1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cần tìm thông tin về các ngày Lễ - Hội của Việt Nam

Chủ đề trong 'Du lịch' bởi SaLanHost.com, 20/07/2002.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. SaLanHost.com

    SaLanHost.com Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    02/07/2002
    Bài viết:
    115
    Đã được thích:
    0
    Cần tìm thông tin về các ngày Lễ - Hội của Việt Nam

    Bạn nào có tư liệu về các ngày Lễ Hội của Việt Nam như: Giỗ tổ Hùng Vương, Lễ Hội chùa Hương, ..... cho tôi xin với. Càng nhiều càng tốt.

    Cảm ơn trước

    _________________
    www.SaLanHost.com
    - Bảo đảm Hỗ trợ khách hàng 24/7 (24 giờ/ngày, 7ngày/tuần).
    - Lần đầu tiên bạn nhìn thấy Cpanel bằng Tiếng Việt.
  2. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Hội Đền Cổ Loa
    Nguyễn Nhân Thống
    Ðê`n thờ Cô? Loa còn gọi là đền Chủ hay đền vua An Dương Vương, tọa lạc tại xã Cổ Loa, huyện Ddông Anh, ngoại thành Hà Nộị
    Muốn trẩy hội Cổ Loa, các bạn nên đi tàu hỏa từ ga Hà Nội đến Ddông Anh, xuống ga Ddông Kiều thì đến nơị Nếu đi bằng xe hơi thì phải qua Gia Lâm, ca6`u Dduống rẽ sang tay trái đến 15km, sau đó rẽ sang tay phải đi vào một km nữa thì đến Cổ Loạ
    Ở đây còn đi tích cái thành cổ gọi là Loa thành đắp từ thời An Dương Vương (207-208 trước Công Nguyên). Thành đắp theo hình trôn óc nên mới gọi là thành Ốc hay Loa thành.
    Thành Cổ Loa có ba lớp, xây bằng đất. Vòng trong cùng hình chữ nhật dài 500m, rộng 350m, ở đây có hình Cổ Loa, chùa và đền cùng mộ Mỵ Châụ Vòng thứ ba hình trái xoan, chu vi 10 km, là tuyến phòng ngự chính của Loa thành.
    Trước khi vào thành Cổ phải đi qua cây cầu gạch bắc qua con suối nhỏ. Tục truyền nơi đây thuở xa xưa, thần Kim Quy (Rùa Vàng) hiện ra và dâng lên nhà vua cái móng chân rùa để dùng làm cái lẩy của nỏ thần.
    Sau hai vòng ngoài, mỗi thành cách nhau chừng 200m, mới đến cổng than`h tro cùng dẫn vào dinh Cổ Loạ Bên trái đình là mộ và đền Mỵ Châu nấp dưới cây đa cổ thụ Ddình Cổ Loa cất theo lối cổ trong đơn sơ, giản dị nhưng rất trang nghiêm. Trong hậu cung có bài vị vua An Dương Vương làm bằng gỗ bạch đàn. Trước bài vị có tượng An Dương Vương bằng đồng cao gần bằng người thật, đội mũ bình thiên. Còn đền Mỵ Châu cũng có hậu cung và tượng Mỵ Châu bằng đá, tục truyền, đó là thân thể nàng sau khi chết đã biến dạng trông giống như thiếu phụ đã cụt mất đầu
    Hàng năm, hội đền Cổ Loa được mở vào sáng mồng 6 tháng giêng âm lịch. Ddám rước có phường bát âm đi đầu, theo sau là 12 thôn và các trai làng, khiêng giá văn tế, kiệu long đình, cờ quạt ra đến đền thờ. Sân đền thật rộng rãi có treo cờ xí trang nghiêm để chuẩn bị cuộc tế thần long trọng
    Ngoài cửa đền, hai bên là ngựa hồng, ngựa bạch, yên cương thêu thuà sặc sỡ. Hai bên đường dẫn vào đền có các giá gỗ cắm cờ quạt, các kiệu của 12 thôn nối tiếp nhaụ
    Trước đền có đặt bàn hương án lớn trên có để các đồ ngũ sự và đôi hoa vàng. Trước hương án lớn là hương bán nhỏ hơn, bày những khí giới của vua Thục An Dương Vương như cung, kiếm và mũi tên đồng. Tiếp đó là hàng chiếu Cạp điều trải dài để cho hội đồng kỳ mục 12 thôn làm lễ tế thần.
    Lễ tế được tiến hành trong tiếng nhạc của phường bát âm, trước là các chức sắc, sau đó là dân làng thay phiên nhau cầu nguyện nhà vui phò hộ cho bà con làm ăn được thịnh phượng, an hưởng cảnh thái bình.
    Buổi lễ tế thần kéo dài đến giờ ngọ thì xong.
    Sau đó, dân làng tổ chức đám rước có đủ 12 thôn tham dự đông đảọ Ddi đầu là cờ quạt rồi đến long đình, các tự khí, lộ bộ, bát bửu, phường bát âm. Sau cùng là các chức sắt các thôn ăn mặc quần áo thụng, đi hia, đội mũ hẳn hoi, bưng theo tự khí của nhà vua gồm cung, kiếm, nỏ ...
    Ddám rước đi rất chậm qua giếng Trọng Thủy và tiến về cổng làng thì giải tán.
    Sau đám rước là các trò vui chơi được tổ chức, kéo dài cho đến rằm tháng giêng mới mãn.
    Nhiều trò chơi như đánh vật, đánh đu, hát chèo, đánh cờ người, kéo co, chọi gà, leo dây trong khi các cụ ông, cụ bà thì đi lễ chùa niệm Phật
    Ngoài đền thờ vua Thục An Dương Vương ở Cổ Loa, còn có đền thờ Vua Thục ở chân núi Mộ Dạ, thuộc xã Hương Aí, huyện Ddông Thành, tỉnh Nghệ An, tục gọi là đềng Cuông và ở xã Ddông Cao, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Ddịnh, cũng có đền thờ Mỵ Châụ
    Những ngày hội đền Cổ Loa lịch sử là những ngày để nhân dân trong vùng họp mặt ôn lại những truyền thống đánh giặc giữ nước của tổ tiên.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  3. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Hội Làng Trà Cổ
    Unknown
    Hàng năm, Hội làng Trà Cổ diễn ra từ 30/5 đến 6/6 âm lịch. Đây chính là hội thi làm cỗ, thi nấu ăn. Ai nấu ăn giỏi hay vụng đường nấu nướng đều được cả làng biết hết.
