1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Các vấn đề tâm lý - Lý thuyết và ứng dụng.

Chủ đề trong 'Tâm Lý Học' bởi dumb, 13/02/2004.

Trạng thái chủ đề:
Đã khóa
  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    3- Chúng ta nhìn thấy gì?
    Hàng năm, hàng triệu học sinh dự thi vào các trường Đại học, thi tốt nghiệp trung học...
    Chưa kể những nghiên cứu sinh, thạc sĩ, tiến sĩ...
    Tất cả lao vào một guồng quay để có bằng cấp, một hành thông vào đời.Lại có cả những người đã đi làm, lại tiếp tục bỏ thời gian, công sức để học tiếp,với mong muốn có cơ hội thăng tiến và danh vọng.
    Có cầu ắt có cung. Và trường trường dậy thêm, người người học thêm, các trung tâm dạy đủ mọi thứ mọc lên như nấm.
    Mà phần nhiều, người học phải đóng khá nhiều tiền: Trong cơ chế thị trường, họ bỗng nhiên trở thành Thượng đế. Và khách hàng luôn đúng, có nghĩa là hầu như tất cả đều có bằng.
    Đối với các bậc học thấp hơn. Mục tiêu lại nằm ở chỗ khác: Để có một điểm học bạ đẹp, một danh hiệu...
    Và con đường đến mục tiêu cũng đa dạng hơn: Cuộc đua không thuần tuý tiền bạc, mà còn là học lực theo một vài tiêu chuẩn. Thực sự thì bởi có quá nhiều người có tiền như nhau, nên cuộc đua ở lĩnh vực này còn là sự lao tâm, sự thông minh theo các tiêu thức nhất định, thường là chỉ để đạt điểm cao trong các kỳ thi.
  2. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    4- Con đường đến với bằng cấp
    Ngoài việc mua bằng công khai, bằng giả mà các báo đã phanh phui nhiều, người ta nay tập trung vào việc mua bằng con đường hợp pháp: Bỏ tiền học, bỏ tiền khi thi, và tốt nghiệp. Tất nhiên, còn có thời gian, nhiều ít tuỳ thuộc vào điêù kiện hoàn cảnh của học viên...
    Cái mâu thuẫn ở đây là: Do các bậc giáo sư, giảng viên Đại học hầu như chỉ biết lý thuyết, và hầu như chỉ giỏi lý thuyết, nên các chương trình học thường hướng đến chất lượng theo hướng này, dù trong những năm gần đây, các trường đã có nhiều cố gắng đưa các nội dung thực tế vào chương trình: Nhưng không bỗng nhiên một vài năm, những lý thuyết mà những vị Giáo sư giảng viên học đầy mình trong nhiều năm lại bị bỏ xó, các vị lại cập nhật những kiến thức thực hành: Ồ không, đẳng cấp, thời gian, trình độ không khuyến khích họ làm thế.
    Và để giải quyết vấn đề, họ đưa ra những quảng cáo về việc Đổi mới các chương trình dạy học cho sát với thực tế, đưa thêm một số nội dung hợp thời, nhưng cái chất - vẫn giữ dưới các hình thức linh hoạt hơn.
    Chẳng hạn, triết học vẫn là Triết học Mác Lê, nhưng có bổ sung thêm (mà khi dạy, họ thường lướt qua) phần giới thiệu các trưòng phái khác.
    Nội dung vẫn vậy. Nhưng đã có công nghệ mới. Công nghệ đào tạo thế kỷ mới. Cuộc chơi vẫn tiếp tục.
  3. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    4- Con đường đến với bằng cấp
    Ngoài việc mua bằng công khai, bằng giả mà các báo đã phanh phui nhiều, người ta nay tập trung vào việc mua bằng con đường hợp pháp: Bỏ tiền học, bỏ tiền khi thi, và tốt nghiệp. Tất nhiên, còn có thời gian, nhiều ít tuỳ thuộc vào điêù kiện hoàn cảnh của học viên...
