1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Đồng tiền đi liền khúc ruột; các cụ nói vậy; có thực mới vực được đạo; không tiền đố thầy dạy ai...
  2. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Về vấn đề giáo dục; cư dân trí thức và ko trí thức; ********* và không ********* đang xôn xao vụ "Hồi ký của nhà văn Nguyễn Đăng Mạnh;nghe nói cụ chửi một loạt các nhân vật tai to mặt bự bác nào cần thì gõ google mà search. Nóng bỏng cả bàn phím
  3. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    VỀ BẤT CẬP TRONG GIÁO DỤC (tạm gác sang bên v/đề Hồi ký nhà văn) thì chăng riêng VN mà hầu như nước nào cũng đều có; tuy nhiên, chúng chỉ khác nhau về fương diện & ở mức độ nặng nhẹ như thế nào
    1 trong những học giã mà các Bác đả nghe danh qua trong chủ đề này:
    http://www10.ttvnol.com/forum/TamLy/324918/trang-14.ttvn#4460026
    HL (Hai Lúa này từng mến mộ đồng cãm vì 1 lí do đơn giản là ông có công giãi thích các hiện tượng tâm linh & dị thường 1 cách ấn tượng theo cách hiểu Hai Lúa ),
    Trong dịp này, ông cũng có 1 fản biện (kèm theo 1 bài nhận xét)
    {fần # là của ng Post}

    Thứ ba 11, Tháng Mười Hai 2007
    VỀ MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG GIÁO DỤC
    (Đỗ Kiên Cường)
    Giáo dục Việt Nam nhiều ưu điểm? Chính xác, vì bạn bè quốc tế công nhận,
    so với các nước cùng thu nhập, các chỉ tiêu văn hóa - xã hội của chúng ta, bao gồm giáo dục, cao gấp mấy lần.
    Giáo dục Việt Nam còn nhiều bất cập, từ triết lý cho tới hành động?
    Không sai, và chúng đã được nói nhiều trong thời gian qua.
    Bài viết dưới đây chỉ xin bàn về một số bất cập trong nền tảng triết lý, nhằm rộng đường dư luận.
    Những điều mắt thấy tai nghe
    1. Mùa thi đại học 2006, tôi đưa con gái đi thi ngành Mỹ thuật Công nghiệp (MTCN) tại Đại học Kiến trúc TPHCM. Ngồi sau xe máy, cháu hỏi: Bố ơi, Xuân Diệu sinh năm nào? Tôi gắt: Sinh năm nào cũng kệ ông ấy! Ngay lập tức tôi biết mình vô lí và lạc hậu, khi cháu cho biết, đề thi văn có thể hỏi như vậy. Thế mà tôi cứ tưởng, chỉ nhà Xuân Diệu học mới cần nhớ ngày sinh hay nơi sinh của ông.
    2. Khi nhập học, do cháu thích thiết kế thời trang, một ngành trong nước đào tạo chưa tốt, nên gia đình định cho cháu du học. Vì học phí tại các quốc gia nổi tiếng về thời trang quá cao, nên cháu chọn Đức. Qua mạng, cháu liên hệ với nhiều khoa thời trang tại các trường đại học và may mắn được một giáo sư tại Hannover nhiệt tình giúp đỡ.
    Ông tận tình chỉ dẫn thông tin và sẵn sàng xem giúp "cặp sản phẩm" trước khi cháu sang Đức, để tránh trường hợp mất công sang mà không được tuyển.
    Tại VN, thí sinh ngành MTCN thi văn và hai môn vẽ (hình họa và trang trí). Bài thi nặng về kỹ thuật, nên có lò luyện thậm chí còn luyện tủ nhằm thi đỗ, còn khả năng vẽ vào trường rèn luyện sau. Tại Đức thi tuyển theo hình thức khác, tuy cũng gồm ba phần. Đầu tiên là sơ tuyển, khi thí sinh trình "cặp sản phẩm", gồm 20-30 tác phẩm, như tranh vẽ hay sản phẩm thiết kế (nhiều nước dùng thuật ngữ "thiết kế" để chỉ ngành MTCN tại VN; và theo UNESCO, đó là nghệ thuật thứ chín của loài người). Nếu qua vòng này, thí sinh sẽ thực hiện một bài thiết kế trong 1-3 ngày. Cuối cùng là cuộc phỏng vấn 30 phút trước một hội đồng chuyên môn. Như vậy, so với Đức, ta chỉ thực hiện mức sơ tuyển.
    Sau khi quét tranh và gửi qua Đức, cả nhà tôi bị sốc khi vị giáo sư khả kính người Phần Lan trả lời. Cái ông cần không phải là kỹ thuật (cháu vẽ được, nhất là môn trang trí vẫn được các thày luyện thi khen), mà là tinh thần, tâm hồn, nhân cách, sự đồng cảm, cái tôi, nét riêng? Ông nặng lời đúng kiểu phương Tây: "Tôi chưa thấy em trong tranh". Thế mà cháu vẫn được xem là có cá tính, khi vẽ theo ý riêng chứ không theo cách của thầy chủ nhiệm khoa trong lớp luyện thi.
    Như vậy dường như chúng ta đòi hỏi chủ yếu về kỹ thuật, trong khi hầu như bỏ qua nhân cách và tâm hồn, vốn là cội nguồn của sáng tạo?
    3. Tôi ấn tượng mãi về một bài báo mấy năm trước, kể rằng một học sinh lớp 11 của ta đoạt huy chương vàng Olimpic toán quốc tế. Khi ở Đức cùng cha mẹ (là giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội), do chương trình toán phổ thông nhẹ quá, nên em phải dùng sách giáo khoa VN để luyện thêm! Như vậy sự phàn nàn của Phạm Việt Hưng trên Văn Nghệ năm 1997 về việc chuyên toán hóa chương trình phổ thông dường như có cơ sở? Và dường như có xu hướng chuyên hóa nhiều môn, nếu không phải tất cả, ở bậc phổ thông, theo nhiều nhà sư phạm?
    4. Bàn về thực trạng học sinh không thích môn văn, một số nhà văn cho rằng, đó là do sách giáo khoa thiếu các tác phẩm đương đại nên thiếu hơi thở cuộc sống.
    Một tác giả biên soạn (PGS Đỗ Ngọc Thống, nếu tôi không nhầm) phản bác chính xác rằng, sách giáo khoa phải gồm các tác phẩm kinh điển và các tác phẩm đã được thời gian sàng lọc. Và nếu phải xin lỗi, ông chỉ xin lỗi nhà văn Nguyễn Huy Thiệp mà thôi.
    Tuy rất mê Nguyễn Huy Thiệp, nhưng tôi kiên quyết phản đối việc đưa tác phẩm của ông vào chương trình phổ thông. Lí do sẽ được nêu ở phần sau.
    5. Khi biên soạn giáo trình Vật lý Y Sinh học cho sinh viên y khoa tại Trung tâm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y tế TPHCM (đang chờ đổi tên thành Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch TPHCM), vì các giáo trình tại VN không thống nhất, nên tôi đặt mua cuốn "Vật lý trong Sinh và Y học" của Paul Davydovits, NXB Elsevier, 2001. Sau bao nhiêu mong chờ, khi nhận sách, tôi ngạc nhiên đến mức thất vọng khi thấy cuốn sách nổi tiếng đó chưa đầy 300 trang khổ thường, với nội dung sơ sài trong từng đề mục. Như vậy ở nước ngoài, ngay ở bậc đại học, nhiều giáo trình cũng có tinh thần rộng mà không sâu, ít nhất ở các môn phụ.
    6. Buổi học phép toán cộng tại một lớp thuộc Trường tiểu học dân lập quốc tế TPHCM giống như họp chợ. Giáo viên chia học sinh thành ba nhóm và viết các phép tính lên bảng. Học sinh cần chạy nhanh lên bảng ghi đáp số, đúng thì được điểm, sai thì các bạn xếp hàng sau chạy lên sửa cho đúng. Nhóm nào viết đúng và nhanh nhất sẽ chiến thắng và được khen. Và một số nhược điểm của học sinh VN như thụ động trong suy nghĩ và hành động hay ít vận động có thể được khắc phục dần. Cần lưu ý mức học phí lớp bốn 2.2 triệu đồng/tháng tại đây cho phép tổ chức lớp chỉ có 22 học sinh, điều kiện cần cho phương pháp "học mà chơi" cụ thể như thế.
    7. Giáo sư Hoàng Tụy, nhà toán học và giáo dục đáng kính, cho rằng, ở VN giáo dục đại học nhiều vấn đề hơn giáo dục phổ thông. Nhiều người đồng ý với ông. Tôi thiển nghĩ, cần quan tâm trước hết tới giáo dục phổ thông. Nếu giáo dục phổ thông chuyển biến, việc nâng cấp giáo dục đại học mới có nền tảng và khả thi. Thêm nữa giáo dục đại học nước ta nhiều nơi có chất lượng khả quan. Như ngành vật lý lý thuyết tại 2 Đại học quốc gia Hà Nội và TPHCM, nơi tôi từng theo học đại học và trên đại học, đều có chất lượng tốt, với các thầy cô trình độ cao, phương pháp sư phạm tốt và thường xuyên giao lưu quốc tế.
