1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Phật Giáo, Khoa học và Giác Ngộ
    Sự khác biệt giữa tin, hiểu và thực hành
    Ða số người đợi đến tuổi trung niên khi cuộc sống mình có nhiều mất mát mới bắt đầu tìm hiểu tôn giáo. Một số lớn tìm hiểu tôn giáo để có một niềm an ủi cho những cái mất mát của mình. Họ hy vọng được sự cứu rỗi khi có niềm tin vào tôn giáo và nhóm hợp với những người cùng niềm tin với mình để củng cố lòng tin. Số ít hơn tìm hiểu tôn giáo như một môn học về tâm linh và họ học và so sánh lý thuyết tôn giáo. Những hiểu biết đó chỉ thuần về lý trí và lý thuyết. Những người này trở thành những diễn giả ăn nói trôi chảy diễn đạt và giải thích được tôn giáo như một môn học.
    Tuy niềm tin và sự học hỏi về tôn giáo rất tốt, đó chỉ là những bước đầu để ta có thể đi sâu hơn và tự khám phá đời sống tâm linh. Khi ta giậm chân tại chỗ ở niềm tin quá độ hay dừng trên lý thuyết để diễn bài tôn giáo thì một ngày nào đó ta sẽ bị thất vọng vì hai cái cực đoan trên không giúp ích gì cho ta mà trái lại còn gây nhiều phiền phức nửa. Thí dụ khi tin ta phải ?otrả nghiệp? thì lòng tin mù quáng đó khiến cho ta thụ động không thay đổi cuộc sống ta, khi bị bịnh không đi trị bịnh, phải chịu bịnh như vậy để ?omau hết nghiệp xấu?. Khi ta học thuyết luân hồi, ta quả quyết đó là chân lý và dùng hiểu biết ta đi tranh luận hơn thua với các nhóm tôn giáo khác không tin vào luân hồi. Ðiều này có thể gây ra sự thù hằn giữa các tôn giáo.
    Vì thế muốn thực hành đạo một cách đúng đắn, lòng tin và sự hiểu biết về đạo phải đi đôi với nhau. Lòng tin là cái năng lực thúc đẩy ta hành động. Nhưng nếu hành động đó không được soi sáng bởi sự hiểu biết thì hành động đó sẽ dễ dẫn đến địa ngục của sự cuồng tín thay gì đưa đến sự giải thoát. Sự hiểu biết tạo cho ta một hướng đi. Muốn hiểu biết một cách chín chắn thì ta phải có sự thăng bằng giữa lòng tin và sự nghi ngờ. Khi học đạo ta luôn phải đặt câu hỏi là lý thuyết này có thể áp dụng được trong đời sống hàng ngày của ta không? Ðạo Phật cho phép ta nghi ngờ và đặt câu hỏi. Chỉ khi đặt câu hỏi ta mới có thể khám phá ra sự thật trong chính ta.
    Tu phải đi đôi với hành
    Tu là tu sửa. Ta không thể nào làm một cuộc cách mạng khi không có hành động. Vì thế tu phải đi đôi với hành. Ở xã hội ta phải chịu cực đi làm mới có tiền nuôi thân và giúp gia đình. Thế giới tâm linh cũng không có khác gì. Ta phải chịu cực thực hiện những điều ta học hỏi được thì ta mới có nghị lực giúp ta thay đổi chính mình và sau đó giúp xã hội thay đổi. Cũng như khi ta làm quan lớn mà tham nhũng thì không thể nào dạy dân có cuộc sống tinh khiết được. Vì thế tu sửa là điều rất quan trọng trong quá trình tiến hóa tâm linh và sau đó ta làm gương giúp kẻ chung quanh ta tiến hóa theo ta. Khác với Ki Tô Giáo, Phật Giáo chủ trương ta phải tu tâm trước rồi mới giúp đời sau. Có lẻ vì thế mà lịch sử cho ta thấy rằng chưa hề có chiến tranh Phật giáo.
    Hiểu mà không hành dễ tạo cho ta cái cảm giác ngạo mạn hơn thua. Người học mà không hành sẽ có cái nhìn phiến diện vì họ có khuynh hướng tô điểm cho những gì họ học hỏi được là trên nhứt, là đúng nhứt. Người đời gọi là méo mó nghề nghiệp. Ông bác sĩ cho mình giỏi hơn ông kỹ sư vì mình trị được bịnh cho ông kỹ sư. Ngược lại, ông kỹ sư cho mình giỏi hơn ông bác sĩ vì không có mình làm ra những dụng cụ y khoa thì ông bác sĩ sẽ không hành nghề được. Trên thực tế con người cần nương nhau mà tồn tại. Không ai hơn ai, không có tôn giáo nào hay hơn tôn giáo kia. Tôn giáo được đặc ra để đáp ứng nhu cầu tâm linh của con người. Có người thích hợp tôn giáo này, người thích hợp tôn giáo kia. Ta không nên áp đặt tôn giáo mình lên kẻ khác.
    Hành đạo, thực hiện đạo trong đời sống hàng ngày giúp ta hiểu rõ được con người thật của ta. Khi ta học và hiểu được phải dẹp bỏ tham, sân, si thì ta tưởng như khi ta hiểu được điều này, tham, sân, si tự nó được dẹp. Sự thật không phải như vậy. Chỉ khi ta thực hành bố thí mà trong bụng còn cảm thấy hơi tiếc của thì lúc đó ta mới nhận thức được ta tuy hiểu mà ta vẫn còn lòng tham, còn lo âu khi rời của cải của ta. Chỉ khi nghe người khác chê hay nói xấu mình mà ta cảm thấy có sự buồn phiền nổi lên trong lòng thì ta chợt nhận ra cái sân của ta. Khi nhận ra sân nơi ta thì ta không còn đổi thừa là người nói xấu ta thật là vô duyên thất đức. Chỉ có khi thực hành ta mới nhận rõ tham, sân, si nơi chính ta và từ đó ta cố gắng tự trị lấy bịnh của mình mà không còn đổi thừa hoàn cảnh bên ngoài để tự biện hộ cho ta nửa.
    Tu hành là trở về sự toàn thể
    Sở dĩ ta đau khổ là ta tự ngắt bẻ mình ra ngàn phần. Phần chính được gọi là ngã và phần bị mất gọi là ngã sở. Một thí dụ cho dễ hiểu là tình yêu lứa đôi. Khi còn nhỏ thì đứa bé cảm thấy tương đối đầy đủ, không có cảm giác nhớ nhung và đau khổ của kẻ thất tình. Nhưng khi vào tuổi dậy thì, khi biết yêu thì tâm hồn nó bị phân chia ra và nó cảm thấy không đầy đủ nửa mà phải tìm người yêu khác phái để lấy về sự đầy đủ ban đầu. Cái ngã ?otôi yêu? và ngã sở ?ongười tôi yêu? bắt đầu phân chia rõ rệt. Người thanh niên thiếu nữ cần đem cái ngả sở -người yêu- về cho mình thì mới gọi được là hạnh phúc, có nghĩa là trở về sự toàn vẹn ban đầu. Khi không được tình yêu thì tâm hồn người thanh niên, thiếu nữ cảm thấy như bị cắt xén, thiếu hụt, và cô đơn. Vì thế thất tình có thể dẫn đến sự tuyệt vọng và tự tử.
