1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Căn bệnh kinh niên: "Tuyệt đối hoá học thuật"

Chủ đề trong 'Học thuật' bởi kenetic, 20/04/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Tran_Thang

    Tran_Thang Thành viên gắn bó với ttvnol.com

    Tham gia ngày:
    07/01/2005
    Bài viết:
    4.581
    Đã được thích:
    193
    Cái gọi là "sắc sắc, không không" lại là đây. Phật pháp quả là linh động.
    Trở lại vấn đề : bác viết là : "e-te tương tác với tín hiệu năng lượng vào và sinh ra các hạt".
    Thì ta cứ xem chân không vật lý như môi trường nước đi. Và một con cá lấy o-xy sẽ nhả ra o-xit các-bon, taọ thành những bọt khí nổi lên mặt nước.
    Tín hiệu năng lượng cũng là HẠT, và hạt cũng là TÍN HIỆU. Vậy ta có thể xem "e-te của bác" như một bức tường và người ta có thể ném một quả dưa chín vào đó phải không ?
    Thông tin của bác rất hay, tôi sẽ nghiên cứu thêm. Cảm ơn.
  2. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Heee sao lại có vấn đề Phật pháp ở đây vậy????
    hic hic... đoạn này bạn viết bông phèng thì phải!!!!
    Chúc vui!!!
  3. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Heee sao lại có vấn đề Phật pháp ở đây vậy????
    hic hic... đoạn này bạn viết bông phèng thì phải!!!!
    Chúc vui!!!
  4. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn Tran_Thang!
    Liên quan đến vấn đề này Buddha__vn xin copy ra đây một đoạn trong một Topic trên box Hocthuat này:
    ------------------------------------------------------------------------
    ......................................................................................................
    Bây giờ ta đi sâu vào phần giải thích vì sao các thí nghiệm của Maikenson và Fizo, lại mâu thuẩn với những phán đóan mà họ đưa ra.
    Trong thí nghiệm của Maikenson, ông đã đưa ra các phán đoán:
    - Nếu có ête thì ête sẽ bị kéo đi, khi ánh sáng truyền trong chân không.
    - Nếu có ête thì vận tốc ánh sáng trong chân không, không phải là một hằng số, khi ánh sáng truyền theo phương này hay phương khác.
    - Nếu có ête thì dòng nước ête và chuyển động của quả đất sẽ đẩy tia này và cản tia kia, khi có hai tia lan truyền đồng thời và ngược chiều nhau.
    - Nếu có ête, nguồn sáng và máy thu ánh sáng sẽ ảnh hưởng đến tốc độ lan truyền ánh sáng.
    Như đã biết ở trên, sự tồn tại của ête là hiển nhiên có. Nhưng những kết quả thí nghiệm của Maikenson lại là như sau:
    - Không có sự kéo theo của ête.
    - Vận tốc ánh sáng trong chân không bị thay đổi khi nó truyền theo phương này hay phương khác.
    - Không có sự đẩy tia này và cản tia kia, khi có hai tia sáng truyền ngược chiều và đồng thời với nhau.
    - Nguồn sáng và máy thu ánh sáng không ảnh hưởng đến tốc độ lan truyền ánh sáng.
    Tại sao laị có sự sai khác như vậy?
    Quan sát các phán đoán của Maikenson, ta thấy chúng là những kết luận được rút ra từ phép suy luận loaị tỷ. Khi mà Maikenson coi quá trình truyền ánh sáng trong ête, tương tự như các quá trình truyền ánh sáng trong các môi trường khác như nước, không khí, chân không. . . Mà nó được hình tượng hóa cụ thể là một người bơi trong nước. Ðây chúng ta hãy xem lại lập luận của họ: "... ánh sáng lan truyền trong ête. Và như thế thì đi trong ống, một tia sáng chạy theo ống, như người bơi ngược chiều và tia kia như người bơi xuôi chiều trong mương nước "ête" . Dòng nước "ête" và chuyển động của quả đất sẽ đẩy tia này và cản tia khác".
    Sai lầm chính là ở đây.
    Theo logic, thì phép suy luận loại tỷ chỉ có thể được áp dụng, khi ta đã tìm ra được sự phù hợp (tức tương tự, đồng dạng, giống nhau) về mặt tính chất, cấu trúc, thuộc tính, chức năng, qui luật vận hành. . giữa mô hình và đối tượng gốc.