    8. Hầu như mọi băn khoăn về nền giáo dục nước nhà được giải tỏa khi tôi đọc TS Peter J Gray, Học viện Hải quân Mỹ, trên Vietnamnet ngày 7-8-2007. Ông cho rằng sinh viên VN kém trong ba vấn đề chính là suy nghĩ độc lập, làm việc nhóm và xây dựng kế hoạch; và đó là lỗi của hệ thống giáo dục. Ông cũng cho biết bốn yêu cầu đối với sinh viên Mỹ là kiến thức chuyên biệt cho từng ngành học, kiến thức chung, kĩ năng suy nghĩ, và nhân cách. Trong đó, kiến thức chung bao gồm khả năng giao tiếp, suy nghĩ phân tích và giải quyết vấn đề, sử dụng thành thạo các phương tiện kĩ thuật, kiến thức lịch sử, nhận thức về các vấn đề toàn cầu, trải nghiệm và đánh giá các nền văn hóa khác nhau? Kĩ năng suy nghĩ bao gồm khả năng ghi nhớ kiến thức, vận dụng kiến thức trong tình huống quen thuộc và không quen thuộc, phân tích, tổng hợp và đánh giá thông tin. Còn rèn luyện nhân cách bao gồm sự tự tin, trung thực, đạo đức, sức khỏe thể chất và tinh thần, tính chuyên nghiệp và trách nhiệm trong công việc, tôn trọng người khác, khả năng làm việc nhóm và tố chất lãnh đạo. Như vậy giáo dục đại học thì đã rõ, còn với giáo dục phổ thông, chỉ cần bỏ yêu cầu kiến thức chuyên biệt cho từng ngành học (chủ yếu là đòi hỏi ở đại học) và giảm nhẹ ba yêu cầu còn lại ở mức độ khác nhau là được.
    IQ và EQ
    Đó là thương số (hay Chỉ số) thông minh và thương số (hay Chỉ số) cảm xúc. IQ được dùng để lượng giá trí thông minh đã hơn một thế kỉ, trong khi EQ mới xuất hiện hơn một thập kỉ. IQ từng được xem là tiêu chuẩn vàng để đánh giá trí tuệ và khả năng thành công của con người. Quan điểm đó đang bị xem là sai lầm. Vấn đề nằm ở chỗ, không chỉ người có ích cho xã hội, mà những kẻ phản xã hội như tin tặc hay maphia cũng có thể có IQ rất cao. Thử nghiệm IQ không phân biệt được hai loại người.
    (# Xem Chỉ số AQ là gì ? Bạn .... ?
    http://www7.ttvnol.com/TamLy/495221/trang-3.ttvn#4247674)
    Có tối thiểu ba nguyên nhân dẫn tới thực tế đó.
    Đầu tiên, mặc cho ngành tâm lý tiến bộ vượt bậc kể từ thời Freud, bộ câu hỏi trắc nghiệm IQ hầu như không thay đổi so với 100 năm trước. Tiếp theo, thay cho việc đánh giá trí thông minh nội tại, các trắc nghiệp IQ lại đo đạc kiến thức và khả năng giải quyết vấn đề. Kết quả là người có điều kiện học hay chăm học hơn sẽ có IQ cao và do đó được xem là thông minh hơn người ít điều kiện hơn. Đó là lí do trong cuốn "IQ ?" Lịch sử thông minh của một quan niệm sai lầm", 2007, Stephen Murdoch viết: "đã đến lúc giới tâm lý và các chuyên gia trí tuệ thiết kế các công cụ tốt hơn. Trong khi chờ đợi, họ phải ngừng thuyết phục chúng ta rằng có thể lượng giá trí thông minh; và vì họ không thể, nên tuyên bố như vậy là nguy hiểm".
    Cuối cùng, và quan trọng nhất, IQ không lưu tâm tới cảm xúc, yếu tố quyết định bản chất con người không kém lý trí.
    Vì thế xuất hiện phép đo mới là EQ. Nó không đo đạc kiến thức hay khả năng giải quyết vấn đề như IQ, mà cố gắng lượng giá các giá trị thuộc về tâm hồn như tính nhân bản, tình thương, sự đồng cảm, khả năng chế ngự cảm xúc, tính độc lập? Theo các nhà tâm lý như Daniel Goleman (tác giả cuốn "Trí thông minh cảm xúc" năm 1995) hay Peter Salovey và John Mayer (đưa ra thuật ngữ EQ năm 1996), chính EQ mới là yếu tố quyết định sự thành công của một cá nhân. Giới nghiên cứu cũng nhất trí rằng, EQ không đối nghịch mà bổ sung cho IQ. Một cách nôm na, IQ giúp ta được tuyển chọn, còn EQ giúp ta thăng tiến. Và như vậy, một nền giáo dục chỉ toàn diện khi quan tâm đầy đủ tới cả IQ và EQ, lý trí và cảm xúc, kỹ năng và nhân cách.
    Lý thuyết đa trí khôn
    ( # Phần này đã được Bác Dumb đề cập trong:
    Các dạng trí thông minh và tầm quan trọng của nó với giáo dục.
    http://www10.ttvnol.com/forum/TamLy/324918/trang-15.ttvn#5063157
    )
    (Còn Tiếp)
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 06:18 ngày 08/01/2009
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 06:24 ngày 08/01/2009
    Được HoaiLong sửa chữa / chuyển vào 06:27 ngày 08/01/2009
  4. Hoailong

    Hoailong Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    28/04/2004
    Bài viết:
    2.564
    Đã được thích:
    49
    LÝ THUYẾT ĐA TRÍ KHÔN
    (Tiếp)
    Nếu trắc nghiệm nhà thơ Bùi Giáng, có lẽ chỉ số IQ sẽ không cao. Vậy ông không thông minh, nhưng biết làm thơ hay? Mâu thuẫn đó chỉ được giải quyết khi cuốn "Cơ cấu trí khôn - Lý thuyết về nhiều dạng trí khôn" của Howard Gardner ra đời năm 1983. Bạn đọc quan tâm có thể tìm bản tiếng Việt của NXB Giáo dục, năm 1998, do Phạm Toàn chuyển ngữ. Theo lý thuyết này, có nhiều dạng trí khôn, như ngôn ngữ, âm nhạc, logic - toán, không gian, vận động cơ thể, thiên nhiên, liên cá thể, nội cá thể và vài dạng trí khôn khác. Chúng xuất hiện không đồng đều giữa các cá nhân và phù hợp với các nghề khác nhau. Chẳng hạn trí khôn logic - toán phù hợp với nhà khoa học, toán học, kĩ sư, bác sĩ hay nhà kinh tế; liên cá thể phù hợp với nhà chính trị, nhà quản lý, người làm công tác xã hội hay ngoại giao; còn nội cá thể phù hợp với triết gia, nhà tâm lý, thần học hay nhà văn. Nhà thơ Bùi Giáng chắc có trí khôn ngôn ngữ và nội cá thể cao.
    Như mọi lý thuyết tâm lí khác, đa trí khôn cũng chịu nhiều phê phán, như thiếu bằng chứng thực nghiệm (tình trạng chung của hầu hết các lý thuyết tâm lí), thiếu cơ sở sinh học thần kinh (không có các vùng não tương ứng với từng dạng trí khôn; tuy nhiên có lẽ phản bác này không chuẩn, nếu xuất phát từ lý thuyết mạng nơ ron) hay định nghĩa trí khôn phi truyền thống. Tuy nhiên nếu thay thuật ngữ "trí khôn" bằng "khả năng", lý thuyết có thể được thừa nhận rộng rãi hơn. Theo đó, trí khôn là một khối thống nhất nhưng có nhiều mặt, mỗi dạng trí khôn như trên chỉ là từng mặt của nó mà thôi. Và một nền giáo dục chỉ toàn diện khi quan tâm tới tất cả các phương diện đó?
    (Xem fần *** theo quan điểm (Vô, Hữu),(NHẤT,ĐA), (ĐỘnG Tỉnh) theo BẢN THỂ LUẬN của cụ Cao X Huy
    http://www10.ttvnol.com/forum/TamLy/324918/trang-9.ttvn#3790412
    http://www10.ttvnol.com/forum/TamLy/324918/trang-15.ttvn#4958186
    *** VÔ THỨC, HỬU THỨC dưới cái nhìn của Người Xưa
    http://www10.ttvnol.com/forum/TamLy/324918/trang-15.ttvn#5332843
    Từ Cái chí NHẤT đến chí ĐA)
    HIỆU ỨNG MẸ TERESA VÀ SỰ TÂN SINH TẾ BÀO THẦN KINH SAU VẬN ĐỘNG
    Mẹ Teresa là nữ tu đoạt giải Nobel hòa bình vì đã dành cả cuộc đời cho dân nghèo Ấn Độ. Sau khi mất năm 1997, bà được phong thánh. Hiệu ứng Mẹ Teresa được nhà tâm lý McClelland, ĐH Harvard, phát hiện năm 1981. Sau khi xem phim về mẹ, hầu hết sinh viên đều thấy tăng hoạt tính miễn dịch của cơ thể, kể cả người không thích, thậm chí phản đối bộ phim. Như vậy ngay cả các đáp ứng vô thức đối với cái đẹp, lòng tốt, đức hi sinh... cũng gia tăng khả năng đề kháng của cơ thể.
    Hệ luận của hiệu ứng rất rõ ràng: câu chuyện về lòng tốt, bản nhạc hay, bức tranh đẹp, buổi cầu nguyện, chuyến đi từ thiện, sự xúc động, lòng tự hào? không chỉ giúp chúng ta sâu sắc hơn về mặt tâm hồn, mà còn khỏe mạnh hơn về mặt thể xác (Đây là hiệu ứng trứơc cái CHÂN-TIỆN-THIỆN-MỸ (nếu có hứng thú & điều kiện ,Ng viết sẻ bàn về việc này như thế nào)
    Trong nhà trường, các môn xã hội, nhất là văn và sử, cũng như các hoạt động xã hội, có thể tăng cường tác dụng của hiệu ứng. Và đó cũng là lí do gián tiếp giải thích vì sao không nên đưa Nguyễn Huy Thiệp vào chương trình phổ thông.
