1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

CÂU HÒ THÔN DÃ

Chủ đề trong 'Âm nhạc' bởi Temely, 03/08/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Temely

    Temely Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    22/08/2001
    Bài viết:
    1.295
    Đã được thích:
    4
    CÂU HÒ THÔN DÃ

    Câu Hò Thôn Dã
    Đan Hà

    http://www.vietmedia.com/literature/muiviquehuong/?ID=19



    Nhiều người khi mới đến quê hương tôi nơi Quảng trị, thường hay có cảm giác e ngại, sợ sệt, vì khi mới nghe đến một vùng đầy lam sơn chướng khí, mảnh đất eo hẹp được giới hạn bằng một bên là biển, một bên rừng. Khí hậu quanh năm hai mùa với mùa hè nắng cháy, nắng nung người làm héo cỏ khô cây; mùa đông thì mưa dầm ướt đất, mưa không ngớt làm sũng lầy những vùng cao nguyên đất đỏ, làm úa tàn lúa mạ của vùng đồng bằng. Trong những ngày vừa chớm thu, các khu rừng lá cây sắp ngã màu vàng và rụng dần, bắt đầu những cơn mưa ngâu lành lạnh, gió thổi mạnh làm rung đổ những giọt nước mắt của "Chức nữ thương nhớ Ngưu lang", như trong một chuyện cổ tích dân gian xa xưa nào, câu chuyện đầy thơ mộng và lãng mạn mà khi nghe kể lại chắc không ai lại không khỏi bùi ngùi! Tiếp theo là những cơn bão làm trốc gốc đổ cây, rồi tiếp đến là lụt lội ướt át. Không có năm nào lại không xảy ra thiên tai làm hư hại mùa màng, làm hao tổn không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của người dân quê đã đổ xuống trên ruộng vườn nương rẫy, tạo nên cảnh đói rách lầm than. Câu tục ngữ thường truyền tụng nơi đây là: "Làm cho có để mưa gió mà ăn" là vậy, mỗi năm có hai mùa,mùa tháng ba thì cũng nhờ Trời mưa thuận gió hòa nên thu hoạch được đầy đủ, còn vụ mùa tháng tám thường hay bị thất thu, cho nên nông dân phải trồng thêm các loại hoa màu phụ như khoai sắn để phụ lực... (No lòng chớ phụ môn khoai, đến năm Thân Dậu lấy ai bạn cùng!). Họ thường nói đến nạn đói của năm Thân Dậu (là hai năm 1944-1945), như nhắc nhở cho con cháu biết một bài học dắng cay, để mà tiết kiệm để mà tích trữ lương thực, của cải cho những việc bất thường như: quan, hôn, tương, tế...( năm Thân Dậu tại Quảng trị xảy ra nạn đói kinh hồn, gây cảnh chết chóc cho cả hàng trăm ngàn người, vì năm ấy bị xảy ra một cuộc khủng hoảng về chính trị và kinh tế rất trầm trọng, trong lúc người Nhật vừa đến tiếp thu lãnh thổ từ tay người Pháp, thì tức tốc áp đặt một thể chế quá khắc nghiệt đối với người dân, như ruộng vườn không được trồng lúa mà phải trồng đay, trồng dâu nuôi tằm để khuếch trương nền kỷ nghệ v/v...). Vì thế mà nẩy sinh ra những phong trào từ trong dân chúng đứng lên chống Pháp, kháng Nhật và như thế là chiến tranh lại tiếp diễn đến triền miên! Cho đến thời cận đại thì các cường Quốc lại sử dụng mảnh đất Quảng trị như là một phương tiện, một nơi chốn để tranh giành ảnh hưởng Quốc tế, "Họ dùng làm vùng phi quân sự" cho các cuộc thí nghiệm võ khí đạn dược, hằng ngày đã đổ xuống hằng ngàn tấn bom cùng với thuốc khai quang đã tàn phá hết nhựa sống của thiên nhiên, hàng rào điện tử với bãi chông mìn, kẽm gai dăng khắp đây đó đã tạo nên cảnh chết chốc và gây thương tật cho dân chúng địa phương. Hiện tượng ấy cho đến bây giờ sau hơn hai mươi năm chấm dứt chiến tranh, nhưng những vũ khí giết người ấy vẫn còn nằm đó, đầy dẫy như dang chờ chực những ai bất hạnh!...

    Vì thế cho nên những người khi mới chân ướt chân ráo đến vùng Quảng trị thì họ thường hay than rằng : "Đến nơi đây đất nước lạ lùng, nghe con chim kêu cũng sợ nghe con cá vùng cũng run!".