    Trong trường hợp này, đối tượng gốc là quá trình truyền ánh sáng trong ête. Thì mô hình đối với nó phải là một khái niệm có cùng thụộc tính bản chất chung là:"sóng". Trong nôị hàm của nó phải có nội hàm của sóng.
    Nhưng mô hình của Maikenson không thỏa mãn được các điều kiện đó. Do đó: Không thể coi quá trình truyền ánh sáng trong các môi trường như nước, không khí, chân không. . . Tương tự như quá trình truyền ánh sáng trong ête được.
    Xét ở khía cạnh khác, theo định nghĩa của ête, thì nó:"thấm nhuần khắp nơi kể cả chân không. . . " Vậy thì quan hệ: ête - chân không, ête -nước , ête - không khí. . . không giống như quan hệ chân không - không khí, chân không-nước, không khí -nước.
    Mối quan hệ giữa ête và chân không, không khí, nước, trong các mối quan hệ: ête - chân không, ête -nước , ête - không khí là mối quan hệ phụ thuộc giữa khái niệm thuộc về "hạng", so với các khái niệm thuộc về "loại". Trong khi đó các mối quan hệ: Chân không - không khí, chân không - nước, không khí - nước, thì mối quan hệ giữa nước, không khí, chân không là mối quan hệ ngang hàng, giữa các khái niệm khác loại, trong cùng một hạng.
    Maikenson đã cho mối quan hệ phụ thuộc (ête -nước) thành một mối quan hệ ngang hàng, là một điều sai lầm. Do đó kết quả của nó đương nhiên là phải sai lầm. Các kết quả của ông trên thực tế đã chứng minh sự sai lầm đó cuả ông.
  5. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn Tran_Thang!
    Liên quan đến vấn đề này Buddha__vn xin copy ra đây một đoạn trong một Topic trên box Hocthuat này:
    ------------------------------------------------------------------------
    ......................................................................................................
    Bây giờ ta đi sâu vào phần giải thích vì sao các thí nghiệm của Maikenson và Fizo, lại mâu thuẩn với những phán đóan mà họ đưa ra.
    Trong thí nghiệm của Maikenson, ông đã đưa ra các phán đoán:
    - Nếu có ête thì ête sẽ bị kéo đi, khi ánh sáng truyền trong chân không.
    - Nếu có ête thì vận tốc ánh sáng trong chân không, không phải là một hằng số, khi ánh sáng truyền theo phương này hay phương khác.
    - Nếu có ête thì dòng nước ête và chuyển động của quả đất sẽ đẩy tia này và cản tia kia, khi có hai tia lan truyền đồng thời và ngược chiều nhau.
    - Nếu có ête, nguồn sáng và máy thu ánh sáng sẽ ảnh hưởng đến tốc độ lan truyền ánh sáng.
    Như đã biết ở trên, sự tồn tại của ête là hiển nhiên có. Nhưng những kết quả thí nghiệm của Maikenson lại là như sau:
    - Không có sự kéo theo của ête.
    - Vận tốc ánh sáng trong chân không bị thay đổi khi nó truyền theo phương này hay phương khác.
    - Không có sự đẩy tia này và cản tia kia, khi có hai tia sáng truyền ngược chiều và đồng thời với nhau.
    - Nguồn sáng và máy thu ánh sáng không ảnh hưởng đến tốc độ lan truyền ánh sáng.
    Tại sao laị có sự sai khác như vậy?
    Quan sát các phán đoán của Maikenson, ta thấy chúng là những kết luận được rút ra từ phép suy luận loaị tỷ. Khi mà Maikenson coi quá trình truyền ánh sáng trong ête, tương tự như các quá trình truyền ánh sáng trong các môi trường khác như nước, không khí, chân không. . . Mà nó được hình tượng hóa cụ thể là một người bơi trong nước. Ðây chúng ta hãy xem lại lập luận của họ: "... ánh sáng lan truyền trong ête. Và như thế thì đi trong ống, một tia sáng chạy theo ống, như người bơi ngược chiều và tia kia như người bơi xuôi chiều trong mương nước "ête" . Dòng nước "ête" và chuyển động của quả đất sẽ đẩy tia này và cản tia khác".
    Sai lầm chính là ở đây.
    Theo logic, thì phép suy luận loại tỷ chỉ có thể được áp dụng, khi ta đã tìm ra được sự phù hợp (tức tương tự, đồng dạng, giống nhau) về mặt tính chất, cấu trúc, thuộc tính, chức năng, qui luật vận hành. . giữa mô hình và đối tượng gốc.