    Cái mâu thuẫn ở đây là: Do các bậc giáo sư, giảng viên Đại học hầu như chỉ biết lý thuyết, và hầu như chỉ giỏi lý thuyết, nên các chương trình học thường hướng đến chất lượng theo hướng này, dù trong những năm gần đây, các trường đã có nhiều cố gắng đưa các nội dung thực tế vào chương trình: Nhưng không bỗng nhiên một vài năm, những lý thuyết mà những vị Giáo sư giảng viên học đầy mình trong nhiều năm lại bị bỏ xó, các vị lại cập nhật những kiến thức thực hành: Ồ không, đẳng cấp, thời gian, trình độ không khuyến khích họ làm thế.
    Và để giải quyết vấn đề, họ đưa ra những quảng cáo về việc Đổi mới các chương trình dạy học cho sát với thực tế, đưa thêm một số nội dung hợp thời, nhưng cái chất - vẫn giữ dưới các hình thức linh hoạt hơn.
    Chẳng hạn, triết học vẫn là Triết học Mác Lê, nhưng có bổ sung thêm (mà khi dạy, họ thường lướt qua) phần giới thiệu các trưòng phái khác.
    Nội dung vẫn vậy. Nhưng đã có công nghệ mới. Công nghệ đào tạo thế kỷ mới. Cuộc chơi vẫn tiếp tục.
  4. bookshunter

    bookshunter Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2004
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    0
    Xin bác Dumb viết tiếp bài viết của mình đi, bởi vì em chưa hiểu ý bác muốn nói gì bởi bài viết có vẻ không liên quan đến topic này lắm- Các vấn đề tâm lý, Lý thuyết và ứng dụng--
    Tuy nhiên nhân bài viết của bác em cũng xin góp một vài điều thế này:
    ở đây em nói đến giáo viên bậc đại học, em không thể hiểu nổi tại sao việc trở thành giáo viên đại học hiện nay lại dễ dàng đến thế mà những ngưòi được giữ lại giảng dạy là những ai, những sinh viên mới ra trường không một chút kiến thức thực tế(ở đây em nói đến trường đại học của em-một trường đại học kinh doanh được liệt vào hang danh giá), những sinh viên mà kiến thức họ thu được trong quá trình học đại học còn thua xa những sinh viên khác, những sinh viên không biết một chút gì về mô phạm ấy thế mà họ cũng được đứng trên bục giảng để giảng dạy những người khác- nói như một nhà văn: kẻ sát nhân chỉ giết một người nhưng một nhà giáo tồi thì giết chết cả một thế hệ.Vậy thì những giáo viên này phải đáng mang ra cho dựa cột cả ngàn lần.
    Tại sao họ lại chịu làm giáo viên khi họ biết rằng giảng dạy không hay sẽ bị sinh viên khinh thường, nói xấu sau lưng..(bởi họ cùng đã từng là sinh viên), họ chấp nhận điều đó bởi làm giáo viên có biết bao điều lợi : chỗ làm ổn định,công chức nhà nước, cơ hội đi du học, khả năng được phân đất đai và kiếm ra nhiều tiền(bằng cách dạy tại chức). Họ đã quên mất một điều rằng đối tượng một nhà giáo hướng vào là gỉ? đó chính là học sinh, sinh viên. Họ làm giáo viên là vì cái lợi của mình chứ không phải vì sinh viên; họ bán rẻ danh dự, lòng tự trọng của mình để đổi lấy vật chất.Có những người như vậy thì làm sao phát triển được nền giáo dục đây hả trời. Hỡi ôi,vậy thì bây giờ câu "bán tự vi sư, nhất tự vi sư" có nên xem xét lại.?
