1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Xin chào mọi người!
    Mọi người thảo luận vui quá!
    Hic! cho phép Buddha__vn tham gia một chút nhé!
    Trí tuệ theo buddha__vn là khả năng nhận thức đúng đắn những gì đã đang và sẽ xảy ra trong tự nhiên, và khả năng câu móc các vấn đề được nhận thức lại với nhau theo một trật tự phản ánh đúng với trật tự của tự nhiên.
    Vấn đề một người bình thường có thể trở thành một bậc minh triết hay không?
    Theo Buddha__vn là hoàn toàn có thể, vì mầm mống minh triết là cái sẵn có nơi mỗi con người, chỉ có vấn đề là mỗi người bình thường chúng ta có khai thác được nó hay không mà thôi. Nếu khai thác được thì đó là bậc minh triết, nếu không khai thác được thì đó là người bình thường.
    Con đường để một người bình thường thăng hoa thành một bậc minh triết đó là tìm ra và phát huy mầm mông minh triết ở trong mình, khắc phục và triệt tiêu các chướng ngại làm cản trở sự phát triển của minh triết! - Đó là Buddha__vn nói về mặt nguyên tắc, còn cụ thể phải làm như thế nào? như thế nào thì cần phải trao đổi nhiều mới được, không thể nói hết được qua vài dòng nắng ngủi ở đây. Vấn đề này bạn có thể liên hệ với bạn Trung Pari để biết thêm!
    Nhân cách trưởng thành là nhân cách không còn bị cái gọi là bản năng và dục vọng cá nhân chi phối nữa!
    Ba chấm như sao sáng!Móc ngang tợ trăng tà!Đọa sa hay thành Phật!Cũng từ đó mà ra!
  2. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chào Bookshunter,
    Về cơ bản, mình đồng ý với lời giải thích của bác Buddha_vn. Tuy nhiên, có một vài điểm mình lý giải theo tâm lý học:
    Trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định. Người ta thường nói trí tuệ minh mẫn, trí tuệ mở mang...
    Việc bạn dùng từ thăng hoa để nói đến trường hợp minh triết thì mình cho là chưa chuẩn xác. Minh triết đúng là có trong mỗi người, và chỉ có việc đánh thức nó thôi. Bạn có thể hoàn toàn là người bình thường mà vẫn có thể trở thành minh triết. Nói theo kiểu mầm và cây là một, không có việc cái mầm trở thành cây, ví nếu mầm không là cây thì nó không thể trở thành cây. Chỉ có lúc này nó là mầm, lúc khác nó là cây. Việc mầm cũng như người trí tuệ bình thường. Trở thành cây khoẻ mạnh là minh triết.Vấn đề chỉ là để lộ ra.
    Để trở nên minh triết, có lẽ, trạng thaí dễ tới nhất là càng ít bản ngã, hoặc nhận chân được bản ngã của mình. Không chối bỏ dục vọng, nhưng nhận thức nó, quan sát nó. Một người hay quan sát mà lại trải nghiệm nhiều những tình huống, suy ngẫm và đúc rút mà lại có một biến cố ngẫu nhiên có lợi cho minh triết như một thất bại đau đớn nào đó thì dễ trở nên minh triết hơn. Những người thành công trong sự nghiệp và trẻ tuổi thường hay có ảo tưởng về khả năng của mình, và có nhiều tham vọng, rất khó trở thành minh triết
    Thực ra, nhân cách trưởng thành là khái niệm phức tạp. Nếu đánh giá theo hành vi bề ngoài, nó còn phụ thuộc vào XH, văn hoá. Theo mình, nói theo phân tâm học, nhân cách truởng thành là nhân cách làm chủ được cái Tôi, dung hoà được cái ấy, cái siêu tôi, để làm hình thành cái Tôi một cách bền vững.
    Có thể thấy người có nhân cách trưởng thành có một hệ giá trị rõ ràng, vững bền làm kim chỉ nam cho các cách ứng xử, quan hệ mà không quá lệ thuộc vào ngẫu nhiên.
    Rất vui được trao đổi với bạn. Thân mến!!
     
  3. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chào Bookshunter,
    Về cơ bản, mình đồng ý với lời giải thích của bác Buddha_vn. Tuy nhiên, có một vài điểm mình lý giải theo tâm lý học:
    Trí tuệ là khả năng nhận thức lý tính đạt đến một trình độ nhất định. Người ta thường nói trí tuệ minh mẫn, trí tuệ mở mang...
    Việc bạn dùng từ thăng hoa để nói đến trường hợp minh triết thì mình cho là chưa chuẩn xác. Minh triết đúng là có trong mỗi người, và chỉ có việc đánh thức nó thôi. Bạn có thể hoàn toàn là người bình thường mà vẫn có thể trở thành minh triết. Nói theo kiểu mầm và cây là một, không có việc cái mầm trở thành cây, ví nếu mầm không là cây thì nó không thể trở thành cây. Chỉ có lúc này nó là mầm, lúc khác nó là cây. Việc mầm cũng như người trí tuệ bình thường. Trở thành cây khoẻ mạnh là minh triết.Vấn đề chỉ là để lộ ra.
    Để trở nên minh triết, có lẽ, trạng thaí dễ tới nhất là càng ít bản ngã, hoặc nhận chân được bản ngã của mình. Không chối bỏ dục vọng, nhưng nhận thức nó, quan sát nó. Một người hay quan sát mà lại trải nghiệm nhiều những tình huống, suy ngẫm và đúc rút mà lại có một biến cố ngẫu nhiên có lợi cho minh triết như một thất bại đau đớn nào đó thì dễ trở nên minh triết hơn. Những người thành công trong sự nghiệp và trẻ tuổi thường hay có ảo tưởng về khả năng của mình, và có nhiều tham vọng, rất khó trở thành minh triết
    Thực ra, nhân cách trưởng thành là khái niệm phức tạp. Nếu đánh giá theo hành vi bề ngoài, nó còn phụ thuộc vào XH, văn hoá. Theo mình, nói theo phân tâm học, nhân cách truởng thành là nhân cách làm chủ được cái Tôi, dung hoà được cái ấy, cái siêu tôi, để làm hình thành cái Tôi một cách bền vững.