    Trong trường hợp này, đối tượng gốc là quá trình truyền ánh sáng trong ête. Thì mô hình đối với nó phải là một khái niệm có cùng thụộc tính bản chất chung là:"sóng". Trong nôị hàm của nó phải có nội hàm của sóng.
    Nhưng mô hình của Maikenson không thỏa mãn được các điều kiện đó. Do đó: Không thể coi quá trình truyền ánh sáng trong các môi trường như nước, không khí, chân không. . . Tương tự như quá trình truyền ánh sáng trong ête được.
    Xét ở khía cạnh khác, theo định nghĩa của ête, thì nó:"thấm nhuần khắp nơi kể cả chân không. . . " Vậy thì quan hệ: ête - chân không, ête -nước , ête - không khí. . . không giống như quan hệ chân không - không khí, chân không-nước, không khí -nước.
    Mối quan hệ giữa ête và chân không, không khí, nước, trong các mối quan hệ: ête - chân không, ête -nước , ête - không khí là mối quan hệ phụ thuộc giữa khái niệm thuộc về "hạng", so với các khái niệm thuộc về "loại". Trong khi đó các mối quan hệ: Chân không - không khí, chân không - nước, không khí - nước, thì mối quan hệ giữa nước, không khí, chân không là mối quan hệ ngang hàng, giữa các khái niệm khác loại, trong cùng một hạng.
    Maikenson đã cho mối quan hệ phụ thuộc (ête -nước) thành một mối quan hệ ngang hàng, là một điều sai lầm. Do đó kết quả của nó đương nhiên là phải sai lầm. Các kết quả của ông trên thực tế đã chứng minh sự sai lầm đó cuả ông.
  6. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Còn trong thí nghiệm của Fizo, vì sao không tìm thấy chiết suất của ête ?
    Trước hết ta phải tìm hiểu chiết suất là gì ?
    Chiếc suất là tỷ số giữa sin của góc tới và sin của góc khúc xạ, khi tia sáng truyền từ môi trường này sang môi trường khác. Chiết suất nói trên là chiêt suất tỷ đối của môi trường này với môi trường khác. Còn chiết suất tuyệt đối của môi trường, là chiết suất tỷ đối của môi trường đó, đối với chân không.
    Với quan điểm của thuyết ánh sáng thì chiết suất tuyệt đối của môi trường, bằng tỷ số của vận tốc ánh sáng trong chân không, trên vận tốc ánh sáng trong môi trường đó.
    Lý do có sự sai khác về vận tốc truyền ánh sáng trong chân không, so với vận tốc ánh sáng khi truyền trong các môi trường khác là:
    Khi truyền trong các môi trường đó, sóng ánh sáng sẽ tương tác với các nguyên tử của môi trường.
    Các sóng ánh sáng khả kiến tương tác chủ yếu với các electrôn ở vành ngoài của các nguyên tử, mà ta gọi là các quang - electrôn. Tương tác giữa sóng ánh sáng với các quang - elcetrôn nói chung rất phức tạp. Nó phụ thuộc rất nhiều vào tần số của ánh sáng và vào cấu trúc của môi trường. Do tương tác này mà vận tốc của sóng ánh sáng đơn sắc sẽ thay đổi.
    Tóm lại, chính sự tương tác lẫn nhau của các sóng truyền trong môi trường ête (về bản chất: các quang-electrôn cũng là sóng truyền trong môi trường ête) quyết định nên chiết suất môi trường. Còn môi trường truyền các sóng đó (ête) dĩ nhiên là chẳng có liên hệ gì cả đến chiết suất cả, trong môi trường ête không tồn tại khái niệm chiết suất. Ðiều này cũng gần tương tự như trong hệ thống đo chiều dài, không tồn tại khái niệm "kg" vậy. Và Fizo không tìm ra được chiết suất của ête là lẽ dĩ nhiên, nếu tìm ra được thì mới là lạ.
    Tổng quát lại, ta thấy Maikenson, Fizo và nhiều người khác bị nhầm lẫn vì họ bị rơi vào một trường hợp ngụy biện vô ý thức, gọi là ngụy biện liên hệ đến từ ngữ , loại đồng âm khác nghĩa.
    Do sự giống nhau của từ ngữ: "Môi trường", mà họ đã thay thế quan hệ phụ thuộc giữa "môi trưòng ête", với các môi trường khác (nước , không khí, chân không), thành quan hệ ngang nhau. Thực ra nếu: chân không, nước , không khí. . . là môi trường, thì ête phải là:"môi trường của các môi trường" thì mới đúng. Chính sai lầm logíc đầu tiên này đã dẫn họ đến một loạt các sai lầm về logic sau đó. Mà điều đó xuất phát từ sự không coi trọng logic hình thức mà ra.
