong ấy con người không thể trực tiếp nhận biết được.
    1) Đông phương, Tây phương: 2 con đường tới nhận thức,
    2 cách ứng xử, ứng dung Kiến thức & thực nghiệm .
    I - Phương thức chủ biệt {Bộ phận -> toàn thể},
    Muốn nhận thức Sự vật, Sự việc & ứng dung Kiến thức để hiểu, phải dùng khoa học & Kỷ thuật thực nghiệm để "chẻ" sự vật ra, cắt đứt một số mối liên hệ bên trong và bên ngoài của nó, thậm chí phải làm cho nó ngừng vận động...để quan sát, thử nghiệm sau đó. Đấy là sự phân tích, là "bóp méo" sự vật, đưa nó về phạm trù nhận thức tỉnh và siêu hình, để bắt nó bộc lộ các thuộc tính bên trong , cung cấp cho ta những tri thức cụ thể, nhờ đó mà ta biết cách tác động vào nó, làm nó biến đổi theo hướng có lợi cho con người.
    Quá trình này, về tư duy là "tỉnh", là "siêu hình", nhưng về hành vi thì lại rất động, có tác dụng chinh phục tự nhiên để tạo ra nhiều của cải vật chất là nhân tố căn bản tạo dựng các nền văn minh.
    * Con người của thế giới Tây Âu, Mỹ mạnh về mặt này.
    II-Phương thức ?ochủ toàn?o {toàn thể -> Bộ phận}
    Nhưng muốn có được quan niệm đúng về sự vật như nó vốn có thì bên cạnh quá trình dùng ứng dung thực nghiệm để giải phẫu nó ra lại cần đến một quá trình khác, trong đó ta dùng tư duy để "khâu" các phần rời rạc lại, khử "độ méo" đi, cho nó vận động giữa các mối liên hệ tự nhiên của nó.
    Về tư duy như vậy thì rất "động" và biện chứng, nhưng về thái độ đối với tự nhiên & sự vật thì lại tương đối "tỉnh" vì nó tôn trọng tự nhiên.
    Con người tìm cách thích nghi với thiên nhiên để tồn tại hơn là cưỡng bức, cải tạo tự nhiên;.
    Hệ ứng xử & nhận thức thực nghiệmnày có lợi cho văn hiến, văn hoá, nhưng không có khoa học Kỷ thuật thực nghiệm làm cơ sở thì khả năng sáng tạo ra nhiều của cải vật chất theo nhu cầu ngày càng phát triển của con người lại bị hạn chế.
    * Con người của thế giới Á Đông mạnh về mặt này.
    Hai lối tư duy, hai hướng ứng xử, nhận thức thực nghiệm khác nhau ấy có nguồn gốc xa xưa từ cuộc sống hái lượm chuyển sang nông nghiệp (mà chủ yếu là trồng trọt) và cuộc sống động, săn bắn, bẩy thú, du mục,chuyễn sang công nghiệp cơ giới,
    Hai lối tư duy này có nguồn gốc sâu xa trong quá trình hoạt động của 2 BÁN CẦU não trái & não phải của chúng ta .
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 14:01 ngày 17/10/2005
  5. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Nếu Các Bạn thấy TÁC Phẩm "Lược Sử Trí não Con Người" (A BRIEF HISTORY OF THE MIND (Oxford, 2004)
    của tác giả William H. Calvin dài dòng khó đọc (& cả Tiếng Anh rắc rối nửa) thì đây là Bảng tóm lược của Tác giả có kèm theo các sơ đồ (theo dòng của link bên trái trang):
    http://williamcalvin.com/talks/2005-02-18%20AAAS_files/frame.htm
  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Các dạng trí thông minh và tầm quan trọng của nó với giáo dục.