    Có thể thấy người có nhân cách trưởng thành có một hệ giá trị rõ ràng, vững bền làm kim chỉ nam cho các cách ứng xử, quan hệ mà không quá lệ thuộc vào ngẫu nhiên.
    Rất vui được trao đổi với bạn. Thân mến!!
     
  4. vt

    vt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/07/2001
    Bài viết:
    1.745
    Đã được thích:
    21
    Rất cám ơn bác dumb đã trả lời câu hỏi của em, tuy nhiên câu trả lời của bác có phần hơi chung chung
    Sau đây em xin trình bày ý kiến của em về vấn đề trí tuệ và sự phát triển của trí tuệ, mà ý kiến này hoàn toàn dựa trên phân tâm học(hay ít nhất em cho là vậy vì đó là suy nghĩ của em sau khi đã đọc qua Freud và một số tác phẩm có liên quan, mà chủ yếu là sách dịch và in hiện nay trên thị trường do vậy em nghĩ chắc chắn sẽ không chính xác và không hoàn toàn đúng đắn như nguyên bản):
    Thực ra trí tuệ là gì? Trí tuệ đã được rất nhiều học giả định nghĩa, nên em không bàn lại ở đây mà em chỉ đưa ra cái em hiểu về trí tuê mà thôi
    Khi nhắc đến chẳng hạn các nhà triết học nổi tiếng như Socrat, Heraclit, Arixtot, Platon, Heghen, Marx; các nhà kinh tế học nổi tiếng : Adam smith, David Ricardo, John Maynard Keynes,Marx; Các nhà bác học nổi tiếng khác: Darwin, Monomoxôp, Freud,...
    ta gọi họ là những nhà minh triết, khi nghĩ về họ ta coi họ là những người có bộ óc siêu phàm.
    Còn khi ta nói đến một người bình thường đó là ta nói đến bố mẹ ta, hàng xóm của ta(những người mà người sau thường xây nhà to hơn người trước, những người mà người sau thường xây bậc thềm nhà mình cao hơn nhà đối diện để khi nước mưa xuống thí nước chảy sang nhà bên cạnh chứ không phải nhà mình) và bản thân ta, một người dù đôi lúc cũng có những suy nghĩ lớn lao nhưng việc làm được lại chẳng có bao nhiêu.
    Vậy làm thế nào để những người bình thường trở thành những người "minh triết" và liệu có giây phút nào để người bình thường biến thành một người "minh triết" được hay không
    Câu trả lời ở đây theo em là thế này các bác ạ :
    - Thứ nhất một người bình thường có thể có những giây phút trở thành nhà "minh triết"(tạm gọi là vậy vì em chưa tìm được từ nào thích hợp hơn) mà thể hiện họ đột nhiên để lại những tác phẩm hay những sự kiện được người đời đánh giá là có giá trị lớn lao đối với nhân loại/hay một xã hội- khi ở đây trong trí tuệ của họ xảy ra sự thăng hoa, hay một sự đột biến bất thình lình về trí tuệ. Thực ra đây là một khái niệm khá quen thuộc của Freud-và đã được Roberto Assagioli phát triển trong tác phẩm Bông hồng tâm linh(mà em chắc chắn là bác có đọc qua)
    - Thứ hai, một người bình thường có thể chuyển thành một nhà minh triết mãi mãi(lâu dài) mà em lấy ví dụ thế này : một người đang đi trong vùng tăm tối đột nhiên bước vào vùng ánh sáng chói loà đầy hoa thơm cỏ lạ và tràn ngập một niềm vui mới (chứ không phải gặp một ánh sáng hay môt tia chớp loé lên rổi tắt ngấm-đây là trường hợp ở trên).
    Có thể đến đây bác sẽ thấy nó giống như trường hợp Ngộ trong Phật giáo hay thiền học-điều này cũng được nhắc đến rất nhiều trong Phân tâm học
    Rõ ràng ở đây nếu bác có đọc qua Phật giáo hay Thiền thì sẽ nhận ra một điểm tương đồng giữa chúng với phân tâm học: Mặc dù một bên là đỉnh cao tư tưởng của Phương Tây và một bên là đỉnh cao tư tưởng của Phương đông,nhưng cả hai đều cho rằng Tính dục là cội nguồn của con người, là bản chất của con người và là khởi nguồn của mọi hành động của con người (và là khởi nguồn của mọi bất hạnh trong Phật giáo cũng như trong Freud-Freud cho rằng bản chất của con người được thể hiện thông qua cái vô thức chứa đựng những sự xấu xa,dâm đãng..)
    Để đạt tới chân lý vĩnh cửu(trạng thái minh triết), cả hai thuyết đều cho rằng phải đạt tới trạng thái Ngộ- ở đây cho em mở ngoặc một chút, có gì đó tuân theo quy luật lượng chất của triết học Marx thì phải, nhưng quy luật được áp dụng với trí tuệ: trí tuệ phát triển dần dần, khi đạt tới độ thì xảy ra bước nhảy ?" hay thăng hoa và biến đổi hoàn toàn về chất, trí tuệ bước sang một tầng cao mới và con người chứa đựng nó cũng thay đổi hoàn toàn về lĩnh vực ý thức(tâm linh/linh hồn), họ hoàn toàn trở thành một con người mới, hay nói như Phật giáo họ được tái sinh.