    Thực ra nếu tuyệt đối hóa vai trò của logic hình thức thì không đúng, nhưng coi thường nó, hạ thấp vai trò của nó, thì cũng sẽ dẫn người ta tới sai lầm. Vấn đề là ta phải sử dụng đúng logic hình thức, trong phạm vi chi phối của nó. Nếu ta sử dụng nó đối với các đối tượng ở ngoài giới hạn ảnh hưởng của nó thì không đúng. Nhưng nếu ta không sử dụng nó đối với các đối tượng nằm trong vòng chi phối của nó, cũng là một điều hết sức sai lầm. Trường hợp của hai nhà vật lý Maikenson và Fizo nói trên là một ví dụ.

  7. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Còn trong thí nghiệm của Fizo, vì sao không tìm thấy chiết suất của ête ?
    Trước hết ta phải tìm hiểu chiết suất là gì ?
    Chiếc suất là tỷ số giữa sin của góc tới và sin của góc khúc xạ, khi tia sáng truyền từ môi trường này sang môi trường khác. Chiết suất nói trên là chiêt suất tỷ đối của môi trường này với môi trường khác. Còn chiết suất tuyệt đối của môi trường, là chiết suất tỷ đối của môi trường đó, đối với chân không.
    Với quan điểm của thuyết ánh sáng thì chiết suất tuyệt đối của môi trường, bằng tỷ số của vận tốc ánh sáng trong chân không, trên vận tốc ánh sáng trong môi trường đó.
    Lý do có sự sai khác về vận tốc truyền ánh sáng trong chân không, so với vận tốc ánh sáng khi truyền trong các môi trường khác là:
    Khi truyền trong các môi trường đó, sóng ánh sáng sẽ tương tác với các nguyên tử của môi trường.
    Các sóng ánh sáng khả kiến tương tác chủ yếu với các electrôn ở vành ngoài của các nguyên tử, mà ta gọi là các quang - electrôn. Tương tác giữa sóng ánh sáng với các quang - elcetrôn nói chung rất phức tạp. Nó phụ thuộc rất nhiều vào tần số của ánh sáng và vào cấu trúc của môi trường. Do tương tác này mà vận tốc của sóng ánh sáng đơn sắc sẽ thay đổi.
    Tóm lại, chính sự tương tác lẫn nhau của các sóng truyền trong môi trường ête (về bản chất: các quang-electrôn cũng là sóng truyền trong môi trường ête) quyết định nên chiết suất môi trường. Còn môi trường truyền các sóng đó (ête) dĩ nhiên là chẳng có liên hệ gì cả đến chiết suất cả, trong môi trường ête không tồn tại khái niệm chiết suất. Ðiều này cũng gần tương tự như trong hệ thống đo chiều dài, không tồn tại khái niệm "kg" vậy. Và Fizo không tìm ra được chiết suất của ête là lẽ dĩ nhiên, nếu tìm ra được thì mới là lạ.
    Tổng quát lại, ta thấy Maikenson, Fizo và nhiều người khác bị nhầm lẫn vì họ bị rơi vào một trường hợp ngụy biện vô ý thức, gọi là ngụy biện liên hệ đến từ ngữ , loại đồng âm khác nghĩa.
    Do sự giống nhau của từ ngữ: "Môi trường", mà họ đã thay thế quan hệ phụ thuộc giữa "môi trưòng ête", với các môi trường khác (nước , không khí, chân không), thành quan hệ ngang nhau. Thực ra nếu: chân không, nước , không khí. . . là môi trường, thì ête phải là:"môi trường của các môi trường" thì mới đúng. Chính sai lầm logíc đầu tiên này đã dẫn họ đến một loạt các sai lầm về logic sau đó. Mà điều đó xuất phát từ sự không coi trọng logic hình thức mà ra.
    Thực ra nếu tuyệt đối hóa vai trò của logic hình thức thì không đúng, nhưng coi thường nó, hạ thấp vai trò của nó, thì cũng sẽ dẫn người ta tới sai lầm. Vấn đề là ta phải sử dụng đúng logic hình thức, trong phạm vi chi phối của nó. Nếu ta sử dụng nó đối với các đối tượng ở ngoài giới hạn ảnh hưởng của nó thì không đúng. Nhưng nếu ta không sử dụng nó đối với các đối tượng nằm trong vòng chi phối của nó, cũng là một điều hết sức sai lầm. Trường hợp của hai nhà vật lý Maikenson và Fizo nói trên là một ví dụ.

