1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cái máy cần thiết cho người Việt Nam? "Tổng kết bắt đầu từ các sự việc (fait) người thật, việc thật

Chủ đề trong 'Câu lạc bộ kỹ sư' bởi noandyes, 20/03/2006.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Hiến kế "đưa khoa học - công nghệ trở thành động lực"
    08:07'''''''' 25/09/2005 (GMT+7)
    (nguồn © Báo điện tư? VietNamNet http://www.vietnamnet.vn/bandocviet/2005/09/493095/ )
    Đề nghị các đồng chí hiến kế cho, cả việc Thủ tướng phải làm gì để đưa khoa học công nghệ của chúng ta thành động lực, làm gì để gắn nghiên cứu với đào tạo, đào tạo với nghiên cứu, đi đến phục vụ sản xuất, đưa vào cuộc sống? Và cần có quyết định gì, xin các đồng chí góp ý cho!
    [​IMG]
    Theo thống kê, hiện nay cả nước có hơn 1,8 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng, 16 ngìn thạc sĩ, 14 ngìn tiến sĩ, trong đó lực lượng chuyên nghiệp trực tiếp làm công tác nghiên cứu là khoảng 40 ngìn người. Số cán bộ độ tuổi 30 - 40 và độ tuổi 40 - 50 ở các viện, trường đại học đã phát triển nhanh chóng. Ngân sách Nhà nước đầu tư cho KH&CN ngày một tăng
    Tuy nhiên, hiện nay KH&CN chưa thật sự trở thành động lực của phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế cho thấy trình độ công nghệ của một số ngành sản xuất còn lạc hậu, thị trường công nghệ chậm hình thành. Mức đầu tư cho KH&CN tuy đã tăng, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và vẫn dựa chủ yếu từ nguồn ngân sách nhà nước, chưa huy động được các nguồn đầu tư xã hội, nhất là từ các doanh nghiệp.
    Cơ chế, chính sách đầu tư cho KH&CN chưa được tháo gỡ để tạo nguồn lực và động lực cho các tổ chức KH&CN, các nhà khoa học phát huy tối đa năng lực sáng tạo và đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào ứng dụng thực tiễn. Ðội ngũ cán bộ thiếu các chuyên gia đầu ngành, đây đang là nguy cơ lớn đối với nền KH&CN nước ta. Trong khi đó, cơ chế sử dụng cán bộ và trọng dụng nhân tài chậm được ban hành. Công tác hội nhập quốc tế về KH&CN cũng chưa được quan tâm đẩy mạnh để tìm kiếm, tiếp thu, làm chủ, tiến tới cải tiến công nghệ nhập từ nước ngoài phục vụ đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong xu thế hội nhập. Ngoài ra, sự gắn kết giữa đào tạo - nghiên cứu- sản xuất, kinh doanh; quan hệ hợp tác giữa các tổ chức KH&CN; chất lượng các đề tài nghiên cứu khoa học đã nghiệm thu và việc đưa kết quả nghiên cứu vào cuộc sống vẫn còn nhiều hạn chế.
    Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, trong điều kiện chủ động hội nhập khu vực và quốc tế, thì sứ mệnh của KH&CN càng quan trọng. Nó phải trở thành động lực của sự phát triển.
    Đáp ứng yêu cầu bức bách đó, ngày 24/9 Thủ tướng Chính phủ Phan văn Khải đã có cuộc gặp làm việc với gần 500 nhà khoa học trong cả nước. Lắng nghe, đối thoại và đề xuất các giải pháp, Thủ tướng nêu rõ:
    Chúng ta không còn con đường nào khác, hay vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với đất nước là phải nâng cao chất lượng của sự phát triển, tăng nhanh sức cạnh tranh của từng sản phẩm, của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Các vấn đề nêu trên đặt ra cho đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ nước nhà nhiệm vụ rất nặng nề!
    Chúng ta phải làm gì để tìm ra khâu đột phá?
    Chúng tôi rất muốn các đồng chí đề xuất ý kiến, kiến nghị để Chính phủ qua Bộ Khoa học và Công nghệ cùng với các bộ, Chính phủ nghe vấn đề, xử lý vấn đề áp dụng khoa học vào đời sống và sản xuất. Đây là những vấn đề rất bức bách. Chúng ta phải đi thật nhanh thì mới tránh được nguy cơ tụt hậu.
    Đề nghị các đồng chí hiến kế cho, hiến kế cả việc Thủ tướng phải làm gì để đưa khoa học công nghệ của chúng ta thành động lực, làm gì để gắn nghiên cứu với đào tạo, đào tạo với nghiên cứu, đi đến phục vụ sản xuất, đưa vào cuộc sống? Và cần có quyết định gì, xin các đồng chí góp ý cho!
    Lời kêu gọi hiến kế làm gì để đưa khoa học - công nghệ nước ta trở thành động lực của Thủ tướng Phan văn Khải, đó chính là nội dung của Diễn đàn VietNamNet kỳ này. Mong được bạn đọc trong và ngoài nước cùng tham gia.
    --------------------------------------------------------------------------------
    © Báo điện tư? VietNamNet http://www.vietnamnet.vn/bandocviet/2005/09/493095/

    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 09:50 ngày 19/04/2006
  2. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Nhà khoa học sẽ có lương 1.000-2.000 USD/tháng
    22:11'' 27/02/2006 (GMT+7)
    (Nguồn © Báo điện tư? VietNamNet http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2006/02/545628/ )
    (VietNamNet) - Nhà khoa học có thể được Nhà nước giao ''trọn gói'' tiền, chủ động chi tiêu và hưởng thu nhập 1.000-2.000 đôla mỗi tháng. Đây là điểm đột phá về tư duy thể hiện trong đề án ''Một số chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ, giai đoạn 2006-2010'' do Bộ Khoa học và Công nghệ soạn thảo.
    Để nhà khoa học không phải ''chân trong, chân ngoài''


    [​IMG]
    Bộ trưởng Hoàng Văn Phong. Ảnh: V.Tiến
    Trao đổi với VietNamNet, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Hoàng Văn Phong cho biết:
    ''Với để án này, các nhà khoa học có thể được Nhà nước giao ''trọn gói'' tiền, chủ động chi tiêu và hưởng thu nhập 1.000-2.000 đôla mỗi tháng.
    Mục tiêu của đề án là làm sao tạo điều kiện tốt nhất về chính sách sử dụng cán bộ. Trước hết, làm sao tuyển chọn được chính xác, phát hiện được người giỏi, người tài, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của họ muốn được làm gì. Hiện nay, chúng ta chuyển sang nền kinh tế thị trường thì Nhà nước không thể lo hết công ăn, việc làm cho những người tốt nghiệp đại học. Nhà nước cùng xã hội chỉ lo công ăn việc làm chung, còn ai phù hợp với công việc gì thì cá nhân phải tự vươn lên phấn đấu.
    Khi đã có việc rồi thì Nhà nước lo điều kiện làm việc như thế nào cho họ phát huy tốt nhất. Trong điều kiện làm việc có vấn đề thu nhập, bởi nếu trả lương không đầy đủ thì họ vẫn phải ''chân trong, chân ngoài'' đi làm thêm để bù đắp lại cái mà Nhà nước không lo đủ. Như vậy họ sẽ phân tâm, không làm tốt nhiệm vụ chuyên môn. Mà cái chính cần là họ làm tốt chuyên môn! Họ làm giỏi, ra được những công trình xứng đáng, ra được giải pháp thúc đẩy sản xuất.
    Nhưng không một nước nào ngay lập tức tạo điều kiện hết cho tất thảy mọi người. Bởi vì không làm rõ tính khả thi, hiệu quả thì anh không có tài năng cũng được hưởng thu nhập cao. Do đó, phải xác định rõ tính khả thi công việc nhà khoa học đang làm. Khi nào thấy được khả thi cao thì Nhà nước sẽ áp dụng mức thu nhập đặc biệt".
    Đầu tư cho các nhà khoa học trẻ
    - Nghĩa là tính khả thi, hiệu quả của công trình nghiên cứu sẽ được coi là tiêu chí hàng đầu để thực hiện chính sách ưu đãi?
    - Nhà nước cố gắng tạo điều kiện tối đa. Nhưng ngân sách là tiền thuế của dân đóng góp. Cho nên phải đánh giá, dự báo hiệu quả nhà khoa học làm ra để đầu tư. Không thể lo cho tất cả, các vị muốn làm ra cái gì thì ra, hiệu quả thế nào cũng được! Người dân họ nghĩ: Cái vị ấy (nhà khoa học) rất đáng trân trọng nhưng tiền này của chúng tôi đóng thuế, tôi phải xem anh làm có khả thi không?
