1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

CÁNH BUỒM ĐỎ THẮM - A-lếch-xan-đrơ Grin

Chủ đề trong 'Tác phẩm Văn học' bởi starry_river, 01/08/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. Gatgu

    Gatgu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/04/2002
    Bài viết:
    1.030
    Đã được thích:
    0
    Lê-chi-ca lấy cần câu ra, rồi theo thói quen, ứng khẩu một tràng thành vần (điều thường vẫn làm bạn bè thán phục):
    Cước đây ta buộc vào cần
    Lưỡi câu buộc tiếp lần lần ta câu.​
    Anh ta lấy mồi giun trong hộp ra rồi đọc tiếp.
    Chú mày ẩn dưới đất sâu
    Cuộc đời kỳ thú còn rầu nỗi chi.
    Bây giờ chịu móc câu đi
    Chốc nữa tụi cá nó ghì nó ăn.​
    Cuối cùng anh ta vừa đi vừa nghêu ngao.
    Đêm đen vắng lặng,
    rượu ngon tuyệt vời.
    Cá chiên cuống cuồng,
    cá trích chết giấc
    Kìa Lê-chi-ca,
    hắn đang đợi ta!​
    Grây nằm lại bên đống lửa, nhìn ánh lửa in hình dưới làn nước.
    Anh miên man nghĩ ngợi, không để lý trí can dự vào. Trong trạng thái này, ý nghĩ chỉ lờ mờ lưu giữ thực tại, thấy nó một cách mơ hồ. ý nghĩ đó lao vút lên như một con ngựa trong đám đông chật chội, vừa chèn, vừa xô, vừa ngăn chặn. Sự trống rống, sự bối rối và sự ngưng đọng lần lượt đến với nó. Nó lang thang trong linh hồn của sự vật, vội vàng chuyển từ xúc động mạnh sang bóng gió thầm kín; nó lượn quanh trái đất và bầu trời, chuyện trò sôi nổi với các nhân vật tưởng tượng, xóa đi và tô điểm cho những kỷ niệm. Trong sự chuyển động mơ hồ này, mọi cái đều sinh động, rõ ràng, và mọi cái đều thiếu mạch lạc như hoang tưởng. Và nhận thức được buông lơi luôn mỉm cười khi thấy chẳng hạn ta đang suy nghĩ về số phận bỗng dưng lại nghĩ đến một hình ảnh hoàn toàn không thích hợp: một cành cây gãy cách đây hai năm. Nằm bên đống lửa, Grây suy nghĩ, nhưng anh "ở đâu ấy" chứ không phải đang ở đây. Khuỷu tay dùng để tựa, cánh tay dùng để nâng đầu đã bị ướt và tê đi. Các vì sao tỏa sáng nhợt nhạt. Bóng tối thêm dày, báo trước buổi rạng đông. Thuyền trưởng thiu thiu ngủ, nhưng anh không hề biết điều đó. Anh bỗng thấy thèm uống rượu, anh nhoài người với chiếc túi, lần cởi ra trong mơ. Sau đó anh không nằm mơ nữa mà ngủ rất say. Hai giờ sau đó đối với Grây cũng chẳng dài hơn những giây phút anh ngả đầu xuống bàn tay. Trong khoảng thời gian đó, hai lần Lê-chi-ca quay về chỗ đống lửa, hút thuốc và tò mò nhìn vào miệng những con cá câu được xem có gì không. Nhưng dĩ nhiên là chẳng có gì. Khi tỉnh dậy, trong giây lát Grây quên mất không biết vì sao mình lại ở chốn này. Anh ngạc nhiên thấy những tia nắng sớm mai vui tươi, bờ biển dựng đứng và những tán lá rực rỡ, xa xa bừng sáng một màu xanh. Trên đường chân trời và cũng là phía trên chân anh lơ lửng những cành dẻ. Phía dưới bờ vách, dường như ở ngay dưới lưng anh, là tiếng sóng vỗ rì rầm. Những giọt sương thấp thoáng trên cành lá rơi xuống khuôn mặt ngái ngủ của anh, mát lạnh. Anh đứng dậy. Xung quanh chan hòa ánh sáng. Những cành khô cháy dở chỉ còn leo lét khói. Mùi khói làm cho khoái cảm được thở hít không khí của rừng cây có thêm một vẻ đẹp hoang dã. Lê-chi-ca không có đấy. Anh ta đã đi câu say sưa như một con bạc khát nước, mồ hôi đầm đìa. Grây bước ra khỏi cánh rừng, đi về phía những bụi cây thấp mọc trên sườn đồi thoai thoải. Cỏ bốc hơi âm ấm. Những bông hoa ướt đẫm trông như bọn trẻ con bị tắm nước lạnh. Thế giới màu xanh thở hít bằng vô vàn cái miệng nhỏ xíu làm vướng chân Grây trong cảnh đua chen náo nức.
    Thuyền trưởng bước ra một chỗ trống, cỏ hoa sặc sỡ, và nhìn thấy một cô gái đang ngủ. Anh nhẹ nhàng gạt cành lá trước mặt sang một bên rồi dừng lại với cảm giác là vừa tìm ra một cái gì đó nguy hại. Cách anh chưa đầy năm bước là A-xôn đang nằm nghiêng, chân duỗi, chân co, đầu gối lên cánh tay, vẻ mệt mỏi. Tóc cô để xõa, chiếc cúc áo phía trên không cài để lộ làn da trắng mịn, chiếc váy xòe ra để hở đến đầu gối. Hàng mi dài, món tóc màu sẫm che một phần thái dương; ngón út bên tay phải cô gối đầu lên, bị gập lại dưới gáy. Grây quỳ xuống ngắm nhìn cô gái, và không ngờ rằng lúc ấy trông chàng giống như thần Phô-nơ trong tranh của Ác-nôn-đơ Béc-lin. Có thể là trong một lúc nào khác, Grây chỉ nhìn thấy cô gái bằng đôi mắt thường, nhưng lúc này anh nhìn thấy cô một cách khác. Lòng anh nôn nao, xao động. Đương nhiên anh không hề biết cô là ai, không biết tên, càng không biết vì sao cô ngủ bên bờ biển, nhưng anh cảm thấy rất hài lòng. Anh yêu thích những bức tranh không có lời giải thích nội dung. Ấn tượng từ bức tranh như thế bao giờ cũng mạnh mẽ hơn nhiều, không bị ràng buộc bởi từ ngữ. Nội dung của nó trở nên sâu xa vô tận, khẳng định mọi ý nghĩ, mọi dự đoán. Mặt trời đã lên cao mà Grây vẫn trong tư thế ngồi không thuận ấy. Cô gái ngủ say đến mức dường như từ mái tóc đến làn áo, đến cây cỏ xung quanh cũng đều ngủ theo cô. Tràn trề ấn tượng, Grây như hòa mình vào làn sóng ấm áp đang dâng lên trong anh và bơi theo sóng. Đã từ lâu Lê-chi-ca gọi: "Thuyền trưởng ơi, anh ở đâu?" - nhưng thuyền trưởng vẫn không nghe tiếng. Cuối cùng, khi Grây đứng dậy, bản tính ưa thích những chuyện khác thường đã xâm chiếm anh một cách bất ngờ với thái độ cương quyết và hăng hái của một người phụ nữ nổi giận. Anh trầm ngâm tháo chiếc nhẫn cổ quý giá khỏi ngón tay, không hề suy nghĩ rằng chưa chừng cái vật này đang mách bảo cho cuộc sống một cái gì đó thực quan trọng. Anh nhẹ nhàng ***g chiếc nhẫn vào ngón tay út của cô gái để lộ ra bên gáy. Ngón tay bất giác động đậy rồi thõng xuống. Nhìn gương mặt cô lần nữa, Grây quay đi và bỗng thấy Lê-chi-ca đứng sau bụi cây, đôi lông mày rướn lên. Lê-chi-ca há hốc miệng kinh ngạc theo dõi cử chỉ vừa rồi của Grây.
    - Lê-chi-ca đấy à! - Grây nói. - Cậu thử nhìn cô ta xem. Thế nào, đẹp đấy chứ?
    - Thật là một bức tranh tuyệt vời! - Chàng thủy thủ thích nói văn hoa khẽ thốt lên. - Tôi câu được con cá và một con gì to tròn như cái bong bóng.
    - Khẽ chứ, Lê-chi-ca. Ta đi khỏi đây thôi. Hai người đi về phía bụi cây. Lẽ ra lúc này họ phải quay về chỗ để thuyền, nhưng Grây chần chừ đưa mắt xa xa về phía bờ biển thấp, nơi có những làn khói ban mai của làng Ca-péc-na tỏa ra bên trên cây cối và nền cát. Anh lại thấy hình ảnh cô gái hiện ra qua làn khói. Lúc ấy, Grây bèn đi thẳng về hướng làng. Lê-chi-ca không hỏi vì sao lại thế, chỉ lặng lẽ bước theo sau. Lê-chi-ca cảm thấy rằng những phút phải im lặng lại đến. Một lát sau, khi đến gần những ngôi nhà đầu tiên, Grây bỗng cất tiếng hỏi:
    - Lê-chi-ca, với kinh nghiệm của cậu, cậu thử xác định xem nhà nào có thể là quán rượu?
    - Chắc là cái nhà mái đen kia, -Lê-chi-ca phỏng đoán, -mà cũng có thể không phải nó.
    - Thế cái nhà mái đen ấy có gì đặc biệt?
    - Chính tôi cũng không biết, thưa thuyền trưởng. Đó chỉ là do trái tim mách bảo thôi.
    Được gatgu sửa chữa / chuyển vào 13:44 ngày 02/08/2003
  2. Gatgu

    Gatgu Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    08/04/2002
    Bài viết:
    1.030
    Đã được thích:
    0
    Hai người đi đến ngôi nhà đó; quả thật, đó là quán rượu của Khin Mê-néc. Trên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ mở toang có thể nhìn thấy một chiếc chai; cạnh đó có một người đang đưa những ngón tay đen bẩn mân mê bộ ria mép ngả màu bạc trắng. Mặc dù còn sớm, trong quán rượu đã có ba người. Ngồi cạnh cửa sổ là bác thợ đốt than có bộ ria vừa được nhắc đến. ở quãng giữa quầy hàng và cửa bên trong quán là hai người dân chài đang uống bia và ăn trứng rán. Khin Mê-néc là một gã trẻ tuổi cao lêu đêu, gương mặt buồn tẻ đầy tàn hương, đôi mắt hấp háy, cử chỉ nhanh nhẹn một cách ranh mãnh như vẫn thường thấy ở bọn người chuyên buôn bán. Y đang đứng sau quầy lau bát đĩa. Dưới ánh mặt trời buổi sáng, bóng song cửa sổ in trên nền nhà bẩn thỉu. Grây vừa bước vào gian phòng đầy khói thì Khin Mê-néc đã lễ phép cúi chào rồi bước ra khỏi quầy. Y lập tức đoán ra Grây là một thuyền trưởng thật sự -loại khách chẳng mấy khi ghé vào quán rượu của y. Grây gọi rượu rum. Trải trên bàn tấm khăn đã ngả màu cháo lòng, Khin Mê-néc đem chai rượu đến, đưa lưỡi liếm thử vào chỗ nhãn chai và bóc ra. Sau đó y quay trở vào sau quầy, lúc thì nhìn Grây chăm chú, lúc thì nhìn lên chiếc đĩa, lấy móng tay cậy miếng gì khô khô bám vào đấy. Khi Lê-chi-ca đang cầm cốc rượu bằng cả hai tay, khẽ nói chuyện với Grây và nhìn ra ngoài cửa sổ thì anh vẫy tay gọi Khin Mê-néc lại. Khin Mê-néc ngồi ghé lên chiếc ghế, thích chí ra mặt vì được một người sang trọng như Grây gọi đến và nhất là lại gọi bằng cách ra hiệu như thế.
    - Chắc anh biết tất cả dân làng ở đây chứ? Grây bình thản hỏi. - Tôi muốn biết tên cô gái choàng khăn, mặc áo hoa đỏ, tóc sẫm màu hạt dẻ, người tầm thước, tuổi trạc mười tám, đôi mươi. Tôi vừa thấy cô ấy cách đây không xa. Tên cô ấy là gì?
    Anh nói những lời này với giọng giản dị, dứt khoát, khiến người nghe không lẩn tránh được trả lời. Khin Mê-néc hơi cảm thấy khó chịu, thậm chí còn cười thầm; nhưng y không dám để lộ ra. Tuy nhiên trước khi trả lời, y dừng lại nghĩ một lát -chẳng qua chỉ vì cố đoán mà biết được chuyện gì đã xảy ra.