  8. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về những vấn đề, mà Maikeson đã quan tâm, theo các quy tắc của logic học.
    Ở trên ta đã có kết luận: ête là môi trường dao động, mà ánh sáng chính là sự lan truyền dao động của ête theo thời gian từ vị trí này đến vị trí khác. Muốn tìm hiểu các thuộc tính của ête, ta phải dùng phép suy luận loại tỷ.
    Trước hết ta hãy tìm một mô hình tương ứng với nó. Mà như vậy thì giữa hai bên phải là mối quan hệ ngang hàng (loại - loại) trong cùng một hạng, do đó phải có một số thuộc tính bản chất chung, đáp ứng yêu cầu của phép suy luận loại tỷ.
    Ta có ánh sáng là sóng. Dựa vào sự phân cực của ánh sáng, ta biết đó là sóng ngang, trong tự nhiên ta thấy sóng nước cũng là một sóng ngang. Vậy ta có thể lấy sóng nước làm mô hình, để tìm hiểu.
    Giữa sóng nước và sóng ánh sáng có những thuộc tính nào giống nhau? để làm rõ điều này, ta hãy loại bỏ đặc điểm riêng biệt hai bên.
    Trong sóng nước ta thấy không có sự tương tác lực giữa các sóng với nhau. Còn trong sóng ánh sáng thì lại khác, có sự tương tác lực giữa các sóng với nhau. Ta phải triệt tiêu ảnh hưởng này của sóng ánh sáng, bằng cách nghiên cứu nó trong điều kiện lý tưởng là chỉ có một sóng cần nghiên cứu, tức là môi trường chân không. Môi trường chân không, chính là môi trường ête khi ở trạng thái cân bằng.
    Vậy ta lấy sóng nước làm mô hình, để so sánh với ánh sáng truyền trong chân không, là đối tượng mà ta nghiên cứu. Ta thấy sóng nước có các đặc điểm sau:
    1- Vận tốc truyền sóng không đổi, không phụ thuộc vào ngụồn sóng và máy thu sóng, và nó bằng tích của bước sóng nhân với tần số:
    V=
    Trong đó:
    V : vận tốc truyền sóng(m/s)
    : bước sóng(m)
    : tần số dao động(s-1)
    2- Không có sự tương tác giữa sóng nước và chất nước . Điều đó có nghĩa là:
    a- Không có sự kéo theo chất nước, khi có sóng nước truyền theo phương này hay phương khác.
    b- Khi đồng thời có hai sóng lan truyền ngược chiều nhau, thì không có sự đẩy sóng này và cản sóng kia của chất nước.
    Bằng phương pháp suy luận loaị tỷ, ta suy ra: ánh sáng khi truyền trong chân không cũng có các đặc điểm sau:
    1- Vận tốc truyền ánh sáng không thay đổi, không phụ thuộc vào nguồn phát sáng và máy thu ánh sáng, và nó bằng tích của bước sóng nhân với tần số.
    C=
    Trong đó:
    C: vận tốc ánh sáng trong môi trường chân không (m/s)
    : bước sóng (m)
    : tần số dao động (s-1)
    2- Không có sự tương tác giữa sóng ánh sáng và ete. Điều đó có nghĩa là:
    a- Không có sự kéo theo chất ête, khi có ánh sáng truyền trong chân không theo phương pháp này hay phương pháp khác.
    b- Khi đồng thời có hai sóng ánh sáng truyền ngược chiều nhau, thì không có sự đẩy tia sáng này và cản tia sáng kia của ête.
    So sánh những kết luận này, với tiên đề 2 Anhxtanh và các kết quả thí nghiệm của Maikenson , ta thấy hoàn toàn trùng hợp. Vậy những kết luận đó là hoàn tòan chính xác. Các thí nghiệm của Fizo và Maikenson, cùng với tiên đề 2 của Anhxtanh, chỉ càng chứng minh thêm cho sự tồn tại của chất ête, chứ không có giá trị bác bỏ sự tồn tại của nó như người ta tưởng xưa nay.
    Như vậy rõ ràng sự sai lầm ở đây là sai lầm trong lập luận của hai nhà khoa học Fizo và Maikenson.