    Cho nên thu nhập cũng chỉ là một yếu tố trong chính sách tuyển chọn, sử dụng cán bộ, trọng dụng người tài. Người tài cần được quan tâm kịp thời hơn, mạnh hơn, cao hơn vì họ có sức lan toả rất lớn. Nhưng ở đây phải nói Nhà nước không bao cấp hết được!
    - Vậy thưa Bộ trưởng, chúng ta sẽ tập trung vào đối tượng nhà khoa học, công trình khoa học cụ thể nào?
    - Một là những người đã thể hiện thực sự giỏi, được giao nhiệm vụ quan trọng quốc gia. Hai là cán bộ trẻ, sức bật, năng lực rất lớn, sức sáng tạo còn ''tươi'' thì đầu tư vào.
    Số còn lại không phải ''bỏ đi'' mà trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương, của tổ chức khoa học phải bằng nội lực của mình, ngoài tiền của Nhà nước, quan tâm đến người ta. Nếu quan tâm đẩy các nhà khoa học đến thành công thì họ cũng lọt vào danh sách nhận nhiệm vụ quốc gia.
    Đây là vừa Nhà nước lo nhưng vừa là xã hội hoá. Nếu như ''người tài là nguyên khí của quốc gia'' thì ai cũng phải lo. Nhà nước lo được đến đâu thì lo hết sức. Còn ở đâu chưa lo được thì các viện, các trường, các bộ, các ngành, địa phương phải lo tiếp cùng Nhà nước. Vì thế các nhà khoa học sẽ có mức thu nhập 1.000-2.000 đôla mỗi tháng hay cao hơn nữa tuỳ vào ngân sách của mình.
    Giao quyền chủ động cho nhà khoa học
    - Nhưng công trình thế nào được xác định là nhiệm vụ quan trọng quốc gia?
    - Thế nào là nhiệm vụ quốc gia cũng có tiêu chí. Vận dụng vào từng lĩnh vực như điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học, sức khoẻ con người... thì có những đặc thù. Khi xét tuyển thì áp dụng tiêu chuẩn đấy vào.
    Anh giỏi ''học'' nhưng lĩnh vực của anh không phát huy được, người khác giải quyết được thì được hưởng chính sách này. Cho nên quan trọng nhất là anh đủ tiêu chuẩn nhận nhiệm vụ quốc gia và anh được giao nhiệm vụ ấy. Bản thân anh cũng phải vươn lên, đề xuất nhiệm vụ ấy là nhiệm vụ quan trọng quốc gia thì anh được hưởng ưu đãi.
    Bây giờ chúng ta phải học kinh nghiệm các nước như Mỹ, Nhật, là Nhà nước chỉ tạo cơ hội. Cơ hội đấy dứt khoát có người hưởng, cơ hội được thực hiện. Còn làm được hay không thì anh phải giải trình, thuyết minh, chứng minh được vấn đề đó là quan trọng. Chứng minh anh làm được, tạo ra lợi ích cho sản xuất và đời sống. Nhưng để nhận được nhiệm vụ quốc gia thì phải từ cả 2 phía. Nhà nước tìm hiểu, phát hiện, săn lùng người giỏi nhưng anh em khoa học cũng phải chủ động, giới thiệu, giải trình xem thực sự mình có thể làm được và làm tốt.
    - Thưa Bộ trưởng, quan trọng nhất hiện nay là Nhà nước tạo điều kiện làm việc cho nhà khoa học phát huy hết khả năng, trí tuệ của họ?
    - Nhà nước không thể biết hết được nhà khoa học trong từng lĩnh vực y, nông nghiệp, điện tử viễn thông cần phải tạo điều kiện thế nào. Bởi vì chỉ anh biết được máy móc này cần, biết việc đi hội nghị là cần chứ làm sao Nhà nước biết được. Anh có nhà rồi cần gì nhà, có ôtô rồi cần gì mua ôtô... Nhà nước chỉ lo: ''Thôi, cũng giống như hiện nay xu hướng đưa ra tất cả lương, vào thu nhập''. Cho nên lúc đầu tạo điều kiện thu nhập, cho anh có khoản tiền nào đó. Còn sử dụng vào việc nào là của anh, ai được hưởng là việc của tập thể các anh chứ Nhà nước không làm thay.
    Nhà nước làm sao biết được điều kiện làm việc cho 200 nhà khoa học? Nhà nước chỉ biết tạo cơ hội cho 200 nhà khoa học được hưởng thu nhập. Còn điều kiện A, điều kiện B, nhà khoa học hãy tự lo! Được một khoản tiền nhà khoa học chủ động sử dụng, mua máy móc, thuê chuyên gia vào, đi nước ngoài...
    Cho nên phải thay đổi tư duy! Nhà nước tạo cơ hội và sẵn sàng cho cơ hội được thực hiện. Ai vào được cơ hội đó Nhà nước phải có trách nhiệm. Nhưng anh em, đồng nghiệp với nhau thì cũng phải giới thiệu nhau lên. Bản thân mình cũng phải thể hiện làm được, xứng đáng được hưởng thu nhập cao. Chứ không phải chứng minh xứng đáng hưởng thu nhập cao mà không làm gì!
    Khoa học nói không cần tiền là ''chưa thật lòng''!
    - Nhưng một số nhà khoa học nói rằng quan trọng nhất với họ là điều kiện làm việc chứ không hẳn là thu nhập?
    - Đừng nghe một số nhà khoa học nói là khoa học không cần tiền! Nói như thế là không đúng! Anh cần điều kiện làm việc tức là anh cần tiền. Ai lo việc ấy? Nhà nước lo, bỏ tiền cho anh mua thiết bị, xây nhà, đi công tác nước ngoài, mua tài liệu... Tôi cho anh tiền mức nào đó để chủ động. Định mức mỗi người dùng 600 giờ Internet, nhưng anh chỉ cần dùng 200 giờ thì được hưởng 400 giờ còn lại, tôi đòi làm gì. Bắt buộc anh phải mang hoá đơn dùng 600 giờ thì tôi mới chi? Không có chuyện đó! Tức là khi có chế độ thì các nhà khoa học toàn quyền sử dụng tiền, miễn là ra kết quả. Nhà nước chỉ quan tâm đến kết quả!
    Tôi nghĩ những người ấy chưa thực sự cầu thị, chưa nói thật lòng mình, Trừ một số nhà khoa học tâm huyết nói ''tôi khó khăn, tôi vẫn làm được''. Tinh thần vượt khó thì tốt chứ đừng nói là khinh đồng tìền. Đồng tiền của dân, người ta làm ''đổ mồ hôi, sôi nước mắt''!
    Chúng tôi muốn ra chính sách phải làm việc với Bộ Tài chính. Ai đó nói ''không cần tiền, chỉ cần điều kiện làm việc''. Nói như thế chính lại gây khó khăn cho những người quan tâm đến mình. Vì Bộ Tài chính bảo: ''Các ông có cần tiền đâu, các ông xin thu nhập cho cán bộ khoa học làm chi?''
    ''Thế hệ trẻ đang la chúng ta!''
    - Xin Bộ trưởng cho biết đã nhận được phản ứng như thế nào từ các nhà khoa học đối với đề án nói trên?
    - Cán bộ trẻ rất ủng hộ! Khoảng từ 45 tuổi trở xuống rất ủng hộ! Còn lại một số người khác không nhiệt tình lắm! Tôi mới hỏi: ''Bây giờ các anh không làm, chính sách đưa ra thì các anh chê! Thì thời gian các anh đương nhiệm, là viện trưởng, viện phó... sao các anh không làm chính sách ấy?''
    Nhưng anh em khoa học trẻ rất hưởng ứng. Bởi vì các em ra cuộc sống bây giờ phải lăn lộn, các em được quyền tìm chỗ nào thu nhập tốt. Nhà nước quan tâm đến các em, khích lệ, động viên về tinh thần nhưng đồng thời tạo điều kiện vật chất tối thiếu cho họ yên tâm làm việc. Chứ đừng bảo: ''Chúng mày cần tiền, lao vào tiền là thực dụng quá! Thế hệ đi trước đã phải khó khăn như thế nào!'' Tôi nói điều này: ''Thế hệ trẻ đang ''la'' chúng ta!'' Có thể các em làm việc đi nước trong, nước ngoài, không quen thói tiêu xài nhiều tiền, nhưng các em được quyền yêu cầu: ''em làm xứng đáng được trả thu nhập cao như vậy''. Cho nên phải sòng phẳng!