    Sân là phản ứng ta có khi ta bị từ chối. Bị từ chối làm ta cảm thấy mất sự đầy đủ trong tâm hồn. Ta sân khi món đồ ta thích hay người ta yêu bị lấy mất. Sự mất mát hay tình yêu bị từ chối hoặc cướp mất làm ta cảm thấy ta không toàn vẹn nửa. Tột điểm của sân là diệt bỏ người đe dọa sự toàn vẹn của ta để ta có thể trở về sự đầy đủ ban đầu. Buồn hay mặc cảm tự ti là mặt trái của sân khi đối tượng ta có nhiều quyền uy hơn ta, vì lý do nào đó ta không diệt trừ người đó được (thí dụ như ta đang cần người đó). Ta phải miễn cưỡng trở thành kẻ yếu để xin vào vòng chấp nhận và được bảo vệ, để ta có thể trở lại sự đầy đủ.
    Nguồn gốc của vô minh do con người từ vô thủy đã tự đánh mất mình trong cõi vật chất vô thường. Con người dùng xác thịt làm phượng tiện sanh ra xác thịt, họ đi lạc vào vô số xác thân và muốn chiếm giữ những xác thân để mong tìm lại những phần bị đánh mất của chính mình. Càng qua nhiều chu kỳ sanh tử thì sự mờ tối trong tâm càng nhiều hơn để dần dần họ quên hẳn con đường trở về sự đầy đủ ban đầu. Một trong những lối trở về là tình yêu nói chung. Khi cha mẹ thương yêu con cái thì tạo cho con cái mình cảm giác đầy đủ trong tâm hồn. Nhưng rồi nếu ta bám vào xác thân cha mẹ thì khi cha mẹ chết ta sẽ bị cắt xén cô đơn khôn tả. Chính vì thế những tôn giáo cứu rỗi ra đời (Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo hay phái Tịnh Ðộ của Phật Giáo) đem đến cái hy vọng trở về sự đấy đủ của tâm hồn khi tín đồ được chấp nhận vào thiên đàng hay cõi tịnh độ.
    Con đường trở về trong hiên tại: giác ngộ
    Bát nhã là con đường tắt trở về sự đầy đủ của Chân tánh trong đời sống hiện tại. Không phải ai cũng đi được con đường này. Qua kinh Bát Nhã, Phật dạy ta không nên nương tựa trên vật chất mà cũng không nên nương tựa trên kiến thức để nhìn ra sự đầy đủ nơi ta (chân tánh). Người thế gian thường dựa trên nguyên tắc nhị nguyên để vào đạo. Bỏ cõi giới sắc về cõi giới tâm thì dễ hiểu, bỏ kiến thức bon chen của đời để học kiến thức xuất thế gian của đạo là điều dễ hiểu. Nhưng nếu Phật dạy không nên nương tựa lên đời lẩn đạo để vào Chân tánh thì thật khó hiểu. Rồi Phật lại nói sắc tức là không, không tức là sắc, là một điều ta dùng lý trí gượng ép mà giải thích chớ không thể nào hiểu được cái tận cùng rốt ráo của lời Phật dạy.
    Khi Phật sắp nhập Niết bàn, Phật dơ cành hoa sen lên mà không nói một lời, đại chúng ngớ ngẩn nhìn nhau thắc mắc, chỉ có ngài Ca Diếp chúm chím cười. Phật chọn Ngài làm người thừa kế. Khi đọc lịch sử thiền tông, ta thấy có nhiều điều kỳ quái như khi có học trò hỏi về đại ý Phật pháp thì sư tổ hét lên mà không trả lời hay dựng cây phất tử (chổi) lên trong im lặng, vậy mà có người lại ngộ đạo và liền đó quỳ lại cám ơn sư tổ. Người đệ tử này đã giác ngộ. Giác ngộ là sự liên ứng với chân tánh không qua suy nghĩ lý luận. Nhiều học giả không thích lý Bát Nhã hay thiền tông vì cách truyền dạy này không có phương pháp và không ai giải thích được một cách tường tận.
    Con đường tức thời vào Chân tánh rất trơn trợt. Vừa khởi một ý nghĩ để hiểu là ta bị té rồi. Ta không thể dùng lý trí để lý giải được đạo (con đường) Bát Nhã. Muốn đi trên con đường này, hành giả phải tự cởi trói những gì đã học hỏi được. Ðây là con đường giải thoát tâm linh chớ không phải hiểu biết lý giải danh từ giải thoát. Khi dừng mọi tư tưởng, tâm hành giả biến thành bầu trời trong suốt và hành giả là sự liên ứng của Chân tánh. Sự ứng hiện từ không mà có và chính cái hiện tượng ứng hiện tức thời đó chưa từng rời cái tịch lặng sáng suốt. Bây giờ hành giả mới nhận ra rằng sự đầy đủ thật sự không phải do tích chứa mà có. Thưỏ xưa Ngài Ca Diếp mỉm cười vẫn còn là hiện tại. Nụ cười thật đẹp đó ngay nơi đóa hoa Ðức Phật đưa lên và nụ cười chính là đóa hoa sen. Phật, hoa sen và Ca Diếp đồng thời hiện ra và phản chiếu trong nhau. Ca Diếp vừa không phải là Phật mà vừa là Phật chính nơi lúc đó. Cái thực trạng tức thời đó thật khó diễn bày qua chữ nghĩa.
    Phân tâm học và Bát Nhã
    Theo phân tâm học, ta đau khổ do ta phân liệt (split) tâm ta một cách tự động mà ta không ý thức được. Chính sự phân liệt đó duy trì ngã và ngã sở. Sự phân liệt đó xuất hiện ở nhiều dạng khác nhau. Cái cảm nhận sự thật liên hệ rất nhiều tình trạng phân liệt đó. Một trong những cách phân liệt là hiện tượng phóng tâm (projection) mà dân gian gọi là đổ thừa. Ta đổ thừa người này vô duyên nói những lời chọc ta giận, ta đổ thừa người kia dụ dỗ và lường gạt ta. Ðó là sự thật không chối cãi mà ta cảm nhận được. Qua những lần phân tích tâm lý thì sự phóng tâm ít dần đi. Khi ta ít giận hơn, ít ham muốn hơn thì ta cảm thấy cùng một lời nói đó mà bây giờ ta có thể bỏ qua được. Ta có cảm tưởng như lời nói đó không còn quan trọng nửa. Nói theo nhà Phật thì lúc trước ta còn vô minh (không hiểu rõ chính mình) cái ngã ta còn lớn nên bị cái thế giới ngã sở làm ta điên đảo. Khi ta hiểu biết ta hơn thì chấp ngã mỏng dần và ta bớt lệ thuộc vào cái ngã sở. Nói một cách khác, cái thế giới quan thay đổi theo sự nhận thức của ta.
    Cái tột đỉnh của sự tu hành diệt khổ là ta tập nhận thức sự phân liệt của tâm ta (vọng tưởng) và dần dần trở về cái tâm nhận thức không suy nghĩ của ta (chân tâm). Phân tâm học cho ta biết rằng khi ta càng suy nghĩ nhiều thì ta càng đi lạc vào những cảnh giới của phân liệt. Thí dụ như ta theo những tư tưởng trả thù ghét bỏ người nói xấu ta. Ta dùng những suy nghĩ lý luận biện hộ phần đúng về ta. Càng suy nghĩ nhiều, cái cảm tưởng người đó xấu càng in sâu đậm vào tâm thức ta. Diều đó khiến cho ta thật khó mà nhận ra chính lòng bực tức của ta vẻ ra cái cảnh đó. Khi ta thấy người đó hoàn toàn xấu rồi thì dù ta có học đạo cách mấy cũng vẫn không thể tha thứ người đó được.