    Làng Trà Cổ, nay là xã Trà Cổ, huyện Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh. Từ Hà Nội ra Trà Cổ, theo đường bộ hay đường thuỷ cũng hơn 350km. Nằm ở ven biển, phía đông Bắc bộ, Trà Cổ có thiên nhiên tươi đẹp, phong cảnh hữu tình, bãi biển đẹp lý tưởng cho du lịch, nghỉ ngơị Tổ tiên người Trà Cổ vốn ở Đồ Sơn, làm nghề đánh cá, khi đi biển đã tới đây, thấy đất tốt, cảnh cũng đẹp như Đồ Sơn, nên nhiều người ở lại sinh cơ lập nghiệp.
    Cách đây hơn 400 năm, người Trà Cổ đã quần cư sung túc, nên dựng được ngôi đình làng và họ thờ các vị Tổ (tức thành hoàng làng). Quận He (Nguyễn Hữu Cầu), một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa thời Lê - Trịnh cũng được thờ tại đình Trà Cổ. Qua nhiều lần trùng tu, dấu vết ván bưng xung quanh đình và hậu cung không còn nữa, nhưng vẫn còn giữ nguyên được sàn gỗ lim. Ngôi đình được xây dựng toàn bằng gỗ lim, chạm khắc công phu, tinh xảọ Trong đình còn lưu giữ bức hoành phi ghi rõ việc đóng góp xây dựng đình của những thợ mộc tài hoa quê ở Hoàng Hoá, Thanh Hoá, về cư ngụ tại Trà Cổ. Có thể nói, từ quy mô xây dựng đến kiểu dáng kiến trúc và điêu khắc của đình Trà Cổ thực sự là một giá trị lịch sử văn hoá của người Việt tạo dựng được từ thuở xa xưa ở mảnh đất địa đầu Đông - Bắc của Tổ quốc.
    Cũng từ xưa xa, người Trà Cổ có những sinh hoạt văn hoá khá đặc sắc, trong đó tiêu biểu là Hội làng hàng năm diễn ra từ ngày 30/5 đến mồng 6/6 âm lịch. Trước khi mở hội mấy ngày, vào 25/5 đã có một đoàn thuyền rước từ Trà Cổ về quê tổ Đồ Sơn. Ngày 30/5 thì thuyền từ Đồ Sơn về đến Trà Cổ. Thuyền đi Đồ Sơn phải mất 3 ngày, nhưng quay về Trà Cổ chỉ có 2 ngày là tớị Tục truyền rằng đó là do tổ tiên phù hộ nên về được nhanh hơn. Và ngay đêm 30/5, dân chúng Trà Cổ tiến hành lễ rước nhang theo nghi thức cổ truyền, khói hương thơm ngát, đèn nến sáng trưng. Đình làng ngập trong tình cảm sâu lắng, tôn nghiêm.
    Sáng 1/6 là lễ rước Vua ra bể (còn gọi là rước vua ra miếu) với nghi thức rất đặc sắc. Có đội quân đi đầu cầm mã tấu, kiếm, chuỳ, cờ thần, bát âm, bát bửụ Tiếp đến là người cầm cờ vía mặc áo đỏ, đai lưng thêu rồng, phượng lộng lẫỵ Người cầm cờ vía là người cường tráng, trẻ đẹp và có đạo đức tiêu biểu của làng. Sau ông cờ vía là 12 ông đám với những người khiêng kiệụ Sau họ có hai cô đào, thường là người Vạn Xuân chuyên hát ả đào, vừa đi vừa hát trong nhịp trống phách xốn xang. Sau đó là các vị chức sắc và quần chúng đông đảo, kéo dài và vui náo nức.
    Các ông đám là những người được chọn ra lo toan cho hội làng. Từ đầu năm, mỗi ông đám đã nuôi một con lợn to, gọi là ông voị Ngày hội sau lễ rước là cuộc thi các ông voị Các ông đám đem những ông voi ra sàn đình, để thị Các ông voi đều ở trong những chiếc cũi gỗ tốt, trang trí đẹp, được khiêng bằng những đòn dóng chạm hình rồng phượng tinh xảọ Ông đám nào có ông voi to béo nhất, cái cũi đẹp nhất, sẽ được làng trao giải thưởng lớn. Sang các ngày từ 3 đến 5, cả 12 ông đám chia nhau làm cỗ, hình thức như làm khao ở các hội làng đồng bằng Bắc Bộ. Mỗi ngày có 4 ông đám rước cỗ ra đình tế thần, hai ông làm cỗ mặn, hai ông làm cỗ chaỵ Cỗ mặn gồm hai con gà, hai con phượng (thay bằng hai con ngỗng) luộc chín, tạo dáng đẹp; còn thêm các loại thức ăn chế biến từ thịt, ngon và đẹp mắt. Còn cỗ chay là đủ các loại bánh, xếp thành tầng, đầy các thùng lớn bằng gỗ. Những thùng này đều có buộc những lạt tre to bản nhuộm hồng nhuộm xanh, tựa như cách buộc bánh chưng ngày tết Nguyên đán.
    Cỗ mặn, cỗ chay sau khi được tế thần thì các ông đám lại đem về nhà và mời bà con đến ăn. Trong những ngày lễ hội, các nhà đều làm cỗ. Nhà nghèo làm cỗ nhỏ, vui trong gia đình. Nhà khá, làm cỗ to mời họ hàng, bạn hữụ Riêng 12 ông đám thì mời cả họ hàng xa, bè bạn và các vị chức sắc làng xã, mời cả người ở vùng khác có quan hệ thân thiết tới ăn cỗ... Dịp này, ở Trà Cổ, ai nấu ăn giỏi hay vụng đường nấu nướng đều được biết hết. Đây chính là hội thi làm cỗ, thi nấu ăn.
    Kết thúc hội vào ngày 6, là ngày múa bông. Trong ngày múa bông, người ta cầu mong trời đất, thần linh phù hộ cho đánh bắt được nhiều cá tôm, buôn bán phát đạt, mùa màng tươi tốt, ấm nọ.. và rồi người ta chọn các ông đám cho hội làng năm sau.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  4. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Hội Linh Cổ Tự
    Phan Hữu Tưởng
    Nếu như khách tham quan đến Cần Thơ đã từng biết đình Bình Thủy cổ kính, chùa Nam Nhã u tịch, mộ cụ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa khiêm tốn... nằm trên cùng một tuyến đường, mà không biết chùa Hội Linh sẽ là một thiệt thòị Chùa Hội Linh là ngôi chùa lớn với những đường nét nghệ thuật kiến trúc độc đáo, có những pho tượng gỗ quý hiếm và lại là cơ sở cách mạng vững chắc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của dân tỉnh Cần Thơ nói riêng và cả nước nói chung.