    Đại đa số anh em làm khoa học trẻ rất tâm huyết, ủng hộ chính sách này là đúng. Ở nước ngoài, các em nhận được chào mời làm việc với mức lương vài trăm cho đến hàng nghìn đôla. Nhưng Nhà nước trả lương khởi điểm hệ số 1,8, tương đương 500-600 ngàn đồng/tháng thì rõ ràng các em không không có tiền để lấy vợ, không có tiền để nuôi con.
    - Cho dù nhà khoa học sẽ được hưởng ưu đãi đặc biệt về thu nhập nhưng đó vẫn chỉ là số ít trong khi thu nhập của nhiều nhà khoa học hiện nay vẫn rất thấp?
    - Bằng khả năng của mình, các nhà khoa học sẽ phải chứng minh cho người dân là ''đầu tư cho chúng tôi có hiệu quả''. Khi đó, họ không chỉ được trả thu nhập 1.000-2.000 đô mà có khi là 3.000 đô trở lên. Thứ hai, các cơ quan có thẩm quyền, kể cả Quốc hội, kể doanh nghiệp sẽ tạo điều kiện, đặt hàng, bỏ tiền cho khoa học làm. Đấy là điều lợi lớn nhất! Quan trọng nhất bây giờ là có một thí điểm làm thành công đi, để xã hội, Nhà nước tin tưởng, bỏ tiền cho anh làm.
    - Đề án nói trên của Bộ Khoa học và Công nghệ bao giờ sẽ được triển khai, thưa Bộ trưởng?
    - Chúng tôi dự kiến sẽ trình Thủ tướng Chính phủ ký quyết định phê duyệt trong năm nay. Cố gắng triển khai trong năm nay, càng sớm càng tốt!
    - Xin cảm ơn Bộ trưởng!
    Văn Tiến
    thực hiện
    --------------------------------------------------------------------------------
    (© Báo điện tư? VietNamNet http://www.vietnamnet.vn/chinhtri/doinoi/2006/02/545628/ )
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 09:22 ngày 19/04/2006
  3. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Thưa Bộ trưởng, khoa học đang đi về đâu?
    10:02'' 22/03/2006 (GMT+7)
    (Nguồn © Báo điện tư? VietNamNet http://www.vietnamnet.vn/khoahoc/2006/03/552651/ )
    (VietNamNet) - Gần đây Bộ Khoa học và Công nghệ (KHCN) có đưa ra môt số chủ trương đổi mới quản lý khoa học và công nghệ, đặc biệt là đề án ?ochính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ khoa học và công nghệ, giai đoạn 2006-2010?
    [​IMG]
    GS Hoàng Tụy. (Ảnh: Nguyên Vũ)
    Cũng như đối với mọi chủ trương mới ở thời kỳ chuyển đổi này, bên cạnh những ý kiến hoan nghênh cũng có những ý kiến còn phân vân. Đó là việc bình thường và lành mạnh. Tuy nhiên, vừa qua trên diễn đàn www.most.gov.vn/fa_news , lãnh đạo Bộ KHCN đã có phản ứng gay gắt không bình thường đối với những ý kiến không hợp ý mình.
    Bày tỏ sự bức xúc, GS Hoàng Tụy gửi cho VietNamNet những suy nghĩ xung quanh các chính sách khoa học hiện hành. Dưới đây là nội dung bài viết.
    Phát triển khoa học, công nghệ cùng với giáo dục đã từng được trịnh trọng nêu lên là quốc sách hàng đầu, song cho đến nay khoa học, công nghệ vẫn chưa thật sự khởi sắc. Phải chăng vì đầu tư chưa đủ mức, vì đội ngũ khoa học, công nghệ của ta quá yếu kém, hay vì nguyên nhân gì khác ? Câu hỏi này đã từng đặt ra nhiều lần. Và cũng đã nhiều lần các cơ quan quản lý nhận định đúng đắn rằng nguyên nhân quan trọng nhất, nếu không nói chủ yếu, là thiếu chính sách thich hợp để động viên và phát huy tiềm năng của đội ngũ khoa học. Tiếc thay, chúng ta thường chỉ nhận định xong rồi để đó, vài năm sau lại lặp lại y như trước, làm mất hết lòng tin của những người thiết tha với sự nghiệp. Lần gần đây nhất là năm 2001, hưởng ứng lời kêu gọi của Thủ Tướng, nhiều người đã góp những ý kiến rất chân thành, tha thiết, mà rồi, cũng như các lần khác, mọi ý kiến tiếp tục chìm trong im lặng, ngoại trừ Nhà Nước tốn thêm mấy trăm triệu chi cho các cơ quan ?onghiên cứu cơ chế chính sách? để sản xuất thêm một số kiến nghị đút vào ngăn kéo vốn đã đầy ắp những văn kiện tương tự. Mong rằng lần này, với áp lực hội nhập, chúng ta sẽ làm việc nghiêm túc hơn, trung thực, thẳng thắn và kỹ càng hơn, để có những hành động thiết thực, tạo được chuyển biến thật sự, gây lòng tin đã được chờ đợi từ quá lâu rồi.
    "Có thực mới vực được đạo"
    Trong giáo dục đã từng có ý kiến đổ lỗi những sự trì trệ, bê bối cho sự yếu kém của đội ngũ giáo viên. Trong khoa học chúng ta cũng thường được nghe những ý kiến chê trách đội ngũ khoa học. Của đáng tội, bệnh hám danh, cơ hội, chạy theo chức tước địa vị, đố kỵ, kém ý thức hợp tác, v.v., khá phổ biến trong giới khoa học. Song theo tôi, cần lật ngứợc lại cách suy nghĩ để thấy rằng một phần khá lớn những yếu kém đó chẳng qua cũng chỉ là hậu quả tất yếu của những bất cập, hư hỏng, kéo dài hàng chục năm nay của bộ máy quản lý, không chỉ thiếu tầm, mà thiếu cả tâm, và không phải chỉ từ cấp thừa hành mà từ cấp cao.
    Nói gì thì nói, xây dựng chính sách khoa học phải nhằm mục tiêu phát huy tối đa năng lực khoa học của đất nước, làm sao cho hiệu suất lao động khoa học đạt mức cao nhất có thể được. Muốn vậy, cần hiểu đúng một số đặc thù của lọai lao động này, các nhu cầu vật chất, tinh thần, cần đáp ứng để nhà khoa học có thể làm việc hết sức mình và cống hiến.
    Trước hết là lương và thu nhập thực tế, vì có thực mới vực được đạo, như ta thường nói.
    Cách đây không lâu, nhân giải thich những tiêu cực nghiêm trọng trong ngành đăng kiểm vừa bị báo chí phanh phui, một quan chức phàn nàn rằng lương trung bình một nhân viên đăng kiểm chỉ khoảng 3 triệu/tháng là quá thấp. Thật lạ lùng, trong lúc đó, lương một giáo sư giỏi đại học chỉ hai triệu/tháng mà rất ít thấy vị lãnh đạo nào xót xa, mặc dù đã bao lần bàn thảo về các biện pháp và chiến lược phát triển khoa học và giáo dục.
    Từ lâu các nhà khoa học đã được bảo: Nhà Nước chỉ đủ tiền trả lương chừng ấy, các anh hãy tự xoay xở ! Và thực tế, sau mấy năm, họ cũng tự xoay xở được cả, đến nay phần đông có mức sống chẳng đến nỗi nào, một số còn giàu lên, thu nhập phụ hàng tháng lên tới hàng chục triệu, đâu kém gì mức trần 1000-2000 USD do Bộ KH và CN đề nghị cho những nhà khoa học ?oxuất sắc? đảm nhận nhiệm vụ quốc gia !
    Chỉ có điều mức thu nhập phụ đó ở đâu ra, phải trả bằng những giá nào cho khoa học, giáo dục và kinh tế, thì các Bộ Tài Chính, Nội vụ, Giáo dục, và Khoa học nên suy nghĩ có trách nhiệm hơn.
    Với cách trả lương kỳ quặc này, nhà khoa học chỉ có thể dùng một phần nhỏ thời gian và tâm trí để làm khoa học theo đúng trách nhiệm, còn lại phải làm những việc khác, tuy không đúng với năng lực, sở trường và trách nhiệm, nhưng đem lại phần lớn thu nhập cho họ.