    Khi ta dẹp bỏ được tất cả những thế giới ngoại cảnh do tâm phân liệt của ta vẽ ra thì ta trở về với con người nhận thức đầy đủ của ta. Tu hành rất đơn giản nếu ta chịu khó nhìn chính mình và rất phức tạp nếu ta không chịu thay đổi mình mà cứ muốn thay đổi người khác. ?oCây muốn lặng mà gió chẳng dừng?: khi hành đạo ta biết không làm gió dừng được nhưng có thể làm tâm ta dừng được. Khi tâm ta dừng rồi thì gió bên ngoài sẽ dừng theo. Ðiều này ta chỉ có thể thể nghiệm chớ không lý luận ra được. Có lẻ Phật muốn cho ta nhận ra điều này nên vào phút cuối cuộc đời, Phật dạy: Trong 49 năm thuyết pháp, Như Lai chưa từng nói một lời. Khi tâm ta bám vào cái đúng của pháp Phật, sớm muộn gì nếu không tạo bão táp thì ta cũng tạo gió tranh chấp.
    Thần kinh học và Bát Nhã
    Những nghiêng cứu gần đây cho ta biết não bộ của ta phản ứng với hoàn cảnh bên ngoài qua 3 hệ thống thần kinh (neural systems) ảnh hưởng qua lại với nhau: hệ thống thần kinh limbic, hệ thống prefrontal cortex, và hệ thống paralimbic. Hệ thống limbic là phần não bộ cũ kỹ nhứt liên hệ đến bản năng và tình cảm ban sơ (sợ, ham muốn, giận dữ), hệ thống prefrontal cortex phát triển gần đây hơn trên quá trình tiến hóa của loài người, liên hệ đến suy nghĩ, tính toán, và chiến lược. Ở những người không tu tập, hai hệ thống này làm việc song song mà không liên lạc với nhau, sanh ra hiện tượng phân liệt tâm mà phân tâm học nghiên cứu ở phần trên. Có nghĩa là ta có thể học hỏi lý luận trôi chảy (hoạt động của prefrontal cortex) mà không nhận ra những tình cảm tham, sân, si của ta phát ra từ hệ thống limbic. Ngược lại ta dùng sự hiểu biết của hệ thống prefrontal để ta phát triển sự sân hận: dùng trí khôn biện hộ, làm vũ khí độc hại hay dùng mưu lược chính trị xâm chiếm nước láng giềng.
    Từ khi hệ thống prefrontal cortex của loài người phát triển, họ tạo ra sự mất quần bình trên quả địa cầu. Nguyên do của sự phân chia lãnh thổ và xử dùng tài nguyên một cách bất cân xứng là hâu quả của sự phát triển của hệ thống này. Chỉ có loài người mới tạo ra chiến tranh vì mâu thuẫn với nhau. Hiện nay, họ giết lẫn nhau vì tranh giành tài nguyên ít hơn là vì mâu thuẫn tư tưởng. Mâu thuẫn không có ở bản năng. Bản năng tự nó có sẵn sự quân bình trong đó. Thí dụ loài thú chỉ đi săn khi nó đói và không giết các sinh vật khác nhiều hơn sự cần thiết của bao tử. Khi thức ăn hiếm thì sự sanh sản ít theo, chớ không phải như loài người sanh sản không nương theo nhu cầu cung cấp của thiên nhiên.
    Hệ thống paralimbic đóng vai trò rất quan trọng trong sự liên kết hai hệ thống limbic và prefrontal cortex kể trên, nó nối liền lý trí và tình cảm thuộc về bản năng. Hệ thống này có nền tảng vật chất, là nhóm tế bào thần kinh nằm phía sau vùng orbitofrontal cortex và có những đường thần kinh nối liền với hệ thống limbic. Nhờ hệ thống này mà ta có được sự nhận thức toàn diện khi tình cảm và hiểu biết được phối hợp một cách hài hòa. Cái giây phút phối hợp đó gọi là giác ngộ nhỏ, so với giác ngộ toàn diện của Phật. Khi ta không thiền định hoặc trải qua những khóa phân tích tâm lý thì hệ thống này không tích cực hoạt động. Khi ta khởi động nó thì ta sẽ có những giây phút trực hiểu thế giới một cách toàn diện (integrated and insightful knowledge), còn gọi là giác ngộ.
    (Quý đọc giả muốn tham khảo thêm về những hệ thống thần kinh này xin đọc: Mesulam MM, ed. 2000. Principles of Behavioral and Cognitive Neurology, 2nd ed. NewYork: Oxford University Press)
    Thái Minh Trung, M.D.
  2. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Hiểu biết khoa học mới nhứt về tâm tĩnh lặng.
    Thái Minh Trung, M.D.
    Những nghiên cứu gần đây cho thấy rằng mặc dù con người sống trong xã hội tân tiến nhưng càng về sau này sự thỏa mãn trong cuộc sống giảm dần và mức độ căng thẳng (stress) càng lên cao. Tài chánh và thời gian rảnh rỗi hình như không có đi đôi với nhau. Muốn có tiền nhiều thì phải làm việc nhiều. Hơn nữa, xã hội liên tục tạo ra những sản phẩm mới để dụ dỗ người tiêu thụ. Ðến một mức độ nào đó, sự chênh lệch giữa cái cần và cái muốn càng ngày càng xa. Sự chênh lệch đó tạo ra stress. Có lẽ vì thế mà nghiên cứu trưng cầu dân ý gần đây cho thấy rằng số lượng người thỏa mãn với nghề nghiệp của mình càng ngày càng giảm. Ở lứa tuổi 35- 44, sự thỏa mãn với nghề nghiệp tụt từ 61% xuống 49%.
    Nhìn về phương diện đáp ứng cuộc sống, ngay từ nhỏ, con người có thói quen bắt chước. Bắt chước là một phản xạ tự nhiên để bảo tồn sự sống còn. Con khỉ con phải bắt chước con khỉ mẹ tránh những nguy hiểm, loại bỏ những thức ăn có độc tố trong đó, và tập nhận ra những con thú dữ. Khi ta nghe một tiếng nổ và thấy đám đông chạy về một hướng nào đó thì ta không cần suy nghĩ mà chạy theo, ta không cần biết hướng đó đúng hay sai. Dân gian qua sự quan sát nhiều thế hệ có câu tục ngữ nói về bắt chước là: gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh xã hội tân tiến hiện đại, xã hội rất loạn động và khi ta (bắt chước) theo sự loạn động đó thì tâm ta bị loạn động theo. Loạn động tạo rất nhiều căng thẳng tinh thần.
    Hệ thống thần kinh loài người khác với loài thú. Ở loài người, vỏ não (cortex) phát triển rất nhiều. Vỏ não giúp cho ta suy nghĩ, phán xét và quyết định một cách khôn ngoan (executive function). Tuy nhiên cái tiêu cực của sự phát triển vỏ não là sự lo âu. Sợ hãi khác lo âu ở chỗ sợ hãi là một chuỗi phản ứng sinh lý giúp cơ thể chiến đấu hay bỏ chạy trước một hiểm nguy. Khi hoàn cảnh nguy hiểm qua rồi thì cơ thể dần dần trở lại sự bình thường. Hơi thở chậm lại, nhịp tim chậm lại và những bắp thịt thư giãn ra. Khi vỏ não phát triển thì con người bắt đầu biết suy nghĩ đến hoàn cảnh sợ hãi trong lúc không có hiểm nguy. Hệ thống thần kinh của chúng ta không có phân biệt được sự nguy hiểm do hoàn cảnh và sự nguy hiểm do ta suy nghĩ. Khi ta suy nghĩ về hoàn cảnh nguy hiểm thì tự nhiên tim ta sẽ đập nhanh hơn, ta có cảm giác hồi hộp như đang đối diện với hoàn cảnh thật sự vậy.