    - E hèm, - Khin Mê-néc cất giọng, mắt ngước lên trần, - chắc là con A-xôn "Tàu thủy" đấy mà. Không thể có ai khác. Nó bị dở người đấy.
    - Nói rõ hơn xem nào? -Grây lãnh đạm hỏi, uống thêm một ngụm rượu đầy. - Chuyện thật là thế nào?
    - Nếu ông muốn, xin ông nghe đây. Và Khin Mê-néc đã kể cho Grây nghe câu chuyện cách đó bảy năm khi cô bé A-xôn gặp một ông già chuyên đi sưu tầm chuyện dân gian ở ngoài bờ biển. Thật ra thì câu chuyện đó, kể từ khi người ăn mày khẳng định thêm trong quán rượu này đã bị xuyên tạc méo mó đi nhiều, nhưng cốt lõi của nó vẫn còn nguyên vẹn.
    - Từ dạo ấy dân làng bèn gọi nó là A-xôn "Tàu thủy". - Khin Mê-néc kết thúc câu chuyện.
    Grây bất giác liếc nhìn Lê-chi-ca lúc này vẫn khiêm nhường ngồi im. Sau đó anh đưa mắt nhìn ra ngoài con đường đất bụi chạy qua quán rượu. Đúng vào lúc đó, anh bỗng cảm thấy đầu óc và trái tim mình choáng váng. Trên con đường ấy, anh chợt thấy đi ngược lại phía anh chính là cô gái A-xôn "Tàu thủy" mà tên chủ quán vừa khinh bỉ nhắc đến. Gương mặt đẹp tuyệt vời của cô giống như sức mạnh bí ẩn trong những lời nói giản dị đầy xúc động của con người. Gương mặt cô hài hòa tuyệt diệu với ánh mắt trong sáng. Lê-chi-ca và chủ quán đều ngồi im quay lưng lại cửa sổ. Để cho họ tình cờ không quay lại nhìn A-xôn, Grây đã có đủ can đảm nhìn sang đôi mắt màu hung của Khin Mê-néc. Ngay sau khi anh nhìn thấy ánh mắt A-xôn, những lời đơm đặt xấu xa của chủ quán đã lập tức bị xua tan.
    Lúc ấy, không hay biết điều gì vừa xảy ra, Khin Mê-néc nói tiếp:
    - Có thể cho ông biết thêm rằng bố cô ta là một tên đê tiện. Chính lão ta đã dìm chết bố tôi như dìm một con mèo. LạY Chúa, lão ta... Bỗng một tiếng rống lên bất ngờ từ phía sau cắt ngang lời y. Cặp mắt long lên dữ tợn, người thợ đốt than như chợt tỉnh cơn say, cất giọng hát ồ ồ làm mọi người phải giật mình.
    - Ờ, lão lại say rồi, lão già khốn kiếp! - Khin Mê-néc quát lên. - Cút. Nhưng ông già đốt than vẫn nghêu ngao hát tiếp như không có chuyện gì xảy ra, rồi để cả ria mép nhúng vào cốc rượu. Khin Mê-néc tức giận nhún vai:
    - Thật là đồ bỏ đi chứ không phải là người nữa. - Y nói với vẻ tự đắc của một tên keo kiệt. - Lần nào cũng vậy!
    - Anh không thể kể thêm gì nữa chứ? - Grây hỏi y.
    - Tôi ấy à? Thì tôi vừa nói với ông rồi, bố cô ta là một tên vô lại. Vì nó mà, thưa ông, tôi đã bị mồ côi, ngay từ nhỏ đã phải tự mình kiếm sống...
    - Mày nói láo! - Bất ngờ ông thợ đốt than lên tiếng. - Mày nói láo ghê tởm, giả dối đến mức làm tao tỉnh cả rượu. Khin Mê-néc chưa kịp mở mồm thì ông già đã quay sang nói với Grây:
    - Hắn nói láo đấy ông ạ. Bố nó cũng là đồ dối trá, mẹ nó cũng cùng một giuộc. Cả họ nhà nó thế mà, ông có thể hoàn toàn yên tâm: cô ta chắc chắn cũng khỏe mạnh, bình thường như chúng ta cả thôi. Tôi đã nhiều lần nói chuyện với cô ta. Cô ta đã ngồi nhờ xe ngựa của tôi tám mươi tư lần hay ít hơn một chút. Mỗi khi cô gái đi bộ từ thị trấn về, còn tôi thì đã bán xong than, thế nào tôi cũng cho cô gái đi nhờ xe về làng. Cứ để cho cô ta ngồi. Tôi biết, cô ta là người phúc hậu. Điều đó thật quá rõ. Tất nhiên cô ta không thèm nói với mày nửa lời, Khin Mê-néc ạ. Nhưng đối với tôi, thưa ông, trong công việc làm than thoải mái, tôi khinh thường miệng thế, điều ong tiếng ve. Cô ta nói năng như người lớn nhưng kỳ quặc lắm ông ạ. Xem ra thì cô ấy cũng nói những điều như chúng ta nói cả thôi, nhưng lại không hẳn giống thế. Chẳng hạn như khi cô ta kể lại công việc của mình.
    - "Bác ạ, cháu kể cho bác nghe nhé, - cô ta vừa nói vừa bá vào vai tôi, như con **** đậu vào gác chuông, - công việc của cháu cũng không đến nỗi tẻ, nhưng cháu vẫn muốn nghĩ ra một cái gì đó đặc biệt. Cháu muốn con tàu mà cháu làm bơi được, các tay chèo khỏa nước như thật; sau đó họ cho thuyền vào bờ, cập bến rồi ngồi ăn như thật". Tôi cười khà khà và trả lời cô ta: "Này, A-xôn này, nghề của cháu là thế nên cháu nghĩ thế, nhưng mà cháu thử nhìn xung quanh xem: mọi người làm việc như điên". Cô ta nói: "Không bác ạ, cháu biết điều gì cháu biết. Khi người dân chài đánh cá thì họ nghĩ rằng họ sẽ bắt được con cá to nhất, chưa từng ai bắt được".
    - "Thế bác thì sao?"
    Cô ta cười: "Bác ấy à, bác thì khi xếp than vào giỏ, chắc là bác nghĩ chúng sẽ nở thành hoa". Đấy, cô ta đã nói những lời như thế. Trong giây phút đó, tôi bất giác nhìn vào cái giỏ trống không. Tôi thấy hình như có những chồi non mọc lên ở nan giỏ; chúng nở tung, nảy lá khắp giỏ và biến mất. Tôi đã tỉnh rượu một chút! Còn Khin Mê-néc hắn nói dối đấy. Nói dối không mất tiền. Tôi biết hắn.
    Cho rằng câu chuyện đã đi đến chỗ xúc phạm ghê gớm, tên chủ quán bèn đưa mắt lườm ông già rồi lỉnh vào sau quầy hàng, cay đắng hỏi vọng ra:
    - Ông có cho gọi thêm gì không ạ?
    - Không. - Grây trả lời, rút tiền trong ví ra. - Đi thôi. Lê-chi-ca, cậu ở lại đây nhé và đừng nói gì cả, đến chập tối hãy về tàu. Cậu gắng tìm hiểu mọi chuyện rồi kể lại cho mình. Cậu hiểu chứ?
    - Thưa thuyền trưởng tốt bụng, - Lê-chi-ca trả lời với giọng hơi suồng sã, có lẽ vì ngấm hơi rum, - chỉ có thằng điếc mới không hiểu điều đó thôi ạ.
    - Tốt lắm. Cậu nên nhớ rằng, trong trường hợp nào cậu cũng không được nói đến mình hay nhắc đến tên mình, nghe chưa? Thôi, tạm biệt. Grây bước ra khỏi quán. Từ lúc đó anh luôn có cảm giác như phát hiện được điều gì thật khác thường, tựa hồ tia lửa trong cối thuốc súng của Béc-tôn-đơ - một trong những cú sụt lở tâm hồn mà từ đó bật lên một ngọn lửa rực sáng. ý nghĩ phải hành động ngay lập tức chi phối anh. Mãi đến khi ngồi vào thuyền, anh mới tĩnh tâm và tập trung suy nghĩ được. Anh vừa cười vừa ngả lòng bàn tay hứng ánh nắng mặt trời, như anh đã từng làm thuở bé trong hầm rượu. Sau đó anh khỏa mạnh mái chèo xuống nước, cho thuyền lướt nhanh về bến.
    Được gatgu sửa chữa / chuyển vào 13:45 ngày 02/08/2003
  3. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    IV
    Đêm trước

    Bảy năm đã trôi qua kể từ khi ông già Ê-gơn, người chuyên sưu tầm thơ ca dân gian, ngồi trên bờ biển kể cho A-xôn nghe câu chuyện về con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Trước ngày tròn bảy năm đó, A-xôn mang hàng lên cửa hiệu bán đồ chơi theo lệ mỗi tuần một lần, trở về với vẻ mặt buồn rầu. Cô phải mang hàng về. Mãi đến khi thấy trên nét mặt lo âu của cha hiện lên vẻ chờ đợi một cái gì đó xấu, xấu hơn chuyện đã xảy ra nhiều, thì cô mới bắt đầu kể lại. Đứng bên cửa sổ, ngón tay xoa xoa trên mặt kính, cô lơ đãng nhìn về phía biển. Lần này, tên chủ hiệu đồ chơi bắt đầu bằng việc giở cuốn sổ tính toán ra và chỉ cho A-xôn xem số tiền hai bố con đã lấy là bao nhiêu. Cô giật mình nhìn thấy con số đến hàng trăm. "Đây là số tiền nhà cô đã mượn từ tháng Chạp đến nay, -tên chủ hiệu nói, - còn đây, cô xem hàng của cô đã bán được bao nhiêu". Nói xong, y giơ ngón tay chỉ sang một con số khác chỉ có đến hàng chục. "Nhìn cuốn sổ đó, con vừa buồn vừa tức bố ạ. Trông mặt con thấy ông ta, thật cáu kỉnh và thô lỗ. Giá bỏ chạy được thì con thật sung sướng, nhưng nói thật là con không đủ sức nữa vì cảm thấy quá xấu hổ. Thế rồi ông ta bảo con: "Này, cô bé ạ, những thứ này chẳng lờ lãi gì nữa đâu. Bây giờ người ta đua nhau mua hàng ngoại, đâu đâu cũng bày bán đầy những hàng ngoại, thứ đồ chơi này chẳng ai mua". Ông ta nói thế, bố ạ. Ông ta còn nói nhiều nữa, nhưng con cứ rối ruột lên chẳng nhớ nữa. Chắc là ông ta cũng thấy thương hại con nên khuyên con thử đến cửa hiệu "Hội chợ trẻ em" và "Cây đèn thần của A-la-đanh". Nói xong điều chủ yếu nhất, cô gái rụt rè quay lại nhìn bố. Lông-gren ngồi, đầu cúi xuống buồn bã, bàn tay kẹp lại giữa hai đầu gối. Cảm thấy con gái đang nhìn mình, ông ngẩng đầu lên và thở dài, cố nén tâm trạng buồn lo. Cô gái chạy lại bên ông, ngồi xuống cạnh rồi đặt bàn tay nhỏ của mình xuống dưới ống tay áo da của bố. Cô ngước lên nhìn vào mặt bố, cất tiếng cười và kể tiếp với giọng cố làm như vui vẻ:
    - Không sao cả đâu bố ạ. Thế rồi con đi khỏi đấy. Con đến một hiệu to lắm, người mua tấp nập. Người ta chen lấn con ghê quá, nhưng rồi con vẫn lách qua được và đến gần người đeo kính, vận đồ đen. Con không nhớ con nói gì với ông ấy, cuối cùng ông ấy cười khẩy, lật xem các thứ trong làn của con rồi lại gói và trả lại.
    Lông-gren bực bội nghe con kể. Dường như ông đã hình dung ra cảnh con gái mình đang bối rối đứng bên quầy hàng bày đầy những thứ đắt tiền, cạnh những khách mua giàu sang. Người chủ hiệu đeo kính nọ đã trịch thượng giảng giải cho cô gái rằng ông ta sẽ phá sản nếu đi buôn những thứ đồ chơi thô sơ của Lông-gren. Ông ta ngạo mạn và nhanh nhẹn đặt lên mặt quầy hàng cho A-xôn xem những mẫu đồ chơi ngoại quốc như bộ xếp nhà, cầu xe lửa, ô-tô con, các thứ đồ chơi chạy điện, máy bay, động cơ. Những thứ hàng này màu sắc sặc sỡ, hình dáng đẹp đẽ. Theo lời ông ta thì bây giờ trẻ con chỉ muốn bắt chước những gì người lớn đang làm. A-xôn còn đi tới cửa hiệu "Cây đèn thần của A-la-đanh" và hai hàng khác nữa nhưng đều không đạt được kết quả gì. Kể xong chuyện, cô gái đi dọn bữa ăn chiều. n xong, Lông-gren uống cà-phê rồi nói:
    - Nếu bố con ta không gặp may thì tìm cách khác con ạ. Có lẽ bố lại xin xuống tàu làm việc. Xuống tàu "Phi-xơ-roi" hay tàu "Pa-léc-mô" cũng được. Tất nhiên là họ nói đúng đấy, - ông nói tiếp với giọng đầy ưu tư, tâm trí ám ảnh bởi những thứ đồ chơi, - bây giờ trẻ con không chơi mà học con ạ. Lúc nào chúng cũng học, học và chẳng bao giờ được sống cho ra hồn. Mọi chuyện là như vậy, thật đáng tiếc con ạ. Liệu con có thể sống một mình ở nhà trong thời gian một chuyến đi biển của bố được không? Để con ở nhà một mình, bố không yên tâm chút nào.