  5. bookshunter

    bookshunter Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2004
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    0
    Xin bác Dumb viết tiếp bài viết của mình đi, bởi vì em chưa hiểu ý bác muốn nói gì bởi bài viết có vẻ không liên quan đến topic này lắm- Các vấn đề tâm lý, Lý thuyết và ứng dụng--
    Tuy nhiên nhân bài viết của bác em cũng xin góp một vài điều thế này:
    ở đây em nói đến giáo viên bậc đại học, em không thể hiểu nổi tại sao việc trở thành giáo viên đại học hiện nay lại dễ dàng đến thế mà những ngưòi được giữ lại giảng dạy là những ai, những sinh viên mới ra trường không một chút kiến thức thực tế(ở đây em nói đến trường đại học của em-một trường đại học kinh doanh được liệt vào hang danh giá), những sinh viên mà kiến thức họ thu được trong quá trình học đại học còn thua xa những sinh viên khác, những sinh viên không biết một chút gì về mô phạm ấy thế mà họ cũng được đứng trên bục giảng để giảng dạy những người khác- nói như một nhà văn: kẻ sát nhân chỉ giết một người nhưng một nhà giáo tồi thì giết chết cả một thế hệ.Vậy thì những giáo viên này phải đáng mang ra cho dựa cột cả ngàn lần.
    Tại sao họ lại chịu làm giáo viên khi họ biết rằng giảng dạy không hay sẽ bị sinh viên khinh thường, nói xấu sau lưng..(bởi họ cùng đã từng là sinh viên), họ chấp nhận điều đó bởi làm giáo viên có biết bao điều lợi : chỗ làm ổn định,công chức nhà nước, cơ hội đi du học, khả năng được phân đất đai và kiếm ra nhiều tiền(bằng cách dạy tại chức). Họ đã quên mất một điều rằng đối tượng một nhà giáo hướng vào là gỉ? đó chính là học sinh, sinh viên. Họ làm giáo viên là vì cái lợi của mình chứ không phải vì sinh viên; họ bán rẻ danh dự, lòng tự trọng của mình để đổi lấy vật chất.Có những người như vậy thì làm sao phát triển được nền giáo dục đây hả trời. Hỡi ôi,vậy thì bây giờ câu "bán tự vi sư, nhất tự vi sư" có nên xem xét lại.?
  6. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Thế đấy, bằng cấp và tâm lý, đặt cạnh nhau mới thấy tính háo danh của người Việt mình, mà nguồn căn sâu xa là thiếu tự tin, dẫn đến choáng ngợp và vĩ cuồng----> háo bề nổi, không thực chất. Bằng cấp như những giá trị cứng nhắc, gò tri thức theo những cái khuôn cổ lỗ và đóng lại những cánh cứa tri thức khỏi những giá trị đích thực mà nó đem lại.
    Thực sự, bài viết của tôi, cũng không thể làm được gì. Viết để cho thoả nỗi lòng. Những người có thể tác động, họ ở cái tuổi không thích thay đổi, thích an toàn hơn.
    Còn gì hơn những giá trị danh nghĩa mà bằng cấp mang lại, để củng cố, tôn nhau và che đậy những yếu kém trước thực trạng không thế bào chữa.
    Giáo dục, có lẽ là vấn đề mấu chốt để có thể đổi mới. Tương lai của chúng ta nằm ở thế hế trẻ. Những gì thế hệ này tiếp thu từ giáo dục lại quyết định nhiều cái họ sẽ làm được?
    Nhưng một khi đồng tiền nắm lấy giá trị tối hậu, những giá trị mỳ ăn liền sẽ được đẩy lên hàng đầu, và những hiện tượng như bạn nêu: danh dự, tự trọng và nhiều điều nữa đã quỳ gối trước uy lực của đồng tiền. Đồng tiền thu hẹp tầm nhìn của chúng ta, ngăn bước đôi chân của chúng ta
    Mà thôi, tôi bạn và nhiều người khác, lời nói có đáng kể chi..
    Chỉ thât buồn, hầu như mọi kiến thức được giảng dạy tại các cấp học, đặc biệt Đại học, chẳng hề giúp nhiều cho mỗi người như cũng như cả một dân tộc.
    Dù sao, cũng cảm ơn đã động viên tôi tiếp tục tô pic này.
  7. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Thế đấy, bằng cấp và tâm lý, đặt cạnh nhau mới thấy tính háo danh của người Việt mình, mà nguồn căn sâu xa là thiếu tự tin, dẫn đến choáng ngợp và vĩ cuồng----> háo bề nổi, không thực chất. Bằng cấp như những giá trị cứng nhắc, gò tri thức theo những cái khuôn cổ lỗ và đóng lại những cánh cứa tri thức khỏi những giá trị đích thực mà nó đem lại.