    Suy nghĩ thường dựng ra hai thái cực (splitting): không tốt thì phải xấu. Suy nghĩ ít chịu dừng ở chỗ có thể xấu và cũng có thể tốt hay không tốt cũng không xấu. Khi chia thái cực rồi thì não bộ ta mất khả năng nhìn sự thật. Nói một cách khác suy nghĩ tạo một ảo giác trong não bộ mà não bộ cho rằng cái ảo giác đó là sự thật. Nói một cách cho dễ hiểu là thí dụ ta đi trên con đường A và bị tai nạn nơi đó. Ta tin rằng con dường đó rất nguy hiểm và tìm đủ mọi cách tránh con đường đó. Ðó là cái thực tế của suy nghĩ lo âu chia ra thái cực xấu và tốt. Như thế suy nghĩ có khuynh hướng thấy phiến diện (reductionistic view) và khó có được sự cảm nhận toàn diện.
    Khi ta có suy nghĩ đó rồi thì những mạch thần kinh (neural circuits) liên kết con đường A với nguy hiểm được củng cố. Khi đó thì ta mất đi cái nhận thức rằng sự nguy hiểm đó không phải lúc nào cũng xảy ra. Ta quả quyết tin rằng con đường đó thật sự nguy hiểm. Nếu có người nào đó đi trên con đường đó mà không có gì xảy ra, họ nói với ta rằng con đường A không nguy hiểm, ta sẽ không tin họ và cho rằng họ là người nói láo hay có ý xấu muốn ám hại ta, xúi ta đi trên con đường nguy hiểm. Như thế do suy nghĩ gắng liền con đường A với nguy hiểm, ta dần dần mất đi khả năng nhận thức cái thực tế con đường A không nguy hiểm đối với người khác. Suy nghĩ có thể ngụy tạo cái mà nó cho là ?othực tế?. Ở thí dụ trên, suy nghĩ ngụy tạo cái ?othực tế? là người khuyên ta đi trở lại con đường A có ý xấu muốn ám hại ta. Nói tóm lại, ta chỉ thấy những gì ta muốn thấy và cho rằng đó là sự thật. Ða số mọi người không nhận thức được điều này vì thế mới xảy ra mâu thuẫn và chiến tranh.
    Những nghiên cứu thần kinh học và phân tâm học cho ta thấy rằng chức năng của võ não bộ (cortex) càng phát triển thì căng thẳng xảy ra càng nhiều. Căng thẳng xảy ra do sự xung đột của cái ?othực tế? vỏ não bộ cảm nhận và cái ?othực tế? thứ nhì của hệ thống limbic. Ðây là vùng não bộ liên quan đến bản năng và tình cảm. Khi suy nghĩ càng nhiều thì sự liên kết đối thoại giữa hai vùng não bộ này càng khó khăn. Hiện tượng này phân tâm học gọi là cơ chế kháng cự (defense mechanism). Thí dụ như biện hộ hay đổ thừa là một trong những cơ chế kháng cự. Khi ta biện hộ hay đổ thừa thì ta mất khả năng thấy được cái hiện trạng của tình cảm ta. Như thế trong não bộ ta không có sự liên kết giữa hai vùng vỏ não (lý trí) và vùng limbic (tình cảm). Hai vùng não này của ta hoạt động song song và tạo dựng hai ?othực tế? riêng rẽ.
    Một thí dụ cho dễ hiểu là ông B là người dễ giận sau khi bị tai nạn xe cộ nhưng ông ta không nhìn nhận cơn phẫn nộ của mình. Ông ta hay suy nghĩ (chức năng của cortex) để tìm những điểm xấu của những người lái xe cẩu thả làm ông ta giận. Ông ta lập bè đảng và cho rằng những người làm nghịch ý ông là ?okẻ thù? vì họ có nhiều hành vi và suy nghĩ không đúng. Ðó là cái ?othực tế? do võ não suy nghĩ vẽ ra. Vì thế khi lòng sân càng cao thì cái ảo tưởng (delusion) ?ođe dọa? của ?okẻ thù? càng mạnh. Cái ảo tưởng ?ođe dọa? này nuôi dưỡng lại (feedback) lòng sân hận. Ðó là cái vòng lẩn quẩn (vicious cycle) thật khó mà thoát ra. Càng suy nghĩ nhiều thì ông B lại càng tự khóa mình trong ảo tưởng của giận và hận thù. Càng suy nghĩ nhiều thì ông ta càng mất đi cái khả năng nhận ra sự thật khách quan. Ông ta quả quyết rằng cái cảm nhận chủ quan là sự thật. Cũng như người bị cận thị chưa có mang kiến cận thì quả quyết tin rằng cái thế giới mờ mờ là sự thật.
    Vì không có sự liên kết hài hòa giữa hai vùng não kể trên nên hệ thống thần kinh ta bị mất rất nhiều năng lượng. Có thể ví như ta ngồi trên xe ngựa có hai con ngựa kéo, mỗi con đi một hướng khác nhau. Sức hai con ngựa kéo thì nhiều nhưng xe ngựa thì không đi đâu xa được. Ðó là trạng thái của lo âu. Khi để những suy nghĩ lo âu làm chủ tâm hồn ta thì lúc đó ta không phải có hai con ngựa mà hàng trăm, hàng ngàn con kéo ta đi vô số chiều hướng khác nhau. Quý độc giả chắc ai cũng có, không ít thì nhiều, cái kinh nghiệm của lo âu làm ta căng thẳng, mất ngủ, mệt mỏi và hậu quả của lo âu làm ta mất sự chăm chú (concentration) và làm công việc ta mất hiệu quả rất nhiều. Trong lúc lo âu, ta có thể đọc một trang sách, đọc tới, đọc lui hoài mà không hiểu bao nhiêu. Nếu ta đang lo âu mà lái xe thì dễ vượt đèn đỏ hay đi lạc đường. Ðiều này muốn nói lên rằng trong lúc suy nghĩ lo âu hệ thống thần kinh ta mất sự liên kết hài hòa, phải dùng năng lượng rất nhiều (ta có cảm giác mệt mỏi) mà hiệu quả (chăm chú) thì rất thấp.
    Ðể tâm tĩnh lặng là một cách phối hợp vùng vỏ não và vùng limbic giúp cho hai vùng này làm việc chung với nhau một cách hài hòa (synchronization). Khi hai vùng này bị phân tách thì con người dễ sống ở thái cực hoặc là thích suy nghĩ trừu tượng (extreme rational) hay là thích những phép lạ mầu nhiệm (extreme irrational). Sản phẩm của sự phân cách này trên phương diên tôn giáo là cá nhân áp dụng những giáo điều một cách cứng rắn hay tự bắt buộc mình phải có lòng tin tuyệt đối, dễ đưa đến cuồng tín. Những phản ứng này sẽ tạo ra nhiều căng thẳng hơn vì nó dùng năng lượng thần kinh một cách không hiệu quả, dẫn đến sự rối răm (confusion). Khi để tâm tỉnh lặng thì vùng vỏ não và vùng limbic sẽ liên kết với nhau dễ dàng hơn và lúc đó cái cảm nhận sự thật sẽ hiện ra khác. Cái cảm nhận thực tại được các giáo chủ tôn giáo gọi là chân lý, có nghĩa là sự thật lúc nào cũng đúng.