    Tân sinh nơ ron là một lĩnh vực thần kinh học tiên phong. Theo quan niệm truyền thống, mọi nơ ron chỉ tạo ra một lần trong thai nhi. Sau khi sinh, số lượng nơ ron ngày cảm giảm, dẫn tới sự lão suy. Khoảng 10 năm nay, khoa học thấy các nơ ron hoàn toàn mới (chiếm 1-2% tổng số nơ ron) có thể tạo ra tại nhiều cấu trúc não bộ, mà quan trọng nhất là hồi hải mã thuộc hệ viền, có vai trò quan trọng trong tăng cường trí nhớ và tạo trí nhớ mới. Quan trọng hơn, tân sinh nơ ron gia tăng mạnh mẽ sau các hoạt động thể chất, theo chuyên san Tâm trí của tạp chí Người Mỹ khoa học, số tháng 8+9/2007.
    Muốn trẻ em thông minh hơn, cần bắt chúng chơi nhiều hơn!
    TRÔNG NGƯỜI LẠI NGẪM TỚI TA
    Có lẽ ai cũng đồng ý rằng, cần giáo dục toàn diện. Nhưng thế nào là nền giáo dục toàn diện thì tôi chưa biết cho đến khi đọc Peter J Gray. Chúng ta trang trọng kẻ khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" trong từng lớp học, nhưng dường như chưa trả lời được bằng lý luận và hành động rằng, học lễ (học làm người) và học văn (học kiến thức, học nghề) như thế nào. Thiển nghĩ, khi chưa làm rõ những vấn đề căn cốt đó, mọi cố gắng đều khó thành công.
    Như đã viết ở trên, xin không nêu ưu điểm, mà chỉ nêu nhược điểm của nền giáo dục nước nhà. Không phải là chuyên gia giáo dục, nên tôi chỉ nêu một vài khiếm khuyết, dựa trên những phát kiến khoa học mới mà thôi. Theo đó, nền giáo dục nước ta thiếu toàn diện, với các biểu hiện chủ yếu như sau:
    1. NẶNG VỀ IQ SO VỚI EQ, NẶNG VỀ LÝ TRÍ SO VỚI CẢM XÚC:
    Chương trình nặng nề, xu hướng chuyên hóa, bài thi hóc hiểm, đánh đố, các lớp luyện thi (kể cả thi học sinh giỏi) chuyên luyện "mẹo" giải đề thi (nói văn vẻ là cách "giải quyết vấn đề", theo ngôn ngữ IQ) đều nhằm tăng IQ. Bên cạnh đó, do xem nhẹ các môn xã hội, chưa coi trọng các sinh hoạt tập thể, cộng đồng và xã hội, nên việc bồi dưỡng EQ không đáp ứng được đòi hỏi cuộc sống. Vì "IQ giúp bạn được chọn, EQ giúp bạn thăng tiến", có thể hiểu vì sao chúng ta hợp với vai người thợ hơn người thầy và hầu như không thể trở thành người mở đường hay khai sáng.
    Nhiều người phàn nàn về sự thiếu sáng tạo của người Việt; đó là do giáo dục, kể cả giáo dục truyền thống (Nho giáo).
    2. CHƯA QUAN TÂM ĐẦY ĐỦ TỚI CÁC THÀNH TỐ TRÍ TUỆ KHÁC NHAU:
    Giáo dục VN chỉ quan tâm tương đối tốt tới phương diện logic - toán của trí tuệ, mà chưa quan tâm tới các yếu tố khác, như không gian, âm nhạc hay vận động cơ thể. Đó là do điều kiện chưa cho phép, quan niệm thiên về IQ và một số nguyên nhân khác.
    3. KHINH THƯỜNG CÁC HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT:
    Sự khinh thường thể hiện rõ nhất trong châm ngôn: "Đầu óc ngu si, tứ chi phát triển".
    Với những khám phá khoa học mới, cần kiên quyết loại bỏ sai lầm nghiêm trọng đó cả trong suy nghĩ và hành động.
    CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ?
    Từ góc nhìn hẹp của mình, tôi mong ngành giáo dục giảm tải tối đa nội dung chương trình, nhất là các môn tự nhiên. Cải tiến việc dạy và học các môn xã hội, nhất là văn và sử, vốn rất quan trọng trong bồi dưỡng nhân cách và tâm hồn. Trong các môn xã hội, cũng từ bỏ xu hướng trọng kiến thức (chẳng hạn, không hỏi tuổi Xuân Diệu trong văn hay so sánh men gốm thời Tây Sơn với thời Lê sơ trong sử).
    Tăng cường tối đa các hoạt động thể chất, các sinh hoạt tập thể và xã hội.
    Trước mắt, để khắc phục sự coi trọng kiến thức quá mức so với các yếu tố khác của trí thông minh và nhân cách trong toàn xã hội, cần tổ chức các kì thi gọn nhẹ, yêu cầu kiến thức rộng hơn là sâu, đòi hỏi hiểu và vận dụng hơn là thuộc kiến thức. Thi thế nào thì học như vậy, thực tế giáo dục nước ta thời gian qua là như thế.
    Bên cạnh đó, cũng nên ưu tiên cho những học sinh tham gia các hoạt động thể thao và xã hội.
    Bài viết này là trăn trở của một người cũng tham gia các hoạt động giáo dục.
    Nếu nó gợi được sự đồng cảm đôi chút từ bạn đọc thì người viết xin chân thành cảm tạ.
    TPHCM 16-9-2007
    Đỗ Kiên Cường
  5. HYATOKUTE

    HYATOKUTE Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/08/2003
    Bài viết:
    519
    Đã được thích:
    0
    Tuyệt vời, cảm ơn bác chủ topic đã Post
  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    cảm ơn bạn đã có lời.
    Nhân những ngày cuối năm, có một bài đã post khá lâu trên một diễn đàn , post lại. Nó có vẻ đi ra khỏi mạch của chủ đề, nhưng chắc là có tác dụng nào đó với một số người nào đó đang dằn vặt trong những đau khổ bế tắc. Xin mời tham khảo
    =============================================
    Vui thích và Đau khổ.
    Vui thích và đau khổ đều do những nguyên nhân sinh tồn mà có. Khi ta không theo những nguyên tắc đó thì chúng biến dạng đi, thành ra hai bệnh rất nặng: một bệnh phát sinh do sự phân tích tâm lý quá độ; một bệnh phát sinh do bắt buộc phải làm một việc không bao giờ thay đổi.Những người mắc bệnh thư nhất có tài tự xét lắm. Họ như có nhiều tâm hồn: một tâm hồn cảm, một tâm hồn thấy mình cảm; một tâm hồn suy tưởng, một tâm hồn thấy mình suy tưởng. Óc họ luôn phân tích tư tưởng ra
    từng mảnh. Luôn luôn họ cần phải có những cảm giác mới và thay đổi nguyên nhân những cảm giác ấy. Bệnh phân tích đến cực độ, bệnh "nhơi tâm lý" ấy, bệnh luôn luôn quay tròn ở chung quanh mình ấy, chưa bao giờ nặng như bây giờ.Cái hại thứ nhất là nó làm cho vui thích tan đi, vì phải hoạt động có điều độ
    mới thấy vui thích được, vì quá phân tích cái vui ra thì thấy nó phù du quá mong manh quá.Đứng trước cảnh đẹp, nếu ta không muốn chỉ thưởng thức thôi mà còn muốn lý luận xem ta thưởng thức có đúng hay không, phân tích xem tâm hồn ta có những thay đổi gì, muốn hiểu tại sao nó thay đổi và thay đổi ra sao, thì cái vui của ta yếu đi, mất đi ngay.
    Những cái vui về tâm hồn cũng vậy, không chịu được sự phân tích. Nếu lương tâm ta lúc nào cũng xói bói vào thì không có hành vi nào là toàn thiện, không dính một chút vị kỷ, không chịu một ảnh hưởng xấu xa cả. Nếu ta phân tích ta quá thì ta không thể hy sinh, không có nhiệt tình, không quảng đại được, không quên mình được.Nhiều khi, và điều này mới tệ hại hơn, cảm tình của ta biến đổi đi: Không biết thưởng thức nữa, ta đâm ra hay chê bai; không yêu được, ta hay hờn ghét. Ta thành ra nhút nhát, sợ những tình cảm của ta, không dám cho chúng biểu lộ ra; ta hay thuyết lý vụn vặt, bình phẩm cả những ý nhỏ nhặt nhất của ta rồi sinh ra hay sợ, chẳng đâu vào đâu cũng làm ta cuống
    cuồng lên. Ta không biết hưởng cái vui lâu dài và trong sạch nữa.
