1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cảm nhận của bạn về Thơ Mới

Chủ đề trong 'Thi ca' bởi ltv_dhl, 07/11/2007.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. M0on1989

    M0on1989 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2007
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    5. "Linh hồn thanh khiết" hay vẻ đẹp "trinh khiết xuân tình"
    Tư tưởng của một nghệ sĩ bao giờ cũng là sự hoà điệu giữa quan niệm nhân sinh và quan niệm thẩm mĩ. Quan niệm nhân sinh trả lời câu hỏi về hạnh phúc, còn quan niệm thẩm mĩ trả lời câu hỏi về cái đẹp. Cả hai sẽ tạo ra một lực đẩy chung khiến nghệ sĩ suốt đời mải mốt tìm kiếm những gì là tinh hoa của cuộc sống. Tư tưởng ấy cũng chi phối toàn bộ việc kiến tạo nên cái thế giới nghệ thuật của nghệ sĩ đó. Bởi vậy, muốn nắm được tư tưởng của một nghệ sĩ không thể né tránh những câu hỏi then chốt: vẻ đẹp anh ta khao khát là gì ? hạnh phúc anh ta ao ước là gì?
    Tinh hoa của sự sống theo quan niệm Hàn Mặc Tử đó là vẻ đẹp Trinh khiết mà Xuân tình. Suốt đời mình, Tử hướng về vẻ đẹp đó. Trong hoan lạc, Tử hướng về đó. Và chính nó làm nên niềm hoan lạc trong trắng. Trong Đau đớn tuyệt vọng, Tử cũng hướng về đó. Nó như một cứu chuộc, cứu tinh. "Tôi muốn trọn đời ngưỡng mộ vẻ trắng trong nguyên vẹn, nguồn tươi, ánh sáng, thơ vì đấy là hình tượng của LINH HỒN THANH KHIẾT" [10] . Được viết bằng tiếng Pháp trước lúc lâm chung, có thể nói, những lời kia là những lời tuyệt mệnh của Hàn Mặc Tử. Đó cũng chính là cái nhiệt hứng sôi nổi và thánh thiện nhất chi phối cả đời thơ Hàn Mặc Tử. Ta hiểu vì sao thơ Tử dành nhiều cảm xúc mãnh liệt đến thế cho xuân đời chín ửng, cho xuân thiên thánh thiện, cho sắc trắng tinh khôi, cho ánh sáng muôn năm thanh khiết: "trắng quá, trắng hơn da thịt của người tiên, của lụa bạch, hơn phẩm giá tiết trinh - một màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng, muốn kề môi hôn, hay áp má lên để hưởng sức mát rượi dịu dàng của cát", "Sáng thơm tho như ánh ngọc hừng đông", "Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên / Vườn ai mướt quá xanh như ngọc", "áo em trắng quá nhìn không ra", "Vạn tuế bay ơi nắng rợp trời"... Ta hiểu vì sao, hình ảnh các Giai nhân ngự trị trong cõi thơ Tử từ Gái quê cho đến Đau Thương, Thượng Thanh Khí, Cẩm châu duyên, Duyên kì ngộ, Quần tiên hội... dù đó là những cô gái quê trong đời hay những người trong mộng, dù là những người ngọc trong sách hay tiên nữ, thánh nữ ở cõi tiên cõi trời... ai cũng phải mang chung một vẻ đẹp: Trinh khiết Xuân tình - "Mới lớn lên trăng đã thẹn thò / Thơm như tình ái của ni cô", " Xác cô thơm quá thơm hơn ngọc / Cả một mùa xuân đã hiện hình", "Tấu lạy bà người là đấng trinh tuyền thánh vẹn"... Và ta cũng hiểu vì sao, Hình tượng thế giới trong thơ Hàn Mặc Tử vận động từ trần gian với diện mạo của Chốn nước non thanh tú (ở những tập đầu) đến cõi trời cách biệt trong hình dạng một Thế giới Huyền diệu, một Cõi Thuần linh (ở những tập sau) lại được xây cất bằng thanh khí, bằng trăng, hoa, nhạc, hương, gấm, ngọc, bằng tinh anh của vạn vật...
    Câu hỏi đặt ra là: tại sao Hàn Mặc Tử lại khao khát vẻ đẹp này? Tại sao được sống trong niềm khát khao kia, Hàn Mặc Tử lại coi là hạnh phúc tột cùng của mình. Câu trả lời là: vẻ đẹp ấy đã đáp ứng những nhu cầu sâu xa của cõi tinh thần Hàn Mặc Tử, người mang trong mình phẩm chất của cả một thi nhân lẫn một người mộ đạo. Một đằng biểu hiện bằng đời sống tâm hồn, một đằng biểu lộ trong đời sống tâm linh.
    Trong chiều sâu của cấu trúc tinh thần một con người nói chung vẫn có sự tồn tại của cả hai đời sống tâm hồn và tâm linh. Chúng thống nhất với nhau và thường chuyển hoá sang nhau, nhưng không hề đồng nhất. Nếu Tâm hồn chủ yếu là đời sống tinh thần hướng về cái Đẹp, thì Tâm linh lại chủ yếu là đời sống tinh thần hướng về cái Thiêng. Tâm hồn sống chủ yếu bằng mĩ cảm. Tâm linh sống chủ yếu bằng tín niệm. Niềm khao khát của Hàn Mặc Tử có sự giao thoa của cả hai lực sống ấy. Hàn khát khao vẻ Trinh khiết Xuân tình không chỉ bằng tâm hồn của một thi nhân mà còn bằng tâm linh của một tín hữu. Khát vọng về vẻ Trinh khiết Xuân tình ở Hàn Mặc Tử không chỉ là say mê cái đẹp của một thi nhân mà còn là ngưỡng vọng cái thiêng của một tín đồ.
    Vậy là, vẻ Trinh khiết Xuân tình là hình thái thẩm mĩ tột cùng mà thi sĩ này hằng tìm kiếm cho thi ca của mình. Nó như điều thuộc về lôgic nội tại của một hồn thơ.
    Nói Tôn giáo và Thi ca đã tìm thấy một hoà điệu nhuần nhuyễn trong bề sâu tư tưởng của Hàn Mặc Tử là như thế. Nét nổi bật nhất và xuyên suốt các chặng đường thơ của chàng thi sĩ này cũng là như thế.
  2. M0on1989