    Tại sao để tâm tĩnh lặng thì giúp hai vùng não bộ hòa hợp với nhau? Khi suy nghĩ nhiều, ta vẽ ra những cái mà ta cho là thực tế. Con người có vô số suy nghĩ khác nhau vì vậy mà có vô số thực tế khác nhau. Kiến thức-sản phẩm của vỏ não- là một khu rừng rậm với vô số loài thảo mộc khác nhau. Càng đi sâu vào đó thì tâm ta càng dễ loạn động, thật khó mà phân biệt kiến thức nào là đúng hay sai. Càng suy nghĩ nhiều để hiểu thì ta càng bị rối trí, như đi lạc vào rừng mà không có địa bàn chỉ hướng đi. Rồi có một số người mong tìm được sự vững chắc, bám vào (cố chấp) một triết lý hay trường phái suy nghĩ hay tôn giáo nào đó và đả phá những người suy nghĩ khác mình. Khi tham được đúng, sân khi bị người khác không chấp nhận mình thì hệ thống limbic (tình cảm) bị khơi động. Khi hận thù kết hợp với những mê lầm của suy nghĩ biện hộ thì con người càng bị lún sâu vào cái thế giới ảo tưởng (delusion) của tự kỷ ám thị (self fulfilling prophecy). Danh từ Phật giáo gọi là vô minh (mất ánh sáng tỉnh thức).
    Những kiến thức là hình bóng của sự thật đã qua. Thí dụ: ?oCon đường A thật nguy hiểm.? Kiến thức và sự thật chỉ đúng (có nghĩa là hòa hợp/synchronize) ở một thời điểm nào đó. Nhưng nếu ta giữ cái hình bóng suy nghĩ quá khứ đó và phóng lên hiện tại và tương lai thì sự hòa hợp sẽ bị mất đi và kiến thức lúc này sẽ trở thành ảo tưởng (delusion). Khi ta lập đi lập lại cái ảo tưởng lo âu trong tâm, ta củng cố những mạch thần kinh liên quan đến sợ hãi trong quá khứ và mất đi khả năng tạo những mạch thần kinh hòa hợp với hiện tại. Lúc bây giờ ta khởi động nỗi lo sợ ở hệ thống limbic và nó lan tràn và lấn áp cái thực tại. Ta có thể nằm trong phòng với bốn bức tường thật an toàn nhưng lăn lộn ngủ không được vì những suy nghĩ lo âu đem những cảnh tượng kinh hãi của quá khứ vào phòng ngủ của ta. Stress xảy ra khi tâm và thân mất sự hòa hợp với hoàn cảnh hiện tại (căn phòng ngủ ấm cúng). Những căn bịnh tâm thần có thể xảy ra khi ta không làm chủ được dòng suy nghĩ lo âu.
    Khi để tâm tĩnh lặng ta không khơi động những suy nghĩ lo âu. Ta nhìn ra cái giá trị thật của chúng là ảo tưởng. Vì thế suy nghĩ hiện ra rồi biến mất. Lúc đó là lúc ta từ chối không cho tư tưởng của quá khứ liên kết với những mạch thần kinh của sợ hãi. Hệ thống limbic không bị khởi động, ta cảm thấy những bắp thịt thư giãn. Ta không lo âu nên sự chăm chú nhận ra hiện thực càng ngày càng mạnh (trí tuệ). Hệ thống vỏ não không tạo ra những ảo tưởng hay thành kiến nữa nên có thể lắng nghe (hay điều hòa) với hệ thống limbic. Sự điều hòa càng nhiều thì năng lượng thần kinh được dùng càng ít đi. Một sự nhẹ nhàng thật khó tả trải rộng ra trong tâm hồn. Ðó là cảm giác khi ta tập tâm tĩnh lặng. Khi đi sâu vào tâm tĩnh lặng, khi hòa hợp nhiều hơn với hệ thống limbic (thế giới của tình cảm và giấc mơ) thì ta sẽ có cảm nhận hòa hợp với nhân loại và vũ trụ. Lúc đó ta mới thấu hiểu được cái nghịch lý của: ?otrong một có tất cả?. Tâm tĩnh lặng có thể nói là chìa khóa mở cửa vào thế giới của sự hài hòa vui vẻ và hạnh phúc vững bền.
    Bác sĩ Thái Minh Trung
  3. truanang

    truanang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/09/2007
    Bài viết:
    907
    Đã được thích:
    0
    Hay thật .Nhưng ko biết có đúng ko nhi? ? .Tác gia? ghép các khái niệm trong chưfa trị tây phương va?o khái niệm phật giáo đông phương . Chi? sợ có sự gượng ép xa?y ra , khi ma? ko chắc chắn giưfa các hiện tượng bă?ng máy đo vật lý va? các mô ta? ca?m giác cu?a con ngươ?i có sự liên hệ trực tiếp với nhau .
  4. chiaki_co_len06

    chiaki_co_len06 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    19/11/2006
    Bài viết:
    2.219
    Đã được thích:
    0
    Học nhiều có thể được xem là suy nghĩ nhiều không? Thu nạp quá nhiều kiến thức như cách mà nền giáo dục đang làm liệu có khiến quá trình liên hệ giữa 2 phần não bị suy giảm hay không?
    Phật khuyên hãy thật tĩnh lặng, nhưng giáo dục dường như khuyên điều ngược lại....
    Được chiaki_co_len06 sửa chữa / chuyển vào 04:07 ngày 03/08/2009
  5. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    đương nhiên học là suy nghĩ rồi. không học cũng như suy nghĩ thì chúng ta phí phạm cái tạo hoá ban riêng cho chúng ta. nhưng vấn đề là cân bằng giữa suy nghĩ và thực hành, suy nghĩ và nghỉ ngơi, để chũng ta thực sự được sống một cách lành mạnh nhất.
  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    tác giả là bác sĩ tâm thần và các kết luận được đưa ra dựa trên các quan sát và kết luận mang tính khoa học.
  7. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2

    Còn đây là bài liên quan đến vô thức và hệ limbic, mời các bạn tham khảo
    =================================================================
    Giá trị đích thực của giác quan thứ sáu
    08/08/2009 17:14 (GMT +7)
    ?oTôi có năng lực, dạng như giác quan thứ sáu phi thường? ?" ngài Paul Dryson, Bộ trưởng Bộ Khoa học thuộc nội các của Thủ tướng vương quốc Anh Gordon Brown, khẳng định.
    Vị doanh nhân và cũng đồng thời là tỷ phú này đã tuyên bố trong bài trả lời phỏng vấn dành cho tờ ?oSunday Times? rằng, bằng linh cảm tuyệt vời ông đã nhiều lần tiên đoán chính xác các sự kiện diễn ra trong tương lai.
    Không ít nghệ sĩ, các doanh nhân, các nhà chính trị, những tướng lĩnh quân đội và vận động viên thể thao đã nói về khoảnh khắc lóe sáng kỳ lạ.
    Tuy nhiên linh tính cũng không hiếm khi làm chúng ta điêu đứng. Công nương Diana đã tự chiêm nghiệm một cách bi thảm về điều này. Tại một trong những bài trả lời phỏng vấn báo chí cuối cùng Diana từng khẳng định: ?oKhông ai có thể chỉ bảo tôi phải làm gì. Tôi dựa vào linh tính và linh tính là cố vấn tốt nhất của tôi?. Liệu thực tế linh tính có phải là quà tặng tuyệt vời của Thượng đế ban tặng cho chúng ta, đúng như lời của thiên tài âm nhạc Mozart?