    Cách trung tâm TP. Cần Thơ khoảng 4 cây số, hướng về phía Long Xuyên (thuộc tỉnh lộ 91), du khách nhìn về phía tay phải sẽ thấy một cổng lớn mang dòng chữ "Hội Linh Cổ Tự". Xuống xe đến gần, du khách sẽ còn thấy câu đối ở hai cột cổng như sau:
    - Hội thượng diên chân thừa tiếp dẫn thập phương quy giác lộ.
    - Linh sơn khai nhãn tạng đề huề tứ chúng xuất mê tâm.
    Qua vế đối, chúng ta có thể hiểu: chùa Hội Linh là nơi hội tụ của mọi người trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo, đẳng cấp đến để nghe Phật pháp và được hướng dẫn bằng những phương tiện mà Phật đã dạy, dẫn dắt mọi người đi vào con đường sáng sủa hạnh phúc.
    Lịch sử hình thành chùa Hội Linh đã có ngót 90 năm. Chùa được xây cất bằng tre lá từ năm 1907 có tên là Hội Long Tự. Ddến năm 1917, chùa được xây dựng kiên cố và đổi tên là Hội Linh Cổ Tự mà dân quanh vùng thường gọi là chùa Xẻo Cạn, vì cạnh chùa trước kia có con rạch cạn, nay bị bồi lấp.
    Ngôi chùa cách cổng lớn khoảng 200m. Trước khi vào chùa, du khách sẽ vào một trong hai cổng. Cổng được trang trí trên chóp là hình bầu rượu với hai con rồng cách điệu và hai búp sen ở hai bên. Trên mỗi cổng có tấm bảng ghi câu chữ Hán "Thiền môn nghiêm tịnh" và "Hòa an chúng hải". Giữa hai cổng có một hồ nước hình bán nguyệt trồng bông bụt xung quanh. Qua khỏi ao là khoảng sân khá rộng có miếu ngũ hành bên trái, và miếu thổ thần bên phảị Trong sân trồng các loại hoa kiểng. Lần theo bậc tam cấp, du khách sẽ đến chính điện. Mặt tiền chính điện được phân làm ba gian và có một lầụ Lầu được chia làm 3 gian để thờ Phật Thích Ca, Di Lạc, Chuẩn Ddề, Ngọc Hoàng, các vị Kim Cang...
    Hệ thống vòm mái được nâng đỡ bởi cột gỗ tròn đường kính 25 cm có chân đế bằng đá. Kết cấu vì kèo rất đơn giản (kèo vỏ đậu xuống cổ, kèo dưới chồng lên kèo trên), riêng vì kèo ở hậu liêu và nhà trù được làm theo kiểu nhà trính, các cây trỗng được gọt đẽo đặt trên cối hình vuông, hình thang, đầu trỗng có hình cánh dơị..
    Nhìn chung, toàn bộ kiến trúc nơi đây được xây dựng bằng vật liệu vững chắc, hiện đại nhưng vẫn giữ được phong cách kiến trúc Việt Nam.
    Ngoài các chuông, mõ và bao lam nơi chính điện, nhà trù được chạm khắc công phụ Chùa còn có một số tượng gỗ đáng kể như Tượng Phật Chuẩn Ddề cỡi Khổng tước 18 tay, nhóm tượng Diêm Vương vớĩ ông Phán quan, Ddịa tạng vương Bồ tát cỡi lân, Hộ pháp, Thích ca sơ sinh... nhưng nổi bật nhất là tượng ông Giám Trai, người tự nguyện suốt đời ở trong nhà bếp bửa củi, nấu cơm cho chúng tăng. Tượng được bố cục vững chắc trên bệ gỗ trong tư thế ngồi, một tay tì lên cán búa dựng thẳng trước ngực như đang thiền định. Ông ở trần, quần vận lưng như một người nông dân, mình mẩy xương xẩu được cách điệu khúc chiết, thanh toán. Gương mặt xương, má lõm đôi mắt sáng quắc nhìn về phía xa xạ.. Tóm lại, mảng điêu khắc ở chùa Hội Linh rất đáng kể, không những về lượng mà cả về chất nữạ Và tiêu biểu nhất là tượng ông Giám Traị..
    Trải qua hơn 80 năm tồn tại và nhiều lần sửa chữa, song Hội Linh Cổ Tự đã được các vị hòa thượng và đạo hữu đảm bảo được tính nguyên gốc của di tích. Hiện nay, cơ sở vật chất của chùa Hội Linh còn khá tốt.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  5. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Hội Thi Thả Diều Ở Hà Tây
    Anh Chi
    Làng Bá Giang ở xã Hồng Hà, huyện Đan Phượng, Hà Tây có Hội thi thả diều vào tháng ba âm lịch. Thời điểm này đã cuối xuân, sang hè, gió nồm nam lên phơi phới, đồng ruộng đang xanh ngắt, những bãi cỏ mơn mởn tít tắp, hợp với cuộc chơi diềụ Hội thả diều của Bá Giang gắn với "tiệc" ông Nguyễn Cả, một danh nhân của làng, nguyên là tướng giỏi của Đinh Tiên Hoàng. Sau khi giúp vua Đinh thu giang sơn về một mối, dựng nền độc lập, ông Nguyễn Cả từ quan, về quê, dạy dân trồng trọt, mở mang cơ nghiệp. Có truyền thuyết cho rằng ông Nguyễn Cả vốn là con của một Hầu Công (ông Khỉ). Về cuối đời ông vui cảnh điền viên và bày những trò vui thanh cao, trong đó có chơi diều, cùng đám trẻ mục đồng.