    Cảm giác ấy không phải chỉ đối với những người vừa mới đến, mà người dân địa phương sống lâu năm tại đây cũng cảm thấy không thoải mái, không an nhàn! Vì ngoài khí hậu khắc nghiệt, lam sơn chướng khí, chiến tranh tàn phá còn có thú dữ hoành hành nữa! Như tại địa phương có câu tục ngữ: "Nác khe mèo, beo làng Rọng", (những con suối phát xuất từ vùng Tân lâm, Khe sanh đầu nguồn của con sông Vĩnh định, có con suối mang tên là"Khe mèo" vì nước suối trong vắt, đứng trên bờ có thể nhìn xuyên suốt dưới lòng khe, thấy được sỏi cát nằm dưới đáy, nước trong đến thế cho nên mới gọi là suối trong như mắt mèo, thế nhưng khi múc nước đem đun sôi thì nước ấy lại biến thành màu ti''m nhạt, nước uống rất độc. Cũng có thể giữa vùng thâm u cây cối là môi trường thích hợp cho muỗi mòng và các loại côn trùng có mang vi khuẩn truyền bệnh. Cư dân ở đây phần nhiều đều "mặt bủng da chì" nhất là trẻ em bỡi hậu quả cuả các chứng bệnh sốt rét và sán lãi! Ngành Y tế tại đây thì lại thiếu thốn đủ thứ nên không đáp ứng nhu cầu cho một chương trình phòng ngừa và trị liệụ( Nhớ lại trước đây khi còn làm lính, đi hành quân trên các vùng cao nguyên như Khe sanh, Lao bảo, Ba lòng, A sao, A lướị.. Đơn vị chúng tôi không ai tránh khỏi bệnh sốt rét rừng, mặc dầu ai nấy đều phải mang theo đầy đủ các loại thuốc phòng ngừa bệnh sốt rét và dầu nóng để trừ muỗi, vắt... Còn tại vùng Cuà là một thung lũng được bao bọc chung quanh bằng rừng núi, có một ngôi làng nằm giữa trũng thấp có nhiều chỗ làm ruộng, cho nên dân làng đặt tên là "làng Rọng", làng nầy nằm gần một khu rừng có rất nhiều thú dữ như cọp, heo rừng thường hay kéo về phá hoại mùa màng cũng như đe dọa tính mạng cuả dân làng, để đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra, họ phải cất nhà sàn để ở hay làm nhà bằng cây rừng thật chắc chắn. Đêm đêm muốn đi đâu thì họ dùng cây đót bó lại thành bó, đốt lên làm đuốc soi đường và trừ thú dữ (tiếng địa phương gọi là cái chền) ngoài ra họ còn làm bẫy để sập thú rừng. Trâu bò cũng phải làm chuồng chắc chắn bằng cây rừng (gọi là cái ràn) chứ không thể buộc khơi khơi ngoài đường như các nơi khác.

    Nhưng khi đến sinh sống tại Quảng trị một thời gian rồi thì họ đâm ra ghiền, không phải họ ghiền vì bùa mê thuốc lú, không phải họ ghiền vì nơi chốn ấy đã đem lại cho họ một cuộc sống vững chải về kinh tế, để được an nhàn mà vui sống cảnh điền viên! Bởi vì ngoài thiên tai, còn là nơi đã chịu nhiều oan nghiệt về chiến tranh dai dẳng, khiến cho tâm hồn họ phải chai lì, đời sống thì với những bất trắc chực chờ, đói nghèo và thiếu thốn đủ thứ ... Như vậy điều gì đã khiến cho họ phải gắn bó với cuộc sống nơi đâỷ Có lẽ chỉ còn là tình cảm, chỉ còn những kỷ niệm nào đó đã ghi lại trong tâm hồn họ, khiến cho họ phải luyến lưu phải gắn bó...

    Kỷ niệm ấy có thể là hương lòng của Tiên tổ , có thể là nếp sống chất phác mà hiền hoà, đơn sơ mà hồn nhiên cùng với tình keo sơn của bà con làng xóm... Những mối liên hệ ấy là một chất keo gắn liền đời sống với nhau như anh em một nhà. (tình cảm ấy cũng có thể là tình đồng bào, được bắt nguồn từ huyền thoại Mẹ Âu cơ sinh trăm trứng, nở thành trăm con, năm mươi con lên núi, năm mươi con xuống biển nhưng núi và biển vẫn nằm trong một Tổ quốc, cho nên con cháu sau nầy đều vẫn là anh em) .

    Các cuộc sinh hoạt làng xã, họ thường gặp gỡ nhau ở ngoài đồng ruộng, trong các buổi hội hè, gặp nhau trong những ngày mùa đang gánh lúa về trên con đường làng thơm mùi tóc rạ, họ chia xẻ cùng nhau những niềm vui khi đứng nhìn ra cánh đồng chín vàng trĩu đầy bông lúa và nhất là những điệu hò câu hát của những đêm giã gạo dưới trăng...


    Hò ơị..
    Đứng bên ni khe ngó qua bên tê khe thấy bụi tre,
    bụi trừa bụi đựng
    Ngó xuống dưới sông nọ có mấy hòn đá,
    hòn dựng hòn nằm
    Thiếp với chàng là đạo nghĩa trăm năm
    Dẫu mai sau không thành chồng vợ, nhưng sớm
    viếng tối thăm cũng tình!


    Những hình ảnh như bụi tre, hòn đá chỉ là những biểu tượng để ví von, so sánh mà thôi, chứ nó không liên quan gì đến tình cảm của con người, mà ở đây "đạo nghĩa" mới là quan trọng, nó chính là rường cột của giềng mối, là chất keo để ràng buc và bảo vệ cái tình cảm thiêng liêng đã in sâu trong tâm khảm của mọi ngườị Những người đã sống chung với nhau cùng xóm, cùng làng thì dẩu không phải là bà con họ hàng, không phải là anh em ruột thịt, dẫu không thành tình nghĩa vợ chồng với nhaụ.. Nhưng cùng chia xẻ những niềm vui nỗi buồn, hay thăm viếng và giúp đở lẫn nhau trong lức hoạn nạn, thì đó cũng là những an ủi cần thiết cho chúng ta trong đời sống nầy rồi (Bà con xa không bằng láng giềng gần mà!). Tình cảm ấy cũng không hẳn chỉ dành cho những người đã chung sống với nhau lâu năm, mà còn đối với những người mới cùng hạnh ngộ, cho dù chỉ là một khách vãng lai:


    Ai về phố Hi , sông Cầu
    Để thương để nhớ, để sầu cho aỉ
    Để sầu cho khách vãng lai
    Để thương để nhớ cho aỉ để sầu!