    Không ít sếp các tập đoàn công nghiệp lớn khẳng định rằng, bản thân từng chọn những quyết định quan trọng mà chính mình không thể biện giải đầy đủ. Robert Lutz, cựu Phó chủ tịch nhiều năm của tập đoàn General Motors trong nhiều việc dựa vào cơ sở những phân tích, tường trình và những số liệu thống kê, thế nhưng ?otiếng nói nội tâm? đã mách bảo ông chính xác nhất những xu thế mới.
    Chính giác quan thứ sáu đã mách bảo Lutz tung ra thị trường mẫu xe Dodge Kiper đặc biệt ăn khách vào những năm 90 - thời kỳ còn giữ ghế Chủ tịch hãng Chrusler. ?oĐó là cảm nhận vô thức, từ bên ngoài. Đơn giản tôi cảm thấy, mọi chuyện sẽ tốt đẹp? ?" Robert Lutz nhớ lại. Ông chủ Microsoft Bill Gates cũng thường xuyên hành động như vậy, nhân vật bao giờ cũng tin vào linh cảm mỗi khi cần những quyết định quan trọng nhất.
    Steve Jobs, ông chủ Apple quả quyết rằng, ông đã tung ra thị trường iPod bất chấp mọi ý kiến can ngăn của nhóm chuyên gia - những người cho rằng, toàn bộ chiến dịch sẽ thất bại vì quá mạo hiểm. Ngài chủ tịch Apple đã nghe giác quan thứ sáu.
    Ngay sau quả phát bóng đầu tiên thất bại của vận động viên, Vic Braden, một trong số huấn luyện viên tennis xuất sắc nhất thế giới đã biết. liệu quả tiếp theo có vọt ra ngoài biên hay không. Brian Grazer, nhà sản xuất nhiều bộ phim đặc biệt ăn khách của Mỹ cũng có thể tự hào về những giây phút lóe sáng linh tính như thế.
    Năm 1983, ngay lần đầu tiên gặp Tom Hanks tại chương trình thử việc, ông đã khẳng định Hanks sẽ trở thành diễn viên lớn. Và lập tức ông trao cho chàng trai sắm vai nhà du hành vũ trụ trong bộ phim "Apolo 13" . Đó là sức mạnh của sự chấp nhận hoàn toàn vô thức của chúng ta" - chuyên gia Tâm lý học nổi tiếng Mỹ, GS Malcolm Gladwell đã nhấn mạnh như thế trong cuốn sách "Sự lóe sáng. Sức mạnh của linh cảm" mới xuất bản của mình.
    Theo nhà khoa học này, trong cuộc sống chúng ta thường quá tin vào những sự lựa chọn có ý thức. Điều đó không có gì sai, tuy nhiên những đánh giá và quyết định vô thức có thể nhanh hơn nhiều. Tôi gọi nó là "sự nhận biết tức thì".

    Sẽ tốt hơn, khi chúng ta vừa sử dụng linh tính, vừa sử dụng tư duy phân tích để có được quyết định đúng đắn nhất trước mọi vấn đề trong cuộc sống

    Ngay sau 10 giây ghi hình giới thiệu các giảng viên trong trường, những sinh viên tham gia chương trình nghiên cứu của chuyên gia Tâm lý học, GS Nalini Ambady đã đưa ra những nhận xét chính xác về họ. Những nhận xét chính xác về họ không thể thua kém nhóm đối chứng được hỏi sau cả học kỳ. Trong những cuộc thử nghiệm tiếp theo, nhóm sinh viên chỉ cần thậm chí thời gian hai giây, để nhận xét về những giảng viên cụ thể.
    Với đánh giá về mức độ bền vững của hôn nhân cũng diễn ra tương tự. Chỉ cần sau cuộc trò chuyện ba phút với người trong cuộc, đã có thể dự đoán chính xác, liệu họ có còn là chồng (vợ) của nhau sau đó 15 năm. GS John Gottman, tác giả cuốn sách "Toán học hôn nhân" khẳng định rằng, để dự đoán chính xác chỉ cần quan sát, các đối tác đối xử với nhau thế nào. Thái độ khinh miệt đối tác bao giờ cũng là dự báo xấu nhất. Có thể gần như dám chắc kết cục chia tay hoặc ly dị.
    Linh cảm là khả năng đánh giá trực tiếp sự kiện không cần quá trình nhận thức, và thậm chí không cần tiến hành quan sát. Linh cảm cũng là thành phần quan trọng của tư duy giống như sự phân tích logic, nhất là trường hợp cần quyết định chớp nhoáng, hoặc một khi chúng ta có quá nhiều dữ kiện, để có thể cân nhắc một cách hợp lý. Sự tiến hóa đã thừa nhận rằng, trong trường hợp như vậy "tiếng nói nội tâm" là giải pháp tốt hơn so với quyết định tình cờ.
    Động vật hoang dã sử dụng linh cảm - tiếng nói mách bảo chúng, cần phải ứng xử thế nào trong tình huống trước đó chưa từng biết. Chim gõ kiến Australia hiểu ngay phải xây tổ thế nào, để có thể bảo quản trứng sẽ đẻ ra tại cánh rừng xa lạ. Nó tạo ra bên trong tổ những rãnh sâu và điều khiển dòng không khí nóng và lạnh chảy vào tổ thế nào để lúc nào cũng duy trì nhiệt độ ổn định trong tổ. Sau thời gian 6-10 năm sống trong sông ngòi, hồ ao và kênh rạch vào quãng cuối tháng tám đầu tháng chín chúng bắt đầu cuộc tha hương khó khăn đến vùng biển Sargassove, cho dù chúng chưa bao giờ sống ở đó.
    Con người cũng chứng tỏ kiến thức bẩm sinh nhất định. Trẻ sơ sinh có những trí tưởng tượng linh cảm về những định luật cơ bản của vật lý, ví như định luật về sức hút của Trái đất. Chúng cũng có thể đếm được đồ vật, cho dù chưa có khái niệm gì về toán học. Tuy nhiên ở con người linh cảm trước hết là quá trình nhận biết thực tại trên cơ sở những kinh nghiệm gom nhặt được và những liên tưởng chi tiết từ những gì chúng ta chưa tự ý thức được.
    Chúng không nhất thiết chỉ là những kinh nghiệm cá nhân. Đồng "cha đẻ" Phân tâm học thế giới, GS Carl Gustav Jung cho rằng, giống như ở động vật cấp thấp, di sản của cha ông cũng tác động lên hành vi ứng xử và thiên hướng của con người. Mãi trên nền tảng "sự vô thức tập thể" gom nhặt trải nghiệm nhân loại này và di sản tiền nhân loại, và thậm chí cả di sản từ động vật, cá tính con người mới hình thành.
    Hoàn toàn vô thức hàng ngày chúng ta hấp thụ số lượng khổng lồ dữ liệu và trên cơ sở sự hiểu biết từng mảng các chứng cứ chúng ta sử dụng cơ chế cắt nghĩa ẩn những quy luật thống trị thế giới. Những quá trình thuần hóa vô thức kiến thức này diễn ra một cách tự nhiên, nhất là một khi tri giác tự nắm bắt những mối liên hệ logic diễn ra giữa các hiện tượng quan sát được. Chính nhờ chúng trong một phần giây chúng ta có được đánh giá ban đầu về nhân vật mới gặp lần đầu, còn những người sử dụng Internet có thể nhận xét chính xác về trang web mới lướt qua trong thời gian một phần ngàn giây. Tương tự có thể học cách đánh giá chật lượng cuốn sách - chỉ cần lật qua vài trang.
