1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cay Chua Mặn Ngọt ( Hot Sour Salty Sweet )

Chủ đề trong 'Ẩm thực' bởi hoanghac1, 13/04/2004.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. nore

    nore Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/01/2002
    Bài viết:
    1.060
    Đã được thích:
    0
    Chào @hoanghac1. Mình vẫn đọc topic này của bạn từ đầu và thấy nó rất hay. Mình thấy nó nhẹ nhàng và đem lại rất nhiều điều mới mẻ cho mình, không chỉ về các món ăn lạ lẫm mà còn có cả văn hoá, địa lý... của những tộc người, những địa danh xa lắc xa lơ mà có lẽ mình sẽ chẳng thể nào đặt chân đến được. Bạn tiếp tục nhé.
    P/S: Rất khâm phục bản dịch tiếng Anh của bạn đấy.
    To em [nick]annylinh_tieuyeutinh [/nick]: Thế mà chị đang định than phiền bài viết của em đây. Đây là một trong những topic hay và có giá trị đấy chứ. Nếu em muốn học nấu ăn, muốn đọc các công thức món ăn thì Ẩm thực đã có rất rất nhiều các topic như vậy, em có thể vào đó để xem nhé. (Ở topic nào thì em có thể vào [topic]197392[/topic] để xem cho cụ thể.)
    Được Nore sửa chữa / chuyển vào 16:26 ngày 17/06/2004
  2. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào bạn Nore và các bạn