    Để sầu cho khách vãng lai, hay để sầu cho người ở lạỉ Cũng chỉ là những câu hỏi được lặp đi lặp lại như một nỗi i dùng dằng giữa kẻ ở người đi, như nỗi luyến tiếc một cái gì thật mơ hồ, nhưng biết rồi đây sẽ tàn phai theo ly biệt! Nghe nó thật là ngổn ngang trăm mối, bởi vì câu hỏi trước thì chỉ thuần tuý là một câu hỏi, chỉ cần một câu trả lời là xong thí dụ như: (nếu biết rằng em đã lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong!) , như vậy là đã được giải quyết một cách thoả đáng rồi, không còn gì để mà phân vân nữa cả. Thế nhưng câu hỏi cuối cùng mới chính là vấn đề cần phải suy luận, vì nó vừa là một câu hỏi mà cũng vừa là một lời than! Một câu mà thành ra hai câu, một câu hỏi và một lời than chăng? Cũng có thể lắm chứ, (Để thương để nhớ cho aỉ để sầụ..), mới nghe thì cũng chỉ lặp lại câu hỏi trước, nhưng nhìn kỹ thì đoạn sau lại được (hay bị) đảo ngữ, cho nên không biết đây là câu hỏi hay câu trả lời đâỷ Chữ "để sầu" treo lơ lững ở phía đàng sau như một nỗi than trách ai đó, nó không còn nằm trong phạm vi câu hỏi nưã, mà nó đã rớt lại đằng sau như còn lưu luyến một cái gì, thật thiết tha biết mấỷ Câu hỏi kế tiếp cũng bắt nguồn từ manh nha tình cảm:

    Ra về có nhớ em không?
    Hay là xuôi buồm thuận gió biệt mong xa chừng!

    Ở đời cảnh hợp tan thì làm sao mà tránh khỏỉ Vẫn biết vậy nhưng khi đã dan díu với nhau rồi, thì ai bắt mình phải xa lánh những ước mơ thầm kín? Của một lần đã cùng ai hẹn biển thề non! Đã một lần cùng ai nói câu ước hẹn, cho nên nỗi phân vân cứ đeo đẳng mãi không thôi!

    Ra về sao đặng mà về?
    Bỏ non bỏ nước, bỏ mấy lời thề cho ai!

    Bỏ non, bỏ nước... thì chắc là có thể bỏ được, vì đây không phải là nơi "chôn Nhau cắt Rốn", đây không phải là quê hương xứ sở chi của mình, thì đến hay đi cũng không thành vấn đề chi mấỵ.. Nhưng còn "mấy lời thề" nó mới là rắc rối làm saỏ Bỏ lại cho ai đâỷ ...

    Đối với những người mới quen biết thì họ chỉ bóng gió, với lời lẽ tuy chơn chất nhưng thiết tha, tuy quê mùa nhưng gói ghém một tình cảm thiệt thâm thúy đến đường nàọ.. Còn đối với những người (xa xôi chi đó mà lầm, phải hương hương bén, phải trầm trầm thơm) thì saỏ Họ có đối đãi với nhau như thế chăng? Có lẽ là không đâu, vì họ có cần chi phải "bóng gió" cho thêm mệt, lại phải đi vòng vo tam quốc cho hao xăng tốn nhớt? Cho mệt trí phí sức, cứ đi thẳng một dường mực tàu, để "thâu ngắn đường về", mặc dầu đôi khi vẫn biết rằng: "Thẳng mực tàu thì đau lòng g " đấy! :

    Mấy anh chưa vợ quanh năm
    Đêm đông lạnh giá anh nằm với aỉ

    Thiệt nghe cũng khó trả lời đây có phải không các bạn "tu mi nam tử"? Ai đâu lại đi hỏi cắc cớ như thế nầy, biết mần răng mà trả lời cho xuôi thuyền mát máỉ Biết làm sao mà trả lời cho nghe được cái lỗ taỉ Làm sao mà mở ra một con đường uyên nguyên cho cõi đi về khỏi cô đơn giá lạnh? Bởi vì anh vốn là một kẻ quê mùa dân dã, nghèo khó một đời thì làm sao dám cùng người để "gối phụng chăn loan"? Bởi vì anh chỉ là một gã tiều phu đốn củi thì làm sao dám mơ ước được nằm với aỉ Bởi vì thân phận của anh "Khó nghèo ở chốn sơn lâm, mai than chiều củi, gặp trầm họa may", cái họa may nầy cũng hiếm hoi lắm đó, vì trầm là một loại gỗ quý hiếm, thì làm sao mà bắt được giữa hư không? Cho nên câu hỏi nầy xem ra đã bí lối, không tìm được câu trả lời thì thấy cũng mất mặt cả "đấng nam nhi", mà câu trả lời không được chí lý thì làm sao tránh khỏi miệng đời hay dòm ngó, thị phỉ Cho nên cũng có người phải suy nghĩ nát óc để tìm ra câu trả lời để họa may cứu vãn tình thế! May thay một đấng nho thâm uyên bác đã thay thế chúng ta để "gở rối tơ lòng"!:

    Em hỏi chi chuyện ấy cho mất công
    Nếu nóng thì anh nằm ngủ thẳng, mà lạnh thì
    nằm cong khó gì?