    Những nạn nhân của tình trạng mù lòa do hậu quả tổn thương đường thị giác trong não bộ có thể nắm bắt chính xác vật dụng, cho dù hoàn toàn không nhìn thấy chúng. Những kích thích thị giác không còn chảy đến ý thức của họ, song một số khu vực đã tiến hóa già hơn của não bộ vẫn "nhìn thấy", chúng thậm chí có thể chỉ dẫn hành vi, thí dụ trợ giúp thân chủ nỗ lực lấy chai nước. GS Tony Ro, chuyên gia Tâm lý học Mỹ (Đại học Roce ở Houston) đã kiểm tra hiệu ứng đó trên những người khỏe mạnh bị làm mù lòa trong chốc lát (thông qua tác động kích động từ trường và khu vực thị giác trên vỏ não).
    Nhà khoa học đặt trước họ màn hình máy vi tính, trên đó giới thiệu thoạt đầu là những đường nằm thẳng và nằm ngang, tiếp theo là những quả bóng mầu xanh hoặc mầu đỏ. Với câu hỏi, nhìn thấy gì, tất cả trả lời "không". Thế nhưng một khi được phép đoán, những đường thẳng chạy thế nào, xác suất đoán đúng lên tới 75%. Độ chính xác "đọc mầu" quả bóng đạt 81%.
    Các cung động thần kinh được gửi đi qua các tri giác tiếp cận cả qua vùng đồi đến vỏ não (nơi xuất hiện những hình ảnh các đồ vật quan sát được) cũng như trực tiếp đến hệ limbic, nơi thể hạnh đào đóng vai trò kho lưu trữ ký ức cảm xúc. Hệ limbic (linh tính) - không phụ thuộc vào ý thức - thu gom những trải nghiệm, những kỳ vọng và nỗi sợ hãi vốn đóng vai trò hình thành con người suốt cả cuộc đời. Ngay từ thế kỷ XVII, nhà bác học Baruch Spinoza đã lưu ý đến hiện tượng này, theo đó cả động lực, động cơ, tình cảm và cảm giác, chứ không chỉ có trí tuệ đóng vai trò bản ngã con người. Chính hệ limbic này thường mách bảo chúng ta cách thức xư xử thế nào và nên chọn quyết định nào. "Não bộ của bạn có thể biết rõ, cái gì được chính xác, nó là cái gì - GS Joseph LeDoux khẳng định trong cuốn sách "Não bộ cảm xúc".
    Cảm xúc là một dạng tư duy, đồng thời cũng là nền tảng cuộc sống có ý thức của chúng ta, là nguyên nhân nhiều hành vi và động cơ lựa chọn quyết định (mãi đến khi được có ý thức, chúng mới trở thành cái, mà chúng ta gọi là tình cảm). Cảm xúc dễ chi phối bằng siêu ý thức hơn nhiều so với việc tiếp xúc với nó bằng một phần ý thức của thị giác.
    Các nhà sinh lý học thần kinh lý giải cấu trúc tâm lý và tri giác này của con người bằng sự tiến hóa những phát triển của não bộ - vấn đề đã được Darwin xác định. Chính cấu trúc này đã làm cho những mối kết nối từ các hệ cảm xúc có xung lực mạnh hơn các mối kết nối nhận biết. Bởi chỉ những quá trình như thế mới có thể đảm bảo cơ may tồn tại lớn hơn cho cá thể và nòi giống.
    Có thể chính hệ limbic (linh tính) sở hữu lời nói đầu tiên và cuối cùng trong việc điều khiển hành vi ứng xử của chúng ta. Linh tính thậm chí quyết định, chúng ta đặt lòng tin vào ai và điều này hoàn toàn không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan. TS J.S.Winston (Viện nghiên cứu Thần kinh học Luân Đôn) chỉ ra rằng, thể hạnh đào hoạt động tích cực - một khi chúng ta gặp ai đó hoặc xem ảnh nhân vật nào đó có đáng tin và có thể kết bạn, hoặc ngược lại - cần phải giữ khoảng cách với nhân vật đó.
    Vậy nên linh tính không có gì chung với siêu hình và năng lực siêu nhiên. Linh tính không thể thay thế trong một số tình huống, thí dụ khi chúng ta chọn mẫu xe máy. Những nghiên cứu của các chuyên gia Tâm lý thuộc Đại học Amsterdam đã chỉ ra rằng, nếu như phải so sánh 12 thông số, thay vì chỉ 4 chỉ số chúng ta có thể chọn quyết định chính xác hơn về mặt linh tính. Sự lựa chọn linh tính như thế có thể càng chính xác một khi chúng ta bị sức ép stress càng lớn và càng ít thời gian lựa chọn. Không thể chỉ coi thường linh tính. Sự rút ra kết luận nhanh chóng càng có lợi trong những tình huống đặc trưng đối với quá khứ và hiện tại.
    "Tiếng nói nội tâm" gây thất vọng đặc biệt trong kinh doanh, ở mọi nơi dính dáng đến tiền bạc" - GS Daniel Kahnemen, nhà khoa học từng được trao giải Nobel thuộc lĩnh vực kinh tế cho công trình nghiên cứu về tính hướng ngoại của hành vi con người, cảnh báo. Steve Jobs, ông chủ Apple thừa nhận, "để đi theo tiếng gọi của linh tính, cần phải có lòng dũng cảm phi thường, hoặc phải là người điên", bởi đa số các nhà đầu tư thất bại bởi lý do thường nghe theo những lời mách bảo của linh tính. Chúng tôi đã tin vào điều đó, từ thời điểm đổ vỡ tài chính.
    Từ tháng tư 2009 Robert Lutz không còn giữ chức Phó chủ tịch tập đoàn General Motors vì tập đoàn này ngấp nghé bờ vực phá sản. Tỷ phú Warren Buffett đại bại vì đầu tư chứng khoán. Chỉ riêng năm 2008 cổ phiếu của Buffett đã mất 33% giá trị. Trong khi cho đến hết quý I năm nay tỷ phú này còn tuyên bố, cuộc khủng hoảng không thể kéo dài. Giờ đây Buffett chỉ còn biết ngồi tính thiệt hại và chấm dứt thú vui dự báo.
    Linh tính chủ yếu dựa trên những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ và hiệu quả nhất khi sử dụng để đánh giá những tình huống tương tự. Tuy nhiên thậm chí ngay trong trường hợp này cũng có thể gây thất vọng. Thí dụ điển hình là đi lại bằng máy bay - phương tiện giao thông mà chúng ta e ngại hơn so với xe hơi, cho dù các số liệu thống kê đều cho thấy: Đi lại trên đường bộ dễ mất mạng hơn trên không trung. Tất nhiên hơn cả xuất phát từ thực tế: Chúng ta sợ nhiều hơn cái mà chúng ta không thể kiểm soát - trong trường hợp này là hành khách đi máy bay.
    Tương tự, những gì chúng ta nhìn thấy thường dễ làm cho chúng ta tin nhất, thậm chí cả khi chúng ta biết rằng, Bản thân có thể bị ảo tưởng. Chính linh tính mách bảo con người rằng, mặt trời quay xung quanh trái đất cho dù logic sự việc có thể mách bảo điều ngược lại.