    Xin được tiếp tục trao đổi cùng bác
  5. vt

    vt Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    04/07/2001
    Bài viết:
    1.745
    Đã được thích:
    21
    Rất cám ơn bác dumb đã trả lời câu hỏi của em, tuy nhiên câu trả lời của bác có phần hơi chung chung
    Sau đây em xin trình bày ý kiến của em về vấn đề trí tuệ và sự phát triển của trí tuệ, mà ý kiến này hoàn toàn dựa trên phân tâm học(hay ít nhất em cho là vậy vì đó là suy nghĩ của em sau khi đã đọc qua Freud và một số tác phẩm có liên quan, mà chủ yếu là sách dịch và in hiện nay trên thị trường do vậy em nghĩ chắc chắn sẽ không chính xác và không hoàn toàn đúng đắn như nguyên bản):
    Thực ra trí tuệ là gì? Trí tuệ đã được rất nhiều học giả định nghĩa, nên em không bàn lại ở đây mà em chỉ đưa ra cái em hiểu về trí tuê mà thôi
    Khi nhắc đến chẳng hạn các nhà triết học nổi tiếng như Socrat, Heraclit, Arixtot, Platon, Heghen, Marx; các nhà kinh tế học nổi tiếng : Adam smith, David Ricardo, John Maynard Keynes,Marx; Các nhà bác học nổi tiếng khác: Darwin, Monomoxôp, Freud,...
    ta gọi họ là những nhà minh triết, khi nghĩ về họ ta coi họ là những người có bộ óc siêu phàm.
    Còn khi ta nói đến một người bình thường đó là ta nói đến bố mẹ ta, hàng xóm của ta(những người mà người sau thường xây nhà to hơn người trước, những người mà người sau thường xây bậc thềm nhà mình cao hơn nhà đối diện để khi nước mưa xuống thí nước chảy sang nhà bên cạnh chứ không phải nhà mình) và bản thân ta, một người dù đôi lúc cũng có những suy nghĩ lớn lao nhưng việc làm được lại chẳng có bao nhiêu.
    Vậy làm thế nào để những người bình thường trở thành những người "minh triết" và liệu có giây phút nào để người bình thường biến thành một người "minh triết" được hay không
    Câu trả lời ở đây theo em là thế này các bác ạ :
    - Thứ nhất một người bình thường có thể có những giây phút trở thành nhà "minh triết"(tạm gọi là vậy vì em chưa tìm được từ nào thích hợp hơn) mà thể hiện họ đột nhiên để lại những tác phẩm hay những sự kiện được người đời đánh giá là có giá trị lớn lao đối với nhân loại/hay một xã hội- khi ở đây trong trí tuệ của họ xảy ra sự thăng hoa, hay một sự đột biến bất thình lình về trí tuệ. Thực ra đây là một khái niệm khá quen thuộc của Freud-và đã được Roberto Assagioli phát triển trong tác phẩm Bông hồng tâm linh(mà em chắc chắn là bác có đọc qua)
    - Thứ hai, một người bình thường có thể chuyển thành một nhà minh triết mãi mãi(lâu dài) mà em lấy ví dụ thế này : một người đang đi trong vùng tăm tối đột nhiên bước vào vùng ánh sáng chói loà đầy hoa thơm cỏ lạ và tràn ngập một niềm vui mới (chứ không phải gặp một ánh sáng hay môt tia chớp loé lên rổi tắt ngấm-đây là trường hợp ở trên).
    Có thể đến đây bác sẽ thấy nó giống như trường hợp Ngộ trong Phật giáo hay thiền học-điều này cũng được nhắc đến rất nhiều trong Phân tâm học
    Rõ ràng ở đây nếu bác có đọc qua Phật giáo hay Thiền thì sẽ nhận ra một điểm tương đồng giữa chúng với phân tâm học: Mặc dù một bên là đỉnh cao tư tưởng của Phương Tây và một bên là đỉnh cao tư tưởng của Phương đông,nhưng cả hai đều cho rằng Tính dục là cội nguồn của con người, là bản chất của con người và là khởi nguồn của mọi hành động của con người (và là khởi nguồn của mọi bất hạnh trong Phật giáo cũng như trong Freud-Freud cho rằng bản chất của con người được thể hiện thông qua cái vô thức chứa đựng những sự xấu xa,dâm đãng..)
    Để đạt tới chân lý vĩnh cửu(trạng thái minh triết), cả hai thuyết đều cho rằng phải đạt tới trạng thái Ngộ- ở đây cho em mở ngoặc một chút, có gì đó tuân theo quy luật lượng chất của triết học Marx thì phải, nhưng quy luật được áp dụng với trí tuệ: trí tuệ phát triển dần dần, khi đạt tới độ thì xảy ra bước nhảy ?" hay thăng hoa và biến đổi hoàn toàn về chất, trí tuệ bước sang một tầng cao mới và con người chứa đựng nó cũng thay đổi hoàn toàn về lĩnh vực ý thức(tâm linh/linh hồn), họ hoàn toàn trở thành một con người mới, hay nói như Phật giáo họ được tái sinh.
    Xin được tiếp tục trao đổi cùng bác
  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chào vt,
    Có lẽ chúng ta cần thống nhất lại từ "minh triết". Theo như ý bạn dùng trong bài, thì đó là việc mở rộng biến một số nội dung vô thức thành hữu thức.
    Cách bạn đề cập đến là cách được Assagioli bàn đến trong cuốn Bông hồng tâm linh.
    Minh triết của nhà Phật hẹp hơn và khó đạt hơn việc biến một số nội dung vô thức thành hữu thức, hay làm hữu thức vô thức.
    Lúc rảnh, mình sẽ bàn kỹ hơn.