    - Con cũng có thể xin việc trên tàu cùng với bố, bố ạ, chẳng hạn như con xin bán hàng ở căng-tin.
    - Không! - Lông-gren đập mạnh tay xuống bàn. - Chừng nào bố còn sống, bố sẽ không để cho con đi làm đâu. Nhưng mà vẫn còn thời gian để lo liệu, con ạ.
    Lông-gren buồn rầu im lặng. A-xôn ngồi ghé vào ghế của bố. Lông-gren liếc nhìn, không quay đầu lại, thấy con gái sốt sắng muốn an ủi mình thì suýt bật cười. Nhưng nếu cười lúc đó có nghĩa là làm cho con gái sợ, bối rối. Cô vừa thầm thì điều gì, vừa vuốt vuốt mái tóc bạc rối bù của bố. Cô hôn lên bộ ria của bố, lấy đôi bàn tay mảnh mai bịt tai bố lại và nói:
    - Nào, bây giờ thì bố không nghe được con nói "con yêu bố" nữa đâu! Trong lúc A-xôn cố làm cho bố vui thì ông vẫn ngồi yên, chau mày lại như người nín thở vì sợ hít phải khói, nhưng nghe thấy con nói thế ông bèn bật cười.
    - Con ngoan quá. - ông bình thản nói, khẽ tát vào má con rồi đi ra bờ biển xem chiếc thuyền nhà có làm sao không. A-xôn ngồi yên lặng một lúc giữa nhà, vẻ mặt tư lự đăm chiêu. Cô nửa muốn để mặc cho tâm trí mình miên man theo đuổi những ý nghĩ buồn bã, nửa muốn đứng dậy làm những việc cần thiết trong nhà. Sau đó cô đi rửa bát đĩa, rồi xem lương ăn trong nhà còn được bao nhiêu. Cô không cân đo gì, chỉ ước tính bằng mắt cũng biết được rằng số bột còn lại may mắn mới đủ ăn đến cuối tuần, hũ đường đã cạn đến đáy, lọ đựng chè, đựng cà-phê hầu như đã rỗng không, bơ cũng hết, chỉ có túi khoai tây là còn đầy. Tiếp đó cô lau nhà sạch sẽ rồi định khâu sửa lại chiếc váy may bằng vải cũ.
    Chợt nhớ là gói vải để đằng sau gương, cô bước tới đấy lấy vải rồi nhìn mình trong gương. Trong khung gỗ, trên mặt gương sáng là hình một cô gái mảnh dẻ, tầm thước, mặc chiếc áo may bằng vải trắng rẻ tiền điểm những đốm hoa màu hồng. Chiếc khăn lụa màu xám vắt qua vai. Gương mặt cô gái trông linh hoạt, đáng yêu. Đôi mắt rất đẹp, hơi quá nghiêm nghị so với lứa tuổi của cô, phản chiếu một tâm hồn sâu sắc. Gương mặt thật là trong sáng; mỗi đường nét trên gương mặt này đều có thể thấy ở nhiều phụ nữ khác, nhưng khi hòa hợp lại bên nhau thì gương mặt cô gái trở nên đặc sắc, thật xinh đẹp. Chúng ta chỉ có thể nói được thế. Vẻ đẹp của cô không thể dùng lời mà tả được, chỉ có thể thu gọn vào một tiếng là "Tuyệt!". Cô gái trong gương bất giác cũng mỉm cười như A-xôn. Nụ cười có vẻ buồn buồn. Nhận thấy điều đó, cô bỗng cảm thấy ái ngại hệt như đang nhìn một người con gái khác. Cô áp má vào gương, nhắm mắt lại, khẽ xoa xoa tay lên gương nơi hình bóng mình vừa in. Những ý nghĩ mơ hồ dịu dàng thoáng hiện trong óc cô, cô đứng thẳng người, cười rồi ngồi xuống khâu. Khi cô gái ngồi khâu, chúng ta hãy thử nhìn cô gần hơn - vào nội tâm. Trong con người cô dường như có hai A-xôn cùng chung sống với một vẻ đẹp thật khác thường. Một A-xôn là con gái người thủy thủ, người làm đồ chơi trẻ con; một A-xôn khác lại là bài thơ sinh động với tất cả sự diệu kỳ của nhạc điệu và hình tượng, với bí quyết của những ngôn từ đứng gần nhau, cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều hỗ trợ cho nhau.
  4. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    Cô gái chỉ biết cuộc đời trong phạm vi những điều mình đã nếm trải, nhưng cô lại có khả năng nhìn thấy được ý nghĩa của một trật tự khác vượt ra ngoài những hiện tượng chung. Chẳng hạn, khi nhìn kỹ vào sự vật, chúng ta thấy ở đấy một cái gì đó không phải bằng trực giác mà bằng ấn tượng của con người. Mà đã là của con người thì thật khác nhau. Tương tự như vậy, ta cũng có thể nói rằng A-xôn đã thấy được cả những cái mà mắt thường không thấy. Thiếu đi đức tính ấy, mọi điều dễ hiểu có thể trở nên xa lạ với tâm hồn cô. Cô biết đọc và rất thích đọc sách, nhưng ngay cả khi đọc sách, cô vẫn cảm nhận được những điều đặc biệt nằm giữa những hàng chữ, như cô đã có khả năng tương tự trong cuộc sống. Thông qua tiềm thức, thông qua tâm trạng hưng phấn đặc biệt, cô đã luôn luôn phát hiện ra những điều khó tả, rất tinh tế nhưng rất hệ trọng, như thể là hơi ấm và sự trong lành. Thỉnh thoảng cô như biến thành một người khác trong hàng mấy ngày liền; sự đối lập về vật chất của cuộc đời bị sụp đổ, như sự yên tĩnh bị phá vỡ, và tất cả mọi cái cô đã thấy, đã trải qua, tồn tại ở xung quanh, trở thành tấm rèm bí ẩn trong cuộc sống hàng ngày. Nhiều lần, lòng xao xuyến, ngại ngần, cô ra bờ biển một mình ban đêm, chờ đón bình minh và quả thực có nhìn thấy con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Những giây phút ấy đối với cô thật là hạnh phúc. Nếu chúng ta khó hóa thân vào những chuyện huyền thoại bao nhiêu thì cô lại khó thoát ra ngoài quyền lực và sức quáến rũ của chúng bấy nhiêu. Những lúc khác, khi đã nghĩ lại chuyện xảy ra, cô thật lòng ngạc nhiên với chính mình, không tin những điều mình vừa tin nữa; cô mỉm cười từ giã biển cả và buồn rầu quay trở về thực tại. Giờ đây vừa ngồi khâu, cô gái vừa nhớ lại cả cuộc đời mình.
    Thật là nhiều điều tẻ nhạt và đơn giản. Cảnh hai bố con sống cô độc với cô thật nặng nề. Nhưng trong cô đã hình thành một thói quen rụt rè, một nếp hằn đau khổ, làm cho cô không sao có thể vui lên được. Dân làng giễu cợt cô và nói: "Cô ta bị tâm thần, dở người làm sao ấy!" Cô đã quen với những lời châm chọc đau đớn ấy; nhiều lần cô phải chịu những lời sỉ nhục mà sau đó ngực cô nhức nhối như bị đánh. A-xôn là một cô gái không được ưa chuộng ở làng Ca-péc-na. Tuy vậy nhiều người mơ hồ cảm thấy một cách lạ lùng rằng hình như cô được hưởng nhiều hơn người khác, có điều là bằng thứ ngôn ngữ khác. Trai làng Ca-péc-na ưa thích loại phụ nữ chắc nịch, đẫy đà, da bóng nhẫy, bắp chân trùng trục, cánh tay rắn chắc. ở đây họ ve vãn nhau bằng cách vỗ lưng, xô đẩy như ở chợ. Lối tỏ tình này hệt như tiếng rống thô lỗ. A-xôn đối xử với cái môi trường quyết liệt này như những con người có cuộc sống tinh thần tinh tế phải thích nghi với cái xã hội ma quái. Thế là trong tiếng kèn lính đều đều, nỗi buồn ngọt ngào của cây vĩ cầm không đủ sức lôi kéo đạo quân nghiêm nghị ra khỏi đội ngũ. Cô gái không đếm xỉa đến những điều ở môi trường ấy. A-xôn miên man nghĩ về cuộc sống, đôi bàn tay nhỏ khéo léo nhanh nhẹn khâu. Khi cắn chỉ, cô đưa mắt nhìn ra xa về phía trước.
    Nhưng, điều đó không ngăn cản cô khâu thẳng hàng và chính xác như trên máy khâu. Dù Lông-gren chưa về, cô cũng không thấy lo sợ gì cho cha. Thời gian gần dây, ông thường đi biển ban đêm để đánh cá hay đôi khi chỉ để hóng mát. Cô gái không sợ, vì biết rằng sẽ không thể có gì nguy hiểm xảy ra với Lông-gren được. Về phương diện này, A-xôn vẫn là cô gái bé nhỏ dạo nào cầu nguyện theo cách riêng của mình, sáng sáng thỏ thẻ: "Chào đức Chúa Trời!" và tối tối lại: "Chào tạm biệt đức Chúa!".
    Cô bé nghĩ rằng chỉ cần chào hỏi đức Chúa Trời ngắn ngủi như vậy là cũng đủ đức Chúa che chở cho cô thoát khỏi mọi điều bất hạnh. Cô đặt mình vào vị trí của đức Chúa Trời. Người luôn luôn bận bịu vì công việc của hàng triệu người, vì vậy đối với những điều u ám hằng ngày của cuộc sống, theo ý cô, phải có sự nhẫn nại tế nhị của một người khách đến chơi vào lúc nhà chủ đông người, phải biết chờ đợi chủ và ăn ở tùy theo hoàn cảnh. Khâu xong, A-xôn xếp đồ khâu lên chiếc bàn nhỏ ở góc nhà, cởi áo khoác rồi lên giường đi ngủ. Đèn đã tắt. Một lát sau, cô thấy mình chẳng buồn ngủ chút nào. Tâm trí cô minh mẫn như thể đang là giữa ban ngày, thậm chí cả màn đêm xung quanh cũng trở thành không thật; cả người, cả tâm trí cô lâng lâng, tỉnh táo. Tim cô đập nhanh như tiếng tích tắc của đồng hồ bỏ túi, dường như trái tim đang đập ngay bên gối. A-xôn bực bội trở mình luôn, khi thì tung chăn ra, khi lại khéo chăn trùm kín đầu. Cuối cùng cô nghĩ được cách làm dễ ngủ, cô tưởng tượng ra mình đang ném những hòn đá xuống nước lấp loáng ánh trăng và ngắm nhìn những gợn sóng tròn loang ra bốn phía. Dường như chỉ chờ thế, giấc ngủ mới đến. Cô mơ màng thấy hình bóng mẹ mỉm cười hiện ra ở đầu giường rồi thiếp đi trong giấc mơ đẹp về một vườn cây hoa nở, nỗi buồn, sự say mê, những bài ca và nhiều điều bí ẩn mà khi chợt tỉnh cô chỉ nhớ được làn nước xanh lấp lánh chạy từ chân lên tim, mát lạnh, khoan khoái. Thấy điều kỳ lạ như vậy, cô nán lại ít phút nữa nơi xứ sở tưởng tượng kia, rồi tỉnh hẳn và ngồi dậy. Nếu cô gái không thiếp đi được thì giấc mơ đã không đến. Một cảm giác mới mẻ, đầy vui sướng, cảm giác khao khát làm một việc gì đó đã sưởi ấm lòng cô. Cô nhìn quanh hệt như người ta thường nhìn ngôi nhà vừa dọn đến. Một ngày mới đã bắt đầu, trời chưa sáng hẳn, nhưng mọi vật chung quanh đã mờ mờ hiện ra. Phía dưới cửa sổ còn tối sẫm, nhưng phía trên đã rạng sáng.