    Thậm chí những linh cảm xã hội liên quan đến đời sống thường nhật cũng gây cho chúng ta thất vọng, cho dù từ thuở sơ khai con người đã sống theo bầy. Đàn ông thường hay đánh giá "theo linh cảm" những phụ nữ mà bản thân họ thường có quan hệ là đối tượng hấp dẫn nhất.
    Chúng ta có thể đọc được chính xác suy nghĩ của người khác, bởi linh tính tồn tại đã dạy chúng ta năng lực đó. Chúng ta chỉ không ý thức được thực tế: Chúng ta chỉ hiểu được duy nhất những bạn bè gần gũi, trong khi chúng ta xoay xở tệ hơn nhiều một khi gặp phải người lạ. Chỉ các bác sĩ và những nhân viên hải quan - đối tượng thường xuyên tiếp xúc với đủ loại người là trường hợp cá biệt.
    Sức mạnh của tiềm thức lớn đến mức: Trong đầu của chúng ta có thể xuất hiện ảo tưởng cho rằng, chúng ta đã phát minh ra điều gì đó hoặc giải quyết được vấn đề gì đó hết sức quan trọng. "Tiếng nói nội tâm" có thể làm biến dạng chúng ta, thậm chí có thể tác động, xui khiến chúng ta làm những việc trái với lương tâm mình. GS Tony Ro, chuyên gia Tâm lý Mỹ đã chỉ ra điều đó trên thí dụ sức mạnh tác động của khuôn mẫu tiêu cực điển hình. Một khi ông hỏi bộ phận sinh viên Mỹ gốc Phi về xuất xứ sắc tộc của họ trước giờ làm bài kiểm tra, tất cả sau đó đều làm bài với kết quả kém hơn bình thường. Tương tự chúng ta "giải mã" nét mặt thờ ơ như biểu hiện thù nghịch - một khi chúng ta đang trong cơn bực tức.
    Linh tính không loại trừ tư duy, giống như kiến thức linh cảm không mâu thuẫn với tư duy phân tích. Linh tính có thể mách nước những ý tưởng thiên tài và trợ giúp có hiệu quả việc lựa chọn những quyết định hợp lý. Nó sẽ là không thích hợp, một khi chỉ dựa vào những lời mách nước của "tiếng nói nội tâm". Sẽ tốt hơn, khi vừa sử dụng linh tính, vừa sử dụng tư duy phân tích. Giác quan thứ sáu dựa trên chính "hai chân" như vậy.
    Theo Trần Bằng
  8. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Hà Nội dường như mới bắt đầu vào Thu. Thời tiết khác thường đâu đó phản ánh lên tâm trạng và cuộc sống một cách bình thường, lơ đãng. những dòng sông sẽ trở về với biển một cách êm đềm trật tự. mỗi hành trình sẽ có điểm dừng và kết thúc cho một chặng kế tiếp. Và với những người như ta, ta không tin vào sự kết thúc, kể cả cái chết.
    Ta không còn cô đơn, cũng không còn nhiều hoài cổ, nhưng đâu đó, những run rẩy của cái lạnh đầu mùa vẫn đánh thức trong ta những gì đẹp nhất: những con phố cổ dài hun hút, những mùa Tết với đầy xác pháo, những mùa trung thu với đèn ông sao, đèn cù, và súng phun nước...
    Tuổi thơ mỗi người chỉ có một. kẻ mất tuỗi thơ dường như cũng là điều bất hạnh, nhưng nếu giữ được những hoài niệm về nó cũng không phải là tệ...
    Giờ ta chỉ lo kiếm tiền, những bộn bề tiền bạc cũng thui chột nhiều, nhưng cũng giúp ta tỉnh táo và tránh xa những vấn đề tâm lý.
    hành trình của tô pic này là hành trình của ta để thoát khỏi những vấn đề tâm bệnh mà chắc không ai là bạn ta có thể biết ta đã mắc phải.
    Ơn Trời, ta đã lành lặn, đã sống cuộc sống bình thường và dù vất vả, ta có thể không thấy phải thương hại cho mình, không thấy mình bất hạnh.
    Để ta nhìn thấy niềm vui trong ánh mắt trẻ thơ, trong những cậu choai choai mới lớn, trong những đôi tình nhân ấm áp hạnh phúc
    Để ta thấy cái đẹp trong buổi chiều ta không còn u ám, để ta thấy bình thản và hoà vào nỗi vất vả nhưng đầy niềm vui của người lao động.
    Nhưng vẫn còn đó hành trình của riêng ta, trên những trang viết này.
    Tuổi 35 ghi dấu nhiều sự kết thúc, nhưng cũng là điểm khởi đấu.
    Một ngày tháng mười có nhiều cảm xúc.
  9. nonstophit

    nonstophit Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    28/05/2006
    Bài viết:
    553
    Đã được thích:
    0
    dạt dào lắm a dumb ơi
    a đã thay nhiều anh chàng nội tâm viết 1 bài đấy
    http://www.fileden.com/files/2009/7/18/2513601/Alfonzo%20Blackwell%20-%20Missing%20You%20(Instrumental).mp3
  10. Lochness

    Lochness Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/08/2003
    Bài viết:
    245
    Đã được thích:
    0
    cảm ơn nonstophit .
    ========================================
    Có lẽ một trong những nguyên nhân khiến ta tiếp tục chai sạn đi là ta đã tiếp tục sống quá thật trong một môi trường ảo. Nhân đây tôi cũng lạm bàn thêm về cái môi trường mà tôi đã làm việc gần 10 năm nay, với những buồn vui, mà nhiều hơn là trạng thái lờ đờ.
    Những người làm việc ở đây là điển hình của những người kém tài, không có khả năng làm việc bên ngoài.
    Họ tạo ra một CQ với đầy đủ phòng ban, nhưng hầu như không làm gì thực sự cả. Rồi họ cũng vẽ lên lần lượt công việc này, công việc kia để loè bên ngoài. Lâu dần họ lừa chính họ. Họ sống bằng những công việc ảo, thành tích ảo và tìm mọi cách để có nó, để tự lùa mình và để cấp trên, cấp dưới rót tiền xuống như sự bố thí ....
    HỌ quen ăn bám và dựa dẫm, nhiều người là trong cả phần lớn sự nghiệp của họ.
    Thế tại sao b h ta mới phát hiện ra hay đúng hơn là NGỘ ra. Có lẽ, bởi ta cũng sống trong 1 thế giới ảo quá lâu. Thế giới ảo trong ta thì song song với thế giới ảo của họ.
    Thế giới ảo của họ cho họ một chút tiền để họ hưởng thụ cuộc sống thực. Còn thế giới ảo của ta chỉ đưa ta đến bệnh tật.
    Khi họ cho ta bước chân vào thế giới ảo của họ, cũng là lúc cái TG ảo trong ta đã mất từ lâu, cái thực của ta như cái kim, đâm vào cái vỏ bọc khổng lồ của cả hệ thống. Nhưng quả bong bóng của HT đó nó không vỡ, mà ta bị bật ra.
    nhưng khi ta đã thoát khỏi cuộc sống ảo, ta cũng đã chứng tỏ có những năng lực để không dựa dẫm vào hệ thống đó.
    Đúng, ta sẽ thoát ra để là chính mình, sống một cuộc sống thực với những hạnh phúc thực.
    Mong cho những con người kia một lúc nào đó, dũng cảm nhận ra cuộc sống tầm gửi của mình. Dù muộn, cũng nên giữ chút danh dự.
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này