    M0on1989 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2007
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    6. Thơ Điên Hàn Mặc Tử - Thi học của cái Tột cùng
    Chinh phục cái Tột cùng, tất nhiên, cần phải có thơ ca của một hình thức tột cùng. Hình thức ấy, đối với Hàn Mặc Tử, liệu có thể là gì khác hơn Thơ Điên?
    Nói đến Hàn Mặc Tử là nói đến nhà thơ lạ nhất của Phong trào Thơ Mới, người "cai trị Trường thơ Loạn của các nhà thơ Bình Định" [11] . Nói đến thơ ông, người ta nhớ đến thơ Cổ điển trong Lệ Thanh thi tập, thơ Lãng mạn trong Gái quê... nhưng, hơn tất cả là nhớ đến Thơ Điên trong Đau thương. Có thể nói chính Thơ Điên chứ không phải gì khác là phần đặc sắc nhất đã làm nên cái "lạ" kia, làm nên tên tuổi và ngôi vị Hàn Mặc Tử.
    Tôi muốn dành mục cuối này, cũng là mục dài nhất, để nói về cống hiến quan trọng nhất này của Hàn Mặc Tử cho thơ ca hiện đại.
    Trong lời tựa "Điêu tàn" - vẫn được xem là bản tuyên ngôn chung của Trường Thơ Loạn mà Tử là "kẻ cai trị"- có viết: "Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn cả tuỷ là tuỷ. Thế mà có người tự cho là hiểu được nó, rồi đem so sánh nó với Người, và chê nó là giả dối, không chân thật. Vâng! Nó không chân thật, nó giả dối với Người. Với nó, cái gì nó nói đều có cả" [12] . Cái gì nó nói đều có cả đó là nguyên tắc chân thật. Điều ấy không phải là độc quyền của thi phái này so với các thứ thơ khác. Cái gì của nó cũng tột cùng, đó mới là nguyên tắc mĩ học đặc thù của Thơ Điên. Đọc Hàn Mặc Tử, ta sẽ thấy cái ham muốn tột bậc của thi sĩ này là tìm đến một Cõi thơ tuyệt đối, đi đến một thứ thơ mà cái gì ở đó cũng phải là Tột cùng (Dĩ nhiên, Tột cùng đây là theo cách quan niệm của thi sĩ). Là thi phẩm vào loại đắc ý nhất của ham muốn này, Thơ Điên đã hiện rõ trên diện mạo của mình cả sức mạnh cùng giới hạn của những cái Tột cùng ấy.
    Cái tên có phần "giật gân" của Thơ Điên, ngay từ đầu đã có sức mê hoặc giới nghiên cứu. Người ta nghĩ ngay đến việc nhận diện bản chất của Điên và bản chất Thơ Điên. Không ít người đã yên chí với cách nghĩ giản đơn: điên chỉ là một trạng thái bệnh lí, đồng nghĩa với chứng loạn thần kinh, mà không thấy rằng còn có điên như một trạng thái sáng tạo. Đó là lúc cảm hứng đến như một cơn "sốc", người làm thơ lâm vào một cơn sáng tạo như "lên đồng". Ý thức tỉnh táo như mờ đi, lùi lại phía sau, nhường phần lớn quyền điều hành qui trình sáng tạo cho tiềm thức, vô thức. Chế Lan Viên phân biệt giữa làm thơ của những thi sĩ thường tình với trường hợp Hàn Mặc Tử trong Thơ Điên là bị thơ làm, chủ yếu bởi điều này. Tuy nhiên, đa phần là lao vào việc nhận diện Thơ Điên, mà cũng thường lấy tiêu chí của Thơ Lãng mạn, Tượng trưng, Siêu thực... để xếp nó vào các ô ấy [13] . Nhưng Thơ Điên vốn là một dung hợp đa tạp, nó bướng bỉnh không chịu ở yên trong một ô nào. Việc dùng những tiêu chí của những khuynh hướng thơ có sẵn để soi xét một hiện tượng thơ mới nảy sinh là điều cần thiết - giúp ta phân loại và định giá rõ một trường hợp cá biệt trong cái mặt bằng chung. Song, một sáng tạo thực sự mới lạ bao giờ cũng có sự bất kham nào đấy, những ngăn ô, yên cương cũ rất dễ bị chối bỏ. Vả chăng, đấy cũng chỉ là cái thao tác sau. Sao trước hết không bắt đầu bằng việc hình dung về cái diện mạo của nó. Biết đâu, cái diện mạo riêng kia sẽ đòi phải có một ngăn ô mới. Biết đâu Thơ Điên chỉ có thể hợp với... Thơ Điên.
    Tôi cho là như thế, Thơ Điên Hàn Mặc Tử đó là Thi học của cái tột cùng.
    Khái niệm "Thơ điên" vẫn được lưu hành với ít nhất ba tư cách: 1) một thi phẩm, nó chính là tập thơ "Đau thương"; 2) một quan niệm thẩm mỹ về thơ cùng với nó là khuynh hướng thi ca không chỉ tồn tại ở Việt Nam, có thể nói bắt đầu từ Mallarme; và 3) một loại hình thơ được chủ trương bởi Hàn Mặc Tử và các nhà thơ thuộc "trường thơ loạn" Bình Định. ở đây, nó được đề cập đến chủ yếu ở tư cách thứ ba. Và đối tượng khảo sát cơ bản là tập "Đau thương".
    Trước hết, cần khẳng định: Thơ Điên không phải là một phát minh mới về thể loại. Nó vẫn thuộc phạm trù Thơ Mới. Nhưng là một dạng thức Thơ Mới đặc biệt. Nghĩa là bên cạnh những đặc trưng của "loài" Thơ Mới, nó vẫn có những đặc trưng về "giống"riêng. Những khái quát dưới đây về diện mạo của thơ Điên không phải chủ yếu từ những tuyên ngôn về một mô hình thơ thuộc ý thức lí thuyết, mà chủ yếu từ thực tế sáng tác. Những đặc trưng ấy tồn tại trong thế ràng rịt lẫn nhau, nên việc tách bạch chỉ là tương đối.
  3. M0on1989