    Rốt cuộc, tổng số tiền của xã hội đầu tư cho khoa học dù còn ít nhưng không nhỏ đối với chúng ta (kể cả công quỹ và mọi nguồn khác), thế mà sau hàng chục năm, khoa học vẫn còi cọc, nhiều ngành cứ lịm dần, chờ ngày bị xóa sổ nếu không được hồi sức kịp thời. Chỉ xin nêu ra một vài ngành khoa học cơ bản: không kể một số ít giáo sư trình độ cao, nhưng tuổi còn cao hơn, và một số ít người trẻ tài năng còn làm việc trong nước, thì còn gì ? Dăm năm nữa số đầu bạc nghỉ hẳn, hoặc nằm xuống hoặc đuối sức, còn số trẻ giỏi thì tiếp tục tìm đường đi ra, trong lúc đó, với cơ chế quản lý này, rất ít người trẻ đã thành tài ở nước ngoài muốn trở về nước làm việc. Đến khi ấy, tuổi trung bình của các nhà khoa học đang thật sự hoạt động trong các ngành này sẽ là bao nhiêu ? 65 ? 70 ? Đó có phải là chết lịm dần hay không ?
    Nhưng cái hại của chính sách lương sai lầm không phải chỉ có thế. Nếu trong toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước nó là nguyên nhân cơ bản sản sinh ra và nuôi dưỡng tham nhũng tràn lan, thì trong khoa học nó tác động nặng nề đến tính trung thực, khiến sự gian dối, làm láo báo cáo hay, hoặc như báo Lao Động đã có lần viết, ?otreo đầu dê bán thịt chó?, không phải chuyện hiếm trong làng khoa học.
    Trên một nền tảng đạo đức học thuật như vậy mà số tiến sĩ, ?oviện sĩ? dỏm mỗi năm đều tăng với một mức không có nước nào trong khu vực bì kịp thì thử hỏi sự ô nhiễm môi trường khoa học nguy hiểm đến đâu. Khi sự gian dối đã len vào mọi hoạt động khoa học và giáo dục thì nó có nguy cơ biến thành một nếp sống, một nét văn hóa phổ biến cực kỳ xấu xa của xã hội.
    Vì vậy để có chuyển biến thật sự chẳng những trong khoa học, công nghệ mà trong nhiều ngành quan trọng khác nữa, vấn đề cấp bách, vấn đề của mọi vấn đề, là cần giải quyết thỏa đáng chế độ lương cho nhà khoa học, để họ không phải kiếm sống bằng những công việc khác, mà có thể dành hết tâm trí cho khoa học. Nhiều quan chức nói rằng điều này không khả thi vì chỉ muốn nâng lương cho mỗi nhà khoa học vài triệu đồng/tháng thôi cũng đã vượt quá khả năng của ngân sách. Song không phải như vậy. Một bài nghiên cứu của TS Vũ Quang Việt đăng trên VietNamnet cách đây không lâu về những con số giật mình trong các chi tiêu giáo dục, đã chứng minh điều ngược lại.
    Điều kiện và môi trường làm việc: Bệ phóng cho nhà khoa học
    Tuy nhiên, lương, dù cấp bách đến đâu cũng chưa phải là tất cả vấn đề. Kinh nghiệm cho thấy Kuwait, Brunei, hay một số nước giàu có khác, trả lương rất cao mà khoa học của họ có ra gì. Ngay trong nước ta, chính sách ?ochiêu hiền đãi sĩ ?o của một số địa phương đưa ra mấy năm qua cũng chỉ để tuyên truyền nhiều hơn chứ đã có mấy kết quả thiết thực.
    Ai dấn thân vào khoa học đều hiểu rằng đây không phải là nghề để làm giàu. Một phát minh khoa học thường phải có thời gian mới thấy hết lợi ích của nó, hơn nữa do những tương quan liên ngành chằng chịt trong khoa học và công nghệ ngày nay, không phải lúc nào cũng có thể đánh giá dễ dàng lợi ích trực tiếp của một ngành khoa học riêng lẻ hay một phát minh khoa học riêng lẻ đối với sản xuất và đời sống. Trái lại, một quyết định sáng suốt của nhà quản lý giỏi có thể đem lại hàng tỉ đô la lãi cho công ty trong thời gian ngắn, hoặc một sáng kiến kỹ thuật cũng có thể làm lợi ngay được hàng triệu đô la. Vì thế, dễ hiểu rằng ở các nước tiên tiến lương của tổng giám đốc hay chủ tịch hội đồng quản trị các công ty lớn thường cao hơn nhiều lần lương các bác học lớn. Song điều đó hoàn toàn không có nghĩa xã hội đánh giá thấp sự đóng góp của nhà khoa học, mà chẳng qua chỉ phản ảnh một đặc thù của hoạt động khoa học.
    Được lan0303 sửa chữa / chuyển vào 09:25 ngày 19/04/2006
  4. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Nhà khoa học cần mức lương thỏa đáng, là để bảo đảm một mức sống tương đối, chứ không ai nghĩ đến mấy chục triệu hay mấy trăm triệu như giám đốc nhiều doanh nghiệp nhà nước, mà món nợ khổng lồ có lẽ sẽ còn đè nặng lên vai con cháu chúng ta nhiều thế hệ nữa. Cho nên vấn đề lương cho nhà khoa học không phải quá khó, nếu cơ quan quản lý thật sự quan tâm. Điều khó hơn nhưng lâu nay ít được chú ý là trên cơ sở đồng lương thỏa đáng còn cần phải bảo đảm những điều kiện, và môi trường làm việc thích hợp thì mới thật sự khuyến khích được lao động khoa học.
    Đam mê của nhà khoa học, niềm vui của họ, là sáng tạo, muốn phát huy tối đa năng lực sáng tạo đó họ cần lương đủ để dành trọn thì giờ làm việc. Nhưng đồng thời để làm việc có hiệu quả họ còn cần chỗ làm việc đủ tiện nghi tối thiểu, cần phương tiện làm việc thuận tiện (phòng thí nghiệm, thư viện, internet, thông tin, liên lạc), cần hậu cần khoa học tốt (hỗ trợ các việc văn phòng), v.v. , cần sự thông cảm, ủng hộ và tôn trọng của xã hội và các cơ quan quản lý, cần có bạn bè, đồng nghiệp, học trò, và bầu không khí sinh hoạt học thuật dân chủ, phóng khoáng, lành mạnh, khuyến khích sự trao đổi bình đẳng giữa các ý kiến khác nhau, v.v. Chỉ với những điều kiện và một môi trường như thế mới hy vọng có nhiều nhà khoa học làm việc ngày đêm, lăn xả vào những nhiệm vụ khó khăn nhất, như thường thấy ở các trung tâm khoa học lớn trên thế giới.
    Một chính sách khoa học không chú ý đầy đủ các đặc thù nói trên dễ phạm sai lầm ấu trĩ và bất cập. Chẳng hạn, vì không hiểu cơ chế tác động qua lại phức tạp giữa khoa học và thực tiễn nên khi thì đòi hỏi máy móc mọi công trình khoa học phải có ứng dụng ngay vào đời sống và sản xuất, khi khác lại tôn vinh những giá trị khoa học vu vơ, khuyến khích tâm lý chạy theo danh hão rất nặng nề (và khá tốn kém, vì những danh hão ấy đều mua bằng ngoại tệ). Cũng vì không chú ý các đặc thù của khoa học nên một mặt coi thường lương, mặt khác cho phép sử dụng phần lớn kinh phí cấp phát cho các đề tài khoa học để bổ sung thu nhập, mà việc duyệt và nghiệm thu đề tài lại rất tùy tiện, hình thức, không khuyến khích tài năng mà chỉ kích thích các hoạt động tiêu cực. Tiền lương đã thế, còn chỗ làm việc thì theo quy định của Bộ tài chính giáo sư không có buồng làm việc riêng, ít ra phải nhiều năm nữa mới được chỗ làm việc 6m2/người, không bằng không gian cho một phó phòng hành chính cấp thấp hiện nay; một giờ giảng của giáo sư được trả 12000đ, còn một giờ giảng của Thứ bộ trưởng, bất cứ trình độ nào, cũng được trả 15000đ. Dù đây chỉ là những quy định hình thức vớ vẩn nhưng cũng đủ phản ảnh khá rõ mức độ tôn trọng của các cơ quan nhà nước đối với khoa học như thế nào.
    Với những điều kiện và môi trường như vậy, lương có cao bao nhiêu cũng khó thu hút được các nhà khoa học giỏi. Cho nên, trong buổi làm việc hồi tháng 9 với Thủ Tướng tôi có nói: nhà khoa học cần lương, nhưng cái cần hơn nữa là điều kiện và môi trường làm việc.
    Thưa Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ!