    Có những đau khổ bồi bổ cho tinhh thần thì trái lại, cũng có
    những đau khổ làm cho ta suy nhược đi. Những kẻ có bệnh quá phân tích tâm lý không biết đau những cái đau khổ trên mà không bao giờ thoát khỏi những đau khổ dưới. Người thân họ chết, họ cũng không để nỗi buồn tràn ngập họ, họ thắc mắc tự phân tích tâm lý mình rồi họ tự lấy làm xấu hổ vì không khoe được. Trái lại, trước những đau khổ làm họ suy nhược đi thì họ
    càng nghĩ tới mà họ càng cảm thấy khổ. Khổ mà nghĩ đến cái khổ của mình là khổ đến 2 lần. Họ giống như người có nhọt, thấy bứt rứt khó chịu rồi lấy móng tay mà gãi như điên cuồng vào, cho đến khi chảy máu mới thôi. Lúc nào họ cũng phải có cảm giác gì kích thích, họ mới chịu được. Đời sống bên ngoài không cho họ những cảm giác đó thì họ kiếm trong thâm tâm họ, không biết rằng những cảm giác đó nhiều khi chỉ làm cho họ đau khổ mà thôi. Các thi nhân ca tụng những "khoái lạc của đau khổ" là thế. Họ không những chịu những nỗi đau hiện tại mà còn bới móc trong ký ức những đau khổ đã qua nữa. Trách chi họ chẳng chán đời.Như thế phải chăng ta không suy nghĩ kỹ ?Không. Quá suy nghĩ là hại chứ không phải không suy nghĩ là hại. Phải chọn lúc mà suy nghĩ. Để cho suy nghĩ ngăn trở hoạt động của ta thì không nên, nhưng để cho nó dẫn đuờng, nâng đỡ sự hoạt động thì rất nên.
    Muốn trị bệnh đó, phải nhớ rằng sống là hành động, là phấn đấu. Biết thưởng thức, cảm phục hơn là biết biện luận, phê bình.
    Và phải tin ở đời. " Mặc cho đời trôi. Nhiều lúc phải biết quẳng lên bờ cái gánh nặng những buồn bực, lo âu và thông thái rởm đi mà tự trẻ lại, nhỏ lại, biết giản dị sống đời hiện tại, biết nhớ ơn và chất phác."
    ( dumb sưu tầm)

    Được dumb sửa chữa / chuyển vào 11:15 ngày 10/01/2009
  7. mrking_hoang

    mrking_hoang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    04/12/2006
    Bài viết:
    2.266
    Đã được thích:
    2
    Phân biệt thiện ác;tốt xấu xét nét nhiều chính là độc ác. Cái ác đơn giản chỉ là cái đem lại đem lại cho mình hay cho người khác sự đau khổ về mặt thể chất hoặc tinh thần ở các mức độ khác nhau; từ ưu tư cho đến tuyệt vọng và điên cuồng.
  8. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    lướt trên mạng, tìm được bài này khá hay, mời các bạn tham khảo:

    Phật Giáo, Khoa học và Giác Ngộ
    Sự khác biệt giữa tin, hiểu và thực hành
    Ða số người đợi đến tuổi trung niên khi cuộc sống mình có nhiều mất mát mới bắt đầu tìm hiểu tôn giáo. Một số lớn tìm hiểu tôn giáo để có một niềm an ủi cho những cái mất mát của mình. Họ hy vọng được sự cứu rỗi khi có niềm tin vào tôn giáo và nhóm hợp với những người cùng niềm tin với mình để củng cố lòng tin. Số ít hơn tìm hiểu tôn giáo như một môn học về tâm linh và họ học và so sánh lý thuyết tôn giáo. Những hiểu biết đó chỉ thuần về lý trí và lý thuyết. Những người này trở thành những diễn giả ăn nói trôi chảy diễn đạt và giải thích được tôn giáo như một môn học.
    Tuy niềm tin và sự học hỏi về tôn giáo rất tốt, đó chỉ là những bước đầu để ta có thể đi sâu hơn và tự khám phá đời sống tâm linh. Khi ta giậm chân tại chỗ ở niềm tin quá độ hay dừng trên lý thuyết để diễn bài tôn giáo thì một ngày nào đó ta sẽ bị thất vọng vì hai cái cực đoan trên không giúp ích gì cho ta mà trái lại còn gây nhiều phiền phức nửa. Thí dụ khi tin ta phải ?otrả nghiệp? thì lòng tin mù quáng đó khiến cho ta thụ động không thay đổi cuộc sống ta, khi bị bịnh không đi trị bịnh, phải chịu bịnh như vậy để ?omau hết nghiệp xấu?. Khi ta học thuyết luân hồi, ta quả quyết đó là chân lý và dùng hiểu biết ta đi tranh luận hơn thua với các nhóm tôn giáo khác không tin vào luân hồi. Ðiều này có thể gây ra sự thù hằn giữa các tôn giáo.
    Vì thế muốn thực hành đạo một cách đúng đắn, lòng tin và sự hiểu biết về đạo phải đi đôi với nhau. Lòng tin là cái năng lực thúc đẩy ta hành động. Nhưng nếu hành động đó không được soi sáng bởi sự hiểu biết thì hành động đó sẽ dễ dẫn đến địa ngục của sự cuồng tín thay gì đưa đến sự giải thoát. Sự hiểu biết tạo cho ta một hướng đi. Muốn hiểu biết một cách chín chắn thì ta phải có sự thăng bằng giữa lòng tin và sự nghi ngờ. Khi học đạo ta luôn phải đặt câu hỏi là lý thuyết này có thể áp dụng được trong đời sống hàng ngày của ta không? Ðạo Phật cho phép ta nghi ngờ và đặt câu hỏi. Chỉ khi đặt câu hỏi ta mới có thể khám phá ra sự thật trong chính ta.
    Tu phải đi đôi với hành
    Tu là tu sửa. Ta không thể nào làm một cuộc cách mạng khi không có hành động. Vì thế tu phải đi đôi với hành. Ở xã hội ta phải chịu cực đi làm mới có tiền nuôi thân và giúp gia đình. Thế giới tâm linh cũng không có khác gì. Ta phải chịu cực thực hiện những điều ta học hỏi được thì ta mới có nghị lực giúp ta thay đổi chính mình và sau đó giúp xã hội thay đổi. Cũng như khi ta làm quan lớn mà tham nhũng thì không thể nào dạy dân có cuộc sống tinh khiết được. Vì thế tu sửa là điều rất quan trọng trong quá trình tiến hóa tâm linh và sau đó ta làm gương giúp kẻ chung quanh ta tiến hóa theo ta. Khác với Ki Tô Giáo, Phật Giáo chủ trương ta phải tu tâm trước rồi mới giúp đời sau. Có lẻ vì thế mà lịch sử cho ta thấy rằng chưa hề có chiến tranh Phật giáo.
    Hiểu mà không hành dễ tạo cho ta cái cảm giác ngạo mạn hơn thua. Người học mà không hành sẽ có cái nhìn phiến diện vì họ có khuynh hướng tô điểm cho những gì họ học hỏi được là trên nhứt, là đúng nhứt. Người đời gọi là méo mó nghề nghiệp. Ông bác sĩ cho mình giỏi hơn ông kỹ sư vì mình trị được bịnh cho ông kỹ sư. Ngược lại, ông kỹ sư cho mình giỏi hơn ông bác sĩ vì không có mình làm ra những dụng cụ y khoa thì ông bác sĩ sẽ không hành nghề được. Trên thực tế con người cần nương nhau mà tồn tại. Không ai hơn ai, không có tôn giáo nào hay hơn tôn giáo kia. Tôn giáo được đặc ra để đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người. Có người thích hợp tôn giáo này, người thích hợp tôn giáo kia. Ta không nên áp đặt tôn giáo mình lên kẻ khác.
    Hành đạo, thực hiện đạo trong đời sống hàng ngày giúp ta hiểu rõ được con người thật của ta. Khi ta học và hiểu được phải dẹp bỏ tham, sân, si thì ta tưởng như khi ta hiểu được điều này, tham, sân, si tự nó được dẹp. Sự thật không phải như vậy. Chỉ khi ta thực hành bố thí mà trong bụng còn cảm thấy hơi tiếc của thì lúc đó ta mới nhận thức được ta tuy hiểu mà ta vẫn còn lòng tham, còn lo âu khi rời của cải của ta. Chỉ khi nghe người khác chê hay nói xấu mình mà ta cảm thấy có sự buồn phiền nổi lên trong lòng thì ta chợt nhận ra cái sân của ta. Khi nhận ra sân nơi ta thì ta không còn đổi thừa là người nói xấu ta thật là vô duyên thất đức. Chỉ có khi thực hành ta mới nhận rõ tham, sân, si nơi chính ta và từ đó ta cố gắng tự trị lấy bịnh của mình mà không còn đổi thừa hoàn cảnh bên ngoài để tự biện hộ cho ta nửa.
    Tu hành là trở về sự toàn thể
    Sở dĩ ta đau khổ là ta tự ngắt bẻ mình ra ngàn phần. Phần chính được gọi là ngã và phần bị mất gọi là ngã sở. Một thí dụ cho dễ hiểu là tình yêu lứa đôi. Khi còn nhỏ thì đứa bé cảm thấy tương đối đầy đủ, không có cảm giác nhớ nhung và đau khổ của kẻ thất tình. Nhưng khi vào tuổi dậy thì, khi biết yêu thì tâm hồn nó bị phân chia ra và nó cảm thấy không đầy đủ nửa mà phải tìm người yêu khác phái để lấy về sự đầy đủ ban đầu. Cái ngã ?otôi yêu? và ngã sở ?ongười tôi yêu? bắt đầu phân chia rõ rệt. Người thanh niên thiếu nữ cần đem cái ngả sở -người yêu- về cho mình thì mới gọi được là hạnh phúc, có nghĩa là trở về sự toàn vẹn ban đầu. Khi không được tình yêu thì tâm hồn người thanh niên, thiếu nữ cảm thấy như bị cắt xén, thiếu hụt, và cô đơn. Vì thế thất tình có thể dẫn đến sự tuyệt vọng và tự tử.