    Một hôm, trên gò đất hay cùng mọi người chơi diều, bỗng ông thấy Hầu Công xuất hiện. Ông cúi đầu làm lễ kính cẩn. Khi đó hiện ra làn mây trắng sà xuống nâng hòn đá bay lên. Mây trắng bọc hòn đá thoắt biến thành mây ngũ sắc. Và văng vẳng giọng đọc thơ: "Giáng sinh trần thế tại gò nàỵ Nay lại về trời tựa áng mâỵ.." Tiếng thơ vừa dứt thì sấm chớp, mưa gió. Ông Nguyễn Cả cũng hoá lúc đó. Nhân dân tiếc thương, lập miếu thờ ông Nguyễn Cả ngay ở gò đất. Hiện nay Miếu Ông Cả còn đôi câu đối: Sinh tiền tích trứ Đinh Triều soái - Hoá hậu linh chiêu Bá ấp thần (Khi sống triều Đinh lừng tướng giỏi - Hoá rồi ấp Bá rạng thần thiêng). Cạnh Miếu, còn có đền Châu Trần bản thổ. Cửa Miếu nhìn ra cánh đồng rộng và con đê sông Hồng. Đây cũng là địa điểm hàng năm mở Hội thả diềụ
    Tháng 3 mới là hội thi, nhưng từ tháng tám năm trước, trong làng đã rục rịch làm diềụ Người ta chọn tre, mua giấy, khoét sáo, chuốt dâỵ.. rất tỉ mỉ, công phụ Xưa kia, dây diều làm bằng tre bánh tẻ vót chuốt đều, nối dài, rồi cuộn lại, ngâm vào nước quả cây chuối hột và muối, rồi ninh sôi trong nồi ba mươi mốt ngày trời, thành dây vừa dai vừa mềm. Làm sáo diều bằng cách dùng nan tre đàn thành ống, dùng sơn ta đun mà gắn với miệng sáo khoét bằng gỗ vàng tâm. Chiếc sáo vừa nhẹ, lại có tiếng vừa thanh vừa ấm. Giấy dán diều bồi bằng giấy bản. Thời nay, dây diều là dây ni lông, diều càng nhẹ càng dễ bay caọ
    Rằm tháng ba âm lịch là bắt đầu Hội thi diềụ Trước tiên, có tổ chức tế lễ, rước bánh dầy tưởng nhớ thần nhân. Sau đó là cuộc thi diềụ Hàng năm, một người khéo tay nhất làng được cử làm một chiếc diều tượng trưng to nhất, dài 5 mét, rộng 1,5 mét dán giấy hồng điều, trên cánh diều có đề bài thơ: Gió hát trăng thanh hồn non nước - Sải cánh diều bay nhạc sáo ngân - Khí thiêng tướng Cả lưu truyền thống - Anh hùng rạng rỡ sáng lòng dân.
    Mở đầu cuộc thi là lễ trình diềụ Mọi người dự thi đều mang diều đến trình trước cửa Miếụ Mỗi năm có dăm, sáu chục người dự thi, đa số là người Bá Giang, còn có thêm người Hạ Mỗ, Tân Hội, Liên Trung... Diều dự thi có thể dài đến 3m, nhỏ thì cũng dài tới 1m. Trong gió nồm nam của buổi chiều quê, mấy chục cánh diều cùng bay lên. Dưới đồng, lúa đang thì con gái rì ràọ Trên trời, tiếng sáo vi vút bay xạ Người ta ở trên bờ đê, ở trước sân đình, ở trong làng đều có thể ngắm diều bay và nghe tiếng sáo hoà âm nhiều giọng rất đa cảm. Thỉnh thoảng có con diều đứt dây, bay về phía sông Hồng. Có những con diều đan chéo dây vào nhau, quấn xuýt lạị.. Người xem hội hò reo huyên náo, la hét và cười vang rất sảng khoáị Trẻ nhỏ trong làng đua nhau thả lên trời hàng trăm diều nhỏ có đuôi bay phất phớị Như vậy, trên không có mấy tầng diều cao thấp bay chấp chới nhiều vẻ. Tiếng sáo càng cao càng vang xa, làng diều thật ngoạn mục. Hội diều diễn ra chừng hai giờ đồng hồ thì một số diều bị đứt dây, tự loại khỏi cuộc thị Số lượng diều đạt đến tầng cao và bay đậu giữa trời đã giảm dần.
    Khi vào giai đoạn chung kết chỉ còn mươi chiếc diềụ Ban tổ chức Hội thi tập trung ở đền Châu Trần. Những người ứng thí lùa dây diều vào buộc ở hàng cột trước của đền Châu Trần, sao cho con diều trên cao ứng với Miếu thờ ông Nguyễn Cả. Các giải Nhất, Nhì, Ba trao cho người có diều bay cao, không chao đảo và có tiếng sáo haỵ Người trúng giải đem phần thưởng vào lễ tạ nhân thần.
    Hội thi kết thúc. Vậy nhưng, những con diều vẫn còn bay đến tận đêm khuyạ Trong ánh trăng, nghe tiếng sáo người ta không thấy diều nhưng cũng biết đó là con diều của ai.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  6. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Hội Thổi Cơm Thi Làng Phù Đổng
    Mạnh Hà
    Trong các lễ hội cổ truyền còn được bảo tồn đến nay, hội thổi cơm thi ở thôn Lương Quy, xã Xuân Nộn, huyện Đông Anh, cách nhau khoảng 25km về phía Bắc có thể nói là độc đáo và hấp dẫn.
    Cụ Nguyễn Thế Thỉ 86 tuổi, người cao tuổi nhất thôn Lương Quy kể lại: vào đời Hùng Vương thứ sáu, khi Thánh Gióng trên đường đuổi giặc ¢n đi qua thông Lương Quy thì rất đông trai làng theo ông đánh giặc. Để kịp cho các hàng trai của quê hương được ăn uống no nê trước lúc ra trận, các bô lão trong làng đã họp bàn khẩn cấp, chỉ huy mọi người tích cực chuẩn bị nấu cơm để khao quân.
    Được quê hương cổ vũ, 50 chàng trai hăng hái lên đường cùng Phù Đổng Thiên Vương đánh giặc. Sau khi chiến thắng trở về, ba trai làng giỏi nhất được triều đình phong tước "Tam vị Đức Đại Vương". Cũng từ đấy hội nấu cơm thi ra đời bảo tồn đến ngày naỵ Vào ngày 6 tháng 2 âm lịch hàng năm, nhân dân Xuân Nộn và khách thập phương tổ chức lễ hội cúng tế "Tam vị Đại Vương".
    Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khi đời sống của nhân dân "phong đăng hoa cốc", tức là được mùa, khoảng từ 3 đến 5 năm nhân dân mới tổ chức hội thổi cơm thị Đến đầu những năm 1990, đời sống nhân dân nơi đây đã có những khởi sắc, hội thổi cơm thi lại được tổ chức trong khoảng thời gian từ 3-5 năm một lần vào ngày 6 tháng 2 âm lịch.