    Thật đáng kinh ngạc, một điều đơn giản như thế mà ông Bộ trưởng KH và CN cũng không hiểu nổi, khi ông nói: Đừng tin những nhà khoa học nói không cần tiền, họ nói thế là không thật lòng (giả dối !), không thực sự cầu thị; tại sao ?okhinh? tiền, đồng tiền của người dân, người ta làm ?ođổ mồ hôi sôi nước mắt? ! Ôi giá như đây là điều tâm niệm của các quan chức như ông Bộ trưởng thì đâu đến nỗi lương một giáo sư chỉ có vài triệu/tháng, và hôm nay chúng ta đâu phải nhắc nhở nhau nhớ tới đồng tiền của dân để bàn về cái đề án đấu thầu đề tài khoa học mà hễ ai ?ochê? thì hẳn là người có tư duy cổ hủ !
    Thưa ông Bộ trưởng, trong quản lý kinh tế, chúng ta đã (và đang) trả giá đắt cho hàng trăm doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ bạc tỉ mà giám đốc vẫn hưởng lương cao ngất ngưởng, gây thiệt hại lớn cho xã hội. Các doanh nghiệp ấy đều do Nhà Nước lập ra và ?ochọn mặt gửi vàng? để giao quyền quản lý trọn gói cho các giám đốc. Họ cũng được bảo: cái gì cần tiêu cứ tiêu thoải mái, Nhà Nước chỉ quan tâm kết quả; còn các dự án phải đấu thầu nghiêm chỉnh. Thế nhưng việc gì đã xảy ra ở công ty dầu khí, PMU 18, v.v. ông có biết không ? Ông có bảo đảm rằng các cơ quan khoa học mà trong quá khứ không thiếu tiếng này điều kia sẽ hoàn toàn trong sạch khi ông phụ trách ?
    Với thiện chí tôi có thể tin được lời hứa tốt đẹp, song kinh nghiệm các xã hội văn minh đều cho thấy tránh sự cám dỗ vẫn an toàn hơn là đương đầu với nó. Vậy có nên bê cách quản lý tập trung quan liêu vào khoa học không ?
    Thật trớ trêu, trong lúc chúng ta đang cần thoát ra khỏi cái ách quản lý tập trung quan liêu, chẳng lẽ riêng ngành quản lý khoa học lại ?ođổi mới tư duy? bằng cách quay trở lại cái ngõ cụt đáng nguyền rủa ấy ?
    Tôi đã có dịp làm nghiên cứu khoa học và thẩm định các đề tài khoa học ở nhiều nước, không thấy ở đâu có kiểu quản lý khoa học như chúng ta. Bộ KH và CN nói là học tập cách quản lý của Mỹ, Nhật, nhưng tôi có thể khẳng định cách làm của ta hoàn toàn khác, mà những cái khác ấy cũng chẳng phải do xuất phát từ đặc điểm gì riêng của ta cả.
    Làm một con đường, xây một nhà máy, là những công việc phức tạp nhưng đã có sẵn quy trình, và kết quả biết trước chắc chắn, do đó có thể đấu thầu để chọn phương án rẻ nhất, tốt nhất, lợi nhất. Còn nghiên cứu khoa học là tìm cái mới, dò dẫm, có khi không tìm được cái định tìm nhưng lại tìm ra cái không dự kiến, quá trình sáng tạo không thể chắc chắn 100% mà thường có nhiều yếu tố bất ngờ. Cho nên chẳng ở đâu có chuyện đấu thầu để thực hiên một đề tài khoa học định sẵn, mà cũng chẳng ở đâu Nhà Nước định ra cả trăm đề tài khoa học cụ thể rồi đưa ra đấu thầu trong giới khoa học.
    Nhà khoa học muốn sáng tạo cần có cái gọi là ?otự do hàn lâm? (academic freedom) trong phạm vi nhất định, và thông thường chỉ có chuyên gia từng lĩnh vực, am hiểu và có kinh nghiệm nghiên cứu trong lĩnh vực đó mới biết nên nghiên cứu đề tài gì và cần phương tiện gì.
    Và cũng chỉ có chuyên gia cùng ngành (peer) với họ mới có thể đánh giá và thẩm định một đề tài nào đó có đáng được nghiên cứu hay không. Chứ làm sao một nhóm người nào đó, dù tất cả là bậc thầy chăng nữa, có thể sáng suốt định ra được 95 đề tài khoa học cụ thể để cho các nhà khoa học VN đấu thầu kinh phí nghiên cứu?
    Làm như thế có khác gì để phát triển văn học, Nhà Nước chọn ra 95 đề tài tiểu thuyết rồi kêu gọi các nhà văn đấu thầu để được giao kinh phí viết tiểu thuyết theo từng đề tài ấy ? Như thế mà lại gọi là vận dụng cơ chế thị trường váo quản lý khoa học ư ?
    Ở các nước ngưới ta không làm máy móc như vậy. Nhà Nước chỉ xác định một số hướng ưu tiên (thường không nhìều lắm) để tập trung đầu tư cho những nghiên cứu về các hướng đó, thông qua các viện hay đại học (công hay tư) do Nhà Nước lập ra (như Viện KIST ở Hàn Quốc) hay các tổ chức tư nhân lập ra.
    Tuy nhiên trong mỗi hướng ưu tiên, cần nghiên cứu đề tài gì vẫn phải do chuyên gia bàn thảo và quyết định. Nhà Nước thực hiên sự kiểm tra qua các sản phẩm làm ra, thể hiện ở các ứng dụng thực tế hay các công trình được công bố trên các tạp chí chuyên ngành quốc tế.
    Đối với các nghiên cứu thuộc những hướng ưu tiên thì như vậy, còn những đề tài nhằm giải quyết những vấn đề thiết thân của từng doanh nghiệp thì các doanh nghiệp tự làm, với sự hợp tác và giúp đỡ của các đại học và viện nghiên cứu. Các đề tài chưa rõ địa chỉ ứng dụng cụ thể hoặc có tính chất lâu dài về khoa học cơ bản, đòi hỏi nhiều đầu tư có tính rủi ro cao thì do chuyên gia ở các đại học và viện nghiên cứu chọn rồi có thể xin tài trợ của Nhà Nước (hoặc các tổ chức tư nhân) thông qua các quỹ hỗ trợ nghiên cứu khoa học.
    Đề tài nào muốn được tài trợ thì làm đề án gửi lên cơ quan quản lý quỹ hỗ trợ, ở đây họ tổ chức lấy ý kiến thẩm định của các chuyên gia cùng lĩnh vực (peer review) và dựa vào đó quyết định tài trợ cho những đề tài nào.
    Quy tắc quản lý tài chính của các đề tài rất rành mạch: chỉ các đề tài nghiên cứu do các doanh nghiệp đặt hàng theo nhu cầu của họ mới có thể có thù lao, hay thưởng công cho người nghiên cứu, còn các đề tài khác thì kinh phí thường chỉ được phép dùng để chi cho các nhu cầu về phương tiện nghiên cứu (mua sắm thiết bị, vật liệu, phần mềm, tham gia các hội nghị học thuật, mời nhà khoa học ở nơi khác đến để hợp tác nghiên cứu, v.v..), chứ không có phần ?otrả công? để tăng thu nhập cá nhân cho người nghiên cứu.
    Như vậy lợi ích thực tế mà nhà khoa học được hưởng không phải ở chỗ được trả công nghiên cứu (vì coi việc nghiên cứu là nhịệm vụ, đã được tính đến trong lương), mà ở chỗ được có điều kiện nghiên cứu về những vấn đề mình tâm đắc; mỗi đề tài được tài trợ cùng với các kết quả nghiên cứu là những bằng chứng thành tích hoạt động khoa học, được ghi nhận trong hồ sơ cá nhân có lợi cho sự thăng tiến nghề nghiệp của nhà khoa học.
    Như vậy động lực thúc đẩy nghiên cứu không phải là thu nhập trực tiếp qua đề tài mà là lợi ích lâu dài và cơ bản của công tác nghiên cứu. Khi đề tài thực hiện xong không cần tổ chức nghiệm thu như ta làm một cách hình thức và thường không khách quan, mà chỉ cần báo cáo kết quả cho cơ quan tài trợ. Việc thẩm định các đề tài để tài trợ không chỉ căn cứ vào nội dung đề tài, ý nghĩa và tính khả thi của nó mà còn xét các thành tích nghiên cứu mấy năm gần đây nhất của nhà khoa học, trong đó một phần quan trọng là kết quả thực hiện các đề tài trước đã được hưởng tài trợ. Nếu một đề tài được tài trợ mà ít kết quả thì không có hy vọng đề tài sau được tiếp tục nhận tài trợ. Thành thử, tuy không nghiệm thu mà vẫn buộc người nghiên cứu thực hiện nghiêm túc.