    Theo Howard Gardner, nhà tâm lý Mỹ, tác giả cuốn "Frames of Minds", đại thể trí thông minh có thể chia thành 7 loại:
    - Trí thông minh logic - toán
    - Trí thông minh ngôn ngữ
    - Trí thông minh âm nhạc
    - Trí thông minh thị giác
    - Tri thông minh cơ thể - vận động
    - Trí thông minh cá nhân
    (Còn một loại nữa, tôi quên mất rồi, sẽ bổ sung sau)
    Trí thông minh này lại chia thành 2 loại: Trí thông minh hướng nội(hiểu mình) và Trí thông minh hướng ngoại(hiểu người)
    Mỗi loại trí thông minh này đều có một vùng não tương ứng. Tất nhiên, không có 1 vùng nào được coi là duy nhất và độc lập cho một loại trí tuệ. Chỉ có thể nói là nó có tính trội thôi. Một dangj trí thông minh liên quan đến nhiều vùng não.
    Giáo dục của chúng ta từ trước đến nay thường chủ yếu tập trung vào một vài loại, mà chủ yếu là trí thông minh logic - toán, trí thông minh ngôn ngữ. Những trí thông minh cá nhân thường không được coi trọng, mặc dù chúng chính là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự thành đạt sau này của chúng ta. Các test IQ cũng thường bỏ qua loại trí thông minh này.
    Trong những bài kế tiếp, nếu còn có hứng, tôi sẽ chia sẻ những kiến thức về trí thông minh cá nhân, hướng nội và hướng ngoại. Những yếu tố sinh lý thần kinh ảnh hưởng đến chúng. Cách phát hiện và giúp đỡ những đứa trẻ có thiếu hụt về loại trí thông minh này sống hoà nhập. Những cách thức để người bình thường nâng cao nhận biết liên cá nhân, từ đó có những cách thức để điều khiển , hướng người khác theo ý mình, từ đó đạt được những thành công trong cuộc sống. Bạn có thể tin tưởng vào tính khoa học của những bài viết này.
    Sau đó, mời các bạn tham khảo bài này
    http://www.tamlyhoc.net/news/index.php?option=com_content&task=view&id=72&Itemid=50
    Và hãy thận trọng trước những kiến thức tâm lý được cung cấp cho bạn trươc khi tin vào chúng.
    Được dumb sửa chữa / chuyển vào 13:36 ngày 24/10/2005
  7. langtubachkhoa

    langtubachkhoa Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    27/06/2004
    Bài viết:
    1.212
    Đã được thích:
    784
    Bác đừng mất hứng nhé, kẻo mọi người sẽ mất hứng theo dấy
  8. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    Vào Năm 1983, ông Howard Gardner đã đưa ra một cái nhìn mới về Trí thông minh trong cuốn "Frames of Minds" (1983) .
    Tiếp tục nghiên cứu, đến 1999; GS. Gardner phát hiện ra được Trí thông minh hay năng lực tư duy về thiên nhiên ( NATURALIST) và thông minh hay năng lực tư duy hiện sinh (EXISTENTIAL.):
    Xem thêm:
    INTELLIGENCE REFRAMED. Multiple Intelligences for the 21st Century. By Howard Gardner. Basic Books, 1999
    Tổng cộng Đại Loại là 9 tất cả.
    Từ Cái chí NHẤT đến chí ĐA
    Theo quan niệm truyền thống thừơng chỉ coi trọng IQ & Lâu nay người ta quá sùng bái IQ mà quên mất rằng đó chỉ là phần nổi của tảng băng trí tuệ, tài năng của trẻ em & HSSV.
    Tại trường học, các nhà giáo dục thường dùng nhiều bài trắc nghiệm để đo lường và xác định ?ochỉ số thông minh? (IQ) của học sinh. Không dùng cách đo lường này, làm sao nhà trường có thể xếp các học sinh vào những loại lớp học khác nhau, chẳng hạn như lớp đặc biệt dành cho các em chậm hiểu, lớp thần đồng hay năng khiếu (gifted) là nơi các em thông minh được học hành theo độ khó cao hơn, làm sao một học sinh được cố vấn sau này nên theo đuổi nền đại học tổng quát hay nên vào một trường chuyên nghiệp.
    Người học sinh như vậy được phân loại do các bài trắc nghiệm tiêu chuẩn, rồi được chấm điểm bằng máy móc.