    Lành thay, lành thay mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa rồi, vì anh đây đâu phải còn cái diện "ăn chưa no, co chưa ấm" nữa đâu, mà phải đi mắc mưu cái phận "thuyền quyên" đánh cờ còn chưa sạch nước cản? Nếu còn câu nào hóc hiểm nữa thì cứ đem ra, nếu anh trả lời không đặng thì anh nguyện sẽ "làm phận đàn bà như em!".

    Anh trèo lên cây sung cũng biết mùi sung sướng
    Anh chê tơ anh kén lụa, thì lụa cũng là tằm
    Em đố anh một năm mười hai tháng, tháng mô
    không rằm rứa anh?

    Đối thì phải đáp, hỏi thì dĩ nhiên phải trả lời nhưng câu hỏi nầy cũng hơi có phần gay cấn, vì tháng nào lại tháng không có rằm? "Nó" đã khôn ngoan đi nằm chính giữa để khỏi mất phần mền, dù ai có kéo qua kéo lại thì trên thân nó cũng đủ chăn ấm với nệm êm, bây chừ biết tìm mô ra một thằng "dại" đã được nằm giữa mà lại bỏ mất phần mền đây em? Thôi thì "phóng lao thì phải theo lao", đã lỡ leo lên lưng cọp rồi thì ai dại gì nhào xuống cho bị cọp vồ? Vẫn biết tơ với lụa thì cũng phát xuất tự tằm, mà con tằm thì cũng chỉ là loài sâu chớ quý hồ chi đây mà anh phải chọn? Nhưng một năm mười hai tháng mà tháng mô lại không có rằm thì lại là một câu hỏi "bất thường"! Nhưng dù sao đi nữa thì anh cũng phải vận dụng cái "trí thông minh" để trả lời cái câu lắt léo:

    Em trèo lên cây cam cũng biết là cây cam khổ
    Em che chài em chọn lái, thì lái cũng là gai
    Một năm mười hai tháng, tháng đào hoa kết
    trái là tháng không rằm em ơi!

    Đối đáp như vậy thì còn bắt bẻ vào đâủ Vì chài và lái thì cũng lấy từ cây gai để thất để nối, mặc dầu lá gai còn dùng để làm bánh ít, được nhiều công dụng cho dân quê như cũng chỉ là loài cây cỏ dại mọc khắp ven rừng, thì có gì quý báu đâu mà phải chọn lựả

    Còn "tháng đào hoa kết trái" thì mới chính là cái tháng hiếm quý nhất trên đời, cho nên tháng ấy không có "ngày rằm" là phải, nếu ai không tin thì hãy cứ trồng hoa đào mà đợi xem!

    Bởi vì tháng ấy nó đằm thắm như tình cảm của các thanh niên thiếu nữ ở nơi đồng quê thôn dã tình cảm ấy nó thơm ngát như cỏ nội hoa đồng, chân phương như một màu bát ngát của cánh đồng lúa vàng, đang nằm trải dài phơi mình trong nắng sớm... Tình cảm ấy đã gói ghém một bản chất đôn hậu nhưng chân thành, đã thể hiện qua điệu hò câu hát của miền dân dã. Tâm sự ấy đã gắn liền với nếp sống hàng ngày như hơi thở, đem nguồn vui đến như bao tiếng cười dòn tan của trai gái trong làng, mỗi lần gặp nhau đầu ngõ.

    Khi mới mở mắt chào đời chúng ta đã nghe tiếng ru của Mẹ, tiếng hát của anh, câu hò của chị...Hòa cùng bao niềm yêu mến của bà con xóm giềng, là những chất liệu đã nuôi dưỡng cho chúng ta khôn lớn, ấp ủ cho chúng ta có một tâm hồn phong phú về nền văn học dân gian, mà nó vẫn tiềm tàng trong chúng ta, nó vẫn chiếm ngự nguy nga giữa lòng mọi người dù còn ở nơi quê nhà, hay không may phải nghìn trùng xa cách! Vì nền văn học ấy đã chất chứa đầy tính chất của dân tộc Việt, tạo nguồn vui cho gia đình và xã hội ..
  2. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Ðiệu Hát Hò Khoan Quảng Nam
    Trung Nhân
    Huế có điệu hò mái đẩy não nùng. Bình-định có nói vè buồn thê thảm. Quảng-nam có điệu hát hò khoan dí dỏm, dễ thương.
    Hò mái đẩy hay nói vè, thường thường đã có câu hát sẵn, người hát chỉ cần giọng tốt thuộc bài bản là có thể hát hò được. Trái lại, điệu hát hò khoan Quảng nam là lối hát "kiến tại", câu hát xướng hay đối, phải do mình đặt ra và hát lên ngay tại hiện trường, do đo ùngười hát phải sáng dạ, thông minh, thuộc nhiều điển tích. Một đêm hát hò khoan như một thi đàn xướng họa của lớp bình dân. Cũng bởi khó khăn này, cho nên điệu hát hò khoan thất truyền, kể từ khi xứ Quảng theo vận nước lâm vào cảnh chiến tranh, những câu hát nhân nghĩa bình thường ít ai ghi nhớ, chỉ còn những câu hát dí dỏm, hoặc châm chọc độc đáo được lưu truyền trong dân gian, để hát trong các buổi gặt lúa, giã gạo, giã vôi làm nhà v.v...
    Tôi gọi là hát Hò Khoan, vì sau mỗi câu hát thính giả đồng thanh hò phụ "Hố khoan, hố khoan hợi là Hò Khoan", cái buổi hát có một bên nam và một bên nữ.,có khi hát nhân nghĩa, trai gái kết bạn trăm năm, diễn biến đến hồi cần ông mai hoặc bà mối, thì trong đám người nghe, có lẽ ra tay giúp đỡ đôi trai gái, hát làm mai. Cái buổi hát hò khoan sôi động không bao giờ giống nhau. Có khi hai bên trai gái hát đố, hát xạo, và cũng có lúc hát tuồng tích. Nói chung tùy theo ngẫu hứng của buổi hội ngộ. Tham dự một buổi hát hò khoan mới thấy được tài thông minh độc đáo và dễ thương của giới bình dân xứ Quảng, bởi hát hò khoan, câu hát được nghĩ ra trong một thời gian rất ngắn, người không có tài ứng biến không hát được, đối phương dứt câu hát, thính giả hò phụ "Hố khoan hợi là hò khoan", chậm lắm là một hai phút, phải hát trả lời, nếu bí thì đành bỏ cuộc ra về, không thể nào để khoảng thời gian trống lặng, cái khó của điệu hát hò khoan là như vậỵ
    Câu hát hò khoan được truyền khẩu trong nhân gian,nhưng hình như không có ai ghi chép như ca dao, tục ngữ. Thuở xưa, dân chúng còn tiêu tiền kẽm, chưa có giấy bạc, đồng tiền hình tròn, lỗ vuông. Một cô gái kiêu sa cho mình như đồng tiền quí giá, hát rằng:
    Thân em thái thể đồng tiền
    Lớn thời ăn sáu nhỏ nguyền ăn ba
    Chữ đề thông bữu quốc gia
    Dân yêu quan chuộng nghĩ đà sướng chưa ?