    Thực sự, bài viết của tôi, cũng không thể làm được gì. Viết để cho thoả nỗi lòng. Những người có thể tác động, họ ở cái tuổi không thích thay đổi, thích an toàn hơn.
    Còn gì hơn những giá trị danh nghĩa mà bằng cấp mang lại, để củng cố, tôn nhau và che đậy những yếu kém trước thực trạng không thế bào chữa.
    Giáo dục, có lẽ là vấn đề mấu chốt để có thể đổi mới. Tương lai của chúng ta nằm ở thế hế trẻ. Những gì thế hệ này tiếp thu từ giáo dục lại quyết định nhiều cái họ sẽ làm được?
    Nhưng một khi đồng tiền nắm lấy giá trị tối hậu, những giá trị mỳ ăn liền sẽ được đẩy lên hàng đầu, và những hiện tượng như bạn nêu: danh dự, tự trọng và nhiều điều nữa đã quỳ gối trước uy lực của đồng tiền. Đồng tiền thu hẹp tầm nhìn của chúng ta, ngăn bước đôi chân của chúng ta
    Mà thôi, tôi bạn và nhiều người khác, lời nói có đáng kể chi..
    Chỉ thât buồn, hầu như mọi kiến thức được giảng dạy tại các cấp học, đặc biệt Đại học, chẳng hề giúp nhiều cho mỗi người như cũng như cả một dân tộc.
    Dù sao, cũng cảm ơn đã động viên tôi tiếp tục tô pic này.
  8. bookshunter

    bookshunter Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2004
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    0
    Sao bác lại bi quan như vậy, tương lai của chúng ta nằm ở thế hệ trẻ, chỉ cần thế hệ này nắm chặt tay nhau, cùng chung một ý chí thì sẽ làm nên điều kỳ diệu.Em tin vào tài năng và trí tuệ của người Việt nam, vấn đề là họ chưa liên kết được với nhau mà thội. Có lẽ lớp trẻ hiện nay chưa có người dẫn dắt xứng đáng, chưa có một lãnh tụ đủ tài năng.
    Giáo dục đúng là vấn đề mấu chốt để có thể đổi mới, lớp trẻ phải học hỏi trau dồi kiến thức, phải thay đổi được những tư tưởng đã ăn sâu từ thời ông bà, bố mẹ để lại. Và như vậy phải cần có thời gian
    Thân ái
  9. bookshunter

    bookshunter Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/02/2004
    Bài viết:
    253
    Đã được thích:
    0
    Sao bác lại bi quan như vậy, tương lai của chúng ta nằm ở thế hệ trẻ, chỉ cần thế hệ này nắm chặt tay nhau, cùng chung một ý chí thì sẽ làm nên điều kỳ diệu.Em tin vào tài năng và trí tuệ của người Việt nam, vấn đề là họ chưa liên kết được với nhau mà thội. Có lẽ lớp trẻ hiện nay chưa có người dẫn dắt xứng đáng, chưa có một lãnh tụ đủ tài năng.
    Giáo dục đúng là vấn đề mấu chốt để có thể đổi mới, lớp trẻ phải học hỏi trau dồi kiến thức, phải thay đổi được những tư tưởng đã ăn sâu từ thời ông bà, bố mẹ để lại. Và như vậy phải cần có thời gian
    Thân ái
  10. dumb

    dumb Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    08/06/2003
    Bài viết:
    728
    Đã được thích:
    2
    Có một bài về các chỉ số của người thành đạt. Trích từ
    http://www4.tintucvietnam.com/vieclam/2004/8/65616.ttvn
    Còn ý kiến của bạn thì thế nào?

    Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
    Bắt đầu từ năm 1990, nhà tâm lý học Peter Salovey ở ĐH Yale và John Mayer ở ĐH New Hampshire đã đưa ra thuật ngữ Trí thông minh cảm xúc (Emotional Intelligence, hoặc Emotional Quotient - EQ). Thực tế cho thấy, cảm xúc chỉ đạo trí thông minh có lẽ còn hơn cả logic toán học.