    Nhưng các Bạn biết không ? Theo điều tra thì có đến 30% những người thành đạt có chỉ số IQ dưới trung bình. Bởi vì những bài test IQ mới kiểm tra được 2 loại năng lực tư duy (NLTD) hay Trí thông minh ngôn ngữ và NLTD hay Trí thông minh logic toán học, chính vì thế nó không thể là ?othước đo? sự thông minh của người này hay người khác được. Bạn có thể học không khá môn toán và khả năng diễn đạt về ngôn ngữ không mấy trôi chảy.
    Nếu như dựa vào bài test IQ, bạn sẽ rất thất vọng về điểm số thấp của mình, từ đó có thể sinh ra tư tưởng bi quan, tự cho mình là kém cỏi và không còn ý chí phấn đấu vươn lên trong học tập và cuộc sống nữa. Điều đó hết sức nguy hiểm.
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 11:50 ngày 03/12/2005
  9. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Tôi nghi ngờ vào cái thống kê này.
    Nếu coi EQ là quyết đinh, những người như Bill Gates chắc chỉ là một anh công nhân.
    Nếu coi AQ là quyết định, Việt Nam sẽ nằm trong top 10 quốc gia phát triển nhất.
    Những người có IQ cao thường có cuộc sống dễ dàng hơn. IQ làm cơ sở để có thể nâng cao EQ, AQ, CQ...chỉ cần đặt người ta đúng hướng.
    Ai có IQ cao, nếu cần tư vấn tôi sẽ đưa cho những pp để thành công, có cuộc sống dễ chịu, dù bạn có những khiếm khuyết trong các lĩnh vực khác.
    Để thành công, công thức là: Thành công = IQ > 130 + sự tư vấn của tôi. Tin và lựa chọn hay không tuỳ bạn.
    Nhưng mà bạn Hoai Long cũng thông minh ra phết(test IQ chắc được 115)
  10. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49

    Nhắc đến Vương An Thạch *
    * Ông là 1 trong bát đại gia về văn xuôi và thơ phú từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13 ở Trung Quốc, gồm có: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức [Tô Đông Pha] , Tô Triệt, Tăng Củng và ông.
    Nhân dịp "Tết Nguyên Đán" , HL xin tạm trích 1 bài thơ chúc Tết của ông Vương An Thạch * & 1 số mẫu chuyện vui về ông trong dịp xuân về :
    Thơ
    Bài thơ Tết Nguyên Đán
    .f-
    ^?竹聲中?歲T
    ~風?s-.屠~?
    f-?萬^>^>^-
    總SS-f>^S符
    Nguyên Nhật
    Bộc trúc thanh trung nhứt tuế trừ
    Xuân phong tống noãn nhập đồ tô
    Thiên môn vạn hộ đồng đồng nhựt
    Tổng bả tân đào hoán cựu phù
    đã được nhiều người dịch
    Tết Nguyên Đán
    Hết 1 năm rồi, tiếng pháo đưa
    Gió xuân thổi ấm chén đồ tô
    Ngàn cửa muôn nhà vừa rạng sáng
    Ðều đem đào mới đổi bùa xưa.
    (Trần Trọng San)
    Tết Nguyên Đán
    Pháo trúc kêu vang hết 1 năm
    Rượu Ðồ Tô uống đón mừng xuân
    Hỡi xuân nồng hậu, muôn nhà sáng
    Thả đào tống cựu, đón bình an.
    (bản dịch khác)
    Nhắc đến Vương An Thạch trong giai thọai về Giáo sư Cao Xuân Huy giảng bài; fãi nói tới 1 Giai thoại Của người họ Vương này mà hầu như ai cũng biết ; dù từng là kẻ thù củanước VN - họ Vương, 1 kẻ thù không may - vẫn là tay xuất sắc trong Văn chương thơ phú.
    * Vương An Thạch (Z<?Y Wang Anshi), 1021-1086, tự là Giới Phủ (<"), hiệu là Bán Sơn Lão Nhân (S山?人 Banshan Laoren), người ở Phủ Châu - Lâm Xuyên, là 1 nhà văn nổi tiếng thời nhà Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc.