    Cuộc thi được tổ chức tại sân đình, có 4 giáp trong làng: Đông, Tây, Nam, Bắc tham dự. Mỗi giáp cử năm chàng trai khoẻ mạnh, xưa thì mặc áo dài đen, đầu đội khăn nhiễu, lưng thắt khăn xanh; ba cô gái mặc áo mớ ba, quần lĩnh, yếm đào, lưng thắt khăn điềụ Ngày nay trang phục có đơn giản hơn: nam mặc áo đỏ, đầu quấn khắn đỏ, nữ mặc áo dài trắng, cuộc thi chủ yếu dành cho nam, còn nữ dự thi têm trầu cánh phượng.
    Một hồi trổng nổi lên, trên sân đình các chàng trai, cô gái đại diện cho các giáp ra mắt dân làng. Khi có ba hồi trống điểm, những lá cờ hội được các trai làng phất lên, chia làm ba cánh tượng trưng cho ba đạo quân của của ba Đức Đại Vương khi phất cờ đánh giặc ¢n. Cờ tung bay phấp phới khi ba vị vinh quy bái tổ. Tiếp đến là biểu diễn múa kiếm thể hiện uy lực của các đạo quân. Khi ba hồi trổng tiếp nổi lên, cuộc thi chính thức bắt đầu: đại diện các giáp chạy lên lấy thẻ. Các thiếu nữ của các giáp lên nhận trầu cau để thi têm trầu cánh phượng, cuộc thi đòi hỏi mỗi người phải có bàn tay khéo léo, kỹ thuật thuần thục để tạo nên những miếng trầu như đôi cánh phượng đang baỵ
    Khi các thiếu nữ thể hiện tài năng của mình trong cuộc thi bổ cau, têm trầu, thì trai làng các giáp bắt đầu thi chạy lấy nước được dựng trong các nồi đất nhỏ, địa điểm lấy nước cách xa trên 1 km. Khi về đến sân đình, các giáp nhận thóc để giã gạo bằng cối đá. Tiếp đến các chàng trai chuẩn bị thanh giang hoặc thanh nứa cọ xát vào những thanh xoan ngâm nước được phơi khô đè lên rơm (hoặc rác) để tạo ra lửạ Đây là nét độc đáo của hội thổi cơm thi: bằng kỹ thuật điêu luyện, bằng kinh nghiệm để tạo ra lửa nhanh trong thời gian ngắn nhất. Khi đã có lửa, các hàng trai thi bắt gà được ban tổ chức thả ra để làm thịt lễ thánh. Đồng thời các chàng trai lại phải nhanh chóng vo gạo nấu cơm. Nồi nấu cơm được kẹp chặt bằng những thanh tre già, trong tiếng trống rộn ràng, tiếng cổ vũ của người xem, từng giáp một vừa đi vừa thổi cơm vòng quanh sân đình, người cầm bó đuốc, người cầm nồi cơm, người canh chừng cơm sôi, cứ như thế cho đến khi hết thời gian và phần đóm qui định. Sau đó, dùng khăn ướt nắm cơm thành từng nắm. Cơm yêu cầu phải chín, dẻo, thơm .... Mỗi công đoạn của cuộc thi đều được điểm, giáp nào giành thắng lợi chung cuộc sẽ được làng ban thưởng, phần lớn là các phần thưởng tượng trưng.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  7. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Hội Vật Làng Sình
    Hoàng Dạ Lê
    Lại Ân còn gọi là làng Sình, nằm bên hữu ngạn sông Hương, ở hạ lưu ngã ba Sình, trước thuộc huyện Tư Vinh hay tổng Mậu Tài, nay là xã Phú Mẫu huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là địa chỉ cuối cùng về phương Nam còn lưu giữ truyền thống vật võ, một sinh hoạt văn hoá đặc trưng của người Việt. Hằng năm sau khi ăn Tết xong, làng ở hội vật vào ngày 10 tháng giêng với niềm mong ước: dân khoẻ, làng yên, mùa màng tươi tốt, hạnh phúc muôn ngườị
    Hội vật làng Sình, ngoài yếu tố tâm linh truyền thống, còn là một hoạt động vui, khoẻ đầy tinh thần thượng võ, kích thích việc rèn luyện sức khoẻ, lòng dũng cảm, sự tự tin, mưu trí, nhất là với lớp trai trẻ.
    Võ đài là xới vật bằng đất bột, mỗi bề rộng chừng bốn năm sải tay, cao hơn một mét được dựng trước sân đình từ ngày hôm trước, mùng chín tháng giêng, bốn bề có dăng dây bảo vệ. Ngôi đình làng nằm bên bờ sông, cảnh quan thoáng đãng, sông nước hữu tình. Người xem vây quanh xới vật ngồi san sát bên nhau trên những mô đất, những bệ cấp bằng tre già đan kết lại trong khuôn viên đình rộng chừng 600m2. Sau nghi lễ và những điều dặn dò về thi đấu, các đô sẵn sàng vào cuộc thi hào hứng. Điều khiển vật võ là một vị cao niên, có uy tín trong làng, khăn đen, áo dài, ngồi cầm trống ngay trước đình. Tiếng trống nhịp nhàng, thong thả là gọi vật; hối hả, liên tục là thúc giục các đô tích cực thi đấụ Trọng tài trên xới là một người am hiểu luật, nhanh nhạy, kiên quyết. Các đô vật không đóng khố như ở Bắc mà mặc quần và quấn thêm một cán ngang lưng. Người đến thi đấu không cần báo trước, chỉ đăng ký tại chỗ theo lời mời gọi thi tàị Khi được phép, họ này vào xới, làm lễ bái thần làng và các vị cao tuổị Trọng tài kiểm tra trang phục, xong cho lệnh thi đấụ Trống đánh một tiếng quì xuống chào nhau, trống đánh hai tiếng, đứng lên ôm nhau vật. Trống đánh ba tiếng thì thả nhau ra, lựa thế khác, vật lạị
    Luật vật dân tộc dựa trên nguyên tắc "túc bất ly địa" (chân không rời đất). Nêu nhấc được hai chân của đối thủ rời khỏi mặt đất là thắng cuộc. Từ "túc bất ly địa", luật tiến đến "lấm lưng, trắng bụng", một phần hoặc cả hai phần lưng lấm đất, bụng ngửa lên trời, là thua cuộc. Trước dây, vật võ làng Sình áp dụng luật "lấm lưng trắng bụng". Các đô phải đánh ngã đối thủ ở tư thế lấm lưng và phải thắng tất cả đô trong ngày để đoạt chức vô địch. Luật này làm nảy sinh sự tính toán để giành chức vô địch, gây mất đoàn kết và để lại hậu quả xấụ Từ hơn 20 năm nay luật qui định: duy trì "lấm lưng trắng bụng", nhưng phải giữ (đè) đối thủ bất động trong ba giây, phải thắng tiếp ba người mới được vào bán kết. Tiếp tục thắng ba người nữa vào chung kết. Sau này, tuỳ số đô lọt vào vòng hai mà qui định thể lệ, thông thường là loại trực tiếp. Với vật võ, ngoài sức khoẻ, các đô còn có kỹ thuật, có "miếng" và nhanh nhạy mới mong giành được thắng lợị Vật có nhiều miếng đẹp mắt, quyết liệt. Những miếng thường được các đô sử dụng là xốc nách, vạch sườn, miếng bò, miếng háng (thò tay vào háng rồi lựa thế tấn công) nâng đối thủ vật ngã bổng, miếng bành (xốc nách bế ngửa) miếng táng (nâng đối thủ lên)... Một đô vật lý tưởng có tay chân cân đốị Chân mạnh để trụ vững, tay mạnh để vật ngã đối phương. Nhưng to chưa hẳn đã mạnh, mạnh chưa hẳn đã thắng, cần phải nhanh, kiên trì để khai thác sơ hở của đối phương.