  9. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về những vấn đề, mà Maikeson đã quan tâm, theo các quy tắc của logic học.
    Ở trên ta đã có kết luận: ête là môi trường dao động, mà ánh sáng chính là sự lan truyền dao động của ête theo thời gian từ vị trí này đến vị trí khác. Muốn tìm hiểu các thuộc tính của ête, ta phải dùng phép suy luận loại tỷ.
    Trước hết ta hãy tìm một mô hình tương ứng với nó. Mà như vậy thì giữa hai bên phải là mối quan hệ ngang hàng (loại - loại) trong cùng một hạng, do đó phải có một số thuộc tính bản chất chung, đáp ứng yêu cầu của phép suy luận loại tỷ.
    Ta có ánh sáng là sóng. Dựa vào sự phân cực của ánh sáng, ta biết đó là sóng ngang, trong tự nhiên ta thấy sóng nước cũng là một sóng ngang. Vậy ta có thể lấy sóng nước làm mô hình, để tìm hiểu.
    Giữa sóng nước và sóng ánh sáng có những thuộc tính nào giống nhau? để làm rõ điều này, ta hãy loại bỏ đặc điểm riêng biệt hai bên.
    Trong sóng nước ta thấy không có sự tương tác lực giữa các sóng với nhau. Còn trong sóng ánh sáng thì lại khác, có sự tương tác lực giữa các sóng với nhau. Ta phải triệt tiêu ảnh hưởng này của sóng ánh sáng, bằng cách nghiên cứu nó trong điều kiện lý tưởng là chỉ có một sóng cần nghiên cứu, tức là môi trường chân không. Môi trường chân không, chính là môi trường ête khi ở trạng thái cân bằng.
    Vậy ta lấy sóng nước làm mô hình, để so sánh với ánh sáng truyền trong chân không, là đối tượng mà ta nghiên cứu. Ta thấy sóng nước có các đặc điểm sau:
    1- Vận tốc truyền sóng không đổi, không phụ thuộc vào ngụồn sóng và máy thu sóng, và nó bằng tích của bước sóng nhân với tần số:
    V=
    Trong đó:
    V : vận tốc truyền sóng(m/s)
    : bước sóng(m)
    : tần số dao động(s-1)
    2- Không có sự tương tác giữa sóng nước và chất nước . Điều đó có nghĩa là:
    a- Không có sự kéo theo chất nước, khi có sóng nước truyền theo phương này hay phương khác.
    b- Khi đồng thời có hai sóng lan truyền ngược chiều nhau, thì không có sự đẩy sóng này và cản sóng kia của chất nước.
    Bằng phương pháp suy luận loaị tỷ, ta suy ra: ánh sáng khi truyền trong chân không cũng có các đặc điểm sau:
    1- Vận tốc truyền ánh sáng không thay đổi, không phụ thuộc vào nguồn phát sáng và máy thu ánh sáng, và nó bằng tích của bước sóng nhân với tần số.
    C=
    Trong đó:
    C: vận tốc ánh sáng trong môi trường chân không (m/s)
    : bước sóng (m)
    : tần số dao động (s-1)
    2- Không có sự tương tác giữa sóng ánh sáng và ete. Điều đó có nghĩa là:
    a- Không có sự kéo theo chất ête, khi có ánh sáng truyền trong chân không theo phương pháp này hay phương pháp khác.
    b- Khi đồng thời có hai sóng ánh sáng truyền ngược chiều nhau, thì không có sự đẩy tia sáng này và cản tia sáng kia của ête.
    So sánh những kết luận này, với tiên đề 2 Anhxtanh và các kết quả thí nghiệm của Maikenson , ta thấy hoàn toàn trùng hợp. Vậy những kết luận đó là hoàn tòan chính xác. Các thí nghiệm của Fizo và Maikenson, cùng với tiên đề 2 của Anhxtanh, chỉ càng chứng minh thêm cho sự tồn tại của chất ête, chứ không có giá trị bác bỏ sự tồn tại của nó như người ta tưởng xưa nay.
    Như vậy rõ ràng sự sai lầm ở đây là sai lầm trong lập luận của hai nhà khoa học Fizo và Maikenson.