    M0on1989 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2007
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    6.1. Nguồn cảm xúc đặc thù của thơ Điên: Đau thương
    Chúng ta đều biết một chân lí quen thuộc: "Thơ là tiếng lòng" (Diệp Tiếp). Mỗi tiếng thơ đều xuất phát từ một tiếng lòng riêng. Một loại hình thơ, xét một mặt nào đó, là một tiếng lòng được điệu thức hoá. Mà tiếng lòng là cảm xúc. Cái nguồn cảm xúc tìm đến hình thức thơ Điên chính là Đau Thương vậy.
    Nhiều người đã động tới Đau Thương [14] . Nhưng không phải ngay từ đầu Đau thương đã được hiểu một cách đúng đắn. Suốt mấy chục năm qua, trong giới "Hàn học", vẫn không ít người, bởi lí do nào đấy, cứ đánh đồng Đau đớn về thân xác với Đau khổ về tinh thần để hạ thấp thơ Hàn xuống thành những tiếng rên siết của một xác thân bệnh hoạn, để nhìn nhận nó như một thứ suy đồi. Chúng ta không loại trừ những Đau đớn thân xác đã đầu quân khá đông vào thơ Tử. Nhưng chỉ có thế không thôi, làm sao có thể thành thơ được. Chỉ khi nào những Đau đớn xác thân, với một cơ chế nào đấy, chuyển hoá sang địa hạt tinh thần, hoá thân vào nỗi Đau khổ tinh thần, thì khi ấy tiếng nói của nó mới cất lên thành thơ. Nhìn một cách khác, đau đớn thân xác chỉ là những chất liệu để Hàn Mặc Tử biểu hiện những đau khổ tinh thần của mình. Đó là một rắc rối mà cũng là một ma lực của thơ Tử. Về bản chất, Đau thương ở Tử là một niềm tuyệt vọng lớn. Và đây chính là nguồn cảm xúc ở cung bậc Tột cùng của tiếng nói trữ tình. Niềm tuyệt vọng được dâng lên từ thân xác bệnh hoạn mà gia nhập vào cõi tinh thần hay từ tinh thần đã tan thấm vào mọi nơi chốn của xác thân? Niềm tuyệt vọng đến từ một sự đứt gẫy nào đó trong tâm thể hay từ một dự cảm thường trực về cái chết cận kề cứ chốc chốc lại vồ chụp lấy tâm trí Tử ném thẳng nó xuống cái vực không đáy của Hư vô? Có lẽ là cả hai. Cho nên trong thơ Tử, ta có thể cảm nghe được cả một thế giới bên trong vô hình đang lâm vào tuyệt vọng qua những tiếng rên rỉ rớm máu của thân xác bên ngoài. Nếu ai kia "viết dưới giá treo cổ" [15] , thì Tử đang viết dưới cái bóng vừa huơ lên của lưỡi hái tử thần. Sống đối với Tử, bấy giờ, là một cuộc chạy đua bạt vía tuỵêt vọng đối với tử thần. Chữ "mãnh liệt" e rằng không còn đủ độ để diễn tả trạng thái sống như một dây đàn ở cái chót điểm sắp sửa đứt phăng của Tử. Sống tức là Yêu. Lòng yêu sống đã đẩy thi sĩ đến cận kề cái tiếng nổ tự phá huỷ của cõi tinh thần. Cho nên đó cũng chính là cái nỗi cô đơn đặc biệt: nỗi cô đơn quá tải. Chỉ có những kẻ xấu số bất hạnh thế mới có được trải nghiệm này. Vậy là, Đau thương ở Tử là một thứ siêu nghiệm. Đau thương vừa là dạng thức vừa là cung bậc của cảm xúc thơ thường trực trong hồn thơ Hàn Mặc Tử.
    Song, điều đẹp đẽ là ở chỗ: Tuyệt vọng có thể chấm dứt hi vọng, nhưng không chấm dứt tình yêu. Tình yêu ở Tử càng mãnh liệt càng tuyệt vọng, càng tuyệt vọng lại càng mãnh liệt. Và, như một nghịch lí không khó hiểu, tình yêu tuyệt vọng đó đã trở thành một cách thế yêu đời của Hàn Mặc Tử. "Phải vì tất cả đều đang đi đến cái chết, nên tất cả mới hiện lên rực rỡ đến thế.". Không có ai tha thiết với cuộc đời cho bằng một người sắp sửa lìa đời. Nhìn cuộc đời ở thời điểm chót cùng của đời người đó là tâm thế trữ tình, là tâm thế sáng tạo đặc thù của Hàn Mặc Tử trong Thơ Điên. Tại thời điểm ấy, niềm thiết tha đồng nhất với nỗi đau đớn - Càng thiết tha càng đau đớn, càng đau đớn càng thiết tha. Nghịch lí của niềm tuỵêt vọng kia cũng chính là như vậy. Và đây là cái gốc của thơ Điên. Đúng thế, nếu Đau thương là nội dung sáng tạo, thì Điên là hình thức của sáng tạo ấy. Nói cách khác Điên chính là sự hiện hình, sự cất tiếng của Đau thương. Tất cả những yếu tố dị thường đến mức kì quái nữa, sở dĩ có thể thành thơ được là nhờ được đảm bảo bằng một thứ siêu nghiệm như thế.
    Có lẽ chưa cảm thông hết với nguồn sống thuộc về siêu nghiệm này, mà Xuân Diệu, trong bài "Thơ của Người" [16] , đã tỏ ý nghi ngờ Thơ Điên. Trái lại, Chế Lan Viên - một thi hữu của Hàn - ngay từ đầu đã tiền hô hậu ủng, và đến khi viết giới thiệu cho Tuyển tập của người tri kỉ xấu số, vẫn giữ vững ý kiến bênh vực sắc bén của mình. ông dẫn ra một tiếng thơ có một vẻ rất "điên", và chỉ ra yếu tố nào đã đem lại sức sống chân chính cho nó: "Chúng ta cần có người tả trăng là trăng. Nhưng cũng cần có người vượt lề thói tập đoàn mà xẻ trăng làm hai nửa (...) Cần truyền thống nhưng cũng cần biến dị, cần nói những điều chưa ai nói (...) Hôm nay có một nửa trăng thôi / Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi/... Không phải ma thuật, kĩ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sử gì làm trữ kim, làm đảm bảo, thì mới có thể phát ra những từ ấy." [17] . Thế đấy, Đau thương chính là thứ trữ kim tột cùng của thơ Hàn.