    Ông đỗ tiến sĩ năm 1041 (21 tuổi), làm quan đến Tể tướng, đưa
    ra áp dụng tân pháp để cải cách chế độ kinh tế-xã hội, quân sự của nhà Tống.
    Lúc còn trẻ, ông đã ưa chuộng Nho học và dốc lòng vào việc quan. Khi tuổi về già, do việc quan không đắc ý, nên ông đem lòng say mê nghiên cứu Phật học. Phật giáo lúc bấy giờ thiên về Thiền tông, có ảnh hưởng rất lớn đối với học thuật Trung Quốc đời Tống.
    Do Ông là 1 chính khách đầy viễn kiến nhưng đi trươ''''''''c thời đại nên chánh sách cải tổ của ông chẳng được triều Tống đã suy vi lúc đó áp dụng.
    Trẻ hơn Vương An Thạch 15 tuổi có Tô Ðông Pha** , cũng là 1 trong bát đại gia, và có cuộc đời phóng dật nghệ sĩ hơn Vương.
    ** Tô Đông Pha, tên gọi Tô Thức, tự là Tử Chiêm (1037 -1101) là 1 thi sĩ kiêm họa sĩ thời Bắc Tống. Ông đỗ tiến-sĩ năm 22 tuổi, đời Tống Nhân Tông, năm 1057. Vào năm 1080, Tô Thức bị giáng làm Đoàn-Huyện Phó-Sứ tại Hoàng-Châu, thuộc Hồ Bắc. Ở đây, ông cất nhà ở làng Đông-Pha và lấy hiệu là Đông-Pha Cư-Sĩ và đã làm ra hai bài Tiền và Hậu Xích-Bích Phú
    (1082). Người ta thường gọi ông là Tô Đông Pha.
    Giữa Vương An Thạch và Tô Thức [Tô Đông Pha] ** có 1 số giai thoại lý thú .
    A/ Câu chuyện "Tô cải Vương thi"( có nghĩa là Tô Đông Pha sửa thơ Vương An Thạch) liên quan đến loài hoa cúc thật lý thú.
    Câu chuyện như sau:
    1 hôm Tô Thức đến tướng phủ bái kiến Vương An Thạch, đến nơi, không may họ Vương đi vắng, Tô Đông Pha nhìn thấy trên án thư có tờ hoa văn viết dở dang hai câu thơ:
    Tây phương tạc dạ quá viên lâm
    Suy lạc hoàng hoa mãn địa câm (1)
    Nhẩm xong hai câu thơ, họ Tô cười thầm:
    Lão Vương há không biết loài hoa cúc khi héo tàn không bao giờ rụng cánh sao, mà lại cho là trận gió đêm qua thổi vào vườn ông làm cho cúc vàng rụng đầy sân?
    Nghĩ rồi, họ Tô với bút lông trên án và viết tiếp thêm hai câu thành bốn câu cho đủ thủ thơ để trêu Vương An Thạch:
    Thu hoa bất tỷ xuân hoa lạc
    Thuyết dữ thi nhân tử tế ngâm. (2)
    Tạm dịch trọn bài:
    * Hai câu họ Vương:
    Trận gió đêm qua rạp cỏ hoa
    (1) Sáng ra vàng rụng giữa sân nhà.
    * Hai câu họ Tô:
    Cúc thu nào phải đào xuân rụng
    (2) Nhắn nhủ người thơ khéo vịnh a!
    Khi Vương An Thạch trở về phủ, chợt thấy hai câu thơ nối tiếp thì biết ngay là nét chữ của Tô Đông Pha và hiểu họ Tô bỡn cợt mình.
    Ông bèn bật cười & sau đó 1 hôm, ông cùng Tô Đông Pha đàm-luận về quốc-sự. Họ Tô rất hứng-khởi & Tô Đông Pha có ngỏ ý với quan Tể-Tướng Vương An Thạch về việc sửa 2 câu thơ nói ở trên. Quan Tể Tướng cười và gật-gù tỏ ra ưng-ý.
    Sau đó ngài không nói thêm gì về hai câu thơ này cả mà chỉ cùng Tô Đông Pha đàm-luận về quốc-sự.
    (còn tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 12:46 ngày 22/01/2006
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này