    Xin đừng ?otrịch thượng?
    Đó mới là cách quản lý văn minh, dành sáng kiến, chủ động tối đa cho nhà khoa học, tôn trọng tối đa nhà khoa học, đồng thời bảo đảm đầu tư có hiệu quả. Có thể không nên áp dụng nguyên xi các kinh nghiệm này cho chúng ta, nhưng cái tư duy cơ bản của nó thì đáng học tập, và đó là điều chúng tôi muốn nói khi phát biểu với Thủ Tướng. Dù đồng ý hay không, Bộ KH và CN cũng nên tỏ thái độ nghiêm túc lắng nghe các ý kiến trái với mình. Không nên đáp lại các ý kiến chân thành bằng lời lẽ thiếu nhã nhặn, kiểu ứng xử đó không thích hợp với tinh thần xã hội dân chủ, văn minh. Và cũng xin đừng gọi các nhà khoa học trẻ (dưới 45, theo nội dung của bài phát biểu) bằng ?ocác em?, đó là cách gọi ?oxoa đầu? trịch thượng, thể hiện sự thiếu tôn trọng cần thiết.
    GS Hoàng Tụy
    --------------------------------------------------------------------------------
    © Báo điện tư? VietNamNet http://www.vietnamnet.vn/khoahoc/2006/03/552651/
  5. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    HiHi! Em vô cùng biết ơn Thầy (GS.Hoàng Tụy)! thực tiển đôi khi cũng bất ngờ, "cơ chế thị trường" cũng đã từng bị thua trước "tri thức khoa học" :
    xem http://www3.ttvnol.com/kysu/484918/trang-4.ttvn
    ----------------------------------------------------------------
    KỸ SƯ KHÔNG BIÊN GIỚI
    ----------------------------------------------------------------

  6. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Xem http://www3.ttvnol.com/kysu/700199/trang-4.ttvn

  7. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Lấy gì để xác định được 1 lý thuyết đẹp và 1 lý thuyết vớ vẩn, khi những vấn đề đó vượt quá tầm hiểu biết của đa số dân chúng?

    Toán học vị Toán học hay Toán học vị nhân sinh?
    06:51'' 19/04/2006 (GMT+7)
    Lời toà soạn: Sau khi VietNamNet đăng loạt bài nhiều kỳ về HSG quốc tế và loạt bài "Toán học Việt Nam" http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/2006/03/547181/ của GS Toán ĐH Toulouse Nguyễn Tiến Dũng, có nhiều nhà khoa học, nhà giáo, nhà kinh doanh và những người quan tâm đến Toán đã chia sẻ những suy nghĩ xung quanh vấn đề này.
    Nhận thấy, đây là vấn đề có nhiều đìều để nói, chúng tôi tiếp tục đăng tải những tranh luận, có thể, sẽ ít nhiều có ích trong việc mang lại một nhận thức tổng quát về Toán học, khoa học tại Việt Nam.

    Toán học vị Toán học hay Toán học vị Nhân sinh?
    [​IMG]
    Bùi Quang Ngọc: "Việt Nam chưa cần đầu tư cho Toán lý thuyết"
    ?oToán lý thuyết chỉ phục vụ sự phát triển nội tại của nó. Toán ứng dụng phục vụ các ngành khác. Ở VN hiện tại, rất cần Toán ứng dụng, trong khi chưa thấy vai trò của Toán lý thuyết.
    Chúng ta chưa cần phát triển Toán lý thuyết. Nên để dành tiền của và nhân lực cho nhiều ngành khác thiết thực hơn, vị nhân sinh hơn?.

    Đó là nhận định của ông Bùi Quang Ngọc, Phó TGĐ Công ty FPT, trong cuộc trao đổi với VietNamNet, cuối tháng 2.
    Ở Việt Nam, Toán lý thuyết chưa có ích

    Anh có theo dõi loạt bài về HSG quốc tế và những tranh luận xung quanh Toán học thời gian qua?
    Tôi theo dõi khá kỹ và thích nhất bài phỏng vấn anh Trung Hà. http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/2006/02/543335 Thật và sắc. Có thể cách diễn đạt của anh ấy hơi thái quá, nhưng hầu hết các nhận định và tư tưởng của anh ấy là đúng, dưới con mắt của tôi.
    Anh cũng là dân khoa học chuyển sang kinh doanh. Những người như các anh dễ ?ođồng cảm? khi nhìn mọi thứ dưới con mắt thực dụng?
    Cách nhìn của anh Hà gọi tên là ?othực tế? thì đúng hơn. Nhìn nhận mọi việc đúng thực tế của nó, nên xem là một ưu điểm.
    Tôi từng gắn bó nhiều với Toán. Tôi học chuyên Toán ở phổ thông, học tiếp Toán lý thuyết ở ĐH, làm luận án Tiến sỹ về Tin học, trong đó sử dụng khá nhiều kiến thức Toán.
    Nhưng, tôi cũng sớm xa rời Toán, vì sớm nhận ra rằng mình làm cái khác thì sẽ có ích hơn cho chính mình và cho xã hội.
    Có lẽ tôi gần Trung Hà ở nhận thức này.
    Một trong những nhận định của Trung Hà là "Toán học ít có ích cho xã hội?. Anh cũng đồng ý với điều này?
    Phân tích sâu thì các anh nhà Toán học sẽ bảo là chưa đủ hiểu về Toán thì đừng phát biểu linh tinh (cười). Ở đây, tôi chỉ nói nôm na dưới những nhận định của mình.
    Toán học được chia ra thành: Toán lý thuyết (phát triển cho nội tại Toán học) và Toán ứng dụng (phát triển để phục vụ các môn khác, ngành khác), mặc dù nhiều trường hợp ranh giới này không được rõ ràng.
    Tôi nghĩ, thứ ?oToán? mà anh Hà đang nói đến là Toán lý thuyết, tức là ngành học nghiên cứu các vấn đề nội tại của Toán học.
    Bàn về thế giới là chuyện xa xôi, nhưng ở VN thì Toán lý thuyết chưa có ích lắm.
    Chi tiết hơn, trong cách phân loại mà anh đề cập, lấy những yếu tố gì để tách bạch 2 "loại" Toán này?
    Tôi muốn mượn ý của cuộc tranh luận giữa các cụ Hoài Thanh và Hải Triều ngày xưa để thêm một cách gọi khác, dễ cảm nhận hơn: Toán lý thuyết là Toán học vị Toán học và Toán ứng dụng là Toán học vị Nhân sinh.
    Trước hết, Toán học tự thân nó không phải là môn khoa học có đối tượng nghiên cứu trực tiếp cho nền kinh tế, cho phát triển xã hội.
    Những ngành khoa học khác như Lý, Hóa, Sinh... (KH tự nhiên) hay Khảo cổ, Lịch sử, Luật... (KH xã hội), ngày nay còn có các ngành KH công nghệ như CNTT hay CN Vật liệu, mới trực tiếp cần cho kinh tế, xã hội.
    Toán, mà cụ thể là Toán ứng dụng chỉ là công cụ cho các môn đó, ngành đó. Còn Toán lý thuyết chẳng phục vụ ngành nào cả, ngoài sự phát triển của bản thân nó.
    Trong hoàn cảnh VN hiện tại, theo tôi, Toán lý thuyết không đóng góp được nhiều và cũng chưa cần đầu tư phát triển.
  8. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Toán học chỉ là công cụ
    Tạm đặt Toán lý thuyết sang một bên, anh đánh giá thế nào về đóng góp của Toán ứng dụng?
    Toán ứng dụng cần thiết trong việc giải quyết mọi bài toán thực tiễn, trong việc giảng dạy ở tất cả các trường dù ở khối kỹ thuật, kinh tế hay xã hội.
    Qúa dễ để chỉ ra sự ứng dụng của nó.
    Phân tích dữ liệu, mô phỏng, dự báo, mô hình hóa, quy hoạch trong Xây dựng, Giao thông, Hàng không, Quân sự... là Toán ứng dụng.
    Giải mã ADN của con người, xây dựng Cơ sở dữ liệu, mã hóa thông tin, vận hành bộ máy kinh tế, quản lý... là Toán ứng dụng.
    Nhưng, liệu có thể đặt câu hỏi rằng, nếu không có Toán lý thuyết thì sẽ không phát triển được Toán ứng dụng?
    Chỉ các nhà Toán lý thuyết mới đặt ra các vấn đề Toán học lý thuyết, giải quyết chúng, phát triển lên. Và cũng chỉ họ mới hiểu được chúng.