    Nhờ thứ trữ kim này người ta chẳng những thấy được cái lí của những hình thức kì dị, quá xa lạ, mà còn xuyên qua rào cản của những cảm giác kinh dị để nhận chân những nỗi niềm thơ chân chính của thi nhân. Thơ Điên vì thế là tiếng kêu rỏ máu của con chim sắp lìa trần, là tiếng nói của những hụt hẫng tan hoang, là tiếng nói của một thân phận bị dồn đẩy đến miệng vực của nỗi chết, chới với bên miệng vực ấy mà ngoái nhìn đời, nuối đời, níu đời. Mỗi tiếng thơ khác nào một lời nguyện cuối, một lời tuyệt mệnh. "Tôi còn trìu mến biết bao người / Vẻ đẹp xa hoa của một trời / Đầy lệ đầy thương đầy tuyệt vọng? / Đây giờ hấp hối sắp chia phôi", "Ta trút linh hồn giữa phút đây / Gió sầu vô hạn nuối trong cây / Còn em sao chẳng hay gì cả / Xin để tang anh đến vạn ngày"... Cảm xúc chia lìa vĩnh biệt luôn choán ngợp cõi lòng, vò xé tâm can. "Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt.", "Than ôi ! Hỡi biệt li chan chứa / Tưởng cùng em vui hưởng thú tiêu dao / Anh sắp đi và hai hàng lệ ứa / Cả đau thương dồn dập xót tâm bào", "Sao thơ anh toàn nhuộm màu li biệt / Rên không thôi và nức nở cả ban đêm"... Có thể nói, bước vào Thơ Điên là bước vào cái thế giới quằn quại của tinh thần. Nó là biểu hiện của những giằng xé quyết liệt giữa Bóng tối của Bệnh tật, Chết chóc, Ma quỉ với ánh sáng của Tình Yêu, Sự sống, Thần thánh... giữa Cố chấp, Thù hận, Hẹp hòi với Khoan dung, Độ lượng, Cao cả... giữa Địa Ngục hắc ám với Thiên đường quang minh... Tất cả những phản trái nghịch lí của nó đều là ngôn ngữ của Đau thương.
    Tuy trong các tuyên ngôn của mình, Hàn Mặc Tử đây đó tỏ ra không thật "tâm phục khẩu phục" Baudelaire, nhưng trường ảnh hưởng từ vị sư tổ của Chủ nghĩa Tượng trưng phương Tây này lớn đến mức khó cưỡng được, cho nên không thể không thấy Thơ Điên có dây mơ rễ má với "Hoa ác". Bởi hướng thơ của tác giả "Hoa ác"tuy vẫn được coi là đi tìm Cái Đẹp trong Cái ác, nhưng suy cho cùng, nó vẫn là bông hoa mọc lên từ cái gốc Đau thương. Dầu vậy, Đau Thương của Thơ Điên căn bản vẫn là cất lên từ thân phận thảm sử của Hàn Mặc Tử, có nghĩa: căn bản là nội sinh. Không có cái căn cốt là giá máu mà Hàn đã đánh đổi cho mỗi tiếng thơ của mình thì chưa chắc Thơ Điên đã đi xa hơn việc chạy theo một cái mốt tân kì để có thể làm rớm máu tâm can người đọc ở tận thế kỉ này. Và Đau thương đã tự tìm đến những hình thức của nó theo kiểu Hàn Mặc Tử.
    6.2. Chủ thể Thơ Điên: Cái Tôi li - hợp bất định
    Trong thơ trữ tình, việc chủ thể phân thân, hoá thân vào các đối tượng hết sức khác nhau để cất lên những tiếng nói trữ tình phong phú khác lạ không còn là điều xa lạ nữa. ở Thơ Điên, tình hình có khác hơn. Sự phân li của chủ thể ở đây không theo lối tuyến tính mà theo lối đồng hiện: một xác thân nhiều nhân cách. Toàn những "nhân cách" phản trái nhau và phản trái với chính thơ. "Thi sĩ không phải là Người - lại vẫn lời tuyên ngôn chung của trường thơ Loạn - Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỉ, là Tinh. Nó thoát hiện tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai." [18] . Đau thương đã biến chủ thể Thơ Điên thành một chủ thể sinh hoá màu nhiệm kì khôi - Cả một miệng ta trăng là trăng / Cả lòng ta vô số gái hồng nhan / Ta nhả ra đây một nàng/ Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây... Dường như chính Đau thương đã tạo ra một cuộc nổ vỡ nào đó của tinh thần mà phá vỡ tính nhất thể của cái Nguyên Tôi, phân li nó thành muôn mảnh. Mỗi mảnh vừa là một phân thân của Cái Tôi kia lại vừa là một cái Tôi khác tự lập - Kìa ai gánh máu đi trên tuyết / Với lại ai ngồi khít cạnh tôi / Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng / Không nói không rằng nín cả hơi... Xác thân là một Tôi, Hồn lại tách ra thành một Tôi khác, đùa cợt, rượt đuổi, trêu tròng nhau, thậm chí thôn tính lẫn nhau - Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng... / áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng/ Hồn đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến... Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay / Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc, Ôi điên cuồng! Ôi rồ dại! rồ dại / Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta... Dầu sao đó chỉ là sự sinh hoá trong một thực tại ảo. Không thể say mê với thực tại ảo đó mãi được, muôn mảnh ấy tất sẽ tái thống nhất trong một bản tướng, bản thể duy nhất bằng chính Đau thương - Thưa tôi không dám say mê / Một mai tôi chết bên khe ngọc tuyền / Bây giờ tôi dại tôi điên / Chắp tay tôi lạy cả miền không gian... Việc tạo ra kiểu chủ thể này ít nhiều thấy cả trong thơ Bích Khê, Chế Lan Viên, Hoàng Diệp, Xuân Khai... Và người ta cho rằng Văn hoá Chàm cùng với những bóng ma Hời phổ biến ở vùng thành Đồ Bàn đã nhập vào thế giới thi ca của Trường Thơ Loạn kia. Điều này có lẽ có thực. Song ở Hàn Mặc Tử, cái ngoại nhập mờ hơn cái nội sinh. Chính đời sống thực thể đặc biệt của Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau, lúc nào cũng chập chờn bất định giữa Thực tại và Chiêm bao, lại có lúc cận kề cái chết hay xuất hồn siêu thăng vào cõi khác, là cái vốn nội sinh đã đồng hoá những ngoại nhập đó thành cái chủ thể sinh hoá kì dị này. Nó cũng là một thứ siêu nghiệm mà chỉ những người như Hàn Mặc Tử mới trải qua. Và, không có cái chủ thể sinh hoá một xác thân nhiều nhân cách quái đản ấy làm sao chủ thể Thơ Điên có thể hiện ra như một Kẻ Điên để làm nên diện mạo của loại hình thơ này được ? Song, điều đáng nói hơn ở đây phải là: chủ thể như thế chính là cái hình thái tột cùng của một chủ thể trữ tình.