    Không may cho cô ta, gặp phải chàng trai ngỗ ngáo, ứng khẩu đáp ngay:
    Thân anh thái thể chuổi trôn
    Ăn sáu anh cũng xỏ, ăn ba không từ
    Đi ra mua bán đời chừ
    Đồng sứt đồng mẻ anh không từ đồng mô
    Nói ra thì sợ mất lòng cô
    Chứ đường ngay tôi xỏ thẳng
    Lẽ mô cô giận hờn

    Đến nông nỗi này thì cô gái đành ngoe nguẩy bỏ đi, không quên liếc xéo chàng trai ứng đối hợp cảnh hợp tình. Lại một cô gái không dám ví mình như đồng tiền, gặp nhau cô nàng mời ăn uống đàng hoàng, nhưng có giòng máu Hồ Xuân Hương nên cô ta hát rằng:
    Chàng tới thiếp, thiếp dọn một bát mì tàu
    Hai bên thịt mỡ trắng phau phau
    Ở giữa có con tôm sú nhuộm màu ngân ta
    Chàng ăn rồi, chàng chẳng muốn ra
    Chàng kêu bầy trẻ, pha nước trà bưng lên
    Một chàng trai ứng khẩu hát đối:
    Thiếp tới chàng chàng dọn một dĩa rau
    Hai bên hai củ hành tàu
    Ở giữa có con cá tràu nằm ngang
    Ăn vô cho thấu bụng nàng
    Thực bất tri kỳ vĩ, mới biết của chàng là ngon
    Cái hay của câu hát đối là chữ "thấu", và câu kết đã ăn không rõ mùi vị ra sao, mà biết ngon. Một cô gái kênh kiệu hát câu hát sau đây, mà hình như từ xưa chưa tìm ra được câu hát đáp lễ:
    Đất em ở dựa bờ rừng
    Tây qua đạt sứ lại có chừng không sai
    Đất của em, một đám ngăn hai
    Giữa mương nước chảy hai bên thành bờ
    Nửa đám em để một tờ đoạn ngôn
    Phận chàng là cháu đích tôn
    Để làm chi ? Đàng trên lấn xuống, đàng dưới lấn lên ??
    Tức mình đội bộ xuống Sứ mà quỳ
    Chữ chàng đứng giữa, thiếp thì hai bên
    Câu hát hò khoan của một cô gái xứ Quảng nam đóng vai gái Huế, không rõ giận người tình thế nào, mà hát một câu độc, đáo để, không ai đối được. Kể cả chàng trai cùng các người tài cao học rộng. Câu hát như sau:
    Đất Quảng nam rộng đà ra sức rộng
    Đường ra kinh xa đã quá xa
    Anh ra làm chi mỗi tháng mỗi ra ?
    Anh ra một bữa cực ta ba, bốn ngày
    Tiếng Việt giàu ẩn ngữ và súc tích, nếu cô gái nói ra Huế thì câu hát chẳng có gì là độc, hơn nữa cô ta trách chàng ra mỗi tháng thì điêu ngoa vô cùng.
    Tương truyền ở Quận Đại Lộc có anh Trần Hàn xấu trai, mặt thì rỗ, lại thêm chột hết một mắt, nhưng anh ta hát hay nổi tiếng ở Quảng nam. Cao nhơn tắt hữu cao nhơn trị, anh xuống làng La Qua , quận Điện Bàn, gặp một cô gái hát chỉ hai câu, anh không tài nào đối được, đành bỏ nghề hát, tuyệt tích gian hồ. Câu hát rằng:
    Trần ai gặp lúc cơ hàn
    Rổ đan mặt mốt, xuống ngàn đổi khoai.
    Cái chữ khó của câu hát là chữ "Rổ" .Đan mặt mốt, nghĩa trắng là nghèo quá phải đan rổ tre long mốt để khoai, nghĩa đen lại là mặt rỗ hoa mè lại đui một mắt (mặt mốt nói lái là một mắt).
    Hát hò khoan là lối hát kiến tại, những buổi hội ngộ để hát, hai bên trai gái tự đặt câu hát, không bao giờ lặp lại câu hát cũ đã có kẻ hát rồi, những câu hát "Xạo" nói trên cũng do kẻ hát người đối trong một thời điểm nào đó, nhưng tâm lý quần chúng ưa thích, những câu hát châm chọc nên truyền miệng lưu lại mai sau. Còn những câu hát gái trai thì ít được lưu truyền , thông thường kẻ thấp cổ bé miệng, ưa trêu ghẹo bề trên, như hai câu hát của thân phận đi ở mướn sau đây:
    (Câu một)
    Hồi nhỏ tôi ở với cậu với mợ
    Mợ cho ăn cơm nguội
    Uống nước lạnh, ngủ nhà ngoài
    Đêm khuya đau bụng tôi lần tôi vô
    Mợ nghe sục sạt, mợ hỏi: đứa mô ?
    Thưa rằng, đau bụng con vô kiếm gừng
    Dang tay mợ rút mối dây lưng
    Độc thời con giải độc, chớ kiếm gừng làm chi ?