    Xa, rất xa ngoài khung cửa sổ lấp lánh ánh sao mai. Biết rằng bây giờ không thể ngủ lại được nữa, A-xôn mặc áo vào rồi tới bên cửa sổ mở cánh cửa ra. Bên ngoài vắng lặng như tờ, dường như cảnh yên lặng ấy chỉ vừa mới tới. Những khóm cây xanh thấp thoáng; xa hơn nữa là những hàng cây đang ngủ; phảng phất mùi đất và mùi không khí ngột ngạt. Vịn tay vào phía trên khung cửa, cô gái nhìn ra ngoài và mỉm cười. Bỗng một cái gì đó, tựa một tiếng gọi xa xôi làm xao xuyến lòng cô, cô như tỉnh dậy một lần nữa và chuyển từ thực tại đã rõ ràng sang một cái gì đó hiển nhiên hơn và chắc chắn hơn. Từ giây phút đó, một cảm giác hân hoan tràn ngập lòng cô. Cũng như khi nghe người khác nói, chúng ta hiểu nhưng nếu nhắc lại những lời ấy thì chúng ta lại hiểu thêm một ý nghĩa mới hơn, khác hơn. Tâm trạng A-xôn lúc ấy tương tự như thế. Cô lấy chiếc khăn lụa mỏng tuy đã cũ nhưng rất hợp với khuôn mặt, trùm lên đầu, buộc dưới cằm rồi khóa cửa, chạy chân đất ra đường. Xung quanh vắng vẻ, trống trải, nhưng cô cảm thấy mình như là cả một dàn nhạc mà mọi người có thể nghe được. Vạn vật trở nên thân thiết với cô, làm cô vui sướng. Lớp đất bụi ấm áp mơn man bàn chân cô. Cô thở mạnh, khoan khoái. Trong ánh sáng buổi sớm mờ mờ, những mái nhà, những đám mây non đen sẫm. Những bờ rào, bụi cây, vườn rau và con đường mờ mờ ẩn hiện đang thiu thiu ngủ. Vẫn là những cảnh vật ấy nhưng giờ đây trông khác hẳn lúc ban ngày. Tất cả dường như đang ngủ mà cặp mắt vẫn mở, vụng trộm ngắm nhìn cô gái đi qua.
  5. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    Cô gái mỗi lúc một rảo bước nhanh hơn, vội vã rời khỏi làng. Bên ngoài làng Ca-péc-na là một đồng cỏ trải rộng: tiếp đấy là vùng sườn đồi ven biển mọc đầy những hàng bụi cây hồ đào, cây dẻ. Khi đã đi hết đường cái, rẽ sang con đường mòn hẻo lánh, A-xôn bỗng thấy quẩn bên chân cô con chó lông đen ức trắng, đôi mắt như biết nói. Con chó nhận ra A-xôn, nó khẽ kêu lên, uốn éo cái mình. Nó đi bên cạnh cô gái, như thỏa thuận với cô về một điều cả hai bên đều thầm hiểu. A-xôn nhìn vào đôi mắt hồ hởi của nó và tin chắc rằng nó có thể nói thành lời nếu không vì những nguyên nhân bí ẩn nào làm nó phải im lặng. Nhìn thấy cô bạn đường mỉm cười, con chó ra vẻ thích chí, ve vẩy đuôi rồi chạy lên phía trước một quãng. Nhưng bất chợt nó thản nhiên ngồi xuống, lấy chân trước gãi gãi vào bên tai vừa bị con bọ nào cắn, rồi sau đó quay trở lại phía làng. A-xôn đi vào một bãi cỏ cao đầy sương, đôi tay vuốt nhẹ trên những chùm hoa dại, miệng mỉm cười. Cô chăm chú nhìn vào gương mặt độc đáo của những bông hoa, vào những thân cành mảnh dẻ đan vào nhau. Cô dường như nhận ra những dáng vẻ khác nhau của con người - những điệu bộ, sự cố gắng, những cử động, những đường nét và những cái nhìn.
    Lúc này cô sẽ không ngạc nhiên nếu như gặp đám rước của bầy chuột đồng, vũ hội của đám chuột vàng, hay trò tiêu khiển thô lỗ của con nhím đi nạt nộ chú lùn đang ngủ. Và đúng là có một chú nhím lông xám chạy ra trên con đường mòn trước mặt A-xôn, giận dữ kêu lên "phúc... phúc..." như người đánh xe làu bàu với khách qua đường. A-xôn nói với tất cả những gì cô gặp và thông cảm.
    "Chào anh, anh bạn bị đau", - cô nói với cây lưỡi đòng thân bị sâu khoét thành lỗ rộng. "Về nhà mà ngồi nhé", - cô nói với bụi cây nhỏ mọc lên giữa đường mòn, khẽ móc vào nếp váy cô. Một con cánh cam to đậu trên đài hoa chuông làm cả cành hoa trĩu xuống mà nó vẫn cố trèo lên. A-xôn nói với cành hoa: "Hất ông khách béo mập ấy xuống đi, cậu ạ?.
    Và con cánh cam không bám được vào hoa nữa, nó xòe cánh vù bay sang bên cạnh. Lòng đầy rộn ràng, xôn xao, cô đã đến bên sườn đồi thoai thoải. ẩn mình giữa những lùm cây che khuất bãi cỏ, cô cảm thấy mình rơi vào một nơi xung quanh toàn là bè bạn thân thiết - những hàng cây biết trò chuyện với cô bằng thứ giọng trầm trầm. Đó là các cây cổ thụ to lớn, xen lẫn cây dẻ, cây kim ngân. Cành cây sà xuống, chạm vào tán lá của các bụi thấp. Trên những cành lá sum suê hiện ra những chùm hoa trắng ngần tỏa hương thơm ngào ngạt pha lẫn mùi hương của nhựa thông và sương sớm. Con đường mòn nhỏ đầy những rễ cây ăn nổi lúc võng xuống lúc thoai thoải dốc lên cao. A-xôn cảm thấy mình như đang ở nhà, cô lắc nhẹ những cành lá xòa thấp, miệng tươi cười chào hỏi từng cái cây như chào người thật. Cô vừa đi vừa nói: "Đây một anh bạn, còn đây lại một anh bạn khác, các bạn của tôi đông quá! Tôi đang đi, đang vội đây, các bạn để tôi đi nhé. Tôi nhận ra các bạn, tôi nhớ và yêu quý tất cả các bạn". "Các bạn" trang trọng vuốt ve cô, cành lá kẽo kẹt đáp lại cô. Chân lấm đất, cô bước ra bờ vách giáp biển, đứng ngay sát mép, thở gấp vì đi nhanh. Một niềm tin sâu xa, mãnh liệt bỗng tràn ngập lòng cô. Cô đưa mắt nhìn ra phía chân trời. Sóng biển rì rào nhẹ vỗ vào bờ khiến cô quay trở lại, kiêu hãnh vì một niềm phấn hứng thanh tao. Lúc ấy, biển được viền bằng một sợi chỉ vàng dọc theo đường chân trời vẫn còn đang ngủ. Chỉ có nước trong vụng dưới bờ vách là đang nhịp nhàng dâng lên, hạ xuống.
    Gần bờ, màu thép của đại dương đang ngủ đã chuyển sang xanh thẫm và đen. Sau sợi chỉ vàng đó, bầu trời bừng sáng, tỏa ánh hòa quang như một chiếc quạt khổng lồ. Mây trắng ửng hồng. Lấp lánh trong mây là những màu sắc mảnh mai, tuyệt đẹp. Xa xa, một vệt trắng như tuyết rung rinh trải dài trên nền tối sẫm. Bọt nước gợn sáng. Một vết nứt đỏ rực bừng lên giữa sợi chỉ vàng, hắt xuống đại dương một làn nước lăn tăn đỏ thắm, lan dần đến chân A-xôn. Cô gái ngồi xuống, co chân lại, tay ôm gối. Cô chăm chú nhìn biển, nhìn về phía chân trời với cặp mắt mở to của trẻ thơ, không còn chút gì là của người lớn. Những gì cô đã nôn nao chờ đợi từ bao lâu nay dường như đang diễn ra ở nơi xa tít tắp ngoài kia.
    Cô nhìn thấy giữa mặt biển mênh mông kia như có một ngọn đồi ngầm dưới nước; những loài cây leo vươn lên mặt nước để lộ những bông hoa lạ tỏa sáng giữa đám lá tròn mọc từ thân cây. Những cành lá phía trên lấp loáng trên mặt biển khơi. Với những ai không phải là A-xôn thì đó chỉ là những làn sóng xôn xao, lấp loáng. Từ giữa đám cây kỳ lạ ấy, một con tàu hiện lên rồi dừng lại ngay giữa vừng đông. Từ xa, trông nó hệt như một đám mây. Con tàu tỏa niềm vui, bơi đi, hắt lên ánh đỏ như rượu vang, như hoa hồng, như máu, như làn môi, như nhung thắm và như ngọn lửa đỏ tươi. Con tàu đi thẳng về phía A-xôn. Sóng nước rẽ ra dưới mũi tàu, bọt tung trắng xóa. Cô gái đứng dậy áp tái lên ngực, mặt biển chỉ còn lăn tăn gợn sóng. Mặt trời hiện lên, ánh ban mai rực rỡ xua đi tấm màn phủ che vạn vật đang yên nghỉ thư thái trên mặt đất còn ngái ngủ. Cô gái thở một hơi thật sâu, rồi quay nhìn xung quanh. Tiếng nhạc đã tắt, nhưng A-xôn còn bàng hoàng trong dư âm của dàn đồng ca. Cảm giác ấy dần dần mất đi rồi biến thành ký ức, và cuối cùng chỉ còn là sự mỏi mệt, rã rời. Cô nằm xuống bãi cỏ, nhắm mắt lại, khoan khoái thiếp đi trong một giấc ngủ mê mệt, không mơ màng, không mộng mị. Cô tỉnh dậy vì có con ruồi bò trên bàn chân. Cô co chân lại và chợt tỉnh. Cô ngồi dậy cặp lại mái tóc rối, và vì thế mà cảm thấy trên ngón tay út mình có vật gì vương vướng. Cô tưởng có cọng cỏ nào mắc vào kẽ tay nên duỗi thẳng ngón ra cho nó rơi, nhưng vẫn thấy vướng. Cô bèn đưa tay lên nhìn và liền kinh ngạc đứng bật dậy: trên ngón tay cô là chiếc nhẫn ngọc lấp lánh - chiếc nhẫn của Grây. Chiếc nhẫn nằm trên tay mà cô có cảm giác như đó không phải tay mình mà là của ai khác.
    "Ai đùa thế này? Ai đùa thế? - Cô kêu lên. - Lẽ nào mình đang ngủ? Hay là mình nhặt được ở đâu rồi quên khuấy đi?"
    Tay trái cầm lấy bàn tay phải có nhẫn, cô ngơ ngác nhìn xung quanh như muốn gạn hỏi biển cả và những lùm cây xanh, nhưng không có tiếng nào đáp lại, không có ai nấp trong bụi rậm. Ngoài biển xanh lấp loáng ánh mặt trời cũng không có dấu hiệu nào. Gương mặt cô đỏ ửng lên. Trái tim đã mách bảo cô là "có". Không có lời giải đáp nào cho sự việc vừa xảy ra, nhưng cô đã tìm được lời giải đáp bằng cảm giác lạ lùng mà không cần phải viện tới lý lẽ nào, cô thấy chiếc nhẫn trở nên gần gũi, thân thiết đối với mình. cô run rẩy tháo chiếc nhẫn ra, để trong lòng bàn tay khum lại mà nhìn ngắm với cảm giác ngây ngất, say sưa, rộn ràng, giục giã, với niềm tin gần như bí ẩn của tuổi trẻ. Thế rồi cô để chiếc nhẫn vào trong áo lót, úp mặt vào lòng bàn tay, một nụ cười không sao ngăn lại được nở trên môi cô. Cô cúi đầu chậm rãi bước về làng. Vậy là Grây và A-xôn đã tìm thấy nhau một cách tình cờ - như những người biết đọc, biết viết thường nói - tìm được nhau vào một sớm mùa hè đầy những điều không sao tránh khỏi.
  6. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    V
    Chuẩn bị chiến đấu

    Grây bước lên boong tàu "Bí mật". Anh đứng một lúc, đưa tay vuốt tóc từ đằng sau ra trước trán - một thói quen anh thường làm mỗi khi trong lòng hết sức bối rối. Vẻ lơ đãng hiện lên trên gương mặt anh với nụ cười ngây ngô của người mộng du. Pan-ten, người trợ lý của anh lúc ấy vừa đi qua, tay cầm đĩa cá rán. Nhận thấy vẻ mặt lạ lùng của thuyền trưởng, Pan-ten rụt rè hỏi:
    - Anh bị ngã ở đâu phải không, thưa thuyền trưởng? Anh đi đâu về thế? Gặp chuyện gì vậy? Thật ra thì đó hoàn toàn là chuyện của anh thôi. Có một vị thầu khoán thuê tàu chúng ta chở một món hàng hời lắm, lại còn hứa có tiền thưởng nữa. à mà anh làm sao thế?...