    Trong khi đó, Toán ứng dụng vẫn đi từ các đòi hỏi của thực tế, các vấn đề thời đại... và phát triển cũng như phục vụ cuộc sống một cách mạnh mẽ.
    Các nhà Vật lý nổi tiếng như Newton, Einstein có thể nói cũng là các nhà Toán học vĩ đại.
    Newton đã đóng góp rất nhiều cho môn Toán giải tích khi ông giải các bài toán của Vật lý cổ điển. Einstein đã có những phương trình nổi tiếng để chứng minh thuyết tương đối (rộng và hẹp) của ông. Nhưng với họ, Toán chỉ là công cụ để giải quyết các bài toán Vật lý. Họ vẫn là các nhà Vật lý học xuất chúng.
    Vai trò của Toán là rất lớn, không thể thiếu trong khoa học, kinh tế, xã hội. Nhưng đó là Toán ứng dụng, Toán vị nhân sinh. Còn Toán lý thuyết thuần túy, vị trí của nó không như vậy.
    Vậy thì vị trí của "nó" ở đâu, khi "nó" vẫn đang tồn tại?
    Toán lý thuyết vẫn tồn tại và tất nhiên vẫn phải có nó. Nhưng, hãy nhìn nhận đúng vị trí của nó. Thử xem giải Nobel, giải thưởng khoa học danh giá nhất không có giải dành cho Toán.
    Điều này hình như có lý do riêng (báo chí vẫn nói, nhà bác học Nobel, người sáng lập giải thưởng mang tên ông không đặt ra Nobel Toán vì không ưa các nhà Toán học - PV), nên có lẽ ý kiến này không thoả đáng?
    Nobel là nhà khoa học lớn, có tầm nhìn rộng. Khi quyết định như vậy, có lẽ ông ấy cũng nhận thấy Toán chỉ có vai trò công cụ, chứ không hẳn vì bị một nhà Toán học nào đó cuỗm mất người yêu, như lý do người ta vẫn dùng để giải thích lâu nay.
    Ban đầu chỉ có Nobel Vật lý, Hoá học, Y học. Về sau, người Thuỵ Điển đã cho thêm các giải Nobel Hòa bình, Kinh tế, Văn học... những lĩnh vực rất vị nhân sinh, nhưng vẫn không có Toán.
    Nếu lấy những giải thưởng lớn làm thước đo tầm quan trọng của Toán học, thì còn những ví dụ khác, chẳng hạn giải thưởng Fields?
    Liệu mấy ai hiểu được và thấy lợi ích của các giải thưởng Toán lý thuyết? Còn ngay như ?oThuyết tương đối? của Einstein, đã có nhiều quyển sách viết về nó mà rất nhiều người trình độ trung bình có thể hiểu các kết quả cơ bản của nó, thấy được cái hay, cái cao siêu của nó.
    Thêm một thực tế nữa, người bình thường nhớ đến Mendel (di truyền học), Newton, Einstein, Edison (vật lý học), Mendeleep (hoá học), Pasteur (vi trùng học), đến Bill Gate (như một kiến trúc sư phần mềm, chưa nói về tài năng kinh doanh), chứ mấy ai nhớ đến các nhà Toán học, trừ những "cụ" thời cổ đại: Pythagore, Euclide?
    Anh cho rằng, việc các nhà Toán học không được ?oquen mặt, thuộc tên? như những cá nhân xuất sắc trong các ngành khác, vì Toán lý thuyết ít tính vị nhân sinh?
    Thử hình dung, nếu một người trí tuệ đặc biệt như Bill Gate say mê học Toán và làm Toán, thì chúng ta sẽ thiệt thòi bao nhiêu?
    Có thể thế giới sẽ có thêm một nhà Toán học xuất chúng, nhưng khi đó sẽ không có những tư tưởng thực sự "cách mạng" đã làm thay đổi cách sử dụng máy tính cá nhân vào việc xử lý thông tin hàng ngày của mỗi chúng ta, không có một quý ông hào phóng đã đóng góp từ thiện nhiều tỷ đô la Mỹ cho việc nghiên cứu các bệnh hiểm nghèo, vào các quỹ đào tạo và giáo dục.
    Tóm lại, một người giỏi, làm Toán có thể tốt. Nhưng nếu họ cống hiến cho một lĩnh vực khác, thì hứa hẹn giá trị to lớn hơn nhiều.
    Việt Nam từng sai lầm trong chiến lược đào tạo nhân lực?
    [​IMG]
    Nhiều thế hệ HSG Việt Nam đã được hướng vào học Toán.
  9. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Quay trở lại ý anh nói ở trên "Ở VN, Toán lý thuyết không đóng góp được nhiều và chưa cần phát triển". Anh lấy những gì làm cơ sở, để chứng minh điều này?
    Xin nhắc lại, Toán học chỉ là công cụ của các khoa học và công nghệ khác.
    Ở nước ta, người giỏi Toán lý thuyết có lẽ chưa cần thiết bằng người giỏi Sinh học, Luật, Y, Dược hay khoa học Quản lý (ngành đang rất cần cho VN).
    Trong một thời gian dài, ngành Toán đã có một vị trí, một sự tôn vinh quá mức. Chúng ta đã mất cân đối, phí phạm khi mà các HS học giỏi nhất đều được phân công học Toán ở ĐH. Tôi nghĩ đây là một sai lầm.
    Xin lỗi, anh vừa nói ?osai lầm??
    Đúng, sai lầm. Thế hệ chúng tôi rất biết ơn và kính trọng bác Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Đại học (nay là Bộ GD-ĐT) những năm 70. Bác rất yêu quý học sinh chuyên Toán hồi đó. Bác từng tặng vé các trận bóng đá quốc tế tại sân Hàng Đẫy, từng gỡ những trường hợp vướng lý lịch để được đi học nước ngoài hay vào ĐH.
    Nhưng bác ấy đã phạm ?osai lầm? là rất ưu ái Toán, có lẽ vì bác cũng là dân Toán.
    Thời đó, khi cử người đi học nước ngoài, có bao nhiêu HSG bác ấy cho đi học Toán trước tiên, rồi mới đến Vật lý, Hóa học, Sinh học (theo thứ tự học giỏi) và cuối cùng, xin lỗi, mới đến học Luật (xét cụ thể trường ĐH của tôi ở Liên Xô những năm 1970, 1980).
    Với hoàn cảnh kinh tế, xã hội của VN, đáng lẽ 2 ngành Sinh học và Luật phải được ưu tiên hơn, vì VN là một nước nông nghiệp lạc hậu và còn phát triển thấp về Luật pháp, một nước mới ra khỏi các cuộc chiến tranh triền miên, cần nhanh chóng phục hồi để đi lên. Thế mà thế hệ chúng tôi chỉ biết đến Toán, chỉ được bồi dưỡng thêm về Toán, luôn luôn được giáo dục về vẻ đẹp của Toán học.
    Rất may, hình như các bạn trẻ không còn ham Toán như chúng tôi khi xưa.
    Tức là anh nghĩ nên khuyến khích thế hệ trẻ bớt say mê Toán?
    Phương pháp Toán học bao giờ cũng có giá trị. Nên học giỏi Toán trong lĩnh vực của mình, biết cách vận dụng nó để giải quyết công việc. Đó là việc cần làm dù ở bất cứ vị trí nào. Đó cũng là cách trân trọng, say mê Toán học theo hướng vị nhân sinh.
    Nhưng, nên khơi dậy để các bạn trẻ đi vào những ngành khác, hơn là làm Toán.
    "Xuất khẩu chất xám" là nguỵ biện
    Loạt bài "Toán học Việt Nam" http://www.vietnamnet.vn/giaoduc/2006/03/547181/ của anh Nguyễn Tiến Dũng đề cập đến nhiều vấn đề Toán học nói riêng và khoa học VN nói chung, nhận được sự quan tâm của khá nhiều độc giả. Cách nhìn nhận của anh, với tư cách một người ngoài cuộc?
    Công nhận anh Dũng có tâm huyết và đặt ra nhiều vấn đề đáng nói, nhưng tôi khá bức xúc vì thấy có rất nhiều điều không ổn trong đó.
    Ví dụ?
    Anh Dũng nói, người VN làm khoa học ở nước ngoài nên nhìn nhận là "xuất khẩu chất xám". Ngụy biện! Nguỵ biện hết sức. Ai xuất khẩu? Chẳng ai cả. Các anh ấy toàn tự đi tìm bến đỗ cho mình, nếu để ý, cũng có khi có vài bến đỗ rồi mới dừng chân.