    (Câu hai)
    Hồi nhỏ tôi ở với cậu với mợ
    Cậu ăn rồi cậu bỏ cậu đi
    Mợ ở nhà mợ ngủ như Địch Nghi
    Quần áo tuột hết giống chi cũng không còn
    Đầy tớ lâu ngày thác thể bà con
    Chết thì con chịu chết
    Thấy đồ ngon con không từ

    Không phải hầu hết câu hát hò khoan là hát "Xạo", mà còn nhiều câu hát về tuồng cổ, về bổn phận làm trai với quốc gia, làm con với cha mẹ.
    Source: http://www.vietnhac.org/baivo/hoquangnam.html
  3. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Giọng hò Miền Nam
    Trần Văn Tám
    Hò là một trong những thể loại âm nhạc dân gian ở Miền Nam Việt Nam được du nhập bởi những đợt sóng di dân từ đất Ngũ Quảng (Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Ðức, Quảng Nam và Quảng Ngãi) vô vùng đất mới phía cực Nam của đất nước vào cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.
    Hò có sức hấp dẫn và quyến rũ lạ thường. Người ta gây cuộc hò trong các vụ cấy trên đồng ruộng, hò đối đáp ?ođuổi? nhau trên sông rạch, hò thi bên cối xay lúa, hò tâm tình bên cối giả gạo, hò ?obắt xác?T trong dịp cưới hỏi, mừng tân gia hoặc giỗ quảy?
    Lời hò chứa đựng nội dung trữ tình, phản ánh những mối quan hệ trai gái, quan hệ hôn nhân và gia đình, đề cao cách đối nhân xử thế.
    Hò trở thành một phong trào quần chúng, càng có nhiều người tham gia cuộc hò càng thêm rộn rả:
    Hò chơi phỉ dạ hai đường,
    Công anh ở trên băng rừng xuống đây.
    Tới đây không lẽ ngồi không,
    Cầm chày giả gạo cho đông miệng hò.
    Gặp phải cô nàng nhút nhát thì chàng trai phải giải bày:
    Hò ít câu có chi đâu mà sợ
    Chiều hai đứa lên bờ anh trả căn nợ lại cho em.
    Hò chơi hai gái hai trai
    Thưa cùng cô bác đừng ai nghi ngờ.
    Các cô e dè cũng có lý vì không phải là không có những anh chàng :
    Tay cầm bó mạ rẽ hai
    Miệng hò tay cấy cẳng xà lai?quèo nàng.
    Trong dân gian, hò, đối đáp thường là ứng khẩu, ngẫu hứng. Bà con gọi là hò môi hò mép. Bên trai và bên gái luân phiên đối đáp, bên bắt, bên bỏ, bên buộc, bên mở. Nếu ?okẹt? thì tung ra những câu hò gỡ gạc:
    Câu hò tôi đựng một khạp da bò
    Ðến khi hò cuộc tôi mò không ra.
    Câu hò tôi đựng một bầu
    Ngủ đêm đến sáng nó rầu nó đi.
    Câu hò tôi đựng trong lu,
    Tới khi hò cuộc tôi chổng khu mò hoài.
    Hò huê tình (nhiều người gọi không đúng là hò sông Hậu) vốn phổ biến từ Ðồng Nai xuống miền Cà Mau, ra tận đảo Phú Quốc. Lối hò này bình dị, dễ hò, nốt nhạc lượn trên thang bốn âm (re, fa, sol, la).
    (còn tiếp)
  4. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    Hò cấy: Ở khắp miền Nam có hàng chục giọng hò cấy khác nhau. Hò cấy kiểu nào cũng đều phải trải qua ba chặng hò:
    Chặng một là hò rao, hò dạo, hò thăm hỏi, hò chào mời.
    Có một anh chàng từ xa đến, lạ nước lạ cái, bị bao quanh gần một tiểu đội hoa khôi trong một vạn cấy. Anh ta bèn ?onịnh đầm? tía lia như vầy:
    Tôi chào cô Hai như sao mai rạng mọc