    6.3. Kênh hình ảnh tân kì của Thơ Điên: những vẻ kì dị
    Nếu không có kênh hình ảnh này, chưa chắc Đau thương đã được gọi là Thơ Điên. Cũng vì thế, ai đã đọc Thơ Điên, không thể không thấy vẻ kì dị, kinh dị tràn ngập ở đó. Người này thấy Tử hay nói đến sự Tan Loãng của xác thân với những rơi rụng, tàn rữa. Người khác thấy Tử thường chuyển vô số cảm nhận thuộc các giác quan khác về một khí quan là cái miệng, là "khẩu cảm"với những động thái ăn, nuốt, đớp, nhả, mửa, khạc... vốn rất kị giơ với thi ca truyền thống. Và nhất là ai cũng đã từng bị "sốc" trước những vẻ kinh dị hãi hùng của Trăng - Hồn- Máu. Không ít người gọi đó là vẻ đẹp kì dị: "... Tôi toan hớp cả váng trời / Tôi toan đớp cả miếng cười trong khe", "Ta cắn lời thơ để máu trào", "Ta há miệng cho hồn thơ trào vọt", "Cười no nê sặc sụa cả mùi trăng", "Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng?, "Hồn vội mớm cho tôi muôn ánh sáng", "Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa / Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô / Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy / Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra...? Có thể nói không ngoa rằng đó là cả một cuộc nổi loạn trong cảm giác của thi ca. Với những vẻ kinh dị này, Thơ Điên muốn xé rào để tìm kiếm cho thơ những miền cảm giác mới - cảm giác mạnh, đẩy cái kinh dị đến tột cùng. Dù nó có phần xa lạ với Người.
    Thực ra, vẻ kinh dị trong thơ Hàn Mặc Tử không quá xa lạ. Người ta đã từng tiếp nhận Cái Kì trong truyền thống ở những chuyện ma quỉ dân gian, ở những Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, Truyền kì mạn lục, cả đây đó trong Truyện Kiều... của Ta và Liêu trai chí dị của Tàu. Và đương thời Hàn cũng không phải là hiếm đồng minh trên con đường phiêu lưu vào thế giới của cái kinh dị. Ngoài những thi hữu thân cận, có thể thấy cả Thế Lữ, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, v.v... Song, có thể nói, Quyết đi tìm sự lạ chính là động cơ lớn chi phối hành trình sáng tạo của Hàn Mặc Tử - Trong tiểu luận "Nghệ thuật là gì?" ông đã viết: "Quăng mình đi giữa cái vũ trụ mênh mông, rượt nà theo những nguyện vọng cao xa, những cái ý nghĩa, ấy là do cái năng lực tinh thần mạnh mẽ nó thúc giục mình (...) Bồn chồn, ta quyết đi tìm sự lạ" [19] . Tuy thế, động cơ vẫn sẽ chưa chịu nổ dù đã nạp đầy nhiên liệu, nếu như không nhờ đến cái bugi đánh lửa Baudelaire. Cả Xuân Diệu - mới nhất trong các nhà Thơ Mới, lẫn Hàn Mặc Tử - lạ nhất trong những nhà Thơ Mới đều chia nhau ảnh hưởng từ bậc thầy của Chủ nghĩa Tượng trưng này. Nếu Xuân Diệu đã nhận từ Baudelaire lối tư duy Tương ứng - chủ yếu là tương ứng giữa các giác quan - làm một la bàn hữu hiệu để đi vào "thế giới của Du Dương" mà săn tìm những vẻ đẹp trần thế, thì Hàn Mặc Tử lại lĩnh từ tác giả "Hoa ác" một cảm quan ma quái để đi mãi vào thế giới Đau thương, rồi cứ bị thôi miên bởi những Vẻ đẹp kì dị, kinh dị. Baudelaire đã tìm kiếm chất thơ ở những vật ghê rợn kinh hãi như xác chết, máu me, xương tuỷ, sự dâm đãng, v.v... Đến lượt mình, Hàn Mặc Tử và các thành viên của trường thơ Loạn cũng tìm thi hứng và nói rất thoả mái đến những xác chết, sọ dừa, đầu lâu, mồ hoang, giếng loạn, xương khô, sự trần truồng, sự dâm đãng... Tuy nhiên, trong khi các thi hữu của mình như Chế Lan Viên, Bích Khê nghiêng về sự tuân thủ những quan niệm lí thuyết, nghĩa là tuân theo những mô thức do họ phác ra từ trước, thì riêng Hàn Mặc Tử lại có một đời sống thực thể rất gần với cái thế giới kinh dị đó. Ông thường xuyên rơi vào tình trạng cô đơn tuyệt đối, tinh thần bị vây khốn giữa một cõi sống đơn độc, luôn bị ám ảnh bởi nỗi chết của riêng mình, và dường như lúc nào cũng có thể cảm thấy mười mươi cái bóng đen đúa, cái âm khí lạnh ngắt cùng đôi mắt rùng rợn của tử thần, cho nên tinh thần của thi sĩ luôn lạc giữa cái trùng vây của những biểu tượng kinh loạn nhất của thế giới khác. Nghĩa là bản thân cõi tinh thần của Tử đã là kinh dị. Cả yếu tố nội tại này lẫn quan niệm từ phương xa kia mới hội đủ những lí do khiến Hàn Mặc Tử nói đến cái kinh dị với cường độ lớn đến thế và tự nhiên như là máu thịt đến thế.
    Dầu sao cũng phải nói thêm rằng: Nếu chỉ có cái kinh dị không thôi, hẳn Thơ Điên cũng sẽ là quá tải ngay cả với những người nghiện săn lùng những cảm giác gai gợn trong thơ. Thơ Điên sở dĩ vẫn là nó không chỉ vì nó được bảo hiểm bằng nỗi đau thương tột cùng, mà còn bởi Cái Kinh dị luôn biết chung sống hoà bình với những vẻ đẹp khác. Chỉ nói riêng ba biểu tượng Trăng - Hồn - Máu cũng thấy rằng, những hình ảnh được sáng tạo về chúng có cả những gì kinh dị nhất, cũng có cả những gì lộng lẫy nhất mà thơ ca có thể làm được. Trăng chẳng hạn: có "Trăng tự tử", "Trăng ngã ngửa vỡ tan thành vũng đọng vàng khô", "Trăng sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu"... nhưng cũng có "Trăng vàng, trăng ngọc", có "Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ / Đầy mình lốm đốm những hào quang", có "Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay"... Phải chăng tham vọng Thơ điên của Hàn Mặc Tử là hướng tới cái tột cùng về cả hai thái cực?
  4. M0on1989