    Sân là phản ứng ta có khi ta bị từ chối. Bị từ chối làm ta cảm thấy mất sự đầy đủ trong tâm hồn. Ta sân khi món đồ ta thích hay người ta yêu bị lấy mất. Sự mất mát hay tình yêu bị từ chối hoặc cướp mất làm ta cảm thấy ta không toàn vẹn nửa. Tột điểm của sân là diệt bỏ người đe dọa sự toàn vẹn của ta để ta có thể trở về sự đầy đủ ban đầu. Buồn hay mặc cảm tự ti là mặt trái của sân khi đối tượng ta có nhiều quyền uy hơn ta, vì lý do nào đó ta không diệt trừ người đó được (thí dụ như ta đang cần người đó). Ta phải miễn cưỡng trở thành kẻ yếu để xin vào vòng chấp nhận và được bảo vệ, để ta có thể trở lại sự đầy đủ.
    Nguồn gốc của vô minh do con người từ vô thủy đã tự đánh mất mình trong cõi vật chất vô thường. Con người dùng xác thịt làm phượng tiện sanh ra xác thịt, họ đi lạc vào vô số xác thân và muốn chiếm giữ những xác thân để mong tìm lại những phần bị đánh mất của chính mình. Càng qua nhiều chu kỳ sanh tử thì sự mờ tối trong tâm càng nhiều hơn để dần dần họ quên hẳn con đường trở về sự đầy đủ ban đầu. Một trong những lối trở về là tình yêu nói chung. Khi cha mẹ thương yêu con cái thì tạo cho con cái mình cảm giác đầy đủ trong tâm hồn. Nhưng rồi nếu ta bám vào xác thân cha mẹ thì khi cha mẹ chết ta sẽ bị cắt xén cô đơn khôn tả. Chính vì thế những tôn giáo cứu rỗi ra đời (Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo hay phái Tịnh Ðộ của Phật Giáo) đem đến cái hy vọng trở về sự đấy đủ của tâm hồn khi tín đồ được chấp nhận vào thiên đàng hay cõi tịnh độ.
    Con đường trở về trong hiên tại: giác ngộ
    Bát nhã là con đường tắt trở về sự đầy đủ của Chân tánh trong đời sống hiện tại. Không phải ai cũng đi được con đường này. Qua kinh Bát Nhã, Phật dạy ta không nên nương tựa trên vật chất mà cũng không nên nương tựa trên kiến thức để nhìn ra sự đầy đủ nơi ta (chân tánh). Người thế gian thường dựa trên nguyên tắc nhị nguyên để vào đạo. Bỏ cõi giới sắc về cõi giới tâm thì dễ hiểu, bỏ kiến thức bon chen của đời để học kiến thức xuất thế gian của đạo là điều dễ hiểu. Nhưng nếu Phật dạy không nên nương tựa lên đời lẩn đạo để vào Chân tánh thì thật khó hiểu. Rồi Phật lại nói sắc tức là không, không tức là sắc, là một điều ta dùng lý trí gượng ép mà giải thích chớ không thể nào hiểu được cái tận cùng rốt ráo của lời Phật dạy.
    Khi Phật sắp nhập Niết bàn, Phật dơ cành hoa sen lên mà không nói một lời, đại chúng ngớ ngẩn nhìn nhau thắc mắc, chỉ có ngài Ca Diếp chúm chím cười. Phật chọn Ngài làm người thừa kế. Khi đọc lịch sử thiền tông, ta thấy có nhiều điều kỳ quái như khi có học trò hỏi về đại ý Phật pháp thì sư tổ hét lên mà không trả lời hay dựng cây phất tử (chổi) lên trong im lặng, vậy mà có người lại ngộ đạo và liền đó quỳ lại cám ơn sư tổ. Người đệ tử này đã giác ngộ. Giác ngộ là sự liên ứng với chân tánh không qua suy nghĩ lý luận. Nhiều học giả không thích lý Bát Nhã hay thiền tông vì cách truyền dạy này không có phương pháp và không ai giải thích được một cách tường tận.
    Con đường tức thời vào Chân tánh rất trơn trợt. Vừa khởi một ý nghĩ để hiểu là ta bị té rồi. Ta không thể dùng lý trí để lý giải được đạo (con đường) Bát Nhã. Muốn đi trên con đường này, hành giả phải tự cởi trói những gì đã học hỏi được. Ðây là con đường giải thoát tâm linh chớ không phải hiểu biết lý giải danh từ giải thoát. Khi dừng mọi tư tưởng, tâm hành giả biến thành bầu trời trong suốt và hành giả là sự liên ứng của Chân tánh. Sự ứng hiện từ không mà có và chính cái hiện tượng ứng hiện tức thời đó chưa từng rời cái tịch lặng sáng suốt. Bây giờ hành giả mới nhận ra rằng sự đầy đủ thật sự không phải do tích chứa mà có. Thưỏ xưa Ngài Ca Diếp mỉm cười vẫn còn là hiện tại. Nụ cười thật đẹp đó ngay nơi đóa hoa Ðức Phật đưa lên và nụ cười chính là đóa hoa sen. Phật, hoa sen và Ca Diếp đồng thời hiện ra và phản chiếu trong nhau. Ca Diếp vừa không phải là Phật mà vừa là Phật chính nơi lúc đó. Cái thực trạng tức thời đó thật khó diễn bày qua chữ nghĩa.
    Phân tâm học và Bát Nhã
    Theo phân tâm học, ta đau khổ do ta phân liệt (split) tâm ta một cách tự động mà ta không ý thức được. Chính sự phân liệt đó duy trì ngã và ngã sở. Sự phân liệt đó xuất hiện ở nhiều dạng khác nhau. Cái cảm nhận sự thật liên hệ rất nhiều tình trạng phân liệt đó. Một trong những cách phân liệt là hiện tượng phóng tâm (projection) mà dân gian gọi là đổ thừa. Ta đổ thừa người này vô duyên nói những lời chọc ta giận, ta đổ thừa người kia dụ dỗ và lường gạt ta. Ðó là sự thật không chối cãi mà ta cảm nhận được. Qua những lần phân tích tâm lý thì sự phóng tâm ít dần đi. Khi ta ít giận hơn, ít ham muốn hơn thì ta cảm thấy cùng một lời nói đó mà bây giờ ta có thể bỏ qua được. Ta có cảm tưởng như lời nói đó không còn quan trọng nửa. Nói theo nhà Phật thì lúc trước ta còn vô minh (không hiểu rõ chính mình) cái ngã ta còn lớn nên bị cái thế giới ngã sở làm ta điên đảo. Khi ta hiểu biết ta hơn thì chấp ngã mỏng dần và ta bớt lệ thuộc vào cái ngã sở. Nói một cách khác, cái thế giới quan thay đổi theo sự nhận thức của ta.
    Cái tột đỉnh của sự tu hành diệt khổ là ta tập nhận thức sự phân liệt của tâm ta (vọng tưởng) và dần dần trở về cái tâm nhận thức không suy nghĩ của ta (chân tâm). Phân tâm học cho ta biết rằng khi ta càng suy nghĩ nhiều thì ta càng đi lạc vào những cảnh giới của phân liệt. Thí dụ như ta theo những tư tưởng trả thù ghét bỏ người nói xấu ta. Ta dùng những suy nghĩ lý luận biện hộ phần đúng về ta. Càng suy nghĩ nhiều, cái cảm tưởng người đó xấu càng in sâu đậm vào tâm thức ta. Diều đó khiến cho ta thật khó mà nhận ra chính lòng bực tức của ta vẻ ra cái cảnh đó. Khi ta thấy người đó hoàn toàn xấu rồi thì dù ta có học đạo cách mấy cũng vẫn không thể tha thứ người đó được.
    Khi ta dẹp bỏ được tất cả những thế giới ngoại cảnh do tâm phân liệt của ta vẽ ra thì ta trở về với con người nhận thức đầy đủ của ta. Tu hành rất đơn giản nếu ta chịu khó nhìn chính mình và rất phức tạp nếu ta không chịu thay đổi mình mà cứ muốn thay đổi người khác. ?oCây muốn lặng mà gió chẳng dừng?: khi hành đạo ta biết không làm gió dừng được nhưng có thể làm tâm ta dừng được. Khi tâm ta dừng rồi thì gió bên ngoài sẽ dừng theo. Ðiều này ta chỉ có thể thể nghiệm chớ không lý luận ra được. Có lẻ Phật muốn cho ta nhận ra điều này nên vào phút cuối cuộc đời, Phật dạy: Trong 49 năm thuyết pháp, Như Lai chưa từng nói một lời. Khi tâm ta bám vào cái đúng của pháp Phật, sớm muộn gì nếu không tạo bão táp thì ta cũng tạo gió tranh chấp.
    Thần kinh học và Bát Nhã
    Những nghiêng cứu gần đây cho ta biết não bộ của ta phản ứng với hoàn cảnh bên ngoài qua 3 hệ thống thần kinh (neural systems) ảnh hưởng qua lại với nhau: hệ thống thần kinh limbic, hệ thống prefrontal cortex, và hệ thống paralimbic. Hệ thống limbic là phần não bộ cũ kỹ nhứt liên hệ đến bản năng và tình cảm ban sơ (sợ, ham muốn, giận dữ), hệ thống prefrontal cortex phát triển gần đây hơn trên quá trình tiến hóa của loài người, liên hệ đến suy nghĩ, tính toán, và chiến lược. Ở những người không tu tập, hai hệ thống này làm việc song song mà không liên lạc với nhau, sanh ra hiện tượng phân liệt tâm mà phân tâm học nghiên cứu ở phần trên. Có nghĩa là ta có thể học hỏi lý luận trôi chảy (hoạt động của prefrontal cortex) mà không nhận ra những tình cảm tham, sân, si của ta phát ra từ hệ thống limbic. Ngược lại ta dùng sự hiểu biết của hệ thống prefrontal để ta phát triển sự sân hận: dùng trí khôn biện hộ, làm vũ khí độc hại hay dùng mưu lược chính trị xâm chiếm nước láng giềng.