    Tôi chào cô Ba như hạt ngọc lung linh.
    Tôi chào cô Tư như thủy tinh trong vắt.
    Tôi chào cô Năm như hương ngát bông lan.
    Tôi chào cô Sáu như hào quang lóng lánh
    Tôi chào cô Bảy như cuốn sách chạm bìa vàng.
    Tôi chào cô Tám như hai làng liễu cẩn.
    Chào cô Chín như rồng ẩn mây xanh
    Chào cô Mười như chim oanh uốn lưỡi trên cành.
    Chào rồi tôi chụp hỏi rành rành
    Hỏi căn cơ hà xứ phụ mẫu cùng huynh đệ thiểu đa
    Hỏi cho biết cửa biết nhà
    Nhờ ông mai tới nói, nay tới chết tôi cũng quyết giao hòa với một cô.
    Chặng hai là hò đối đáp, hò kết bạn, hò xe duyên. Ðây là giai đoạn chính của cuộc hò. Không khí lúc này trở nên sôi nổi, gây cấn.
    Bên gái đố:
    Chữ gì chôn dưới đất
    Chữ gì mang không có nổi
    Chữ gì gió thổi không có bay?
    Trai như anh mà đối đặng thì em ngửa bàn tay cho ngồi.
    Anh chàng không phải là tay tầm thường, đáp liền:
    Chữ thọ đường chôn dưới đất
    Còn chữ hiếu cất trên trang
    Chữ tình mang không có nổi
    Còn cái chữ tạc đá bia vàng gió thổi không có bay?
    Anh đà đối đặng, vậy em hãy ngữa bàn tay cho anh? ngồi!
    Cô nàng vẫn chưa chịu thua đổi đề tài:
    Hò ơ? con trâu già kén cỏ, còn con bò nhỏ kén rơm.
    Anh đừng chê em ốm yếu lưng tôm.
    Ði kiếm nơi cho mập đặng anh ôm phỉ tình.
    Anh chàng ?olí lắc? không kém:
    Hò ơ? Em đừng chê anh nhỏ thó mà anh buồn tình.
    Vậy chớ con thằn lằn kia bao lớn mà nó ôm cột đình cũng sát đeo!
    Hò ơ? Em chớ thấy anh nhỏ thó mà anh rầu.
    Vậy chớ con ong kia bao lớn nó chính trái bầu cũng phải teo.
    Chặng ba là hò giã biệt, hò tiễn bạn, hò hẹn:
    Trưa mười hai giờ
    Nàng với tôi bước cẵng lên bờ
    Mặt đối mặt tôi giã từ
    Lòng khăng khăng rưng rưng nước mắt
    Ðây nhìn đó dạ sầu phủ mặt
    Ðó nhìn đây lòng nọ ai bi.
    Có thương nhau thì xin nhớ mảnh tình si nơi này.
    Chia tay làm sao không bịn rịn, phải chi:
    Ve kêu réo rắt đầu truông
    Liệu bề thương đặng thương luôn cho tới già.
    Trong các phong cách hò thì có hò nhơn đạo và hò ngạnh trê.
    Hò nhơn đạo là hò sành điệu nghệ. Chẵng những điệu hò phải hấp dẫn, lôi cuốn mà lời hò cũng phải mang ý nghĩa lành mạnh:
    Hò nhơn đạo chớ không phải hò gạo hò tiền
    Ðó có thuốc ngon xin cho một điếu, không phải vì ghiền tôi xin.
    Trái lại, có nơi có lúc hai bên trai gái đối đáp đến độ đỏ mặt tía tai, dùng những câu hò xốc hông khiến đối phương nhức nhối như bị ngạnh cá trê đâm phải (hò ngạnh trê) :
    Mới gặp gái mà đã chọc ghẹo:
    Nước Tân Ba chảy qua Vàm Cú,
    Thấy bộ em chèo cặp vú muốn hun.
    Cô nàng tức khí:
    Anh muốn hun vậy mà cũng khó
    Anh trở về bắt ? chó anh hun.
    Chàng trai tự ái khiêu khích:
    Nắm tay em, anh hỏi có ngằn
    Từ nhỏ tới lớn có đãi đằng ai chưa?
    Cô nàng không chịu thua, ?ongạnh trê? liền:
    Thân em như thể trái dừa,
    Ðãi người trên trước, cặn thừa đãi anh.