    M0on1989 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2007
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0
    6.4. Mạch liên kết của Thơ Điên: Dòng tâm tư bất định
    Không ít người trong giới "Hàn học" đã cảm nhận được một vẻ "kì cục" ở đôi bài là mạch thơ "cóc nhảy", "đầu Ngô mình Sở". Và căn cứ vào dấu hiệu này mà nhiều người vội xếp thơ Hàn Mặc Tử hẳn vào ô siêu thực. Thực ra, những cảm nhận ấy đã vô tình chạm đến một nét đặc trưng của Thi pháp Thơ Điên: mạch liên kết Siêu lôgic. Có nghĩa là sự liên kết trong các thi phẩm cứ như muốn tuột ra khỏi tầm kiểm soát của lí trí, các mảng thơ dính với nhau không phải do áp lực của tính hợp lí thuộc một lôgic thông thường, song nó vẫn gắn kết theo một kiểu riêng. Đây cũng là một tất yếu - tuân theo lôgíc thông thường thì sao có thể là Thơ Điên? Điều này có cội nguồn riêng của nó.
    Đọc những gì có thể gọi là quan niệm lí thuyết của Hàn Mặc Tử về thơ, không hề thấy Tử nói đến "Câu thơ tự hành" hay "tự động" như nhiều nhà Tượng trưng và Siêu thực chủ trương. Vậy là kiểu liên kết này có lẽ không đến với Tử từ nhận thức lí thuyết ngoại nhập. Nó là nội sinh. Trước hết là từ kiểu tư duy đặc biệt của Tử, mà Hoàng Ngọc Hiến gọi bằng "siêu thức" [20] . "Ngoại cảnh đã xâm lấn xác thịt và linh hồn tôi - Hàn Mặc Tử viết trong "Chiêm bao với Sự thực"- Bao nhiêu là tinh anh của non sông đều xông vào tôi rút hết tình tiết tôi. Tôi có thể bảo đây là lối thần giao cách cảm, mà ngoại cảnh hay thâm tâm đồng xáo động (...) Tôi cảm thấy hồn tôi mất đi một nửa, và tôi đương sống trong sự mơ hồ...Và tôi sẽ kí thuyết minh một cách rất nhà Phật là Sắc cũng như Không, Chết cũng như Sống, Gần cũng như Xa, Hư cũng như Thực... Những điều phản trái ấy dầu thế nào, cũng có liên lạc, mật thiết và thông cảm với nhau. (...) có hay không, hư hay thực là những huyền ảnh chập chờn trước mắt" [21] .Trong một trạng thái như thế, lí trí và ý chí của thi sĩ không thể nắm vai trò độc tôn để áp đặt cái quyền lực lôgic vốn có của nó. Những sản phẩm thơ của Hàn Mặc Tử ra đời trong các trạng thái như thế sao có thể tuân theo một lôgic thông thường. Cố nhiên, để nó vẫn là thơ chứ không phải là một mớ chữ hỗn loạn, tất phải có một lôgíc riêng.
    Mỗi bài thơ của Tử thường hiện ra như một dòng tâm tư bất định: tình điệu liên tục chuyển vần, hình tượng liên tục chuyển "kênh". Tất cả cứ như một thể lỏng trôi chảy vô định hình, như một mạch liên tưởng tuỳ tiện, đứt đoạn, "cóc nhảy". Nếu được tách bạch một cách giả định thì có thể thấy trong mỗi thi phẩm của Tử: "văn bản hình tượng" có vẻ hỗn loạn, trong khi đó "văn bản cảm xúc" lại nguyên phiến, liền mạch dù nó vần vụ qua nhiều cung bậc. Như thế liên kết thơ Điên có thể ví như khối hình Rubic: Các ô màu thì hỗn loạn trên bề mặt, nhưng tất cả lại châu tuần xung quanh cái trục bí mật náu trong lòng Rubic. Những hình ảnh tán loạn (huyền ảnh) như những mảnh vỡ văng rất xa nhau bởi một nỗi Đau thương lớn, tất sẽ lại châu tuần xung quanh chính nỗi đau kia. Đó là bản chất của Siêu lôgic trong thơ Hàn Mặc Tử.
    Bước vào mỗi bài thơ Hàn Mặc Tử, người đọc không khỏi có cảm giác phân tâm: trí dường như ngơ ngác không theo kịp mạch vận động bất định của các hình ảnh, nhưng lòng lập tức bị xâm chiếm, bị cuốn đi bởi cảm xúc đau thương với những sắc điệu cung bậc khác nhau, khi thì tràn trề, khi thì ẩn kín đằng sau những hình ảnh ấy. Dòng tâm tư ngầm chảy dưới mỗi bài thơ cuốn theo lớp hình ảnh ken dày trên bề mặt thi phẩm. Ghé nhìn sang Xuân Diệu, dễ thấy mạch liên kết của thi sĩ này căn bản là bằng Tứ. Là cấu trúc ý tưởng trong nghệ thuật, nói đến Tứ là nói đến Cấu tứ trong lao động nghệ sĩ. Thơ Xuân Diệu ngay cả những bài ngỡ chỉ thuần những cảm xúc tràn lan, vẫn có một cấu tứ rất chặt, nhiều khi còn chất chứa bên trong cả một mạch luận lí nữa. Một trường hợp khác: Nguyễn Bính. Chất Tự sự trong thơ Nguyễn Bính rất đậm và thường giành lấy quyền tổ chức mạch thơ. Tình trong thơ Nguyễn Bính không phải là ít, lê thê nỉ non nữa là khác, nhưng nó vẫn là phái yếu trước tính chuyên quyền của Sự trong vai trò điều hành mạch thơ. Không phải ngẫu nhiên mà bài thơ nào của Nguyễn Bính cũng có cái điệu thức Kể lể Sự tình, bài nào cũng ngầm chứa một cái Cốt ở một mức độ nào đấy. Nói chung, đã theo Cốt hay theo Tứ thì mạch thơ, dù muốn dù không, vẫn cứ có một trật tự được áp đặt bởi lí trí, có lớp lang rành mạch- nghĩa là vẫn