    Nói thêm ngoài lề chút:
    Bình thường, đôi khi bạn "sáng" được một điều vốn hiển nhiên như 1+1 = 2, nhưng do có những vướng mắc trong tư duy nên bạn chưa nhận ra, rồi đúng lúc nào đó, tình cờ bạn phát hiện ra nó, lúc đó có thể bạn đã đạt tới một phần cái gọi là "minh triết".
    Trạng thái Thiền là trạng thái dễ nhất để đạt được điều này.
    Trong cuộc sống, chắc bạn và tôi cũng như nhiều người, việc tìm hiểu về vô thức, hữu thức, minh triết ...là để giúp trí tuệ ngày càng minh mẫn hơn, đúng kô?
    Vì vậy, mong các bạn hãy cùng tham gia thảo luận nhiệt tình hơn. Bản thân tôi, dù công việc cũng khá bận, nhưng thực sự đã học và ứng dụng được rất nhiều từ những điều đã post, nên muốn trao đổi cùng các bạn thôi.
    Thân mến!!
     
  7. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Chào vt,
    Có lẽ chúng ta cần thống nhất lại từ "minh triết". Theo như ý bạn dùng trong bài, thì đó là việc mở rộng biến một số nội dung vô thức thành hữu thức.
    Cách bạn đề cập đến là cách được Assagioli bàn đến trong cuốn Bông hồng tâm linh.
    Minh triết của nhà Phật hẹp hơn và khó đạt hơn việc biến một số nội dung vô thức thành hữu thức, hay làm hữu thức vô thức.
    Lúc rảnh, mình sẽ bàn kỹ hơn.
    Nói thêm ngoài lề chút:
    Bình thường, đôi khi bạn "sáng" được một điều vốn hiển nhiên như 1+1 = 2, nhưng do có những vướng mắc trong tư duy nên bạn chưa nhận ra, rồi đúng lúc nào đó, tình cờ bạn phát hiện ra nó, lúc đó có thể bạn đã đạt tới một phần cái gọi là "minh triết".
    Trạng thái Thiền là trạng thái dễ nhất để đạt được điều này.
    Trong cuộc sống, chắc bạn và tôi cũng như nhiều người, việc tìm hiểu về vô thức, hữu thức, minh triết ...là để giúp trí tuệ ngày càng minh mẫn hơn, đúng kô?
    Vì vậy, mong các bạn hãy cùng tham gia thảo luận nhiệt tình hơn. Bản thân tôi, dù công việc cũng khá bận, nhưng thực sự đã học và ứng dụng được rất nhiều từ những điều đã post, nên muốn trao đổi cùng các bạn thôi.
    Thân mến!!
     
  8. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Nhà phân tâm học như một " Ỹ sĩ của linh hồn"
    Ngày nay, có nhiều học phái phân tâm khác nhau, từ những người theo lý thuyết của Freud một cách chặt chẽ cho đến mềm dẻo hay những người xét lại, những người này khác nhau ở mức độ họ đã biến đổi quan niệm của Frreud nhiều hay ít. Tuy nhiên, những dị biệt ấy không quan trọng bằng những dị biệt giữa phân tâm học nhằm mục tiêu thích nghi XH vàd phân tâm học nhằm mục tiêu " chữa trị linh hồn".
    Khởi đầu của nó, phân tâm học là một ngành của y học và mục đích của nó là chữa những con bệnh đến với nhà phân tâm thường gặp trong cuộc sống hàng ngày những triệu chứng như những thúc bách mang tính nghi lễ, những ám ảnh, những sự thù ghét, những ý hoang tưởng...
    Sự khác nhau độc nhất giữa những con bệnh này với những con bệnh đến với bác sĩ thông thường là: nguyên nhân của những triệu chứng của họ được tìm thấy không phải trong thân xác mà trong linh hồn của họ, bởi thế sự trị liệu cũng không chú ý đến những hiện tượng cơ thể mà đến những hiện tượng tâm lý. Nhưng mục đích trị liệu trong phân tâm học không khác gì mục đích trị liệu trong y học: trừ khử triệu chứng. Nếu con bệnh được giải thoát khỏi sự mửa hay nôn khan có tính tâm lý, khỏi những hành vi nóng nảy hay những ám ảnh, họ được xem như khỏi bệnh.
    Trong quá trình làm việc, Freud và những cộng sự càng ý thức được triệu chứng chỉ là biểu hiện rõ rệt nhất và bi đát nhất của sự nhiểu tâm, và muốn hoàn toàn hoàn thành sự chữa trị lâu dài chứ không chỉ chỉ trừ những triệu chứng, thì người ta phải phân tích lại cá tính con bệnh và giúp anh ta định hướng lại cá tính của mình. Ý kiến này phát sinh do một hiện tượng mới mẻ nơi một số con bệnh. Nhiều người tìm đến phân tâm không có bệnh theo nghĩa thông thường của danh từ và cũng không có triệu chứng nào rõ rệt như trên. Họ cũng không phải là mất trí. Thường thường họ cũng không bị bà con hay họ hàng coi là bệnh hoạn. Tuy nhiên ho vẫn mắc phải những " sự khó khăn trong cuộc sống" - để dùng từ ngữ của Harry Stack Sullivan về vấn đề tâm lý, khiển họ phải tìm sự giúp đỡ từ một nhà phân tâm. Dĩ nhiên, những khó khăn trong cộc sống như thế không có gì mới mẻ. Luôn có những người cảm thấy bất an hay thua kém, những người không thể tìm thấy hạnh phúc trong hôn nhân, những người gặp khó khăn trong việc hoàn thành những công việc của mình và vui vẻ với công việc, những người sợ hãi kẻ khác một cách quá đáng... họ có thể tìm sự giúp đỡ nơi một mục sư, một người bạn, một triết gia hay cứ việc sống với khó khăn của họ mà không tìm kiếm sự giúp đỡ nào.
    |Điều mới mẻ là Freud và học phái của ông lần đầu tiên đã đưa ra một lý thuyết về cá tính rất hàm súc và một giải thích về những khó khăn trong cuộc sống, trong trường hợp những khó khăn này có gốc rễ trong cơ cấu tính tình, và hy vọng có thể thay đổi được chúng. Như thế, phân tâm học đã di chuyển dần dần trọng tâm của mình từ phép chữa trị những triệu chứng nhiễu tâm đến sự trị liệu những khó khăn trong cuộc sống có cội rễ trong cá tính nhiễu tâm.