    Hội Sình rất chú trọng tinh thần thượng võ, cấm chơi xấu, xa đòn độc, đòn hiểm, nguy đến tính mạng như bẻ, vặn, khoá trái khớp, tấn công bằng đầu, bấm các huyệt, đòn đá, đòn đánh, nắm tóc, tấn công vào hạ bộ, yết hầu, mắt.... Nếu hai đô vật giằng co nhau không thắng, trọng tài sẽ phạt và buộc thay thế tư thế vật (vật quỳ) để kết thúc nhanh trận đấụ Hội vật sắm các giải hưởng để động viên. Đô vật thua cũng có quà lưu niệm. Giải thưởng là tặng phẩm do dân làng và các mạnh thường quân đóng góp. Giải thưởng vô địch thường trang trọng hơn (cau trầu, rượu, đầu heọ...). Các đô vật chia theo hai hạng tuổi: thiếu niên và thanh niên, tầm vóc chênh lệch trên dưới 10Kg.
    Tinh thần đồng đội ở các địa phương rất quan trọng, một đô của làng nào bị thua tức khắc có đô khác lên tiếp sức. Mỗi năm có hơn 100 đô vật tham gia hào hứng suốt ngàỵ Thua một trận phải chờ đến năm sau mới "phục hận" được. Vì vậy các đô phải rèn luyện suốt năm, tu dưỡng đạo đức để chờ đầu xuân được dự đua tàị Các xã có phòng trào đô vật mạnh là Phú Mẫu, Phú Thanh, Phú Dương (Phú Vang) Hải Dương, Hương Phong, Hương Vinh (Hương Trà), Thủ Lễ (Quang Điền), Hương Sơ (TP. Huế).
    Cùng với xới vật chính, đêm hôm trước và suốt ngày hội, khắp nơi trong làng các quán hàng ăn: bún bò, bánh bèo, bánh nậm, bán bột lọc, cháo lòng, bánh canh, chè....các gian trò chơi thu hút đông đảo khách chơi xuân. Cho đến khi tắt nắng, cuộc vui mới chịu dừng. Và, hôm sau mọi việc trở lại nhịp đời thường. Một năm làm lụng mới lại bắt đầụ
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  8. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Lễ Hội Chữ Đồng Tử
    Unknown
    Thiên nhiên đã ban tặng cho vùng đất Dạ Trạch (xã Dạ Trạch, Châu Giang, Hưng Yên) một cảnh quan thật kỳ thú. Nơi đây dòng sông uốn lượn, hiền hoà chảy, ôm lấy dải cát trắng trải dàị Những nương ngô, lau sậy xanh ngát... Vào mùa xuân, mây trời sông nước, cảnh làng quê yên bình như tăng thêm cảnh hữu tình làm đắm say lòng ngườị
    Từ xa xưa cứ vào ngày 14/2 (âm lịch) người dân trong vùng, trai thanh, gái tú theo những triền đê đổ về. Những dòng người khăn áo đủ màu sắc hướng về đền Dạ Trạch có lá cờ đại tung bay trước gió. ấy là nơi diễn ra lễ hội của tình yêu và hạnh phúc. Người đến với hội, dù trẻ trung hay có tuổi cùng phấp phỏng: Cô gái nào sẽ gặp Chử Đồng Tử? Chàng trai nào sẽ gặp My Nương Tiên Dung trong ngày hội, giữa chốn phong thuỷ hữu tình là đâỵ Chuyện kể rằng: Đời Vua Hùng thứ 18, Người sinh hạ nàng công chúa xinh đẹp như tiên sa, đặt tên là Tiên Dung. Nàng thích du ngoạn. Một ngày vào cuối tiết xuân, nắng ấm, nàng cùng đoàn thuyền du xuân trên dòng sông Cáị đến bãi Tự Nhiên, nàng sững sờ trước vẻ đẹp thiên nhiên hoang sơ, kỳ thúc. Nàng sai thị tỳ quây màn trên dải cát trắng mịn. Nàng tắm. Những dòng nước xối trên cát. Nàng bỗng thất kinh, thấy hiện ra một chàng lực điền, trẻ trung không một tấm khố che thân. Chàng trai sợ hãi làm nàng bình tâm hỏi han sự tình. Chàng cho biết, mình mồ côi cha mẹ phải làm nghề đánh dậm, sống qua ngàỵ..
    Thấy đoàn thuyền cờ xí rợp trời, chàng sợ, vùi mình xuống cát. Không ngờ đó là nơi công chúa quây màn tắm.
    Nàng nghĩ "Ta đã nguyện không lấy chồng, nay gặp cảnh này âu cũng là duyên trời định". Nàng mời chàng xuống thuyền, mở tiệc ăn mừng, kết duyên chồng vợ. Từ ấy, nàng công chúa xinh đẹp ở lại vùng đất bãi với chồng sinh sống, làm dâu đất Dạ Trạch. Tương truyền, vợ chồng nàng nhờ được truyền phép lạ đã giúp dân trong vùng qua cơn hạn hán, dịch bệnh... Đầm Dạ Trạch, rộng mênh mông, trong xanh là dấu tích toà lâu đài xưa của vợ chồng nàng, biến mất sau một tiếng nổ vang trời trong đêm (Dạ Trạch Hoá và đầm Nhất Dạ)... Dân trong vùng lập đền thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung... Mở hội vào trung tuần tháng 2 âm lịch hàng năm.