phải chịu sự dẫn dắt trực tiếp và thường xuyên của ý thức người làm thơ. Còn Hàn Mặc Tử thuộc tip thi sĩ bị thơ làm. "Bị truy kích bởi cái chết, Tử hối hả, dồn dập sáng tạo chứ đâu có làm văn! Anh trút đời mình, lòng mình từng trận, từng hơi chứ đâu có ngồi điêu khắc chạm trổ từng câu, từng chữ. Ta hiểu anh không phải từng câu, từng chữ mà từng hơi" [22] . Chế Lan Viên, trong khi chỉ ra cách đọc thơ Hàn, đã vô tình chạm đến lối liên kết siêu lôgic. Hình ảnh thơ cứ như từ một tiềm thức vần vụ mà tuôn trào ra ngoài từng cơn, từng hơi bởi một áp lực vô song của những tình cảm bị dồn nén đến Đau thương. Nên kết cấu thơ Tử dù ở bài dài hay ngắn, dù ở bài tự do hay theo thể cách, về căn bản là kết cấu của dòng tâm tư bất định đó.
    Có thể chọn ngay bài "Đây thôn Vĩ Dạ" để khảo sát mạch liên kết (và ở đây chỉ phân tích có một bình diện ấy thôi). Chọn bài này vì nó được viết theo thể cách, thành những khổ tề chỉnh vuông vức, mối liên kết kia khó thấy hơn, do đó kết quả khảo sát sẽ điển hình hơn. Không có sự phân li chủ thể theo kiểu một xác thân nhiều nhân cách, không có những hình ảnh thật ma quái, cũng không có những tiếng kêu kinh dị... Bài thơ trong trẻo vào bậc nhất của Hàn. Có lẽ bởi những lí do đó mà nhiều người đã yên chí rằng "Đây thôn Vĩ Dạ" là một ngoại lệ, như lạc vào phần Thơ Điên chứ không phải một thành viên thứ thiệt của nó. Không phải. Nó vẫn thuộc thơ Điên. Chính Hàn Mặc Tử đã xếp nó vào phần đầu tập Thơ Điên, phần "Hương Thơm". Cũng có lẽ thuộc giai đoạn đầu mà "tính chất Điên" chưa đầy đủ. Dù sao tính chất Điên đã ló ra ở những từ cực tả và nhất là ở mạch liên kết siêu lôgic. Như ta đã biết, toàn bài chỉ vẻn vẹn ba khổ:
    Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
    Lá trúc che ngang mặt chữ điền
    Gió theo lối gió mây đường mây
    Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
    Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
    Có chở trăng về kịp tối nay ?
    Mơ khách đường xa, khách đường xa
    áo em trắng quá nhìn không ra...
    ở đây sương khói mờ nhân ảnh
    Ai biết tình ai có đậm đà?
    Có thể thấy rõ mạch liên tưởng "cóc nhảy", đứt đoạn, bất định - liên tưởng điên - trong chuỗi hình ảnh của nó: ngoại cảnh (phần đầu)với tâm cảnh (phần sau); tươi sáng(vườn thôn Vĩ) với âm u (cảnh sông trăng và sương khói); hi vọng (sao anh không về...) với thất vọng (ai biết tình ai...); đang mô tả vẻ lộng lẫy của mảnh vườn thôn Vĩ với tư cách của người đương ở tít chốn xa ngóng về, thoắt đã biến hẳn vào trong cảnh để trở thành một nhân vật đã về tới nấp nom bên vườn thôn Vĩ (Sao anh không về chơi thôn Vĩ?... Lá trúc che ngang mặt chữ điền) đến nỗi đó là hình ảnh người-thôn-Vĩ hay người-trở-về-thôn-Vĩ nhoè lẫn vào nhau không còn phân biệt rõ trong cùng một gương mặt chữ điền; ba cảnh trên với vườn mướt như ngọc, sông trăng- thuyền trăng, khách đường xa thuộc thế giới Ngoài kia (cuộc sống trần gian giờ đã tuột ra ngoài tầm với), thoắt cái, không gian đã chuyển làn, đã là "ở đây sương khói" thuộc thế giới Trong này (nơi Tử đang sống trong mặc cảm chia lìa), v.v... Những mảng thơ phản trái nhau, những miền không gian rất xa nhau đã gắn kết vào nhau ngỡ như chẳng có cái lí gì! Trong từng khổ thơ cũng có những gấp khúc trái chiều. Khổ đầu: một ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như một lời mời mọc từ bên ngoài, nỗi hoài niệm âm u lại mang gương mặt sáng sủa của khát khao rực rỡ. Khổ hai: một ước mong khẩn thiết dâng lên thoắt trở thành một hoài vọng chới với nghẹn ngào. Khổ ba: một niềm mong ngóng vừa ló rạng hướng ra thế giới bên ngoài đã vội biến thành mối hoài nghi hướng vào nơi đương tồn tại. Mối u hoài nối ba khổ thơ tách biệt ấy còn được thể hiện bằng một "sợi dây" liên kết khác nữa: Ba khổ đều ngầm chứa ba câu hỏi với bốn chữ ai rải đều trong lòng bài thơ (Vườn ai? thuyền ai? ai biết tình ai?) khiến chúng vang lên trong một nền âm hưởng đặc biệt ấy là giọng điệu da diết khắc khoải. Vậy đấy, nếu lối "liên tưởng điên" tạo ra một văn bản hình tượng đầu Ngô mình Sở, thì dòng lưu chuyển cảm xúc đau thương dưới dạng u hoài khắc khoải kia lại tạo ra một âm điệu nhất quán, liền mạch. Phi lôgic ở bề mặt, nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu, đó chính là Siêu lôgic - nét thi pháp thơ Điên điển hình của "Đây thôn Vĩ Dạ". Và Siêu lôgic chẳng phải là kiểu tột cùng của liên kết thơ sao?
  5. M0on1989