    Trong khi việc định đoạt mục tiêu trong trường hợp nôn mửa, u uất hay ám ảnh là tương đối đơn giản thì trái lại, việc định đoạt mục tiêu trị liệu trong trường hợp bệnh nhiễu tâm có cội rễ nơi cá tính không phải dễ dàng. Quả vậy, chỉ có một việc nói con bệnh đau gì cũng không phải là dễ.
    Trong trường hợp sau đây sẽ giải thích lời nói trên có nghĩa gì. Một thanh niên 24 tuổi tìm đến nhà phân tâm, bảo rằng từ khi tốt nghiệp "college" hai năm về trước, anh ta cảm thấy khổ sở. Làm việc trong công ty của thân phụ, nhưng anh không thích thú với công việc, thường buồn bã, thường chống đối gay gắt với cha; hơn nữa, anh thấy khó khăn ngay cả khi đưa ra những quyết định nhỏ nhất. Anh bảo rằng việc đó bắt đầu xảy ra vài năm trước khi tốt nghiệp. Anhh rất thích vật lý; thầy giáo bảo rằng anh có nhiều năng khiếu về vật lý - lý thuyết, và anh đã muốn đi học đại học rồi suốt đời làm nhà khoa học. Thân phụ anh, một thương gia giầu có, chủ nhân một cơ xưởng lớn, nhất thiết muốn anh đi vào thương nghiệp, gánh vác công vịêc nặng nhọc cho ông và cuối cùng trở thành người kế vị cho ông. Ông lý luận rằng, ông không có đứa con nào khác, và phải một tay gây dựng doanh nghiệp, bác sĩ đã khuyên ông bớt làm việc, và anh sẽ là đứa con bất hiểu nếu không muốn làm vừa lòng cha trước những hoàn cảnh như thế. Người con, sau khi nghe những lời hứa hẹn, cảnh cáo, và năn nỉ của người cha để đánh động lòng hiếu thảo, cuối cùng đã nhượng bộ và bắt tay vào công việc của cha. Rồi thì những phiền phức đã nói trên bắt đầu.
    Trong trường hợp này, đâu là vấn đề, đâu là cách chữa trị? Có hai cách nhìn vào trạng huống. Người ta có thể lý luận rằng lập trường người cha hoàn toàn hữu lý; rằng người con đã có thể theo lời khuyên của cha mà không có phiền phức gì nếu chàng không bướng bỉh một cách phi lý, nếu chàng không có một mối xung khắc sâu kín với người cha; rằng rất có thể ước muốn trở thành một nhà vật lý học của chàng đã có căn nguyên trên sự xung khắc với cha và long mong mỏi vô thức của chàng làm trái ý ông hơn là trên sự ham thích của chàng với vật lý học.
    Trong khi tuân lời cha, chàng đã không chống lại ông. Nhưng thực ra xung khắc của chàng lại càng tăng thêm từ khi chàng nhượng bộ. Sự khó khăn của chàng bắt nguồn từ mối xung khắc không được giải quyết đó. Nếu nó được giải quyết bằng cách đào sâu vào trong những nguyên nhân sâu kín, thì con người sẽ không khó khăn gì để đưa ra những quyết định hữu lý, và những mối lo ngại, hoài nghi...của chàng sẽ biến mất.
    Nếu người ta nhìn sự trạng một cách khác, lý luận sẽ tương tự thế này. Trong khi người cha có thể có đủ mọi lý do để mong muốn con ông nối nghiệp ông và trong khi ông có quyền diễn đạt ý muốn của mình, thì người con cũng có quyền - và trên phương diện tinh thần, có bổn phận - phải làm cái gì lương tâm và ý thức giữ gìn nguyên tính của anh ta đã ra lệnh cho anh. Nếu anh ta cảm thấy rằng đeời sống của nhà vật lý học là thích hợp cho năng khiếu và ước muốn của anh ta, thì anh ta phải theo tiếng gọi này hơn là theo ước muốn của cha. Quả thật, cũng có một xung khắc nào đó đối với người cha, không phải một xung khắc phi lý dựa trên những lý lẽ tưởng tượng và nó sẽ tan biến nếu được phân tích kỹ, nhưng là một xung khắc có lý được hình thành như một phản ứng chống lại thái độ uy quyền và chiếm đoạt của người cha. Nếu ta nhìn khó khăn của con bệnh đến từ quan điểm này, thì căn bệnh và mục tiêu chữa trị sẽ sẽ hoàn toàn khác căn bệnh và mục tiêu chữa trị trong lối giải thích trước. Triệu chứng bây giờ là sự thiếu năng lực để tự quyết đoán và lòng sợ hãi không dám đi theo những kế hoạch và ước muốn của riêng anh ta; Anh ta sẽ khỏi bệnh nếu không còn sợ hãi nguời cha nữa; và mục tiêu của trị liệu là giúp anh ta đủ can đảm để tự quyết đoán và tự giải hóng mình.