    Từ khi hệ thống prefrontal cortex của loài người phát triển, họ tạo ra sự mất quần bình trên quả địa cầu. Nguyên do của sự phân chia lãnh thổ và xử dùng tài nguyên một cách bất cân xứng là hâu quả của sự phát triển của hệ thống này. Chỉ có loài người mới tạo ra chiến tranh vì mâu thuẫn với nhau. Hiện nay, họ giết lẫn nhau vì tranh giành tài nguyên ít hơn là vì mâu thuẫn tư tưởng. Mâu thuẫn không có ở bản năng. Bản năng tự nó có sẵn sự quân bình trong đó. Thí dụ loài thú chỉ đi săn khi nó đói và không giết các sinh vật khác nhiều hơn sự cần thiết của bao tử. Khi thức ăn hiếm thì sự sanh sản ít theo, chớ không phải như loài người sanh sản không nương theo nhu cầu cung cấp của thiên nhiên.
    Hệ thống paralimbic đóng vai trò rất quan trọng trong sự liên kết hai hệ thống limbic và prefrontal cortex kể trên, nó nối liền lý trí và tình cảm thuộc về bản năng. Hệ thống này có nền tảng vật chất, là nhóm tế bào thần kinh nằm phía sau vùng orbitofrontal cortex và có những đường thần kinh nối liền với hệ thống limbic. Nhờ hệ thống này mà ta có được sự nhận thức toàn diện khi tình cảm và hiểu biết được phối hợp một cách hài hòa. Cái giây phút phối hợp đó gọi là giác ngộ nhỏ, so với giác ngộ toàn diện của Phật. Khi ta không thiền định hoặc trải qua những khóa phân tích tâm lý thì hệ thống này không tích cực hoạt động. Khi ta khởi động nó thì ta sẽ có những giây phút trực hiểu thế giới một cách toàn diện (integrated and insightful knowledge), còn gọi là giác ngộ.
    (Quý đọc giả muốn tham khảo thêm về những hệ thống thần kinh này xin đọc: Mesulam MM, ed. 2000. Principles of Behavioral and Cognitive Neurology, 2nd ed. NewYork: Oxford University Press)
    Thái Minh Trung, M.D.
    Được dumb sửa chữa / chuyển vào 16:06 ngày 02/08/2009
  9. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Hiểu biết khoa học mới nhứt về tâm tĩnh lặng.
    Thái Minh Trung, M.D.
    Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng mặc dù con người sống trong xã hội tân tiến nhưng càng về sau này sự thỏa mãn trong cuộc sống giảm dần và mức độ căng thẳng (stress) càng lên cao. Tài chánh và thời gian rảnh rỗi hình như không có đi đôi với nhau. Muốn có tiền nhiều thì phải làm việc nhiều. Hơn nữa, xã hội liên tục tạo ra những sản phẩm mới để dụ dỗ người tiêu thụ. Ðến một mức độ nào đó, sự chênh lệch giữa cái cần và cái muốn càng ngày càng xa. Sự chênh lệch đó tạo ra stress. Có lẽ vì thế mà nghiên cứu trưng cầu dân ý gần đây cho thấy rằng số lượng người thỏa mãn với nghề nghiệp của mình càng ngày càng giảm. Ở lứa tuổi 35- 44, sự thỏa mãn với nghề nghiệp tụt từ 61% xuống 49%.
    Nhìn về phương diện đáp ứng cuộc sống, ngay từ nhỏ, con người có thói quen bắt chước. Bắt chước là một phản xạ tự nhiên để bảo tồn sự sống còn. Con khỉ con phải bắt chước con khỉ mẹ tránh những nguy hiểm, loại bỏ những thức ăn có độc tố trong đó, và tập nhận ra những con thú dữ. Khi ta nghe một tiếng nổ và thấy đám đông chạy về một hướng nào đó thì ta không cần suy nghĩ mà chạy theo, ta không cần biết hướng đó đúng hay sai. Dân gian qua sự quan sát nhiều thế hệ có câu tục ngữ nói về bắt chước là: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội tân tiến hiện đại, xã hội rất loạn động và khi ta (bắt chước) theo sự loạn động đó thì tâm ta bị loạn động theo. Loạn động tạo rất nhiều căng thẳng tinh thần.
    Hệ thống thần kinh loài người khác với loài thú. Ở loài người, vỏ não (cortex) phát triển rất nhiều. Vỏ não giúp cho ta suy nghĩ, phán xét và quyết định một cách khôn ngoan (executive function). Tuy nhiên cái tiêu cực của sự phát triển vỏ não là sự lo âu. Sợ hãi khác lo âu ở chỗ sợ hãi là một chuỗi phản ứng sinh lý giúp cơ thể chiến đấu hay bỏ chạy trước một hiểm nguy. Khi hoàn cảnh nguy hiểm qua rồi thì cơ thể dần dần trở lại sự bình thường. Hơi thở chậm lại, nhịp tim chậm lại và những bắp thịt thư giãn ra. Khi vỏ não phát triển thì con người bắt đầu biết suy nghĩ đến hoàn cảnh sợ hãi trong lúc không có hiểm nguy. Hệ thống thần kinh của chúng ta không có phân biệt được sự nguy hiểm do hoàn cảnh và sự nguy hiểm do ta suy nghĩ. Khi ta suy nghĩ về hoàn cảnh nguy hiểm thì tự nhiên tim ta sẽ đập nhanh hơn, ta có cảm giác hồi hộp như đang đối diện với hoàn cảnh thật sự vậy.
    Suy nghĩ thường dựng ra hai thái cực (splitting): không tốt thì phải xấu. Suy nghĩ ít chịu dừng ở chỗ có thể xấu và cũng có thể tốt hay không tốt cũng không xấu. Khi chia thái cực rồi thì não bộ ta mất khả năng nhìn sự thật. Nói một cách khác suy nghĩ tạo một ảo giác trong não bộ mà não bộ cho rằng cái ảo giác đó là sự thật. Nói một cách cho dễ hiểu là thí dụ ta đi trên con đường A và bị tai nạn nơi đó. Ta tin rằng con dường đó rất nguy hiểm và tìm đủ mọi cách tránh con đường đó. Ðó là cái thực tế của suy nghĩ lo âu chia ra thái cực xấu và tốt. Như thế suy nghĩ có khuynh hướng thấy phiến diện (reductionistic view) và khó có được sự cảm nhận toàn diện.
    Khi ta có suy nghĩ đó rồi thì những mạch thần kinh (neural circuits) liên kết con đường A với nguy hiểm được củng cố. Khi đó thì ta mất đi cái nhận thức rằng sự nguy hiểm đó không phải lúc nào cũng xảy ra. Ta quả quyết tin rằng con đường đó thật sự nguy hiểm. Nếu có người nào đó đi trên con đường đó mà không có gì xảy ra, họ nói với ta rằng con đường A không nguy hiểm, ta sẽ không tin họ và cho rằng họ là người nói láo hay có ý xấu muốn ám hại ta, xúi ta đi trên con đường nguy hiểm. Như thế do suy nghĩ gắng liền con đường A với nguy hiểm, ta dần dần mất đi khả năng nhận thức cái thực tế con đường A không nguy hiểm đối với người khác. Suy nghĩ có thể ngụy tạo cái mà nó cho là ?othực tế?. Ở thí dụ trên, suy nghĩ ngụy tạo cái ?othực tế? là người khuyên ta đi trở lại con đường A có ý xấu muốn ám hại ta. Nói tóm lại, ta chỉ thấy những gì ta muốn thấy và cho rằng đó là sự thật. Ða số mọi người không nhận thức được điều này vì thế mới xảy ra mâu thuẫn và chiến tranh.
    Những nghiên cứu thần kinh học và phân tâm học cho ta thấy rằng chức năng của võ não bộ (cortex) càng phát triển thì căng thẳng xảy ra càng nhiều. Căng thẳng xảy ra do sự xung đột của cái ?othực tế? vỏ não bộ cảm nhận và cái ?othực tế? thứ nhì của hệ thống limbic. Ðây là vùng não bộ liên quan đến bản năng và tình cảm. Khi suy nghĩ càng nhiều thì sự liên kết đối thoại giữa hai vùng não bộ này càng khó khăn. Hiện tượng này phân tâm học gọi là cơ chế kháng cự (defense mechanism). Thí dụ như biện hộ hay đổ thừa là một trong những cơ chế kháng cự. Khi ta biện hộ hay đổ thừa thì ta mất khả năng thấy được cái hiện trạng của tình cảm ta. Như thế trong não bộ ta không có sự liên kết giữa hai vùng vỏ não (lý trí) và vùng limbic (tình cảm). Hai vùng não này của ta hoạt động song song và tạo dựng hai ?othực tế? riêng rẽ.