    Từ xa xưa, lễ hội đã sống động một vùng xuân. Với các nghi lễ rước nước, rước gậy và nón thần. Đi đầu đám rước là con rồng lớn rộng vài chục thước uốn lượn theo nhịp trống hộị Nơi bãi Tiên Dung tắm, bên kia sông, cờ xí rợp trờị Các cụ bô lão kể, có năm tới hàng chục vạn người dân đổ về đứng dọc hai bên bờ sông, chờ đợi xem mấy chục chiếc thuyền cắm cờ xí bơi ra giữa dòng sông làm nghi lễ lấy nước. Bình nước lấy giữa dòng được phủ vải điều, rước về đến làm nghi lễ dâng hương. Sau nghi lễ long trọng này, điệu múa Tiên do các thiếu nữ tuổi cập kê, rèn luyện công phu trình diễn. Các cô gái được chọn lựa kỹ càng, xinh đẹp đến mê hồn, mang trên mình những dải lụa hồng. Trên vai những "cô tiên" là hai bầu nước, đầu đội đĩa trầu cau, múa uyển chuyển, khéo léo, trong tiếng nhạc sinh tiền rộn rã, như thực, như mơ, hút hồn người dự hộị
    Dòng người trẩy hội, khi cụm lại, khi toả ra cùng những trò chơi dân gian diễn ra náo nhiệt. Múa sư tử, vật, võ, bắt vịt, múa gậỵ Các bậc cao niên, cơ bắp vồng lên mạnh mẽ và điêu luyện như trai tráng, đấu gậy và vật võ. Các cô thôn nữ duyên dáng, nhí nhảnh múa quanh hồ nước hình móng rồng trước cửa đền...
    Khách trẩy hội, còn nấn ná đến ngày hôm sau để chứng kiến lễ rước Thánh du ngoạn. Những cỗ kiệu Thánh có dóng áo ngự bào, mũ hia với đoàn người hội rước, trăm sắc màu vòng qua khu đầm Nhất Dạ. Đám rước dừng lại nơi lâu đài thành quách cũ của Tiên Dung - Đồng Tử. Nước Đầm rộng, trong vắt tận đáy nhìn rõ từng đám rong "tóc tiên" rập rờn với sóng. Các cụ già trong vùng luôn nói rằng đó là tóc của Tiên Dung. Khi về trời nàng vẫn lưu luyến đất Dạ Trạch quê chồng gửi lại đây lọn tóc mây của nàng...
    ừ nhỉ, cái thuần phong mỹ tục của người Việt Nam ta cao sáng lắm. Dòng người về dự lễ hội "Valentine" Phương Đông này đều ra nhận thông điệp của tổ tiên: Tình yêu bất chấp mọi ràng buộc đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn... thật đáng cho những Tiên Dung cùng Chử Đồng Tử ngày nay ngẫm ngợi!.

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  9. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Lễ Hội Hòn Chén
    Unknown
    Đền Hòn Chén hay Ngọc Trản Sơn - là một trong mười sáu di tích được xếp hạng danh mục quần thể di tích Huế, di sản văn hóa thế giớị Hòn Chén từ xưa đến nay được mọi người biết đến không chỉ là một di tích danh thắng mà còn có lễ hội dân gian thờ và rước sắc mẫu Thiên Yanạ Hằng năm vào dịp tháng ba và tháng bảy âm lịch, tín đồ từ khắp mọi miền đất nước đổ về đây dự lễ hội đền Hòn Chén.
    Theo truyền thuyết, Hòn Chén (còn gọi là Ngọc Trản Sơn) là nơi Thánh Mẫu Thiên Yana xuất hiện để cứu hộ chúng sinh. Ngọc Trản vốn là ngọn núi thấp ăn từ chân dãy Trường Sơn chạy về phía động, đến làng Hải Cát, huyện Hương Trà thì dừng lại ở tả ngạn sông Hương. Đến đây, dãy núi như bị dồn nén lại, tạo thành ngọn Ngọc Trản, cây cối xanh tốt, soi bóng xuống dòng sông. Khúc sông qua Ngọc Trản được xem là sâu nhất của dòng Hương Giang. Người xưa chọn Ngọc Trản Sơn để dựng đền thờ. Trên đỉnh núi, có một hố trũng khá rộng, lúc mưa, nước đọng lại trông như cái chén nước khổng lồ, vì thế dân gian đặt tên là Ngọc Trản Sơn - hay còn gọi là Hòn Chén.
    Không biết ngôi đền thờ ở Ngọc Trản Sơn có tự bao giờ, chỉ biết rằng người Chăm xưa từng thờ cúng ở núi này, đến thời nhà Nguyễn, các vua, chúa tiếp tục tu sửa, mở rộng đền - Đền Ngọc Trản thờ Thánh Mẫu Thiên Yana với những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng dân gian có nguồn gốc sâu xa là tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo với tục thờ Mẫu, cũng như ở miền bắc thờ Mẫu Vân Hương, hay ở miền nam thờ Mẫu ở núi Bà Đen, hoặc Pohnaga ở Tháp Chàm - Nha Trang vậỵ Thiên Yana Thánh Mẫu, nguyên xưa vốn là nữ thần của người Chăm có tên là PôYangInô-Nagar, gọi tắt là PôNagar, tức thần Mẹ Xứ Sở mà theo truyền thuyết Chăm là thần sáng tạo ra đất đai, cây cối, rừng, lúa, bắp... Trong chín vị vua triều Nguyễn thì vua Đồng Khánh là một tín đồ rất ngưỡng mộ vị Thánh Mẫu nàỵ Vì vậy, năm 1886 ông đã cho tu sửa đền và đặt tên là Huệ Nam Điện (Huệ Nam có nghĩa là ban ơn huệ cho nước Nam). Vua Đồng Khánh còn làm thơ văn ca tụng công đức của Mẫu Thiên Yanạ Chính vua đã ban hành việc dùng Quốc lễ để tế tại Huệ Nam Điện. Theo lệnh vua, vào dịp xuân - thu nhị kỳ hằng năm đều tổ chức tế lễ, vị chủ tế là một triều thần. Sau vua Đồng Khánh, các vị vua chỉ cử quan thần tới chủ tế một lần vào tháng ba, còn tháng bảy dân làng Hải Cát tự tổ chức. Lễ hội đền Hòn Chén, lễ nghênh thần là lễ lớn nhất, trong đó có đám rước Mẫu Thiên Yanạ Đám rước được cử hành trên những chiếc thuyền ghép lại với nhau (gọi là bằng). Cùng với những chiếc bằng, nhiều thuyền đơn, thuyền đôi đi theo đám rước. Thuyền nào cũng được trang trí trông rất đẹp. Lễ nghênh thần được tổ chức trang nghiêm, người đi dự lễ mang mũ, quạt, áo quần sặc sỡ.