    Bằng phân tích cấu tạo của bộ não và các xung thần kinh, người ta đã chứng minh được lý trí, mà đại diện là trí thông minh, không có ở dạng thuần túy mà được nuôi dưỡng bởi cảm xúc, và chính phần neocortex (phụ trách suy luận trên não) là nhạc trưởng, nó chỉ đạo, phối hợp, kiểm soát các cảm xúc đột ngột và gán cho chúng một ý nghĩa.
    EQ thể hiện khả năng của một người hiểu rõ chính bản thân mình cũng như thấu hiểu người khác ít nhiều giống với khái niệm mà Gardner gọi là trí thông minh trong người và thông minh giữa người. Hơn thế, nó còn là khả năng chế ngự cảm xúc để thích ứng với hoàn cảnh và kiểm soát các cảm xúc. Người có EQ cao do vậy dễ thích nghi, luôn tìm được sự hòa hợp trong một tập thể, dễ dàng nhận được sự hợp tác hơn những "thiên tài đơn độc" (mà trong thời đại hiện nay, tính tập thể trong làm việc việc hết sức quan trọng). Sau đó, nhà tâm lý học Daniel Goleman xác định cụ thể và có hệ thống hơn trong tác phẩm của ông mang tên Emotional Intelligence.
    EQ một phần là bẩm sinh nhưng cũng do giáo dục, rèn luyện mà có được. Việc giáo dục tình cảm phải được thực hiện từ khi trẻ còn nhỏ, hệ thần kinh chưa trưởng thành, có nhiều cơ hội tiếp nhận những cảm xúc mới. EQ không đối lập với IQ, mà mục đích của giáo dục là phát triển song song hai chỉ số này. Có những người được thiên phú cả hai, nhưng không ít người lại thiếu cả hai.
    Khác với IQ đã xây dựng được một hệ thống trắc nghiệm, đo bằng con số cụ thể, EQ chưa có được một công thức tính toán riêng, vì trí thông minh xúc cảm là một phẩm chất phức tạp, biểu hiện qua những cái khó thấy như sự tự ý thức, sự thấu cảm, tính kiên trì, lạc quan, tính quyết tâm và khả năng hoạt động xã hội.
    Càng ngày, người ta càng cho rằng EQ quan trọng hơn IQ, như người ta thường nói "với IQ người ta tuyển lựa bạn, nhưng với EQ, người ta đề bạt bạn". Những người thành đạt không phải là người có IQ cao nhất mà có EQ cao nhất.
    SQ - Thông minh xã hội
    Rộng hơn nữa, khả năng biết dựa vào EQ kết hợp với sự nhạy bén trong nhận thức những cái mới nảy sinh trong xã hội để chủ động điều tiết cách ứng xử của mình trong cộng đồng được các nhà tâm lý học phát triển thành một khái niệm gọi là Thông minh xã hội (Social Intelligence, xác định bằng chỉ số thông minh xã hội Social Quotient SQ). Khái niệm này do Edgar Doll đưa ra từ năm 1937, với mục đích xác định mức độ hòa nhập vào một tập thể rộng lớn thông qua khả năng đánh giá đúng người, đúng việc, sự khôn khéo, cách xử lý có hiệu quả một cá nhân trước mỗi hiện tượng, sự kiện, mỗi tình huống cụ thể... Đa số câu hỏi trắc nghiệm chỉ số SQ dựa vào tính đối cực do Hans Eysenek đưa ra trên cơ sở các dữ liệu lâm sàng và thống kê. SQ được xem như chiếc chìa khóa để thành công trong cuộc đời, và nếu như các chỉ số khác đều cao, cá nhân đó chắc chắn sẽ là một người thành đạt trong xã hội.
    CQ - "cái vỗ nhẹ" vào vùng não phải
    Bất cứ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng không chỉ dựa vào những cái có sẵn mà phải phát triển nó lên. Tuy nhiên cách phát triển ấy ở mỗi người một khác, có thể là sự tiệm tiến, nhưng cũng có thể là những bước đột phá, những bước nhảy vọt. Khi đó, sự sáng tạo được thể hiện.