    (còn tiếp)
  5. yenmusic

    yenmusic Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    175
    Đã được thích:
    3
    (tiếp theo và hết)
    Từ lâu có người cho rằng ở chỉ có hai lối hò tiêu biểu: hò Ðồng Tháp và hò Sông Hậu. Thực tế thì có trên vài chục lối hò như: hò mái cụt, hò mái dài, hò mái ba, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò mái ố, hò chèo ghe, hò cấy, hò ố ả, hò í á, hò khoan, hò giọng đồng, hò hơ, hò lơ, hò thơ, hò xay lúa, hò giã gạo, hò thẻ mực, hò cống chùa, hò bản đờn, hò ống, hò đưa linh.v?v?
    Ðặc biệt hò mái dài Mõ Cày (Bến Tre) không giống hò mái Thốt Nốt (Hậu Giang), lại càng xa lạ với hò mái dài Ðức Hòa (Long An). Có thể nói hò cấy rất phong phú , là đặc sản của một vùng nhất định. Hò cấy sông Bé, hò cấy Bến Tre, hò cấy Cửu Long, hò cấy Hậu Giang, hò cấy Kiên Giang đều mang dáng dấp riêng, không thể coi là những dị bản. Ở Hậu Giang, bà con có thể phân biệt đươc 3 loại hò cấy ở Mỹ Tú, Long Mỹ và Phụng Hiệp. Tại Tân Uyên, sông Bé có loại hò cấy nổi tiếng chẳng giống ở bất cứ nơi nào về làn điệu (dù lời hò có thể trùng).
    Hò ơ ớ? ruông gò anh cấy lúa Nàng Co
    Em thương anh thì thương đại đừng để anh gò mất công!
    (Yêu mà cũng làm biếng)
    Ruộng gò anh cấy lúa Nàng Xe
    Anh thấy em còn nhỏ anh ve để dành
    (Yêu mà cũng biết lo xa)
    Từ lâu Bến Cát là nơi sản sinh những người thợ cấy giỏi, những giọng hò vang bóng một thời:
    Bên hữu con thiên lý mã, bên tả con vạn lý vân
    Hai bên nhắm cũng cân phân
    Mà lòng anh muốn cỡi một lần hai con.
    Ngoài ra còn một hình thức diễn xướng hết sức thú vị vốn được lưu hành từ Bắc chí Nam: đó là loại hò ống (hay hát ống). Theo lời kể của nhiều nghệ sĩ xưa thì tại đất sông Bé (Thủ Dầu Một, Thuận An, Tân Uyên, Bến Cát ) đã từng thịnh hành hình thức này. Cứ mỗi đêm trăng thanh gió mát,trai gái rủ nhau ra đồng hò hát đối đáp. Người đối hò hát qua ống tre, một đầu ống được bịt giấy quyến (giấy quấn thuốc rê) hoặc da ếch, bao tử heo, nối bằng sợi chỉ dài với ống tre cho người nghe như điện thoại bây giờ:
    Hò quăn hò quíu
    Hò trong ống điếu hò ra
    Hò cho tuyệt diệu bớ điệu chung tình
    Con nhạn bay cao khó bắn
    Có cá ở ao huỳnh lại khó câu.
    Hình thức hát ống này cũng thấy lưu truyền lâu đời trong sinh hoạt âm nhạc dân gian của người Chàm ở Thuận Hải. Và tận đất tổ Hùng Vương (Vĩnh Phú) ?olại có hình thức hát ví thật là kỳ lạ: người hát ngồi trong nhà hát đối đáp qua một ống tre bịt da ếch và nối ống của người kia bằng một sợi chỉ dài như một chiếc telephone cổ xưa vậy. Tuy nhiên cuộc hát không vì thế mà kém vẻ hấp dẫn lôi cuốn.
    Ðã từ lâu, không ít người cho rằng hình thể đất đai ở miền Nam làm ?oruộng đồng cò bay thẳng cánh? sông rạch chằng chịt nên các điệu hò miền Nam mang âm hưởng an nhàn thư thái, trải rộng triền miên, ít có tiết tấu khỏe khoắn, mạnh mẽ. Ðiều nầy có phần đúng, nhưng chưa đủ! Nếu ta chèo ghe, bơi xuống lai rai trên cánh đồng Tháp Mười mùa nước nổi hoặc thả chèo xuôi theo con nước lớn ròng trên những sông rạch kinh xáng? thì tội gì phải lấy hết gân cốt để ?ohò hụi? cho mệt xác! Ở đây không có thác ghềnh chảy xiết, ít thấy cảnh sinh hoạt lao động kéo bè,kéo gỗ? nên khó sản sinh nhưng lới hò dồàn dập, vạm vỡ nhằm huy động sức lực theo chu kỳ để nâng, để kéo ,để khiêng một vật gì đi vượt qua chướng ngại. Còn cấy lúa là một công việc tuy thấy nhẹ nhàng, nhưng lập đi lập lại cùng động tác mãi rồi cũng đâm ra nặng nhọc và uể oải dưới sức nắng chói chang, nên bà con hò lơ để giải khuây, để giao lưu tình cảnh, nhằm quên đi nỗi nhọc nhằn mỏi tay, mỏi chân, đau lưng vì phải khòm cả ngày cho lao tác. Cho nên hò cấy không phải là hò tập thể có tiết tấu gãy gọn, dồn dập để điều khiển hàng chục tay cấy một cách máy móc. Chủ ruộng thường hay gây cuộc hò để khuyến khích bà con cấy chậm mà sâu và thẳng lối.
    Hò có nhịp điệu thôi thúc như hò xay lúa (còn gọi là hò giằng) của Gò Công; uyển chuyển như hò cổng chùa, hò bản đờn, hò lơ, khoan thai như hò í á hò khoan, của Bình Chánh, nhịp nhàng như hò giã gạo của Chơn Thành; sôi động như hò thơ của Ðức Hòa; khỏe mạnh như hò thẻ mực của Kiên Giang v?v? Ðặc biệt hò giã gạo ( Sông Bé) và hò thơ (Long An) đều theo nhịp 6/8. Hò xay lúa Gò Công có 2 loại, mỗi loại đều lệ thuộc hoàn cảnh sinh hoạt và mục đích diễn xướng. Nếu có nhiều xay lúa thi nhau thì sử dụng loại hò giằng cối xay đến chóng mặt. Càng cối xay thì kéo về phía ngực phải ăn khớp với nhịp mạnh của câu hò, nếu không thì thua cuộc.
    Xay lúa xong trai gái kéo nhau về nhà, chỉ còn lại một cặp vốn có tình ý với nhau trước. Bấy giờ nếu không con lúa thì đổ trấu vô cối mà xay vậy! Mục đích của đôi trai gái nầy là để tỏ tình giao duyên nhân ngãi. Mà xay trấu là cái cớ cho họ gần gũi nhau thì dại gì mà hò giằng cối xay cho đổ mồ hôi mất hứng! Vì vậy mà họ rỉ rả hò đối đáp nhau một cách khoan thai, ung dung, mùi mẫn.
    Sưu tầm

Chia sẻ trang này