  10. buddha__vn

    buddha__vn Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    27/09/2003
    Bài viết:
    236
    Đã được thích:
    0
    Mục đích của bài này không phải là tôi chứng minh sự tồn tại của chất Ete, vì sự tồn tại của nó hiện nay đã được công nhận, không có gì mới. Chỉ có điều nó mang một cái tên mới mà thôi. Đó là Vacum (hay "Chân không") như tôi đã trình bày ở phần đầu. Tiên đề 2 của Anhxtanh không những không bác bỏ được chất Ete, mà nó chỉ càng chứng minh cho sự tồn tại của chất Ete mà thôi. Sự bác bỏ của nó chỉ là bác bỏ cái nhận thức sai lầm của chúng ta về chất Ete mà thôi.
    Vấn đề ở đây là tôi muốn chỉ ra chỗ sai lầm căn bản trong lập luận của Fizo và Maikenson. Chõ sai lầm mà mọi nguòi đã không phát hiện ra, làm kéo dài việc phát hiện ra sự tồn tại của chất Ete hơn nửa thế kỷ.
    Ở đây cho thấy vấn đề gì? đó là cho thấy một lỗ hổng rất lớn trong nhận thức của nền giáo dục, của thế giới hiện nay. Đó là việc coi thường những quy tắc hình thức. Không coi trọng việc rèn luyện logic hình thức, một trong những vấn đề rất quan trọng đối với sự nhận thức của con người. Vấn đề này tôi sẽ tiếp tục trình bày thành các bài viết sau khi bài này kết thúc.
    Bây giờ, chúng ta hãy tìm hiểu thêm một số thuộc tính khác của môi trường ête này. Trước hết, ta thấy không chỉ có ánh sáng, mà tất cả các hạt cơ bản như elcetrôn, prôton, nơtron, vvv. . . Cũng đều có bản chất của một quá trình sóng, nghĩa là tất cả chúng đều là sóng. Ta hãy gọi tên chung là sóng năng lượng. Như vậy ête là bối cảnh chung, mà trên đó diễn ra sự hoạt động của tất cả các sóng năng lượng, tức bao gồm cả các hạt cơ bản. Thực ra chẳng có gì goị là ?ohạt ?ocả mà chỉ có sóng thôi. Ðối với vấn đề này ta hãy xem xét sau.
    Bây giờ, ta hãy tìm hiểu một số thuộc tính của môi trường ête và qúa trình sóng ngang diễn ra trên đó. nể cho tiện hãy so sánh nó với sóng nước. Ta thấy:
    1) - Môi trường của sóng nước là một mặt nước, có dạng mặt cầu khi nó nằm trạng thái cân bằng tĩnh.
    - Môi trường của sóng hấp dẫn là chất ête, có dạng một không gian cong tròn khép kín khi nó nằm ở trạng thái cân bằng tĩnh (chân không).
    2) - Môi trường nước là môi trường đàn hồi
    - Ête là một chất đàn hồi (nhưng không phải là đàn hồi cơ học như sống nước mà là một loại đàn hồi khác, tôi xin tạm gọi là đàn hồi ?ođiện từ?, xin bạn đọc lưu ý).
    3) - Chất nước là chất có trọng lượng, có cấu trúc, được hợp thành từ các thành phần nhỏ hơn, nó là một môi trường liên tục nếu so với sóng nước (tương đối). Nhưng xét một cách tuyệt đối thì nó là một môi trường gián đoạn, không liên tục.
    - Ête là chất không trọng lượng, không có cấu trúc, không được hợp thành từ các phần tử nhỏ hơn. Nó là một môi trường liên tục một cách tuyệt đối -không gián đoạn.
    4) - Ta có thể phân chia môi trường nước ra th.nh các phần tử nhỏ hơn
    - Ta không thể phân chia môi trường Tte ra thành các phần tử nhỏ hơn.
    5) - Nếu ta xét sóng nước trong môi trường nước, là một mặt cầu, thì môi trường của nó (mặt nước ) là hữu hạn (giới hạn bởi những đường cong), và không biên giới (vì nó khép kín).
    - Môi trường ête là hữu hạn (giới hạn bởi những đường cong), và không biên giới (vì nó khép kín).
    6) - Chất nước của môi trường nước có sanh, có diệt, có thay đổi về chất và lượng, nếu xét một cách tuyệt đối.
    - Chất ete không sanh, không diệt, không thay đổi về chất và lượng, nếu xét một cách tuyệt đối.
    7) - Ngoài ra chất ete còn có các đặc điểm riêng sau:
    + Nó là thực thể vật chất duy nhất tồn tại, và thỏa mãn định luật bảo toàn vật chất: ?Vật chất không tự nhiên sinh ra, cũng không tự nhiên mất đi, mà nó chỉ biến đổi từ dạng này sang dạng khác?. Những sự kiện phức tạp, muôn màu muôn vẻ, xảy ra trong tự nhiên chỉ là các biểu hiện khác nhau, trong những lhởng không gian và thời gian khác nhau, của cùng một thực thể thống nhất, vận động theo những qui luật nhất định, là chất ête này.