     
  9. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Nhà phân tâm học như một " Ỹ sĩ của linh hồn"
    Ngày nay, có nhiều học phái phân tâm khác nhau, từ những người theo lý thuyết của Freud một cách chặt chẽ cho đến mềm dẻo hay những người xét lại, những người này khác nhau ở mức độ họ đã biến đổi quan niệm của Frreud nhiều hay ít. Tuy nhiên, những dị biệt ấy không quan trọng bằng những dị biệt giữa phân tâm học nhằm mục tiêu thích nghi XH vàd phân tâm học nhằm mục tiêu " chữa trị linh hồn".
    Khởi đầu của nó, phân tâm học là một ngành của y học và mục đích của nó là chữa những con bệnh đến với nhà phân tâm thường gặp trong cuộc sống hàng ngày những triệu chứng như những thúc bách mang tính nghi lễ, những ám ảnh, những sự thù ghét, những ý hoang tưởng...
    Sự khác nhau độc nhất giữa những con bệnh này với những con bệnh đến với bác sĩ thông thường là: nguyên nhân của những triệu chứng của họ được tìm thấy không phải trong thân xác mà trong linh hồn của họ, bởi thế sự trị liệu cũng không chú ý đến những hiện tượng cơ thể mà đến những hiện tượng tâm lý. Nhưng mục đích trị liệu trong phân tâm học không khác gì mục đích trị liệu trong y học: trừ khử triệu chứng. Nếu con bệnh được giải thoát khỏi sự mửa hay nôn khan có tính tâm lý, khỏi những hành vi nóng nảy hay những ám ảnh, họ được xem như khỏi bệnh.
    Trong quá trình làm việc, Freud và những cộng sự càng ý thức được triệu chứng chỉ là biểu hiện rõ rệt nhất và bi đát nhất của sự nhiểu tâm, và muốn hoàn toàn hoàn thành sự chữa trị lâu dài chứ không chỉ chỉ trừ những triệu chứng, thì người ta phải phân tích lại cá tính con bệnh và giúp anh ta định hướng lại cá tính của mình. Ý kiến này phát sinh do một hiện tượng mới mẻ nơi một số con bệnh. Nhiều người tìm đến phân tâm không có bệnh theo nghĩa thông thường của danh từ và cũng không có triệu chứng nào rõ rệt như trên. Họ cũng không phải là mất trí. Thường thường họ cũng không bị bà con hay họ hàng coi là bệnh hoạn. Tuy nhiên ho vẫn mắc phải những " sự khó khăn trong cuộc sống" - để dùng từ ngữ của Harry Stack Sullivan về vấn đề tâm lý, khiển họ phải tìm sự giúp đỡ từ một nhà phân tâm. Dĩ nhiên, những khó khăn trong cộc sống như thế không có gì mới mẻ. Luôn có những người cảm thấy bất an hay thua kém, những người không thể tìm thấy hạnh phúc trong hôn nhân, những người gặp khó khăn trong việc hoàn thành những công việc của mình và vui vẻ với công việc, những người sợ hãi kẻ khác một cách quá đáng... họ có thể tìm sự giúp đỡ nơi một mục sư, một người bạn, một triết gia hay cứ việc sống với khó khăn của họ mà không tìm kiếm sự giúp đỡ nào.
    |Điều mới mẻ là Freud và học phái của ông lần đầu tiên đã đưa ra một lý thuyết về cá tính rất hàm súc và một giải thích về những khó khăn trong cuộc sống, trong trường hợp những khó khăn này có gốc rễ trong cơ cấu tính tình, và hy vọng có thể thay đổi được chúng. Như thế, phân tâm học đã di chuyển dần dần trọng tâm của mình từ phép chữa trị những triệu chứng nhiễu tâm đến sự trị liệu những khó khăn trong cuộc sống có cội rễ trong cá tính nhiễu tâm.
    Trong khi việc định đoạt mục tiêu trong trường hợp nôn mửa, u uất hay ám ảnh là tương đối đơn giản thì trái lại, việc định đoạt mục tiêu trị liệu trong trường hợp bệnh nhiễu tâm có cội rễ nơi cá tính không phải dễ dàng. Quả vậy, chỉ có một việc nói con bệnh đau gì cũng không phải là dễ.
    Trong trường hợp sau đây sẽ giải thích lời nói trên có nghĩa gì. Một thanh niên 24 tuổi tìm đến nhà phân tâm, bảo rằng từ khi tốt nghiệp "college" hai năm về trước, anh ta cảm thấy khổ sở. Làm việc trong công ty của thân phụ, nhưng anh không thích thú với công việc, thường buồn bã, thường chống đối gay gắt với cha; hơn nữa, anh thấy khó khăn ngay cả khi đưa ra những quyết định nhỏ nhất. Anh bảo rằng việc đó bắt đầu xảy ra vài năm trước khi tốt nghiệp. Anhh rất thích vật lý; thầy giáo bảo rằng anh có nhiều năng khiếu về vật lý - lý thuyết, và anh đã muốn đi học đại học rồi suốt đời làm nhà khoa học. Thân phụ anh, một thương gia giầu có, chủ nhân một cơ xưởng lớn, nhất thiết muốn anh đi vào thương nghiệp, gánh vác công vịêc nặng nhọc cho ông và cuối cùng trở thành người kế vị cho ông. Ông lý luận rằng, ông không có đứa con nào khác, và phải một tay gây dựng doanh nghiệp, bác sĩ đã khuyên ông bớt làm việc, và anh sẽ là đứa con bất hiểu nếu không muốn làm vừa lòng cha trước những hoàn cảnh như thế. Người con, sau khi nghe những lời hứa hẹn, cảnh cáo, và năn nỉ của người cha để đánh động lòng hiếu thảo, cuối cùng đã nhượng bộ và bắt tay vào công việc của cha. Rồi thì những phiền phức đã nói trên bắt đầu.