    Có những người cho rằng chính sự sáng tạo mới phân biệt giữa người này với người khác và chính nó là cốt lõi của trí thông minh. Đó là lý do để người ta đưa ra một khái niệm mới, một tiêu chí đánh giá nữa, được gọi là Trí thông minh sáng tạo (Creative Intelligence và tương ứng CQ). Xét cho cùng, chính trí thông minh sáng tạo mới làm nên lịch sử khoa học kỹ thuật và công nghệ, mới xây dựng được một kho tàng văn hóa nghệ thuật khổng lồ, mới thúc đẩy sự tiến hóa của nhân loại.
    Nhà tâm lý học người Anh Harry Adler lần đầu tiên đưa ra khái niệm này. Ông nghiên cứu vùng khu trú của những suy nghĩ sáng tạo và định nghĩa một cách đơn giản: "Khả năng sáng tạo là cái loé sáng vỗ nhẹ vào vùng não phải để làm bật ra những ý tưởng". Nói như vậy có nghĩa là tuy phần nào mang tính bẩm sinh, nhưng khả năng sáng tạo vốn có trong tư duy mỗi người và hoàn toàn có thể "rèn luyện" được.
    Adler đã chỉ ra rằng có thể nâng cao hiệu quả của não bộ bằng cách tập suy nghĩ, tìm ra những cái phi thường, cái "loé sáng" trong cái bình thường và đề xuất rất nhiều cách để tạo ra "cái vỗ nhẹ" đó. Cũng chính vì thế, mục tiêu giáo dục ở các nước tiên tiến là không chỉ cung cấp kiến thức đào tạo mà tạo ra những người biết suy nghĩ sáng tạo. Gần đây, người ta đã xây dựng cả một ngành khoa học mang tên ''Tư duy sáng tạo" nhằm mục đích này.
    PC - Say mê quyền lực
    Là bất cứ việc gì cũng chỉ thành công nếu toàn tâm toàn ý dành cho nó. Để đặc trưng cho phẩm chất này người ta đưa ra khái niệm Chỉ số say mê (Passion Quotient, viết tắt PQ) và cùng với nó là Chỉ số nghề nghiệp (Career Quotient CQ). Sự say mê trước hết do định hướng đúng vào công việc được lựa chọn, phù hợp với năng lực và sở trường của mình, vào trí thông minh của mình theo như phân loại.
    GS. Arindam Chaudhari - nhà quản lý nổi tiếng Ấn Độ - cho rằng những người có chỉ số PQ cao bao giờ cũng là tài sản quý của một cơ quan, tổ chức. Ông chỉ ra những phẩm chất của họ là: yêu thích công việc mình làm, họ luôn tận tụy, hoàn thành có chất lượng bất cứ việc gì có liên quan, thất bại chỉ kích thích họ suy nghĩ thêm thấu đáo, chứ không làm họ nản chí, họ làm việc không kể giờ giấc, hay ít ra cũng thường xuyên suy nghĩ về công việc cả trong khi nghỉ ngơi nên tìm ra những giải pháp độc đáo, sáng tạo. Họ luôn luôn nghĩ đến việc gì sẽ làm tiếp theo và tìm cách chạy đua với thời gian. Những phẩm chất đó khiến họ thành công trong nghề nghiệp của mình.
    Nếu ca ngợi một nhà bác học say mê nghiên cứu, một doanh nhân say mê làm giàu thì cũng không thể phê phán một nhà chính trị say mê quyền lực, điều người ta thường nhìn theo khía cạnh tiêu cực vì quyền lợi mà quyền lực mang lại. Trước đây, trong việc đề bạt cán bộ lãnh đạo của Liên Xô, đã đưa tính chất "ham địa vị" như một tiêu chuẩn chọn lựa, xét về mặt tích cực.
    Nhiều người còn đánh giá phẩm chất cá nhân theo Chỉ số đạo đức (Moral Quotient, MQ). Vấn đề này không cần bàn nhiều vì đã được thừa nhận chung. Bao giờ cụm từ "có đức có tài" cũng đi liền với nhau.
    Theo Vnexpress - Khoa học và Đời sống
Trạng thái chủ đề:
Đã khóa

Chia sẻ trang này