    - Cảm ơn anh, - Grây vừa đáp vừa thở mạnh như người vừa được cởi trói. - Chính là tôi đang cần được nghe những lời nói đơn giản và thông minh của anh. Đó như là một thứ nước lạnh. Pan-ten, anh hãy báo cho mọi người biết rằng hôm nay chúng ta sẽ nhổ neo và cho tàu ghé vào cửa sông Li-li-a-na cách đây mười hải lý. Dòng sông này có nhiều doi đất ngầm rất nông. Muốn vào vùng đó chỉ có thể đi từ ngoài biển đến. Anh đi lấy bản đồ đi. Không cần đem theo hoa tiêu. Có thế thôi... Món hàng chở hời ấy đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Anh có thể nói lại với ông thầu khoán như thế. Tôi đi lên phố bây giờ đây và sẽ ở lại đó đến tối.
    - Có chuyện gì xảy ra vậy?
    - Hoàn toàn không có gì cả, Pan-ten ạ. Tôi muốn anh lưu ý đến mong muốn của tôi là không phải nghe hỏi thêm điều gì. Khi có dịp, tôi sẽ nói cho các anh nghe chuyện là thế nào. Anh hãy nói với các thủy thủ rằng tàu cần được sửa chữa mà xưởng đóng tàu ở đây thì đang bận.
    - Rõ! - Pan-ten đáp lại như máy khi Grây đã quay lưng đi. - Mọi mệnh lệnh của anh sẽ được thi hành. Mặc dù các yêu cầu của thuyền trưởng rất rõ ràng, người trợ lý vẫn tròn xoe mắt ngạc nhiên và vội vã cầm đĩa cá rán quay về buồng của mình, miệng lẩm bẩm:
    "Này, Pan-ten, mày bị lúng túng rồi đấy. Có phải thuyền trưởng định thử đi buôn lậu một chuyến không? Chẳng lẽ con tàu này lại sắp treo cờ đen của bọn cướp biển sao?"
    Đến đây Pan-ten đành chịu bó tay trước những dự đoán quá kinh khủng. Trong khi Pan-ten đang ngấu nghiến ăn món cá thì Grây xuống buồng mình lấy tiền, đi thuyền qua vịnh nhỏ rồi đến khu buôn bán của thị trấn Li-xơ. Lúc này anh hành động bình thản mà cương quyết, anh biết hết những gì sẽ xảy ra trên con đường kỳ lạ sắp tới. Mỗi hành động, mỗi ý nghĩ đều sưởi ấm anh bằng khoái cảm tinh tế. Dự định của anh hình thành trong nháy mắt và rất cụ thể.
    Đối với cuộc đời anh, dự định ấy khác nào những nhát dao sắc sảo, chính xác cuối cùng của nhà điêu khắc mà sau đó là khối đá hoa cương bỗng biến thành một pho tượng tuyệt vời. Grây đi đến ba cửa hiệu, anh rất coi trọng việc chọn được loại hàng thật vừa ý cả về màu sắc lẫn phẩm chất. Ở hai cửa hiệu đầu, người ta đưa cho Grây xem thứ lụa màu sặc sỡ thích hợp với loại thị hiếu dễ dãi. Ở cửa hiệu thứ ba, anh thấy nhiều loại vải đẹp khác nhau. Viên chủ hiệu tíu tít, hớn hở lấy ra các loại vải bị ế, còn Grây thì nghiêm trang như một nhà giải phẫu. Anh kiên nhẫn chọn các súc vải, xếp lại một bên rồi lại giở xem nhiều loại vải màu đỏ đến nỗi cả quầy hàng rực hồng lên. ánh hồng in lên tay, lên mặt anh, hắt xuống cả mũi giày. Đứng giữa những dải lụa bồng bềnh, Grây phân biệt rõ các màu: hồng nhạt, hồng đậm, màu hoa anh đào, màu đỏ da cam, màu huyết dụ. ở đây có đủ loại màu na ná nhau nhưng thực ra lại khác nhau, đại loại như những từ đồng nghĩa: "kỳ diệu", "tuyệt diệu", "tuyệt đẹp", "hảo hạng". Những sắc màu ấy biểu lộ những điều mà lời nói không thể nào diễn tả nổi. Nhưng thuyền trưởng Grây vẫn chưa tìm được vải màu ưng ý. Viên chủ hiệu đưa ra không ít loại vải đẹp nhưng vẫn chưa làm Grây hài lòng. Cuối cùng một thứ lụa làm khách hàng sững sờ chú ý. Anh ngồi xuống chiếc ghế bành đặt gần cửa sổ, kéo dải lụa phủ lên đầu gối mà ngắm nhìn không nhúc nhích, mồm ngậm tẩu thuốc đang cháy dở. Thứ lụa đó có màu rực như nắng hồng buổi sớm, tỏa ra niềm vui rộn ràng, cao quý, kiêu hãnh. Đó chính là thứ màu mà Grây cần tìm. Nó không có những sắc thái pha tạp của màu lửa, màu hoa anh túc, không có những hàm ý của màu hoa vi-ô-lét hoặc màu hoa cà, cũng không có sắc xanh hay đen có thể làm cho ta nghi ngờ. Nó chỉ thắm hồng lên như một nụ cười duyên dáng phản ánh tâm hồn. Grây say sưa ngắm thứ lụa tuyệt vời đó đến nỗi quên cả viên chủ hiệu đang chờ sau lưng với vẻ chăm chú của con chó săn vừa vớ được mồi ngon. Chờ một lúc, viên chủ hiệu sốt ruột nhắc khéo Grây bằng cách xé xoạt một mảnh lụa nhỏ.
    - Thôi, không cần cho xem hàng mẫu nữa. - Grây đứng dậy nói. - Tôi sẽ lấy thứ lụa này.
    - Ông lấy cả súc vải này chứ? - Viên chủ hiệu hỏi, giọng lộ vẻ nghi ngờ. Nhưng Grây im lặng nhìn vào trán y, điều này làm cho y trở nên mạnh dạn hơn. - Vậy ông lấy bao nhiêu mét? Grây gật đầu ra hiệu cho y chờ một lát. Anh lấy bút chì ra tính toán số lượng vải cần đến.
    - Hai nghìn mét. - Grây nói, mắt hồ nghi nhìn lên quầy hàng. - Phải rồi, không quá hai nghìn mét.
    - Hai? - Chủ hiệu giật thót người, bật hỏi lại. -Hai nghìn ư? Hai nghìn mét? Xin mời ông ngồi, thưa thuyền trưởng. Ông có muốn xem thêm hàng mẫu nữa không ạ? Xin tùy ông. Diêm đây ạ, còn đây là thuốc lá thượng hảo hạng xin mời ông dùng thử. Hai nghìn... mỗi mét giá... Chủ hiệu xướng giá tiền chẳng lấy gì làm thật thà cho lắm. Nhưng Grây cũng chẳng buồn mặc cả với y, anh đang hài lòng với thứ vải mình vừa chọn được. Chủ hiệu tiếp tục nói:
    - Không chê vào đâu được, chỉ có bản hiệu đây mới có thứ hàng đó đấy ạ.
    Để cho y tỏ hết sự hân hoan xong, Grây thỏa thuận với y về phương thức lấy hàng. Anh thanh toán với y mọi khoản phí tổn rồi cáo từ. Chủ hiệu tiễn anh với vẻ trịnh trọng như tiễn một hoàng đế Trung Hoa.
    Vào lúc ấy bên kia đường gần cửa hiệu vừa rồi, có một nhạc công lang thang đang bắt cây đàn vi-ô-lông-xen của mình phát ra âm thanh buồn buồn tha thiết. Bạn anh, một người thổi sáo, cũng đang hòa cùng anh bài ca giản dị, du dương. âm điệu bản đàn tản ra trong cái nắng oi bức của ngày hè và vọng đến tai Grây. Anh hiểu ngay rằng mình phải làm điều gì. Nói chung là vào những ngày ấy anh đang sống trong trạng thái tinh thần phấn chấn, trạng thái cho phép anh nhận ra mọi hàm ý, mọi điều mách bảo của thực tiễn. Anh nghe thấy những âm thanh bị át đi trong tiếng xe cộ qua lại ồn ào, và theo tính cách riêng của anh, tiếng nhạc ấy gợi cho anh bao ấn tượng và suy nghĩ quan trọng. Anh cảm thấy những điều anh nghĩ sẽ diễn ra tốt đẹp. Đi qua một ngõ hẹp, anh bước vào cổng ngôi nhà có mấy nhạc công đang biểu diễn. Lúc này, họ đã sắp đi nơi khác. Người thổi sáo, dáng cao cao, đang ngả mũ ngượng ngùng chào cám ơn những ai vừa ném tiền xuống qua cửa sổ. Người kéo vi-ô-lông-xen để đàn dựa vào khuỷu tay, một tay đưa lên lau mồ hôi trán, đang chờ bạn.
  7. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    - Trời, anh Xim-me đấy à! - Grây nói với anh ta, nhận ra đó là người thường kéo vi-ô-lông rất hay, tối tối vẫn mua vui cho đám thủy thủ - khách hàng của quán "Tiền dành cho rượu" trên bến cảng.
    - Sao anh lại bỏ đàn vi-ô-lông?
    - Thưa thuyền trưởng kính mến, - Xim-me đáp lại với giọng đầy hãnh diện, - tôi có thể chơi được mọi thứ đàn. Hồi còn trẻ tôi làm chân nhạc công hề trong rạp xiếc. Bây giờ tôi thèm được làm nghệ thuật một cách tử tế, và tôi buồn rầu nhận thấy rằng tôi đã tự hủy hoại tài năng của mình. Bởi vậy bây giờ do chút tham lam muộn mằn, tôi yêu một lúc hai thứ đàn: đàn vi-ô-lông và đàn vi-ô-lông-xen. Ban ngày thì chơi đàn vi-ô-lông-xen, buổi tối thì chơi vi-ô-lông, cũng như thể tôi than khóc cho tài năng đã chết. Thuyền trưởng có định thết anh em bữa rượu nào không? Vi-ô-lông-xen là cô Các-men của tôi. Còn vi-ô-lông là...
    - Là A-xôn. - Grây nói tiếp. Xim-me không nghe rõ lời Grây.
    - Phải rồi, - Xim-me gật gù, - xô lô bằng kèn hơi hay đánh chũm chọe một mình là một việc hoàn toàn khác. Nhưng mà chuyện đó thì liên quan gì đến tôi kia chứ? Cứ để kệ cho các anh hề trong nghệ thuật muốn làm gì thì làm. Còn tôi, tôi bao giờ cũng tin rằng các nàng tiên đã chọn vi-ô-lông và vi-ô-lông-xen làm chỗ nghỉ.
    - Thế trong cây sáo của tớ thì thần nào nghỉ hở ông bạn? - Người thổi sáo vừa tiến lại gần vừa hỏi. Đó là một chàng trai cao lớn, có đôi mắt giống mắt cừu, màu xanh, và bộ râu vàng.
    - Nào trả lời đi.
    - Tùy theo mức độ thứ rượu mà cậu uống từ sáng tới giờ. Trong cây sáo của cậu khi thì có chim muông, khi thì lại chỉ toàn hơi men. Thưa thuyền trưởng, đây là anh bạn Đu-xơ của tôi. Tôi đã nhiều lần kể cho anh ta nghe về thuyền trưởng, một người tiêu tiền như nước mỗi khi uống rượu. Và thế là anh ta cũng mê thuyền trưởng lắm đấy.
    - Phải đấy, - Đu-xơ nói, - tôi rất thích những cử chỉ hào hiệp. Nhưng mà tôi là kẻ khôn vặt đấy, đừng có tin vào những lời nịnh bợ của tôi.