    Trong trường hợp này, đâu là vấn đề, đâu là cách chữa trị? Có hai cách nhìn vào trạng huống. Người ta có thể lý luận rằng lập trường người cha hoàn toàn hữu lý; rằng người con đã có thể theo lời khuyên của cha mà không có phiền phức gì nếu chàng không bướng bỉh một cách phi lý, nếu chàng không có một mối xung khắc sâu kín với người cha; rằng rất có thể ước muốn trở thành một nhà vật lý học của chàng đã có căn nguyên trên sự xung khắc với cha và long mong mỏi vô thức của chàng làm trái ý ông hơn là trên sự ham thích của chàng với vật lý học.
    Trong khi tuân lời cha, chàng đã không chống lại ông. Nhưng thực ra xung khắc của chàng lại càng tăng thêm từ khi chàng nhượng bộ. Sự khó khăn của chàng bắt nguồn từ mối xung khắc không được giải quyết đó. Nếu nó được giải quyết bằng cách đào sâu vào trong những nguyên nhân sâu kín, thì con người sẽ không khó khăn gì để đưa ra những quyết định hữu lý, và những mối lo ngại, hoài nghi...của chàng sẽ biến mất.
    Nếu người ta nhìn sự trạng một cách khác, lý luận sẽ tương tự thế này. Trong khi người cha có thể có đủ mọi lý do để mong muốn con ông nối nghiệp ông và trong khi ông có quyền diễn đạt ý muốn của mình, thì người con cũng có quyền - và trên phương diện tinh thần, có bổn phận - phải làm cái gì lương tâm và ý thức giữ gìn nguyên tính của anh ta đã ra lệnh cho anh. Nếu anh ta cảm thấy rằng đeời sống của nhà vật lý học là thích hợp cho năng khiếu và ước muốn của anh ta, thì anh ta phải theo tiếng gọi này hơn là theo ước muốn của cha. Quả thật, cũng có một xung khắc nào đó đối với người cha, không phải một xung khắc phi lý dựa trên những lý lẽ tưởng tượng và nó sẽ tan biến nếu được phân tích kỹ, nhưng là một xung khắc có lý được hình thành như một phản ứng chống lại thái độ uy quyền và chiếm đoạt của người cha. Nếu ta nhìn khó khăn của con bệnh đến từ quan điểm này, thì căn bệnh và mục tiêu chữa trị sẽ sẽ hoàn toàn khác căn bệnh và mục tiêu chữa trị trong lối giải thích trước. Triệu chứng bây giờ là sự thiếu năng lực để tự quyết đoán và lòng sợ hãi không dám đi theo những kế hoạch và ước muốn của riêng anh ta; Anh ta sẽ khỏi bệnh nếu không còn sợ hãi nguời cha nữa; và mục tiêu của trị liệu là giúp anh ta đủ can đảm để tự quyết đoán và tự giải hóng mình.
     
  10. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Những cách tiếp cận tâm lý học
    Bài này sẽ phác họa các triển vọng, hoặc các tiếp cận mang tính khái niệm đang chiếm ưu thế trong nền tâm lý đương thời. Mỗi triển vọng xác định một lĩnh vức khác nhau, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tâm lý học. Các tiếp cận này chứa đựng các quan điểm và các giả định có ánh hưởng tới điều sẽ được nghiên cứu như thế nào, quan điểm của một nhà tâm lý học quyết định điều phải tìm kiếm..dùng phương pháp nào.
    Bằng cách kết hợp các quan điểm đặc thù (những giả định về cái sẽ được nghiên cứu và nghiên cứu như thế nào) với các định hướng thời gian (quá khứ, hiện tại và tương lai), ta có thể nhận dạng được 6 mô hình khái niệm rộng lớn được các nhà tâm lý học sử dụng để nghiên cứu hành vi và các quá trình tâm trí: sinh học, tâm động, ứng xử, nhận thức, nhân văn và tiến hoá.
    Những triển vọng này là các mô hình hiểu theo chúng vẽ nên sự giống nhau giữa các quá trình đang được nghiên cứu và một hệ dễ dàng có thể hiểu được: chẳng hạn ta có thể dùng mô hình một chiếc xe o tô để giải thích rằng cơ thể ta "cần sửa chữa" vì đã "chạy quá tải" và cảm thấy "suy sụp". Tương tự, các nhà tâm lý học ban đầu dùng cách so sánh một chiểc công tắc điện thoại với bộ não của con người sử dụng thông tin như thế nào.
    Tiếp cận sinh học
    Phương pháp tiếp cận sinh học hướng dẫn nhà tâm lý học tìm kiếm những nguyên nhân hành vi trong chức năng hoạt động của gien, các bộ não, hệ thần kinh, hệ nội tiết. Cách tiếp cận này đưa ra bốn giả định:
    1. Các hiện tượng tâm lý xã hội có thể được hiểu với tính cách là các quá trình sinh hoá học.
    2. Các ứng xử phức tạp có thể hiểu được bằng cách phân tích chúng thành các đơn vị nhỏ hơn và cụ thể hơn.
    3. Hết thày các ứng xử hoặc tiềm năng ứng xử được quyết định bởi các cấu trúc sinh học và phần lớn các quá trình đều mang tính di truyền.
    4. Trải nghiệm có thể làm thay đổi ứng xử bằng cách làm thay đổi các cấu trúc sinh học và các quá trình làm cơ sở.
    Tiếp cận tâm động học
    Theo cách tiếp cận tâm động học thì ứng xử bị điều khiển hoặc bị thúc đẩy bằng các lực mạnh mẽ bên trong. Theo quan điểm này, các hành động của con người là bắt nguồn từ các bản năng mang tính di truyền, các xung năng sinh học và là các nỗ lực giải quyết các xung đột giữa các nhu cầu cá nhân với các đòi hỏi xã hội phải hành động một cách thích đáng. Động cơ là khái niệm cốt lõi bên trong mô hình tâm động. Các tình trạng thiếu hụt, sự thức tỉnh sinh lý, các xung đột và những hẫng hụt cung cấp năng lượng cho ứng xử giống như nhiên liệu than đá cung cấp cho đầu máy xe lửa. Trong mô hình này, sinh vật (con người) ngừng phản ứng khi các nhu cầu đã được thoả mãn và các xung năng đã giảm.