    M0on1989 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2007
    Bài viết:
    217
    Đã được thích:
    0

     

     

     
    6.5. Lớp ngôn từ nổi bật củaThơ Điên: Lớp từ cực tả
    Làm nên diện mạo một loại hình không thể không có vai trò của lớp ngôn từ riêng. Với Thơ Điên, đó là lớp ngôn từ cực tả - hiểu theo nghĩa là lớp từ có thiên hướng biểu tả ở mức cực điểm. Thơ Điên đã dung chứa trong nó một lớp ngôn từ đối nghịch gay gắt. Có cả những tiếng rên siết thê thiết của một xác thân bị dày vò tàn huỷ: "Trời hỡi làm sao cho khỏi đói / Gió trăng có sẵn làm sao ăn"; "Ôi trời ơi là Phan Thiết! Phan Thiết!"; "Trời hỡi bao giờ tôi chết đi"... Dễ hiểu vì thi sĩ Thơ Điên này chủ trương rằng: "không rên siết là thơ vô nghĩ lí". Lại có cả những lời cầu nguyện từ một tâm linh mộ đạo thanh khiết: "Tấu lạy bà, Người là Đấng trinh tuyền thánh vẹn"; "Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé"... Điều này cũng dễ hiểu bởi, chính Hàn Mặc Tử còn muốn sáng tạo ra một thứ kết hợp cho điều đó khi gọi bằng "Thơ - Cầu nguyện". Ngôn từ trong thơ Tử thường đẩy lên ở mức chót cùng của các xu hướng. Hướng trực cảm thì dường như ngôn từ không theo được những linh giác quá bén nhạy. Riêng sắc trắng không thôi đủ thấy khía cạnh này. Là người say đắm vẻ đẹp trinh khiết, Tử rất hay nói tới sắc trắng lạ lùng. Không chỉ phô màu mà còn hắt lên cả ánh: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang", trắng đến nỗi ngôn từ phải vặn mình mà diễn tả: "Chết rồi xiêm áo trắng như tinh"..., trắng đến độ ngôn từ phải gồng mình chạy đua với trực giác: "Động là một thứ hòn non bằng cát, trắng quá, trắng hơn da thịt người tiên, của lụa bạch, hơn phẩm giá tiết trinh- một màu trắng mà tôi cứ muốn lăn lộn điên cuồng, muốn kề môi hôn, hay áp má lên để hưởng sức mát rượi dịu dàng của cát", trắng đến ngỡ như thị giác đã bất lực: "áo em trắng quá nhìn không ra"... Hướng ước lệ thì tuyệt đỉnh cao sang: "Đức tin thơm hơn ngọc", "Trái cây bằng ngọc vỏ bằng gấm/ Và mặt trời kia tựa khối vàng/ có chàng trai mới in như ngọc, gió căng hơi và nhạc lên ngàn". Hướng khoa trương thì cũng to tát đến cùng cực: "năm muôn năm, trời muôn trời", "Như mê man chết điếng cả là da"," Tôi hoảng hồn lên giận sững sờ", v.v... Và điều này là nhất quán. Bởi thi học của Thơ Điên là: Cái gì của nó cũng tột cùng.
    Năm điểm trên đây là một hệ thống khá chặt chẽ như những nguyên tắc thi pháp cơ bản chi phối từ gốc đến ngọn, từ vĩ mô đền vi mô của Thơ Điên. Điểm tụ dễ thấy của chúng là cái nguyên tắc mĩ học bao trùm: Cái gì của nó cũng tột cùng.
    Diện mạo kì lạ của Thơ Điên không phải hình thành do nhận thức lí thuyết mà chủ yếu từ trải nghiệm cá nhân trong sáng tạo cũng như những bất hạnh riêng của thân phận thi sĩ. Nó là sản phẩm của một sự khủng hoảng và một khát khao, một nỗ lực sáng tạo. Chúng ta đều biết Thơ Mới là tiếng nói trữ tình của Cái Tôi cá nhân cá thể. Thế giới Cá nhân là một phát kiến mới mẻ, cũng là một trốn chạy ngọt ngào; là một miền đất hứa nhưng cũng là tuyệt địa của tinh thần. Nếu Thơ Mới là hành trình đi mãi vào địa hạt của Cái Tôi, Thì Thơ Điên mang cái tham vọng muốn tới chỗ sơn cùng thuỷ tận của Cái Tôi đó. Nếu Thơ Mới là nỗi Cô đơn của con Người, thì Thơ Điên là cái trạng thái chót cùng hoàn toàn quá tải của Cô đơn - ấy là Đau thương, là Tình yêu tuyệt vọng. Nếu Thơ Mới thể hiện một nguồn sống mãnh liệt của Cá nhân, thì Thơ Điên muốn tìm tới dạng thức tột cùng của sự mãnh liệt ấy- mãnh liệt đến cuồng tâm dại trí. Nghĩa là đa phần Thơ Mới là Kinh nghiệm còn Thơ Điên muốn tới một thứ Siêu nghiệm.
    Tất cả những điều đó khiến cho Thơ Điên cứ chênh vênh, cheo leo trên ranh giới rất mạo hiểm giữa Thơ và phi Thơ, phản Thơ. Chạy theo cái Tột cùng mà chỉ cần thiếu đi một chút chân thực, lập tức nó sẽ hoàn toàn thành khoa trương, sáo rỗng; hoặc chạy theo cái kinh dị quá liều, lập tức thành phản cảm... Có thể nói, Thơ Điên đã đẩy mình đến miệng vực, đến sát lằn ranh mong manh của vương quốc thơ, bên này là sinh địa, bên kia là tuyệt địa của Thơ. Cheo leo thế, Thơ Điên không phải là ít loạng choạng. Không ít mảnh Thơ Điên đã hụt chân sa xuống vực. Và ở một nghĩa nào đó, đây cũng chính là đường ranh giới phân hoá người đọc của loại hình thơ này: người "chịu được" có thể coi đây mới là Thơ, thậm chí thơ cao siêu, người "dị ứng" dễ bảo đây không phải là thơ của Người - điều này cũng đã được chính các thi sĩ của trường thơ Loạn tiên liệu.
    Xem ra, Siêu Thực, Tượng Trưng, Hiện đại... đều là những cái ô chật chội đối với thể hình ngoại chuẩn của Thơ Điên. Nó đã tích hợp các yếu tố kia để chưng cất trong cái núi lửa đau đớn riêng của Hàn Mặc Tử để giờ đây mỗi tiếng thơ trào ra khỏi tâm thức của Tử là một dòng nham thạch riêng, khác hẳn. Dường như Thơ Điên chỉ có thể là chính nó - Tiếng thơ của những cái Tột cùng. Nó vừa giống vừa không giống với những gì đã có. Điều ấy xác định đóng góp độc đáo của Hàn Mặc Tử cho nền thi ca của chúng ta. Mang trong mình cái khát vọng muốn đẩy thơ ca đương thời lên một trình độ mới, Thơ Điên đáng được trân trọng và có quyền sống chính đáng của nó. Và bằng cái sự sống kì lạ mà Hàn Mặc Tử đã trút vào trong mỗi dòng mỗi chữ, Thơ Điên đang sống. Mãnh liệt và Dai dẳng. Trước khi mất, Xuân Diệu dường như có điều chỉnh lại sự tiếp nhận của mình đối với Hàn Mặc Tử. Ông nói rằng máu của Hàn Mặc Tử vẫn rỉ ra trong mỗi con chữ cứ quằn quại ấy.
    Thực ra, xem xét Hàn Mặc Tử như một thi sĩ khao khát cái Tột cùng - từ con người đến quan niệm, từ tư tưởng đến thế giới hình tượng và loại hình Thơ Điên - rất có thể vẫn mới chỉ là một cách đọc vào thứ kí tự kì bí của thơ Hàn, một cách thăm dò khảo sát vào một vỉa, một kiểu kết cấu địa chất nào đó của trái núi bí ẩn. Còn Hàn xem ra vẫn cứ điềm nhiên khuất mình trong mây mãi thách thức, mãi mời gọi thế.
    Văn chỉ, Đông Nhâm Ngọ.
    Nguồn: Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2003.
    được deny_me sửa chữa / chuyển vào 10:51 ngày 27/05/2008
  6. ltv_dhl

    ltv_dhl Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    07/07/2004
    Bài viết:
    133
    Đã được thích:
    0
    Lâu ngày vào thấy mọi người có nhiều bài hay quá.
    Mình góp 1 link dẫn đến bài viết của Nguyễn Vỹ về sự thật TTKH là ai. Nếu ai chưa đọc thì đọc xong có thể thấy hơi thất vọng
    http://thinhanquangngai.wordpress.com/2007/08/07/tham-tam-va-s%e1%bb%b1-th%e1%ba%adt-v%e1%bb%81-ttkh/#more-97
    Mặc dù vậy, trên Vnthuquan có post 1 câu chuyện khác nghe cũng thật không kém - không biết nên tin ai.
    http://vnthuquan.net/diendan/tm.aspx?m=268976
  7. deny_me

    deny_me Ma Xó

    Tham gia ngày:
    07/03/2003
    Bài viết:
    7.776
    Đã được thích:
    0

     

     

    Cảm ơn bạn Moon1989 đã chia sẻ! bài của moon rất hay, mình đã đọc và thấy ko có gì vi phạm cả. Mình thử post lại bài của bạn nhưng cũng ko dc. Kko hiểu bộ lọc dị ứng với từ nào nhỉ :D


     

    được deny_me sửa chữa / chuyển vào 19:26 ngày 23/05/2008
  8. deny_me

    deny_me Ma Xó

    Tham gia ngày:
    07/03/2003
    Bài viết:
    7.776
    Đã được thích:
    0
    Mình quote lại bài bạn nhé
    Được deny_me sửa chữa / chuyển vào 10:48 ngày 27/05/2008
  9. ca_ko_an_muoi_ca_buou_co

    ca_ko_an_muoi_ca_buou_co Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    13/06/2004
    Bài viết:
    814
    Đã được thích:
    118
    Cảm ơn Moon nhé! Tôi đã tiếp cận Thơ Hàn từ khá lâu và luôn có cái cảm giác lạ lùng và hơi choáng váng! Tôi thấy rằng để cảm nhận thơ của con người này nên có cái cách cảm nhận thật tự nhiên, càng máy móc, càng khuôn ép thì càng khó hiểu!
    Một lần nữa xin cảm ơn bài viết của Moon!
  10. Aegis

    Aegis Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    15/08/2001
    Bài viết:
    225
    Đã được thích:
    0
    Thế nào là thơ mới hả các bác ? Nó khác thơ cũ ở cái gì ạ ?

Chia sẻ trang này