    + Nó là thực thể vừa là lớn nhất, vừa là nhỏ nhất, vì chỉ có một mình nó là duy nhất tồn tại.
    8) - Phương truyền của sóng nước là những đường cong.
    - Phương truyền của sóng năng lượng là những tia cong .
    9) - Sóng nước lan truyền trong mặt truyền sóng là mặt cầu, nằm trùng khít với mặt của khối cầu nước khi nó ở vị trí cân bằng tĩnh.
    - Sóng năng lượng lan truyền trong không gian truyền sóng là không gian cong tròn khép kín, nằm trùng khít với không gian của ête khi nó ở vị trí cân bằng tĩnh.
    10) - Phương dao động của sóng nước vuông góc với tiếp tuyến của phương truyền sóng.
    - Phương dao động của sóng năng lượng là phương của vectơ dao động, vuông góc với tiếp tuyến của phương truyền sóng.
    11) - Tất cả các sóng nước đếu có chung một phương dao động.
    - Các sóng năng lượng có thể có nhiều phương dao động so với nhau (dẫn đến hiện tượng phân cực ánh sáng).
    12) - Tại cùng một thời điểm, một sóng nước chỉ có một phương dao động.
    - Tại cùng một thời điểm, một sóng năng lượng có thể có nhiều phương dao động (ví dụ sóng điện từ có cả phương B và E)
    13) - Sóng nước không thể có hiện tượng đổi phương dao động trong quá trình hoạt động.
    - Sóng năng lượng có thể có hiên tượng đổi phương dao động, theo một qui luật nào đó, trong quá trình hoạt động (ví dụ hiện tượng tự xoay cuả electrôn).
    14) Ngoài ra sóng năng lượng còn có đặc tính sau:
    - Tại ví trí bất kỳ của môi trường ete, mà tại đó nhiệt độ tuyệt đối bằng 0, thì nó phải nằm ở vị trí cân bằng. Nhưng không phải ở tất cả các điểm nằm ở vị trí cân bằng thuộc môi trường, đều có nhiệt độ tuyệt đối = 0.
    - Các sóng năng lượng có tương tác lực với nhau, theo một qui luật xác định nào đó, phụ thuộc vào qui luật dao động của mỗi sóng.
    Sự tương tác lực giữa các sóng năng lượng với nhau, chỉ xảy ra đối với những vùng lệch cùng phía, so với vị trí cân bằng. Ðiều đó có nghĩa là trong sự tương tác lực nào đó, xảy ra giữa hai sóng bất kỳ, thì vùng dương của sóng này chỉ tương tác với vùng dương của sóng kia; và vùng âm của sóng này chỉ tương tác với vùng âm của sóng kia.
    Từ đặc điểm này, ta thấy chất ête có một thuộc tính đặc biệt là:
    - Khi một vùng nào đó của ête, lệch khỏi vị trí cân bằng thì chất ête được giới hạn bởi vùng ấy sẽ xuất hiện khả năng tương tác lực với các vùng khác, theo một qui luật nào đó, phụ thuộc vào qui luật dao động của sóng.
    - Lực tương tác càng mạnh, nếu độ lệch khỏi vị trí cân bằng càng cao.
    - Lực tương tác giữa hai khu vực phụ thuộc vào khoảng cách giữa hai khu vực đó.
    - Khu vực chịu ảnh hưởng tương tác do vůng đó tạo ra, người ta gọi là trường. Bản chất của trường, phụ thuộc vào bản chất dao động của sóng.
    Ta thấy, chính đặc điểm:?sự tương tác lực chỉ xuất hiện giữa các vùng nằm cùng một phía so với vị trí cân bằng, của chất ête?, đã qui định nên cái gọi là ?tính chất hạt? của ánh sáng cũng như các hạt cơ bản khác. Nó giải thích bản chất của hiện tượng quang điện, và tính chất lượng tử của các sóng năng lượng.
    Ta cũng không lọai trừ khả năng là còn có những sóng năng lượng khác, mà phương dao động của nó có thể không vuông góc mà trùng với phương truyền sóng (sóng dọc). Ðiều này còn phải tìm hiểu thêm.

Chia sẻ trang này