    - Thế này, - Grây vừa nói vừa cười, - tôi chỉ còn rất ít thời gian mà việc này thì lại cần gấp. Tôi sẽ tạo cho các bạn một cơ hội kiếm tiền kha khá đấy. Các bạn hãy tập hợp một dàn nhạc nhưng đừng có mời những anh chàng ăn vận chải chuốt có vẻ mặt trang nghiêm khô khan như kẻ không hồn, những kẻ khi chơi đàn thì quên hết phần hồn của âm nhạc, chỉ làm nơi tiêu biểu trở nên buồn tẻ bằng những tiếng ồn quái gở. Hãy tập hợp những ai biết làm rung động tâm hồn mộc mạc của những chị nấu bếp và những anh bồi. Hãy tìm những nhạc công lang thang như các bạn. Biển cả và tình yêu không chịu nổi những kẻ cầu kỳ. Tôi sẵn sàng ngồi uống rượu với các bạn bây giờ, không phải chỉ một vài chai, nhưng tôi phải đi đằng này ngay. Tôi bận nhiều việc lắm. Các bạn hãy cầm món tiền này và hãy uống rượu mừng cho chữ "A!" Nếu các bạn đồng ý với đề nghị của tôi thì buổi tối hãy kéo nhau xuống con tàu "Bí mật" của tôi, hiện đang đậu ở cách cái đập trước mặt không xa.
    - Xin vâng! - Xim-me reo lên. Anh biết rằng Grây bao giờ cũng trả công hậu hĩ như một ông vua.
    - Đu-xơ, cậu hãy cúi chào và đồng ý, hãy tung mũ lên mà mừng đi! Thuyền trưởng Grây muốn cưới vợ đấy!
    - Phải rồi, - Grây bình tĩnh đáp, - mọi chi tiết tôi sẽ nói thêm khi chúng ta ở trên tàu. Còn các bạn...
    - Uống rượu mừng cho chữ "A" - Đu-xơ hích khuỷu tay vào Xim-me, nháy mắt với Grây.
    - Nhưng... trong bảng chữ cái... còn nhiều vần nữa cơ mà! Thuyền trưởng cố gắng cho anh em uống rượu đến vần cuối cùng... Grây đưa cho hai người một món tiền. Hai nhạc công đi khỏi.
    - Lúc ấy Grây ghé vào một cửa hiệu trả một món tiền lớn để thuê làm gấp cho anh một việc bí mật trong thời gian sáu ngày. Khi Grây trở về tàu của mình thì người của cửa hiệu cũng đã tới đó. Đến tối, lụa được chất lên tàu. Năm người thợ làm buồm mà Grây thuê đã ngồi bên đám thủy thủ. Lê-chi-ca vẫn chưa về, dàn nhạc chưa tới. Trong khi chờ đợi bọn họ, Grây đến nói chuyện với Pan-ten. Cần để ý rằng trong mấy năm liền, Grây đã đi biển với một số thủy thủ nhất định. Dạo đầu họ rất ngạc nhiên trước những quyết định thất thường của Grây, khi thì cho tàu chạy những chuyến bất ngờ, khi thì cho tàu dừng lại - có khi hàng tháng - ở những nơi vắng vẻ nhất, ít tính chất buôn bán nhất. Nhưng rồi dần dần họ quen với tính nết đó của Grây. Nhiều lần anh cho tàu chạy không, từ chối nhận chở hàng trả giá hời chỉ vì thứ hàng đó anh không thích. Không ai thuyết phục được anh nhận chở xà phòng, đinh, phụ tùng máy móc, hay nói gọn lại là những gì chất đống trong khoang tàu và chỉ gợi những cảm giác đơn điệu về sự cần thiết buồn tẻ. Nhưng anh sẵn sàng chở hoa quả, đồ sứ, súc vật, hương liệu, chè, thuốc lá, cà-phê, vải lụa, những giống cây quý hiếm như dừa, cọ, đàn hương. Những thứ hàng đó thích hợp với trí tưởng tượng của anh, thường tạo ra khung cảnh thú vị. Vì vậy, không có gì lạ khi những thủy thủ của con tàu "Bí mật", hấp thụ tinh thần độc đáo đó, nhìn những con tàu chỉ chuyên lo kiếm lời bằng cặp mắt khinh thường. Tuy vậy, đến lần này, Grây vẫn đọc được nhiều câu hỏi trên nét mặt các thủy thủ. Cả đến người thủy thủ ngu dốt nhất cũng biết rất rõ rằng hoàn toàn không cần phải tiến hành chữa tàu ở một vùng cửa sông có rừng cây như vậy. Tất nhiên là Pan-ten đã thông báo với họ những mệnh lệnh của Grây. Khi thuyền trưởng đến chỗ anh thì anh đang hút tới điếu xì-gà thứ sáu, đi đi lại lại trong buồng, mụ người vì khói thuốc và vấp cả vào ghế. Trời đã về chiều; một dải ánh sáng màu vàng xuyên qua cánh cửa sổ để mở làm chiếc lưỡi trai ở mũ thuyền trưởng lóe sáng lên.
    - Tất cả đã chuẩn bị xong, thưa thuyền trưởng. - Pan-ten nói, vẻ không vui. - Nếu anh muốn, thì có thể cho nhổ neo ngay.
    - Pan-ten ạ, không có gì bí mật trong chuyện tôi đang làm. Ngay sau khi chúng ta thả neo xuống dòng sông Li-li-a-na, tôi sẽ kể hết mọi chuyện. Và lúc ấy anh sẽ không phải tốn nhiều diêm thế để hút thứ xì-gà tồi ấy. Thôi, anh cho kéo neo lên thôi. Pan-ten hơi lúng túng nhếch mép cười, gãi gãi lông mày.
    - Tất nhiên là như vậy, - anh nói, - mà tôi cũng có làm sao đâu. Khi Pan-ten đã đi rồi, Grây ngồi lại một lúc, nhìn chăm chăm về phía cửa hé mở, rồi anh trở về phòng mình. ở đây, lúc thì anh ngồi, lúc ngả lưng xuống giường, lúc lắng nghe tiếng dây xích buộc neo đang kéo lên kêu loảng xoảng. Anh sửa soạn đi lên boong tàu nhưng rồi lại ngập ngừng nghĩ ngợi và quay lại bên bàn, lấy đầu ngón tay vạch một đường thẳng lên mặt khăn trải bàn. Tiếng đập mạnh vào cửa làm anh chợt tỉnh, anh vặn quả đấm cửa, và Lê-chi-ca vào. Anh thủy thủ thở hổn hển, đứng sững lại với vẻ mặt của người phi báo tin hoãn cuộc hành hình.
    - "Hãy bay đi ngay, Lê-chi-ca!" - tôi cứ tự bảo như vậy, ngay từ lúc còn đứng ở chỗ cái đập, nhìn thấy thủy thủ tàu ta đang hò nhau kéo neo lên. Mắt tôi tinh như mắt chim ưng ấy. Thế là tôi vội "bay" xuống thuyền; tôi thở hồng hộc vào người chèo thuyền đến nỗi ông ta toát cả mồ hôi vì lo quá. Thưa thuyền trưởng, chẳng lẽ anh muốn quẳng tôi lại trên bờ sao?
    - Lê-chi-ca, - Grây vừa nói vừa nhìn kỹ vào đôi mắt đỏ ngầu của người thủy thủ, - tôi chờ anh gần hết buổi sáng rồi. Anh đã giội nước lạnh lên gáy cho tỉnh rượu chưa đấy?
    - Giội rồi. Không nhiều bằng số rượu đã uống vào bụng, nhưng đã giội. Mọi việc đã làm xong.
    - Anh nói xem nào.
    - Không cần phải nói đâu, thưa thuyền trưởng. Đây, tất cả tôi đã viết vào đây rồi. Anh cầm lấy mà xem. Tôi đã cố lắm đấy. Tôi đi đây.
    - Đi đâu?
    - Nhìn mắt anh, tôi cũng biết anh đang trách tôi còn giội ít nước lạnh lên gáy mà.
  8. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    Anh ta quay đi rồi ra khỏi phòng với dáng đi lạ lẫm của người mù. Grây lật tờ giấy ra, những dòng chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, xiêu vẹo, Lê-chi-ca viết thế này:
    "Theo lệnh đã giao, sau lúc năm giờ tôi đi ra ngoài đường làng. Nhà cô ấy có mái màu xám, có hai cửa sổ mỗi bên, cạnh nhà có vườn rau. Cô gái đi ra khỏi nhà hai lần: một lần đi lấy nước, một lần đi lấy vỏ cây đun bếp. Đến lúc trời tối, tôi có ghé mắt vào cửa sổ nhưng không nhìn thấy gì vì cửa sổ có rèm che".
    Sau đó Lê-chi-ca ghi tiếp vài câu về đặc điểm gia đình chắc là thu lượm được qua câu chuyện bên bàn rượu, bởi vì bất ngờ cuối mảnh giấy có câu: "Tôi đã phải chi một ít tiền của mình". Nhưng cốt lõi của những điều Lê-chi-ca viết lại chỉ nói lên những cái chúng ta đã biết qua chương đầu cuốn sách này. Grây nhét mảnh giấy vào ngăn bàn, huýt sáo gọi người trực nhật lại và bảo anh ta đi tìm Pan-ten. Nhưng người đến không phải là trợ lý của anh mà lại là thủy thủ trưởng Át-vút, vừa đi vừa kéo ống tay áo xuống. Anh ta nói:
    - Chúng tôi đã nhổ neo thì Pan-ten bảo đến gặp anh để xin ý kiến. Pan-ten đang bận: anh ta đang phải đối phó với một đám người mang kèn trống và vi-ô-lông. Anh gọi họ lên tàu à? Pan-ten mời anh đến ngay, một mình anh ta không biết xoay xở thế nào.
    - Phải đấy,Át-vút ạ, - Grây nói, - đúng là tôi đã gọi các nhạc công ấy đấy. Anh hãy bảo họ tạm vào buồng thủy thủ đã, rồi sẽ thu xếp chỗ cho họ sau. Át-vút này, anh hãy nói với họ và anh em thủy thủ rằng mười lăm phút nữa, tôi sẽ lên boong. Cứ tập hợp trước ở đấy đi, anh và Pan-ten chắc sẽ làm theo lời tôi.
    Át-vút rướn lông mày bên trái lên, đứng nghiêng người ở chỗ cửa ra vào rồi đi khỏi. Grây úp mặt vào lòng bàn tay hơn mười phút liền. Anh không chuẩn bị gì mà cũng không dự tính điều gì, anh chỉ muốn im lặng suy tưởng. Trong lúc ấy, mọi người sốt ruột chờ anh với vẻ tò mò, phỏng đoán. Anh bước ra và nhìn thấy trên gương mặt họ vẻ chờ đợi những điều gì thật khó tin. Nhưng vì anh coi mọi chuyện đang xảy ra là hoàn toàn bình thường, nên anh cảm thấy hơi bực mình khi những người khác lại băn khoăn như vậy.
    - Không có gì đặc biệt, các bạn ạ, - Grây nói và ngồi xuống bậc thang, - chúng ta sẽ thả neo ở vùng cửa sông cho đến khi thay hết vải buồm. Các bạn đã thấy người ta đem lụa đỏ lên tàu chúng ta đấy. Dưới sự chỉ dẫn của ông Bơ-len, chúng ta sẽ làm những cánh buồm mới cho tàu "Bí mật". Sau đó chúng ta sẽ lại nhổ neo. Đi đâu... thì tôi chưa nói, nhưng dù sao thì cũng không xa đây lắm. Tôi sẽ cho tàu đến chỗ vợ tôi. Cô ta chưa phải là vợ tôi, nhưng sẽ là vợ tôi. Tôi cần có con tàu với cánh buồm đỏ thắm để cho cô có thể nhận ra chúng ta từ đằng xa, như đã thỏa thuận trước với cô ấy. Đấy, tất cả là như thế. Các bạn thấy chưa, ở đây chẳng có gì là bí mật cả. Thôi, không cần phải nói gì thêm về chuyện đó nữa.
    - Phải rồi. - Át-vút nói. Qua vẻ mặt tươi cười của các thủy thủ, anh nhận thấy họ bối rối một cách thú vị và không dám nói gì. - Thưa thuyền trưởng, hóa ra chuyện là như vậy... Tất nhiên chúng tôi không phải là người xét đoán về chuyện đó. Anh muốn thế nào thì sẽ như thế. Tôi xin chúc mừng anh.
    - Cám ơn anh! Grây bắt chặt tay người thủy thủ trưởng, anh này bóp lại mạnh đến nỗi Grây phải rút tay ra. Tiếp đó các thủy thủ lần lượt đi qua trước mặt Grây, nhìn anh với cái nhìn ấm áp rụt rè, ấp úng chúc mừng anh. Không ai hò hét, làm ồn -các thủy thủ cảm thấy trong câu nói ngắt quãng của thuyền trưởng một cái gì đó không hoàn toàn bình thường.
    Pan-ten thở dài khoan khoái và vui ra mặt - cảm giác nặng nề khó hiểu ban nãy đã tan biến. Chỉ có một anh thợ mộc trên tàu là tỏ ra không thích thú, anh ta uể oải bắt tay Grây và cau có hỏi:
    - Sao thuyền trưởng lại nghĩ ra chuyện như vậy?