    Một thí dụ cho dễ hiểu là ông B là người dễ giận sau khi bị tai nạn xe cộ nhưng ông ta không nhìn nhận cơn phẫn nộ của mình. Ông ta hay suy nghĩ (chức năng của cortex) để tìm những điểm xấu của những người lái xe cẩu thả làm ông ta giận. Ông ta lập bè đảng và cho rằng những người làm nghịch ý ông là ?okẻ thù? vì họ có nhiều hành vi và suy nghĩ không đúng. Ðó là cái ?othực tế? do võ não suy nghĩ vẽ ra. Vì thế khi lòng sân càng cao thì cái ảo tưởng (delusion) ?ođe dọa? của ?okẻ thù? càng mạnh. Cái ảo tưởng ?ođe dọa? này nuôi dưỡng lại (feedback) lòng sân hận. Ðó là cái vòng lẩn quẩn (vicious cycle) thật khó mà thoát ra. Càng suy nghĩ nhiều thì ông B lại càng tự khóa mình trong ảo tưởng của giận và hận thù. Càng suy nghĩ nhiều thì ông ta càng mất đi cái khả năng nhận ra sự thật khách quan. Ông ta quả quyết rằng cái cảm nhận chủ quan là sự thật. Cũng như người bị cận thị chưa có mang kiến cận thì quả quyết tin rằng cái thế giới mờ mờ là sự thật.
    Vì không có sự liên kết hài hòa giữa hai vùng não kể trên nên hệ thống thần kinh ta bị mất rất nhiều năng lượng. Có thể ví như ta ngồi trên xe ngựa có hai con ngựa kéo, mỗi con đi một hướng khác nhau. Sức hai con ngựa kéo thì nhiều nhưng xe ngựa thì không đi đâu xa được. Ðó là trạng thái của lo âu. Khi để những suy nghĩ lo âu làm chủ tâm hồn ta thì lúc đó ta không phải có hai con ngựa mà hàng trăm, hàng ngàn con kéo ta đi vô số chiều hướng khác nhau. Quý độc giả chắc ai cũng có, không ít thì nhiều, cái kinh nghiệm của lo âu làm ta căng thẳng, mất ngủ, mệt mỏi và hậu quả của lo âu làm ta mất sự chăm chú (concentration) và làm công việc ta mất hiệu quả rất nhiều. Trong lúc lo âu, ta có thể đọc một trang sách, đọc tới, đọc lui hoài mà không hiểu bao nhiêu. Nếu ta đang lo âu mà lái xe thì dễ vượt đèn đỏ hay đi lạc đường. Ðiều này muốn nói lên rằng trong lúc suy nghĩ lo âu hệ thống thần kinh ta mất sự liên kết hài hòa, phải dùng năng lượng rất nhiều (ta có cảm giác mệt mỏi) mà hiệu quả (chăm chú) thì rất thấp.
    Ðể tâm tĩnh lặng là một cách phối hợp vùng vỏ não và vùng limbic giúp cho hai vùng này làm việc chung với nhau một cách hài hòa (synchronization). Khi hai vùng này bị phân tách thì con người dễ sống ở thái cực hoặc là thích suy nghĩ trừu tượng (extreme rational) hay là thích những phép lạ mầu nhiệm (extreme irrational). Sản phẩm của sự phân cách này trên phương diên tôn giáo là cá nhân áp dụng những giáo điều một cách cứng rắn hay tự bắt buộc mình phải có lòng tin tuyệt đối, dễ đưa đến cuồng tín. Những phản ứng này sẽ tạo ra nhiều căng thẳng hơn vì nó dùng năng lượng thần kinh một cách không hiệu quả, dẫn đến sự rối răm (confusion). Khi để tâm tỉnh lặng thì vùng vỏ não và vùng limbic sẽ liên kết với nhau dễ dàng hơn và lúc đó cái cảm nhận sự thật sẽ hiện ra khác. Cái cảm nhận thực tại được các giáo chủ tôn giáo gọi là chân lý, có nghĩa là sự thật lúc nào cũng đúng.
    Tại sao để tâm tĩnh lặng thì giúp hai vùng não bộ hòa hợp với nhau? Khi suy nghĩ nhiều, ta vẽ ra những cái mà ta cho là thực tế. Con người có vô số suy nghĩ khác nhau vì vậy mà có vô số thực tế khác nhau. Kiến thức-sản phẩm của vỏ não- là một khu rừng rậm với vô số loài thảo mộc khác nhau. Càng đi sâu vào đó thì tâm ta càng dễ loạn động, thật khó mà phân biệt kiến thức nào là đúng hay sai. Càng suy nghĩ nhiều để hiểu thì ta càng bị rối trí, như đi lạc vào rừng mà không có địa bàn chỉ hướng đi. Rồi có một số người mong tìm được sự vững chắc, bám vào (cố chấp) một triết lý hay trường phái suy nghĩ hay tôn giáo nào đó và đả phá những người suy nghĩ khác mình. Khi tham được đúng, sân khi bị người khác không chấp nhận mình thì hệ thống limbic (tình cảm) bị khơi động. Khi hận thù kết hợp với những mê lầm của suy nghĩ biện hộ thì con người càng bị lún sâu vào cái thế giới ảo tưởng (delusion) của tự kỷ ám thị (self fulfilling prophecy). Danh từ Phật giáo gọi là vô minh (mất ánh sáng tỉnh thức).
    Những kiến thức là hình bóng của sự thật đã qua. Thí dụ: ?oCon đường A thật nguy hiểm.? Kiến thức và sự thật chỉ đúng (có nghĩa là hòa hợp/synchronize) ở một thời điểm nào đó. Nhưng nếu ta giữ cái hình bóng suy nghĩ quá khứ đó và phóng lên hiện tại và tương lai thì sự hòa hợp sẽ bị mất đi và kiến thức lúc này sẽ trở thành ảo tưởng (delusion). Khi ta lập đi lập lại cái ảo tưởng lo âu trong tâm, ta củng cố những mạch thần kinh liên quan đến sợ hãi trong quá khứ và mất đi khả năng tạo những mạch thần kinh hòa hợp với hiện tại. Lúc bây giờ ta khởi động nỗi lo sợ ở hệ thống limbic và nó lan tràn và lấn áp cái thực tại. Ta có thể nằm trong phòng với bốn bức tường thật an toàn nhưng lăn lộn ngủ không được vì những suy nghĩ lo âu đem những cảnh tượng kinh hãi của quá khứ vào phòng ngủ của ta. Stress xảy ra khi tâm và thân mất sự hòa hợp với hoàn cảnh hiện tại (căn phòng ngủ ấm cúng). Những căn bịnh tâm thần có thể xảy ra khi ta không làm chủ được dòng suy nghĩ lo âu.
    Khi để tâm tĩnh lặng ta không khơi động những suy nghĩ lo âu. Ta nhìn ra cái giá trị thật của chúng là ảo tưởng. Vì thế suy nghĩ hiện ra rồi biến mất. Lúc đó là lúc ta từ chối không cho tư tưởng của quá khứ liên kết với những mạch thần kinh của sợ hãi. Hệ thống limbic không bị khởi động, ta cảm thấy những bắp thịt thư giãn. Ta không lo âu nên sự chăm chú nhận ra hiện thực càng ngày càng mạnh (trí tuệ). Hệ thống vỏ não không tạo ra những ảo tưởng hay thành kiến nữa nên có thể lắng nghe (hay điều hòa) với hệ thống limbic. Sự điều hòa càng nhiều thì năng lượng thần kinh được dùng càng ít đi. Một sự nhẹ nhàng thật khó tả trải rộng ra trong tâm hồn. Ðó là cảm giác khi ta tập tâm tĩnh lặng. Khi đi sâu vào tâm tĩnh lặng, khi hòa hợp nhiều hơn với hệ thống limbic (thế giới của tình cảm và giấc mơ) thì ta sẽ có cảm nhận hòa hợp với nhân loại và vũ trụ. Lúc đó ta mới thấu hiểu được cái nghịch lý của: ?otrong một có tất cả?. Tâm tĩnh lặng có thể nói là chìa khóa mở cửa vào thế giới của sự hài hòa vui vẻ và hạnh phúc vững bền.
    Bác sĩ Thái Minh Trung
  10. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Sự khác biệt giữa tưởng tượng, hoang tưởng và giác ngộ
    Thái Minh Trung, M.D.
    Ðôi lúc trong cuộc sống ta rất khó phân biệt hư thực như thế nào. Nếu các bạn đọc Thánh kinh hay kinh Phật thì sẽ thấy trong lịch sử nhân loại có rất nhiều nhà tiên tri (prophet). Những nhà tiên tri này tiên đoán được sự xuất hiện của các thánh nhân trên quả địa cầu. Gần đây hơn thì ta có Nostradamus viết ra những bài thơ tiên đoán thời cuộc. Nhưng rồi nếu các bạn đi một vòng nhà thương điên thì sẽ gặp khá nhiều các ?onhà tiên tri? cho rằng mình là thánh tại thế và tiên đoán ngày tận thế. Những bịnh nhân này bị chứng tâm thần phân liệt (schizophrenia) hay tình cảm lưỡng cực (bipolar). Nếu bạn không khéo thì họ có thể thuyết phục được bạn đó. Có lẽ những nhà tiên tri lúc họ còn tại thế được cho là kẻ ?ođiên? vì những gì họ tiên đoán chưa hiện ra. Nhưng cũng có những kẻ điên được người ta theo và tôn thờ như vị giáo chủ (cult leader).
    Như thế, hư thật lẫn lộn với nhau. Làm sao mà ta biết được sự thật như thế nào? Một số người dựa trên kinh điển và tin tuyệt đối vào những gì họ hiểu được. Thí dụ như một số người Hồi giáo tin rằng những người Thiên chúa giáo là ngoại đạo cần bị thủ tiêu. Hay cũng có thể có người nào đó đọc kinh Phật hiểu rằng con người cần phải giữ giới không sát sanh, nên họ tìm cách phá hoại những phòng thí nghiệm giết thú vật để làm nghiên cứu khoa học. Những thí dụ đưa ra trên đây không phải để nói xấu tôn giáo mà chỉ để cho các bạn thấy rằng tín ngưỡng quá độ đôi khi cũng dẫn đến những hành động cực đoan. Nói một cách khác từ tín ngưỡng đi qua mê tín chỉ có một lằn gạch rất mỏng.