    Xuất khẩu phải là một chủ trương, chính sách (ví dụ xuất khẩu lao động), có tổ chức, có chủ thể (các công ty xuất khẩu), có hàng hóa (các công nhân). Người xuất khẩu phải thu về được cái gì đó, nhất là tiền bạc. Ngoài ra, để gọi là xuất khẩu thì số lượng phải đủ lớn.
    Việc một số trí thức VN làm việc ở nước ngoài đều không rơi vào các tiêu chí trên. Không có sự chủ động, không là đường lối chính sách, số lượng thì rất nhỏ.
    Khoan đi sâu vào sự đúng sai trong cách gọi tên sự việc, bản thân anh đánh giá hiện tượng này có lợi không, cho chúng ta?
    Tôi cũng đang muốn đặt một big question với phát hiện hồn nhiên của anh Dũng: "Xuất khẩu chất xám có lợi cho Việt Nam".
    Thử xem, các anh ấy có lợi gì cho VN? Một vài buổi hội thảo tại đây mà tôi tin rất ít người dự vì Toán học là môn mà chỉ khác đi một tý là không thể trao đổi gì với nhau (Toán có nhiều chuyên ngành hẹp, trong đó có những ngành trên thế giới chỉ có khoảng vài chục chuyên gia). Một vài khoá giảng dạy ngắn hạn hay vài suất NCS cho một vài bạn trẻ ham mê Toán, mà tôi tin là bây giờ số đó không nhiều.
    Sản phẩm của họ là những bài báo, đa phần lý thuyết được gọi là cao siêu, được đăng ở các tạp chí mà chỉ những người làm Toán mới biết đến.
    Tôi có nhiều bạn bè làm Toán, làm Vật lý lý thuyết nên biết rõ những giá trị, những đóng góp của các bài báo đấy cho VN.
    Nói thêm về hiện tượng "chảy máu chất xám" (tạm dùng từ này khi anh không đồng ý với từ của anh Dũng). Phải chăng, chúng ta đã lãng phí khi không giữ chân được nhiều người giỏi?
    Nếu để ý hơn, sẽ thấy có rất nhiều trí thức từ các nước thế giới thứ 3 đến các nước tiên tiến làm việc, và cả một dòng chảy từ Nga, từ Đông Âu sau khi hệ thống XHCN sụp đổ ở châu Âu.
    Tôi chẳng có con số thống kê, nhưng thấy có hàng nghìn nhà khoa học như thế đang hoạt động tại các nước phát triển. Họ cũng sống, làm việc và định cư lâu dài ở đó như các nhà khoa học VN ở xứ người. Có gì đáng nói đâu nhỉ?
    Cuộc sống phương Tây chấp nhận họ, vì họ góp một phần kết quả khoa học. Và họ lựa chọn như vậy, vì những gì mà cuộc sống và công việc ở đó mang lại.
    Thời gian trôi đi, đất nước đổi thay rất nhiều về kinh tế, công nghệ, xã hội, lối sống, họ khó có thể đi cùng nhịp với chúng ta. Sẽ có những nhìn nhận khác nhau. Cuộc sống là thế.
    Tôi nghĩ chúng ta không phải quá dằn vặt về chuyện này. Đó là thực trạng, là bài toán chung của rất nhiều nước kém hay đang phát triển.
    Nói một cách ngắn gọn, ?oở lại? là họ chọn con đường tốt hơn cho chính họ trước. Đấy là điều thường tình thôi, tôi ở cương vị của họ, chắc tôi cũng làm như thế.
    Nhưng, nếu vừa được chọn cách sống hợp lý cho mình, vừa được thông cảm rằng tại đất nước chẳng biết sử dụng... thì không công bằng lắm. Chúng ta cần sòng phẳng hơn.
  10. lan0303

    lan0303 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    24/05/2003
    Bài viết:
    2.622
    Đã được thích:
    0
    Con người quan trọng hơn điều kiện
    Nhưng, phải nhìn nhận một thực tế, với cơ chế hiện tại, chúng ta chưa thực sự khuyến khích khoa học phát triển?
    Giải quyết vấn đề này là chuyện ở tầm vĩ mô. Đó là việc của các nhà quản lý, hoạch định chính sách. Nhà nước phải có chính sách thay đổi và cũng phải lưu ý những hiện tượng như vậy. Phải nghiên cứu để có những điều chỉnh, những cải thiện tốt hơn cho môi trường khoa học của VN.
    Tất nhiên ở các nước phát triển sẽ có nhiều điều kiện tốt hơn, thuận lợi hơn cho cá nhân các nhà khoa học.
    Tuy nhiên, thời buổi này, với hỗ trợ của công nghệ, việc nghiên cứu có lẽ không phụ thuộc khoảng cách địa lý là mấy. Qua Internet, vẫn có thể học hỏi và sử dụng những tri thức mới được cập nhật thường xuyên, có thể trao đổi (voice chat), thậm chí thực hiện hội thảo (video conference) với những người cách xa hàng ngàn cây số...
    Đôi khi, việc gây cản trở không chỉ là điều kiện thiết bị mà là môi trường khoa học không hiện đại và thiếu chuyên nghiệp?
    Không phủ nhận là ta chưa có một môi trường thuận lợi và ưu ái với các nhà khoa học. Nhưng, đó không phải lý do căn bản về việc khoa học VN còn phát triển thấp.
    Tôi ví dụ, cũng trong hiện trạng VN, nhiều ngành, như CNTT hay Viễn thông, ban đầu ta ở mức xuất phát điểm rất thấp, nhưng đến giờ có thể nói, khoảng cách giữa ta với các nước phát triển không hề lớn. Đặc biệt là ngành Viễn thông của ta, tôi cho là phát triển rất nhanh, rất sát với thế giới.
    Có lẽ còn những lý do khác, về con người, về năng lực, về quản lý, về tầm nhìn...
    Xin anh cho những ví dụ cụ thể hơn?
    Tiền đầu tư, hay điều kiện, hay môi trường, tôi vẫn xếp sau một số yếu tố khác.
    Anh Dũng có nói (và đó chắc cũng là suy nghĩ của nhiều nhà khoa học VN ở nước ngoài) rằng "nếu một người tài như anh ABC nào đó mà ở VN thì....", rằng "ở nơi XYZ nào đó đầu tư thế kia, mới được thế nọ", tôi lại muốn phản biện tiếp.
    Khi xưa, nhiều nhà khoa học đáng kính của ta như Hoàng Tụy, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của, Nguyễn Văn Hiệu, Đào Vọng Đức? vẫn làm rất tốt công việc nghiên cứu ngay tại VN. Và mấy vị tiền bối như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Đặng Văn Ngữ... theo Bác Hồ từ Pháp về nước, vẫn có những công trình khoa học, kỹ thuật rất có giá trị phục vụ trực tiếp cho VN.
    Quan trọng là có đủ tài hay không.
    Không phải "một bài báo có đầu tư 50.000$ sẽ giá trị hơn bài báo 1.000$".
    Những công trình về mổ cắt gan của GS Tôn Thất Tùng ra đời khi mà người VN không biết đồng đô la là cái gì. Trong kháng chiến chống Pháp, GS Đặng Văn Ngữ vẫn làm ra thuốc kháng sinh penexiline phục vụ đồng bào, chiến sỹ.
    GS, Viện sỹ Trần Đại Nghĩa đã chế tạo các vũ khí không giật trong lòng núi rừng Việt Bắc, góp phần vào thắng lợi thực dân Pháp.
    Thời chống Mỹ, các nhà khoa học VN đã nghiên cứu thành công việc phá bom từ trường chống lại sự phong tỏa các cửa biển, cũng như đã cải tiến hệ thống tên lửa phòng không bắn hạ các máy bay khổng lồ B52 của Mỹ.
    Nhiều kết quả của GS Hoàng Tụy về lý thuyết tối ưu cũng ra đời tại VN, mà tôi tin là các kết quả này cũng có chất lượng không dưới ?o50.000$?.
    Làm lý thuyết, nhất là trong thời đại Internet bây giờ, ở VN chắc cũng có nhiều kết quả. Và cùng một kết quả khoa học, tôi trân trọng nếu nó làm đuợc tại VN hơn nhiều so với được làm ở nước ngoài. Vì tôi tâm niệm, "Con không chê cha mẹ nghèo, người xa xứ không chê quê mình khó".
    Còn nhiều thứ cần hơn cho đất nước nghèo khó của chúng ta
    [​IMG]
    Các SVVN tại trường ĐH Bách Khoa Paris (Polytechnique), Pháp

Chia sẻ trang này