    - Thì cũng giống như anh bổ rìu xuống, thế thôi. - Grây nói. - Xim-me này, anh dẫn dàn nhạc của anh lại đây xem nào. Xim-me vỗ tay vào lưng từng người rồi đẩy lên trước mặt Grây tất cả bảy người ăn mặc rất lôi thôi.
    - Đây, - Xim-me nói, - đây là anh thổi kèn tơ-rôm-bôn, không phải thổi mà là gào thét như súng đại bác. Hai cậu trai trẻ không râu này thổi kèn đồng, nghe họ thổi thì chỉ muốn đi đánh nhau ngay. Đây là người thổi coóc-nê-pít-tông, còn đây là cây vi-ô-lông thứ hai. Tất cả đều có khả năng hòa tấu rất ăn với tiếng đàn của tôi. Còn đây là nhân vật chủ chốt của dàn nhạc chúng tôi - anh Phơ-rít chuyên đánh trống. Mấy anh đánh trống thường có vẻ mặt ủ ê, nhưng anh Phơ-rít đây thì bao giờ cũng gõ trống rất say sưa. Trong tiếng trống của anh có cái gì đó cởi mở, thẳng thắn như cây dùi gỗ của anh. Mọi việc như thế là được rồi chứ, thưa thuyền trưởng?
    - Tuyệt lắm! - Grây nói. - Tất cả các anh sẽ được thu xếp chỗ ở trong khoang tàu, những chỗ đó lần này sẽ dùng để chở những thứ "hàng" đạc biệt, đó là các điệu nhạc khác nhau từ a-đa-giô, xkét-xô đến phoóc-tít-xi-mô. Thôi, cho giải tán. Pan-ten, anh cho cởi dây neo ra, cho tàu đi thôi. Hai giờ sau tôi sẽ thay phiên cho anh.
    Hai giờ sau đó anh cũng không chú ý đến bởi vì chúng cùng hòa vào thứ âm nhạc nội tâm đang bám sát tâm trí anh như mạch đập không ngừng trong huyết quản. Anh chỉ nghĩ về một điều, chỉ muốn có một điều, chỉ hướng vào một đích. Là người hành động, anh tưởng tượng ra trước cả chuỗi sự việc sẽ xảy ra. Anh chỉ tiếc rằng không thể điều khiển những sự việc đó một cách đơn giản, nhanh chóng như điều khiển quân cờ. Vẻ bên ngoài bình thản của anh không biểu lộ sự căng thẳng của tình cảm, tiếng âm vang của nó khác nào tiếng chuông lớn gióng lên ở phía trên đầu, lan rất nhanh khắp cơ thể anh như một tiếng rên làm nhức óc. Điều này cuối cùng đã dẫn anh đến chỗ phải nhẩm đếm thầm: "Một... hai... ba mươi..." rồi "một ngàn". Cách làm đó đã có tác dụng; cuối cùng anh đã có thể nhìn vào mọi dự định một cách khách quan. Lúc này anh hơi ngạc nhiên vì anh không thể hình dung được tâm hồn A-xôn, bởi ngay cả nói chuyện với cô, anh cũng chưa có dịp. Anh đã đọc ở đâu đó rằng có thể hiểu được con người, mặc dù không rõ lắm, bằng cách tưởng tượng mình là người ấy và bắt chước vẻ mặt của người ấy. Anh bắt đầu tạo cho đôi mắt mình một vẻ khác thường mà anh vốn không có, trên môi anh nở một nụ cười kín đáo, dịu dàng dưới hàng ria mép, thì anh bỗng sực nhớ ra, cười phá lên rồi đi thay phiên cho Pan-ten. Trời tối. Bẻ đứng cổ áo blu-dông lên, Pan-ten đi đi lại lại quanh chiếc la bàn và bảo người lái tàu: "Sang trái một phần tư rum-bơ, sang trái. Lại một phần tư rum-bơ nữa". Con tàu "Bí mật" giương nửa số buồm chạy xuôi theo chiều gió.
    - Thưa thuyền trưởng, tôi rất mừng. - Pan-ten nói với Grây.
    - Về chuyện gì kia?
    - Như anh thôi. Tôi đã hiểu mọi chuyện rồi. Đây này, trên cái cầu chỉ huy này. - anh ta ranh mãnh nháy mắt, ánh lửa trên tẩu thuốc soi rõ nụ cười của anh ta.
    - Nhưng mà này, - Grây bỗng đoán ra, - anh hiểu chuyện đó thế nào?
    - Đó là cách hay nhất để chở các thứ hàng buôn lậu. - Pan-ten thì thầm nói. - Buồm thế nào là tùy thuộc vào ý thích của mỗi thuyền trưởng. Nhưng mà anh quả là có đầu óc tuyệt vời, Grây ạ!
    - A, anh bạn Pan-ten đáng thương! - Thuyền trưởng nói, không biết nên cười hay nên giận. - Anh đoán rất thông minh, nhưng tiếc rằng chẳng có cơ sở nào cả. Thôi, anh đi ngủ đi. Có thể đoan chắc với anh rằng anh đã lầm. Tôi chỉ làm điều tôi vừa nói.
    Anh để Pan-ten đi ngủ, kiểm tra lại hướng tau đi rồi ngồi xuống. Bây giờ thì chúng ta tạm ngừng nói tới Grây vì anh đang cần ở lại một mình...
  9. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    VI
    A-xôn còn lại một mình

    Lông-gren ở ngoài biển suốt đêm. ông không ngủ, không đánh cá, mà chỉ mặc cho buồm đưa đi vô định. ông lơ đãng nghe tiếng nước róc rách, nhìn bóng đêm, hóng mát và suy nghĩ. Vào những giờ phút nặng nề của cuộc đời, không gì giúp ông lấy lại tinh thần tốt hơn những lần đi ngao du một mình như thế. Im lặng, chỉ có im lặng và vắng vẻ mới là những gì ông cần, để cho những tiếng nói yếu ớt nhất và dễ lẫn lộn nhất của nội tâm vang lên một cách dễ hiểu.
    Đêm hôm ấy, ông trầm ngâm nghĩ về tương lai, về nỗi nghèo khổ, về A-xôn. Để con gái ở nhà một mình dù chỉ mấy ngày, ông cảm thấy rất khổ tâm. Hơn nữa ông còn sợ làm sống lại nỗi đau cũ đã nguôi đi. Có thể khi đặt chân lên tàu, ông sẽ lại hình dung rằng nơi ấy, ở làng Ca-péc-na, có người bạn đời không bao giờ chết vẫn đang chờ ông. Rồi khi trở về làng, ông sẽ lại đi tới nhà mình với nỗi đau khổ của sự đợi chờ tuyệt vọng. Không bao giờ Mê-ri còn bước ra ngoài cửa nữa. Nhưng vì để có tiền nuôi A-xôn, ông đành phải xử sự theo cảnh ngộ. Khi Lông-gren về, A-xôn còn chưa có mặt ở nhà. Những lần dạo chơi sáng sớm của cô không làm ông lo lắng, tuy vậy lần này ông vẫn thấy nóng ruột khi chờ con. ông đi đi lại lại trong nhà và khi quay lại, ông bất ngờ trông thấy ngay A-xôn nhẹ nhàng bước nhanh vào nhà. Cô gái im lặng đứng trước Lông-gren làm ông gần như sợ vì ánh mắt lộ vẻ xúc động. Tưởng chừng như hiện lên khuôn mặt thứ hai của cô - khuôn mặt thật sự của một người mà chỉ có đôi mắt là nói lên tất cả. Cô gái im lặng nhìn vào khuôn mặt Lông-gren một cách khó hiểu, đến nỗi ông phải hỏi ngay:
    - Con ốm à?
    Cô gái không trả lời ngay. Cuối cùng khi ý nghĩ của câu hỏi nhập vào tâm trí cô, cô mới sực tỉnh, như cánh hoa bị bàn tay chạm vào, rồi cô bật cười giòn tan trong niềm hân hoan êm ái. Cô thấy cần phải nói một điều gì, nhưng cũng như mọi khi, không cần phải nghĩ ngợi xem nói cái gì, cô trả lời bố:
    - Không, con khỏe bố ạ... Sao bố lại nhìn con thế? Con vui lắm. Quả thật là con rất vui vì hôm nay trời rất đẹp. Bố đã nghĩ ra chuyện gì thế? Nhìn nét mặt bố, con cũng biết là bố vừa nghĩ ra chuyện gì rồi.
    - Bố có nghĩ ra điều gì, - Lông-gren nói và bảo con gái ngồi xuống, - thì bố cũng biết là con cũng sẽ hiểu. Chẳng có gì mà ăn nữa con ạ. Bố không xuống làm dưới tàu chạy đường dài nữa đâu, bố sẽ xin xuống làm ở tàu đưa thư chạy trên tuyến Li-xơ -Kát-xét thôi.
    - Vâng, - cô gái lơ đãng nói, cố bắt vào mạch suy nghĩ của bố, nhưng rồi cô sợ hãi thấy mình không sao kìm được niềm vui, - thế thì dở lắm. Thế thì con sẽ buồn đấy. Bố về nhanh lên nhé. - Cô gái nói vậy và một nụ cười không nén được làm cho cô tươi lên. - Vâng, bố về nhanh lên, con đợi.
    - A-xôn! -Lông-gren nói, hai tay áp má con gái, quay mặt con về phía mình. - Con nói thật đi, chuyện gì đã xảy ra với con vậy? Cô gái cảm thấy cần phải xua tan mối lo của bố; cô kìm niềm hân hoan, làm ra vẻ chăm chú một cách nghiêm trang, duy ánh mắt vẫn sáng lên một sức sống mới.
    - Bố lạ thật đấy, - cô nói, - hoàn toàn không có gì đâu. Con đi lượm hạt dẻ mà. Nếu không mải suy nghĩ, chắc hẳn Lông-gren đã có thể không tin hoàn toàn vào điều đó. Hai bố con bắt đầu bàn tính tỉ mỉ. Người thủy thủ bảo con gái sắp xếp túi cho ông, kiểm kê lại các thứ cần thiết, rồi dặn dò con vài điều:
    - Chừng mười hôm nữa bố sẽ về. Con cất kỹ súng của bố, đừng bỏ nhà đi đâu. Nếu kẻ nào định gây chuyện với con thì con hãy nói với nó rằng: ông Lông-gren sắp về. Đừng nghĩ ngợi và lo lắng gì cho bố cả. Không thể có chuyện gì xấu xảy ra đâu.
    Sau đó ông ăn qua loa, hôn con gái rồi vắt túi qua vai bước ra khỏi nhà đi lên thị trấn. A-xôn nhìn theo ông cho đến khi ông đi khuất sau chỗ đường vòng. Cô gái quay vào nhà. ở nhà còn nhiều việc phải làm, nhưng A-xôn không nhớ gì đến nữa. Cô đưa mắt nhìn quanh, hơi ngạc nhiên như cô là người xa lạ với căn nhà này, ngôi nhà đã gắn bó với cô từ thuở nhỏ, tưởng chừng cô vẫn luôn luôn mang nó trong lòng. Nhưng giờ đây căn nhà đó tựa như quê hương thân thiết mà sau nhiều năm sống một cuộc đời khác, cô lại về thăm. Cô tự thấy có cái gì không hay, không ổn trong cảm giác vừa rồi. Cô ngồi xuống bên chiếc bàn nơi trước đây Lông-gren vẫn thường làm đồ chơi. Cô thử gắn bánh lái vào đuôi tàu. Nhìn những con tàu đó, A-xôn bỗng thấy chúng to như thật; những gì xảy ra sáng nay lại làm cô xúc động; chiếc nhẫn vàng như to dần lên bằng cả khối mặt trời bay qua biển và đến bên chân cô. Đứng ngồi không yên, A-xôn bước ra khỏi nhà và đi lên thị trấn Li-xơ. Cô hoàn toàn chẳng có việc gì phải làm trên đó; cô không biết đi lên đó làm gì, nhưng không đi không đành. Trên đường đi, cô gặp một người đi đường hỏi thăm về một nơi nào đó, cô chỉ dẫn tỉ mỉ cho người ấy rồi sau đấy quên luôn. Cô đi qua suốt dọc con đường dài mà không hay biết, tựa hồ cô mang theo một con chim nào đó thu hút toàn bộ sự chăm sóc dịu dàng của cô. Ở thị trấn, tiếng ồn ào xung quanh có làm cô xao lãng đôi chút, nhưng không còn chế ngự được cô như trước đây nó đã từng dọa dẫm, lấn át, làm cho cô trở nên nhút nhát ít nói. Giờ đây cô đương đầu với nó. Cô chậm rãi đi qua một đường phố hình vành đai, bước qua những bóng cây xanh sẫm, tin tưởng và thanh thản nhìn gương mặt những người đi đường. Chân cô bước đều, lòng đầy tự tin. Những người ưa quan sát, vào ngày hôm đó, có thể vài lần trông thấy một cô gái, ánh mắt khác thường, đi lẫn giữa đám đông với vẻ mặt trầm tư. Đến quảng trường, cô đưa tay xòe ra hứng những tia nước từ vòi phun tuôn lên. Sau đó, cô ngồi xuống nghỉ một lúc rồi quay trở về làng trên con đường xuyên qua cánh rừng. Trên đường về, cô cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm, thanh thản, bình yên, hệt như con sông về đêm, cuối cùng đã tránh được những tia nắng mặt trời chói chang để được lặng lẽ trôi trong bóng tối êm đềm. Khi về đến gần làng, cô trông thấy ông già đốt than, người đã được nghe cô nói rằng chiếc giỏ của ông sẽ nở hoa. ông đang đứng cạnh chiếc xe ngựa cùng hai người khác, vẻ mệt mỏi, mặt mũi dính than lem luốc. A-xôn mừng rỡ.