    Nếu chỉ dựa trên sự nhận xét qua lời nói thì những kẻ điên đôi khi cũng có những suy luận khá đúng dựa trên những hoang tưởng (delusion) của họ. Nếu ta nghe qua loa cũng có thể dễ bị thuyết phục. Như một số người bịnh tâm thần có hoang tưởng rằng họ bị những người hành tinh khác bắt cóc và bị bắt làm vật thí nghiệm trên dĩa bay, sau đó họ được thả ra nhưng có cảm tưởng rằng người hành tinh lạ theo dõi từng đường đi nước bước của họ. Hiện nay cũng có một số người còn tin vào dĩa bay và họ còn có những website riêng của họ để nuôi dưỡng cái hoang tưởng này. Rồi cũng có một số người không bịnh tâm thần cũng tin theo.
    Chỉ gần đây với sự phát triển của kỹ thuật chụp hình hoạt động của não bộ (fMRI, PET scan) kèm với não đồ EEG thì các nhà tâm lý học mới có cơ hội tìm hiểu về cách hoạt động của tâm lý và não bộ. Ðến bây giờ thì khoa học mới bắt đầu tìm ra những bí mật của não bộ. Nói tóm lại khi ta nghiên cứu sự hoạt động của não bộ kèm với những kỹ thuật phân tích tâm lý (psychoanalysis) thì ta có thể phân biệt được một phần nào hư với thực. Hiện giờ chưa có cách đơn thuần nào để có thể giúp ta phân biệt những sản phẩm của sự bịnh hoạn tâm thần và những sản phẩm của sự giác ngộ (enlightenment). Khi phân tích kho tàng văn chương thì ta thấy có nhiều nhà văn bị chứng bịnh trầm cảm hay tình cảm lưỡng cực, thậm chí tâm thần phân liệt. Họ vẫn có thể sáng tác những tác phẩm rất đặc sắc. Tóm lại, khoa học kết hợp tâm lý và hình não bộ này còn rất mới và sẽ còn nhiều cơ hội phát minh và phát triển trong tương lai.
    Ngày nay khoa học tìm ra được sự khác biệt đáng kể giữa bịnh tâm thần và những người có trực giác (intuition) do tâm tĩnh lặng là ở chỗ sự phối hợp của hai vùng não là vỏ não và hệ thống limbic. Khi ta tưởng tượng (imagination) thì nói chung hoạt động vỏ não ở thùy thái dương (temporal lobe) làm việc nhiều hơn. Nếu vùng này không kết hợp với vùng limbic thì cái thế giới của ta gần giống như những bức tranh siêu thực của Picasso. Ðó là những bức tranh mà những vị trí của những bộ phận trong cơ thể không gắng liền với nhau như trong thực tế. Con mắt có thể nằm ở vị trí lỗ tai chẳng hạn. Ta suy luận để đơn giản hóa thế giới trong tưởng tượng. Ta không có khả năng nhìn thấy cái trật tự toàn diện và không có khả năng kết hợp hài hòa những yếu tố tương phản trong cuộc sống. Ta dễ đi vào con đường thái cực của sự hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai. Khi không có liên kết với vùng limbic thì ta mất đi trực giác. Trực giác là cái địa bàn, không có nó thì ta mất định hướng trong cuộc sống
    Ngược lại, nếu hệ thống limbic làm việc quá độ (hyperactive) thì cường độ của tình cảm phát triển quá nhiều nên lấn át khả năng suy luận. Lúc đó dễ đưa đến sự điên loạn (psychosis). Thí dụ như lo âu (anxiety) trở thành đa nghi (paranoia). Người bị chứng đa nghi mất khả năng nhìn ra sự thật. Khi bịnh nặng thì họ có hoang tưởng, có nghĩa là họ mất khả năng suy luận. Họ mất khả năng so sánh những gì mình cảm nhận liên quan như thế nào với những diễn biển thật sự. Họ bóp méo những diễn biến đó theo cái cảm nhận của hoang tưởng. Thí dụ khi có ai nhìn họ thì họ tin rằng đó là cái nhìn căm thù hay soi mói chẳng hạn. Kỹ thuật nhồi sọ (brain wash) dựa trên những diễn biến này. Muốn áp dụng nhồi sọ thì ta tìm cách kềm chế khả năng suy luân của cá nhân, chỉ cho họ thấy có một hướng mà thôi. Cùng lúc, ta tìm cách khơi dậy những tình cảm lo sợ và căm thù. Khi suy luận bị áp chế và tình cảm tăng một cách mãnh liệt thì đó cũng là một cách nhân tạo sản xuất ra cuồng tín và hoang tưởng.
    Nói về tôn giáo, tin là một điều tốt. Nhưng nếu tin một cách mù quáng mà không đi kèm với suy luận hai chiều thì tin sẽ trở thành mê tín lúc nào mà ta không hay. Khi suy luận hai chiều, ta không cho ta hoàn toàn đúng và sẵn sàng cân nhắc những suy nghĩ của đối phương. Ta hiểu rằng hai tư tưởng khác nhau vẫn có thể tồn tại song song với nhau. Vì thế, suy luận hai chiều giúp ta mở mang được nhận thức và thông cảm đối tượng của ta. Mê tín sẽ dẫn đến cuồng tín. Ðến lúc đó thì tâm người cuồng tín bị bất an, lúc nào cũng nghi kỵ kẻ khác muốn ám hại tôn giáo mình. Họ nuôi dưỡng cái hoang tưởng đó và hoàn toàn mất khả năng suy luận hai chiều. Hiểu như thế, thì hành động tử đạo để bảo vệ niềm tin (thí dụ như tự thiêu) thật khác với hành động tử đạo bằng cách giết chết những người khác vì hoang tưởng mình được cứu độ.
    Trạng thái giác ngộ chỉ có được khi hai vùng não kể trên được kết hợp hài hòa. Kiến thức mà hiện thời khoa học có là do phân tích những sự kiện bên ngoài của vũ trụ. Não của loài người là một vũ trụ nhỏ phản ảnh cái vũ trụ lớn bên ngoài. Khi ta đi thám hiểm cái vũ trụ nhỏ này thì ta có khả năng thấu hiểu cái vũ trụ lớn bên ngoài một cách nhanh chóng hơn. Sự hoàn toàn thấu hiểu gọi là đại giác ngộ. Ðứng trên khía cạnh não bộ mà nói thì cái mà ta cho là ?otôi? chỉ là phần hoạt động giới hạn của vỏ não (cortex), còn cái phần hoạt động sâu rộng hơn của các hệ thống khác của não bộ, như điều hòa nhịp tim, điều hòa chức năng của các tế bào và cơ quan trong cơ thể thì ta không ý thức được. Nói một cách khác tuy nói thân thể này là ?otôi?, nhưng ta không nắm vững được tình hình hoạt động của cơ thể ta ở mức độ từng tế bào.
    Sự khó khăn ngàn đời của nhân loại là ta không thể dùng suy luận để đi vào tiểu vũ trụ của não bộ. Thế gian có hàng vạn chủ thuyết của các triết gia nhưng không có chủ thuyết nào đứng vững và tồn tại qua thời gian. Chủ thuyết chỉ là cái nhìn giới hạn chỉ đúng trong một hoàn cảnh hay thời điểm nào đó mà thôi và sau đó thì sẽ lỗi thời. Ta cũng không thể nhìn từng tế bào thần kinh dưới kính hiển vi để hiểu sự hoạt động của não. Ta có thể cắt xén con tim ra để tìm hiểu hệ thống tuần hoàn, nhưng khi ta cắt xén não ra thì ta không thấy cấu trúc cơ thể học gì (anatomical structures) giúp cho ta hiểu được sự hoạt động của não bộ. Ngoài ra càng suy nghĩ nhiều- võ não hoạt động nhiều- thì sự phối hợp hai vùng não bộ càng khó khăn. Nói một cách khác khi suy nghĩ nhiều thì ta tạo ra sóng b ở điện não đồ EEG. Sóng này không thích hợp cho sự phối họp 2 vùng não. Chỉ khi nào tâm ta tĩnh lặng thì mới đạt đến dạng sóng a hay d. Dạng sóng này mới giúp hai vùng não trên phối hợp được.
    Hiện nay chỉ có một số nhỏ những nhà tu hành phối hợp được một phần nào 2 vùng não này. Những kinh nghiệm của họ kể lại có những điểm giống như các bậc thánh nhân ghi lại trong kinh điển. Họ cảm thấy gắng liền và hòa mình với vũ trụ. Cùng lúc, cái cảm giác cá nhân riêng biệt bị mỏng dần. Sự nhận thức và thông cảm của họ rộng rãi hơn. Có thể nói nhận thức này là sự kết họp hài hòa của hiểu biết và trực giác. Khi quan sát hành vi của họ thì điểm khác biệt với người có hoang tưởng là họ không muốn lặp bè đảng. Họ có lòng vị tha và lúc nào cũng từ tốn không vỗ ngực vinh danh cá nhân mình. Trong lịch sử gần đây thì ta có gương của mẹ Theresa, thánh Gandhi và Khrisnamurti. Những nhân vật này tuy có tín ngưỡng khác nhau nhưng hành động nhân bản và lòng vị tha thương người thì không khác. Ta có thể nói họ là những vị đã ?ogiác ngộ?. Nói theo khoa học não bộ, họ đã thành công phối họp 2 vùng não bộ. Lúc đó thì cái khôn gắn liền với ngoan (wisdom).
    Bác sĩ Thái Minh Trung
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này