    Phường bát âm với những bài hát chầu văn ca ngợi Thánh Mẫu và chư vị thánh thần. Các tín đồ vừa đi vừa hát, múa trên những chiếc bằng trong trang phục lộng lẫy, dưới lọng kiệu là đồ thờ của Mẫu Thiên Yanạ Tất cả tạo nên một không khí tín ngưỡng thiêng liêng, huyền ảo và sôi động. Ngày nay, đền Hòn Chén được khách thập phương biết đến không chỉ là một di tích tôn giáo mà là một kiến trúc phong cảnh, non nước đẹp của xứ Huế. Với mười công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền nằm lưng chừng sườn Đông - Nam của ngọn núi, đền Hòn Chén ẩn mình dưới bóng của rừng lá xum xuê bên dòng sông Hương trong xanh. Những năm gần đây, lễ hội Hòn Chén tấp nập, tưng bừng hơn. Vào ngày chính lễ có cả trăm chiếc thuyền, bằng trẩy hội trên dòng Hương, tín đồ của cả miền trung về tụ hội, dâng lễ, rước Mẫu tháng ba năm nay, các tín đồ tín ngưỡng Thiên Tiên Thánh giáo lại có dịp trở về với Mẫu Thiên Yana với những sinh hoạt văn hóa dân gian tạo nên vẻ phong phú của nét văn hóa xứ Huế.
    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​
  10. despi

    despi Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    29/04/2001
    Bài viết:
    1.990
    Đã được thích:
    1
    Lễ Rước Mục Đồng
    Unknown
    Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu
    Mà rồi mang ấn công hầu ai ơi
    Ba năm một lần, làng Phong Lệ (nay là Phong Nam, Hòa Châu, Hòa Vang, Đà Nẵng) lại tổ chức lễ rước có một không hai việc của làng quê từ Bắc chí Nam: lễ rước mục đồng.
    Không biết lễ rước mục đồng có tự bao giờ ở cái làng quê "hiền như đất" ấy; chỉ biết rằng theo tích xưa, cứ ba năm một lần thần Mục sẽ giáng xuống tảng đá trắng giữa cồn Thần để phù hộ cho nông điền làng Phong Lệ vũ thuận phong điều (mưa thuận gió hòa), đồng ruộng tươi tốt...
    Chẳng có một đứa trẻ chăn trâu nào ở Phong Lệ lại không háo hức, bồn chồn khi gần đến ngày trọng đại nàỵ ấy là ngày mấy đứa trẻ khỏe mạnh nhất trong đám mục đồng được làng cắt đặt chức trùm chỉ, trùm phụ lo việc sắp đặt trật tự khi cúng đình và đi rước thần Mục về. Đám mục đồng còn lại, xênh xang khăn đóng áo dài (đi mượn), cầm cờ phướn hớn hở đi trong đám rước.
    Canh một, cả làng Phong Lệ đã có mặt ở đình Thần Nông. Khi cỗ kiệu hai đòn khiêng giăng hoa, kết trái rườm rà được đặt ngay ngắn trước điện thờ, ba hồi chiêng trống dõng dạc vang lên, tất cả im phăng phắc. Vị trùm mục tóc bạc trắng thành kính trước điện thờ lâm râm khấn váị Sau lưng ông là bốn mục đồng áo dài khăn đóng giữ phần khiêng kiệu, nghền nghệt, trang nghiêm đứng trình diện.
    Trùm mục khấn xong, nhường chỗ cho trùm chỉ, trùm phụ và bọn mục đồng khiêng kiệu xì xụp lô nhô trong khói hương nghi ngút trước bài vị của thần. Lại ba hồi chiêng trống nữa vang lên, trùm mục cung kính thỉnh bài vị thần Nông nâng ngang mày rồi quỳ xuống đặt vào trong kiệụ Chiêng trống lại gióng giả. Tất cả mục đồng hướng vào trong điện đồng loạt chắp tay xá. Rồi đám rước dài lượt thượt, giăng giăng cờ xí khởi hành sau một hồi sênh báo hiệụ Đi đầu đám rước là đám mục đồng cầm đuốc và vác lễ kỳ của làng, kế đến là chiêng trống, phường bát âm, cờ xí của mọi nhà trong làng...
    Đám rước cứ thế, lặng lẽ, chập chờn đi qua những cánh đồng mới gặt nứt nẻ và trơ những gốc rạ để đến cồn Thần. Khi ấy, sao trên trời vẫn chưa chịu tắt. Tảng đá trắng giữa cồn, được trải một chiếc chiếu hoa còn thơm mùi cóị Trong vô số ngọn đuốc chập chờn và đám đông thành kính, tảng đá trắng vô tri thường ngày bỗng trở nên huyền bí, linh thiêng.
    Một hồi sênh, tiếp đó ba hồi chiêng trống. Rồi trống cơm, phường bát âm cử tấu những âm điệu rộn rã chào mừng. Trùm mục dõng dạc xướng:
    -Chúng mục đồng Phong Lệ tạ Xin cho tốt lúa tốt gieo, vũ thuận phong điềụ Đồng reo một tiếng ớ ớ ớ... ớ.
    Đám mục đồng cùng reo to :
    - Giá..á..á h..ạ..ạ..ạ.
    Đoàn mục đồng vừa reo vừa cầm cờ nối đuôi nhau theo vị trùm mục chạy tới chạy lui, quanh đi lộn lại quanh tảng đá trắng giữa cồn Thần. Đoàn mục đồng chạy đến đâu, đám đông giạt ra đến đấỵ
    Trời hưng hửng sáng, đám rước về đến đình làng. Sân đình đông kín ngườị Ai ai cũng tỏ ra khiêm nhường khép nép trước đám mục đồng trong ngày trọng đại nàỵ Còn đám mục đồng nghiêm túc và trang trọng lắm.
    Ba gian đình được trãi khắp một lượt chiếu hoạ Chiếu nào chiếu nấy ngồn ngộn xôi gà, ê hề rượu thịt. Ai nấy hoan hỉ vì tin rằng lòng thành của họ đã được thần Mục chứng giám. Mai này đồng ruộng sẽ tốt tươị Chỉ có đám trẻ chăn trâu là buồn. Muốn có một ngày như thế này, chúng lại phải đợi những ba năm nữạ..

    Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
    Lấy chí nhân để thay cường bạo​

Chia sẻ trang này