    - Chào bác Phi-líp, - cô gái nói, - bác làm gì ở đây thế?
    - Cái bánh xe nó bị trật ra, bác đã chữa được rồi, bây giờ thì ngồi hút ít thuốc, tán gẫu với hai anh bạn trẻ này. Cháu đi đâu về thế?
    A-xôn không trả lời.
    - Bác biết không, bác Phi-líp, - cô gái nói, - cháu rất quý bác nên cháu mới nói cho một mình bác biết điều này nhé. Cháu sắp đi khỏi đây rồi, chắc là đi luôn bác ạ. Bác đừng nói lại với ai nhé.
    - Cháu muốn đi khỏi đây sao? Cháu định đi đâu? - ông thợ đốt than ngạc nhiên, miệng há to, vì thế mà bộ râu ông trông dài hơn.
    - Cháu cũng không biết nữa. - Cô chậm rãi đưa mắt nhìn khoảng rừng trống bên cây du, nơi chiếc xe ngựa đỗ, những đám cỏ xanh dưới ánh nắng chiều hồng nhạt, nhìn những người thợ đốt than đen sạm đang im lặng.
    - Tất cả những điều này cháu đều chưa rõ. Cháu không hề biết ngày nào, giờ nào, thậm chí đi đâu cháu cũng không biết. Cháu không thể nói gì hơn. Vì vậy, đề phòng nhỡ không gặp lại được bác, cháu xin chào bác trước nhé. Bác thường cho cháu đi nhờ xe. Cô gái cầm lấy bàn tay to đen của bác Phi-líp, khẽ đung đưa. Gương mặt người thợ già thoáng hiện nụ cười. Cô gái gật đầu, quay người rồi đi. Cô mất hút nhanh đến nỗi Phi-líp và hai anh bạn trẻ không kịp quay đầu nhìn.
    - Lạ thật, - người thợ đốt than nói, - thật khó mà hiểu được cô gái. Hôm nay không biết có chuyện gì đã xảy ra với cô ta.
    - Chắc thế, - người thứ hai phụ họa theo, - không ra báo tin, không ra thuyết phục. Nhưng mà chẳng phải chuyện của chúng ta.
    - Phải đấy, đâu phải chuyện của ta. - Người thứ ba thở dài nói.
    Sau đó cả ba người ngồi lên xe ngựa. Chiếc xe lăn bánh lách cách trên con đường lổn nhổn những đá, khuất dần trong đám bụi.
  10. starry_river

    starry_river Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    24/02/2002
    Bài viết:
    2.027
    Đã được thích:
    0
    VII
    Con tàu "Bí Mật" đỏ thắm

    Một buổi sớm mai. Sương mờ mờ trắng đục bao phủ khắp khu rừng thấp thoáng những hình ảnh kỳ dị. Một người thợ săn vừa rời đống lửa của mình đi dọc theo bờ sông. Qua những hàng cây, khoảng trời trên sông lộ ra thoáng đãng. Nhưng người thợ săn cần cù không đi về phía ấy mà lần theo chân con gấu vừa đi về phía núi. Bỗng một âm thanh bất ngờ vút qua đám cây cối, đột ngột như một cuộc rượt đuổi náo động: đó là tiếng kèn cơ-la-ri-nét cất lên. Người nhạc công bước ra boong tàu, thổi một điệu nhạc buồn buồn, lắp đi lắp lại. Tiếng kèn run rẩy nghe như giọng ai đang cố giấu nỗi niềm trắc ẩn. Tiếng kèn nghe mạnh hơn và bỗng chuyển sang âm điệu tươi vui như thoáng nở nụ cười rồi im bặt. Tiếng vọng xa xa mơ hồ lặp lại âm điệu ấy. Người thợ săn nhận thấy dấu vết một cành cây gãy và đi về chỗ có nước. Sương vẫn chưa tan, trong sương mù ẩn hiện bóng hình một con tàu lớn đang từ từ rẽ vào cửa sông. Những lá buồm cuốn đã được mở rộng, buông diềm, căng ra, che lấp những cột buồm như những tấm lá chắn bất lực có nhiều nếp gấp to. Có tiếng người nói và tiếng bước chân đi lại. Làn gió trên bờ uể oải thổi vào những cánh buồm. Cuối cùng hơi ấm của mặt trời đã có tác dụng. Sức gió tăng lên làm tan sương mù, gió thổi căn phồng những cánh buồm đỏ thắm. Ánh hồng lung linh trên nền trắng của cột buồm và dây dợ. Tất cả đều màu trắng, trừ những cánh buồm đang căng ra là màu đỏ, màu của niềm vui sâu sắc. Người thợ săn đứng trên bờ giụi mắt mãi cho đến khi tin rằng mình đã không nhìn lầm. Con tàu đã khuất sau quãng sông uốn khúc mà anh ta vẫn đứng ngây ra nhìn theo. Một lúc sau, anh ta khẽ nhún vai, rồi tiếp tục lần theo vết chân gấu. Khi con tàu "Bí mật" đang xuôi theo dòng sông, Grây tự tay mình cầm bánh lái, không để ai khác làm việc đó vì anh sợ tàu mắc phải những bãi cát ngầm. Pan-ten ngồi bên cạnh, mặc áo dạ mới, đội mũ mới, cạo râu nhẵn nhụi, vẻ mặt đăm chiêu. Anh vẫn chẳng thấy có điều gì liên quan giữa mục đích thật sự của Grây và những cánh buồm đỏ thắm.
    - Bây giờ, - Grây nói, - khi cánh buồm của tôi đang rực đỏ, gió thổi khoan thai, lòng tôi tràn ngập một niềm vui còn lớn hơn cả nỗi mừng của chú voi trông thấy người ta đem thức ăn tới, tôi mới cố gắng giải thích cho anh hiểu những ý nghĩ của tôi, như lúc còn ở Li-xơ tôi đã hứa. Anh nên lưu ý rằng tôi không hề coi anh là ngu đần hay ương ngạnh, không, anh là một thủy thủ mẫu mực. Điều đó quý lắm. Nhưng cũng như phần lớn mọi người, anh đã theo những chân lý đơn giản qua lớp kính dày đặc của cuộc đời, chúng kêu to lên mà các anh không nghe thấy. Tôi chỉ làm một việc đang tồn tại như ý niệm cổ xưa về cái đẹp hão huyền, một việc thật ra có thể thực hiện được dễ dàng như một cuộc dạo chơi ngoài thành phố. Lát nữa anh sẽ nhìn thấy một người con gái, người ấy không thể, không gặp gỡ bạn đời của mình một cách nào khác ngoài cách mà anh đang nhìn thấy. Anh giải thích ngắn gọn cho Pan-ten nghe điều mà chúng ta đều biết rõ, rồi kết thúc bằng những lời thế này:
    - Anh thấy đấy, ở đây số phận, ý chí, tính tình của con người đã gặp gỡ hòa hợp như thế nào. Tôi đang đến với người con gái chỉ chờ đợi tôi, còn tôi không muốn một ai khác ngoài cô ấy, có lẽ chính vì nhờ cô ấy mà tôi đã hiểu được một chân lý giản đơn. Chân lý đó là cần phải tạo ra những điều kỳ diệu bằng chính bàn tay của mình. Nếu đối với một người nào đó, kiếm được tiền là quý nhất, thì có thể dễ dàng cho anh ta đồng tiền. Nhưng nếu khi tâm hồn con người ấp ủ hạt giống của một cái cây nồng thắm là sự diệu kỳ, thì hãy tạo cho anh ta điều đó, nếu ta có thể làm được. Khi đó, cả anh ta và cả ta cũng sẽ có một tâm hồn mới. Khi người cai ngục tự tay mình thả tù nhân, khi một nhà tỉ phú tặng cho viên thư ký một tòa biệt thự, một cô đào hát và một két bạc, khi một kỵ sĩ kìm con ngựa đua của mình lại để chờ con ngựa khác không gặp may thì lúc đó mọi người đều thấy đấy là chuyện tốt lành và vô cùng kỳ lạ. Nhưng còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui, lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có được cái đó có nghĩa là có tất cả. Về phần tôi, thì buổi đầu tiên hôm nay A-xôn và tôi nhận ra nhau sẽ mãi mãi in trong tâm trí tôi với sắc màu của những cánh buồm đỏ thắm, những cánh buồm được tạo ra từ đáy sâu của một trái tim đã hiểu thế nào là tình yêu. Anh hiểu tôi rồi chứ?
    - Vâng, thưa thuyền trưởng, tôi đã hiểu, - Pan-ten nói nhỏ, lấy chiếc khăn tay gấp cẩn thận ra lau bộ ria, - tôi hiểu tất cả rồi. Anh đã làm tôi xúc động. Tôi đi xuống khoang xin lỗi cậu Ních đây; hôm qua tôi vừa mắng cậu ta vì cậu ấy đánh đổ xô nước. Tôi sẽ cho cậu ấy ít thuốc lá của tôi, cậu ta hết thuốc hút rồi.
    Grây hơi ngạc nhiên vì kết quả thiết thực chóng vánh của những lời mình vừa nói, anh chưa kịp nói gì thêm thì Pan-ten đã nện gót xuống cầu thang. ở đó, thoáng nghe tiếng anh thở dài. Grây ngẩng nhìn lên cao. Phía trên đầu anh, những cánh buồm đỏ thắm đang lặng lẽ đón gió, các đường chỉ bắt ánh mặt trời lung linh như khói màu hồng.
    Con tàu "Bí mật" đã ra đến biển, mỗi lúc một xa bờ hơn. Trong lòng anh không gợn chút hồ nghi, lo âu; tâm hồn anh lúc này thanh thản, yên bình như cánh buồm lướt tới đích diệu kỳ, tràn đầy những ý nghĩ vượt trước cả lời nói. Gần đến trưa, từ phía chân trời hiện lên làn khói của một chiếc tàu tuần dương. Con tàu quân sự đổi hướng đi và cách chừng nửa dặm thì cho phát lệnh: "Dừng lại!".
    - Các anh em, - Grây nói với thủy thủ, - họ không bắn chúng mình đâu, đừng có sợ. Họ chỉ không tin vào mắt mình đó thôi.
    Anh ra lệnh cho tàu ngừng chạy. Pan-ten gào lên như đang có đám cháy để cho gió không thổi căng buồm. Con tàu dừng lại. Vào lúc ấy, một chiếc xuồng máy tách ra khỏi con tàu tuần dương. Ngồi trên xuồng là mấy thủy thủ cùng với một viên trung úy đeo găng tay trắng. Viên trung úy bước lên boong tàu "Bí mật", ngạc nhiên nhìn quanh rồi cùng Grây đi vào buồng thuyền trưởng. Khoảng một giờ sau, anh ta cáo từ, xuống xuồng ra về, vẫy vẫy tay, miệng cười tươi như vừa được thăng chức. Có lẽ lần này Grây còn gây được tác động mạnh mẽ hơn là với chàng Pan-ten chất phác, bởi vì lần này chiếc tàu tuần dương ấy đã đi chậm lại và bắn một loạt đại bác chào mừng, những đụn khói đen từ nòng súng bốc lên cao rồi tỏa dần ra trên mặt nước yên lặng. Suốt ngày hôm đó, không khí trên chiếc tàu tuần dương rộn ràng gần như vào dịp lễ. Khắp nơi trên tàu, từ phòng khách đến khoang máy, mọi người đều bàn tán về câu chuyện vừa gặp, về tình yêu. Người lính gác kho thủy lôi hỏi một thủy thủ đi ngang qua:
    - Này Tôm, cậu lấy vợ thế nào?
    - Tớ túm lấy cô ta khi cô ta định nhảy qua cửa sổ tránh tớ. - Tôm đáp và kiêu hãnh xoắn ria mép.

Chia sẻ trang này