    Các nguyên lý tâm động của động cơ đã được phát triển đầy đủ nhất bởi một bác sĩ người Áo là Sigmund Freud vào cuối thế kỷ 19 , đầu thế kỷ 20. Theo học thuyết Freud thì mỗi cá nhân được hoàn toàn quyết định bởi một tổ hợp tính di truyền và những trải nghiệm thơ ấu. Vì đứa trẻ học được cách giải quyết mâu thuẫn giữa ham muốn cá nhân với các ràng buộc XH nên nhân cách được phát triển. Các mối xung đột không được giải toả có nguy cơ làm tạo ra các rối nhiễu cảm xúc tồn tại lâu dài. Mô hình của Freud là mô hình đầu tiên thừa nhận ứng xử của con người không phải bao giờ cũng do lý trí hoặc giải thích được rõ ràng. Mô hình tâm động có thể được xem là cách nhìn hoài nghi về bản chất con người trong cách nó mô tả những đòi hỏi ích kỷ chỉ bị kìm chế bởi các lực kiểm soát gắt gao của XH mà thôi. Tuy nhiên, các ý tưởng của Freud đã ảnh hưởng đến các lĩnh vực tâm lý học nhiều hơn bất cứ người nào khác và chúng còn tiếp tục gây cảm hứng cho các phương thức tìm tòi và ứng dụng mới.
    Tiếp cận theo thuyết hành vi (ứng xử)
    Những người theo cách tiếp cận hành vi quan tâm đến các hành vi công khai có thể ghi lại được một cách khách quan. Các nhà tâm lý học ảnh hướng về thuyết hành vi thì tập trung vào các đáp ứng mang tính đặc hiệu và có thể được đo lường được trong khi thu thập dữ kiện của họ; các ví dụ như: động tác nháy mắt, động tác ấn một cái cần hoặc nói ":có" tiếp theo một kích thích có thêt nhận diện được (như một tia sáng hoặc một tiếng chuông). Các nhà tâm lý học này không quan tâm đến sự suy luận về các quá trình sinh hoá học hoặc các động cơ mang tính vô thức.
    Mục tiêu chính của phép phân tích theo thuyết hành vi là nhăm fhiểu được bằng cách nào các kích thích đặc thù của môi trường lại kiểm soát được các ững xử đặc thù. Trước hết, họ nhận diện các kích thích hoặc điều kiện làm khởi phát một đáp ứng. Sau đó, họ quan sát bản chất cái đáp ứng để hiểu được, dự đoán và có thể kiểm soát nó. Sau chót, họ xem xét các hậu quả hoặc tác động của các đáp ứng đối với môi trường vật lý và XH.
    Theo mô hình hành vi, hành vi hoàn toàn được quyết định bởi các điều kiện môi trường. Con người chẳng tốt cũng chẳng xấu nhưng đơn thuần là phản ứng với môi trường của mình. Các nhà hành vi chủ nghĩa còn cho rằng phần lớn những gì con người đạt được là do giáo dục chứ không phải tự nhiên.
    Thuyết hành vi khẳng định chỉ có các hành vi công khai của sinh vật mới đúng là đối tượng nghiên cứu. Jhon B. Watson nhà hành vi học hàng đầu Mỹ, chịu ảnh hưởng của các công trình do nhà sinh lý học người Nga Ivan Pavlop. Pavlop đã khám phá ra các nguyên lý của điều kiện hoá, là quá trình tập nhiễm và sửa đổi các phản xạ sinh lý. Watson thấy nếu hầu hết các ững xử có thể chứng minh là kết quả của học tập thì ta có thê tạo ra các khả năng mới mẻ làm thay đổi các ứng xử không mong muốn. Ông cho rằng các sự kiện tâm trí không thể nghiên cứu một cách khoa học được, và phương pháp nôị quan nhiều nhất cũng chỉ là nguồn thông tin đánh tin cậy. Watson đưa ra một hướng mới trong tâm lý học. Sự tìm kiếm các nguyên nhân bên trong môi trường thay vì bên trong con người. Ông là nhà tâm lý đầu tiên nhấn mạnh rằng các nhà tâm lý học chỉ có thể ngiên cứu các ứng xử có thể quan sát được mà thôi. Nếu Watson đã đặt nền mòng cho thuyết hành vi thì B.F Skinner tại Havard là nhà kiến trúc sư bậc đàn anh. Cho đến ngày Skinner qua đời năm 1990, các kế hoạch và quan điểm của ông đã tạo nên vóc dáng của học thuyết ứng xử trong nhiều thập kỷ. Trong cẩm nang thiết kế của Skinner, tâm lý học chỉ có thể được mô tả là mang tính khoa học, nếu nó tự giới hạn mình để nghiên cứu ứng xử thao tac ra sao trên môi trường và ứng xử phải thay đổi thế nào do các hậu quả mà nó đem lại trong môi trường. Mô hình ứng xử đã ngự trị trong nền tâm lý học Mỹ suốt thế kỷ này.Nó nhấn mạnh đến đòi hỏi đối với thực nghiệm nghiêm ngặt và xác định kỹ các biến thái và đã có ảnh hưởng đến phần lớn các lĩnh vực tâm lý học.. Các nguyên lý của thuyết hành vi đã được ứng dụng rộng rãi vào các vấn đề của con người.
     
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này