    Cám ơn bạn đã vào thưởng thức , HH sợ không ai coi nên lúc này hơi lười . Sau đây là bài của bạn HPH trong vietbao
    Ươm trồng nhót
    Ha` Phu+o+ng Hoa`i
    Nhót là cây ăn quả dạng bụi có cành vươn dài leo cao tạo dàn cho bóng mát và quả ngon ngọt hoặc vị chua đậm đà, giàu dinh dưỡng, đặc biệt là sinh tố (có nồng độ và hàm lượng vitamin C cao hơn nhiều so với các loại hoa quả khác).
    Không như những loài cây ăn quả khác, do tính hoang dại ở nhót còn cao nên khả năng đấu tranh sinh tồn với diễn biến bất lợi của môi trường sống của nhót rất cao, nên từ khâu chọn giống, ươm trồng, bảo vệ, chăm sóc... rất dễ dàng.
    Những "nhà vườn" thâm canh nhót thường tiến hành tuần tự các bước ươm trồng cho đến khi thu hoạch như sau: Chọn những cành (hoặc hom) bánh tẻ, có màu vỏ trung gian giữa gốc và ngọn của cây mẹ (gốc mẹ) đã ra bói (để có sẵn kích tố sinh sản phát nụ trổ hoa sớm), đang sung sức, không bị sâu bệnh (nhất là sâu đục thân) hoặc đã bị những vết thương liền sẹo, chồi non đã nhú... Ở nơi lộ sáng (có vỏ dầy chứa nhiều nhựa sống - nhựa luyện) để gây giống. Sau đó vin những cành này cho "tiếp đất" phủ lên chỗ này 1 lớp đất màu, thường xuyên ẩm. Chỉ sau 3-4 tuần (mùa nóng ẩm) hoặc 5-8 tuần (mùa hanh lạnh) là có thể cắt gốc, tạo bầu ra ngôi, định vị. Cũng có thể đợi sau khi thu hoạch, lúc kích tố sinh trưởng lấn át hoạt động của kích tố sinh sản hay vào giữa mùa thu ta có thể tiến hành giảm hom rất dễ dàng. Cũng lấy những đoạn giữa (bánh tẻ) của cành lộ sáng, chặt vứt gốc bằng ngọn thành từng hom dài 25-30cm, cắt cụt lá dưới, hớt 2/3 phiến lá ngọn rồi ngâm ngập 10-15cm vào đất tơi xốp, ẩm che mưa nắng cho đến khi thúc chồi, qua đông đến mùa xuân có thể trồng được.
    Bộ rễ chùm phát triển nên không cần lớp đất canh tác dầy nhưng phải rộng ?obóng tán? để nhót được cung cấp dinh dưỡng khoáng đầy đủ. Muốn cho năng suất cao liên tục và giữ được phẩm chất tốt, thường thúc cho cây này hỗn hợp phân: hữu cơ (hoặc tốt nhất là phân bắc) 30- 40%, bùn khô hoặc sa bồi nỏ đập vụn 30-40%, xỉ than hoặc tro hoai 10%, còn lại là NPK vi sinh 5% và vữa bả, vôi con kiến (thậm chí mạt đá vôi CaC03 cũng được) 5%- tất cả tính theo khối lượng. Trộn đều và rắc dưới bóng tán xung quanh gốc 1 lớp dày 10-15cm rồi xới xáo, tưới nhẹ cho đủ ẩm.
    Làm thanh dẫn phi kim loại (tốt nhất là tre, gỗ) cho nhót leo dài, loại bỏ những cành tăm, khuất sáng để tập trung chất dinh dưỡng cho các cành chủ vươn dài. Định hình cho dàn hoặc tán cây khi cành còn non, quét nước vôi bão hoà vào gốc cây.
    Sau khi trổ hoa cần bón 2 đợt: đón quả và đền quả bằng rắc hỗn hợp phân đa, vi lượng trên.
    Canh trai, canh hếnHình như người Việt cổ buổi sơ khai chưa có thói quen và chưa biết săn bắn (?) mà chủ yếu đấu tranh sinh tồn bằng phương pháp hái lượm. Hái những thứ gì có thể ăn được ở trên cây hoặc lượm những sản vật thấy được trên mặt đất; dần dần mò lặn những sản vật dẫu gắn với mặt đất, nhưng có thể lại khuất chìm trong nước, dưới lòng sông, đáy đầm phá, nền các hồ ao... Di chỉ từ hàng vạn năm xưa mà bây giờ chúng ta thấy được, đó là đống vỏ sò trong Động người xưa ở vườn rừng quốc gia Cúc Phương, nó cho ta sự suy đoán phù hợp. Bởi vì mảnh đất cha ông ta xưa sinh sống là mênh mông một dải thềm phù sa cổ, cho nên thuở ấy, nguồn sống chính của người ********* sinh là các giống thủy sinh, đa phần lại chỉ là loài nhuyễn thể. Lý do, chúng sinh sản nhanh, di chuyển chậm, dễ kiếm tìm thu lượm, lại có nhiều cách chế biến, sử dụng hết sức giản đơn.
    Phải vì mang cái gien truyền thống ấy, mà ngày nay hầu hết cư dân đồng bằng Bắc bộ; nơi nào cũng có nét sinh hoạt tương đồng. Cái họ lo chủ yếu cho sự sống, chỉ là tìm cách trồng tỉa thu hoạch lấy củ khoai, hạt lúa, bắp ngô... Còn lo cho từng bữa cụ thể hàng ngày, họ không quá quan tâm như dân thành phố. Đúng vậy, đến bữa, nếu là người ở nhà thì họ ra dàn cắt nửa quả bầu, hoặc vào vườn cắt quả bí xanh; nếu là người đi làm đồng thì khi về thể nào cũng đã chuẩn bị sẵn mớ rau lang, rau đỗ hoặc nắm rau tập tàng, về rửa sạch cho vào nồi nước, nêm một chút mỡ, một chút muối mắm, thế là có được nồi canh thơm lừng hương vị đồng quê mộc mạc, chan vào vừa mát ruột. Kèm mỗi bát cơm chỉ cần thêm vài quả cà pháo muối xổi hoặc vài con tép đồng kho khô, thì đảm bảo khó có bữa tiệc đặt cầu kỳ nào có thể vừa với miệng khách hơn.
    Với cách sống như thế hàng nghìn đời nay người nông dân sống trong các làng mạc thôn xóm, hầu như rất ít đổi thay trong cách ăn uống, mà từng thế hệ chàng trai cô gái vẫn trưởng thành, khỏe mạnh, xinh tươi. Dẫu cho những năm gần đây đổi mới thì cũng chỉ đổi về hình thái nhà cửa, đồ gia dụng, đường làng, ngõ xóm... Còn trong sinh hoạt vật chất thì làng nào cũng vẫn giống làng nào, ấy là những món ăn từ loài thủy sinh nhuyễn thể: trai, hến, trùng trục, ốc nhồi, ốc vặn, ốc bươu... Những thứ này, hiện nay không chỉ làng quê, mà cư dân thành thị còn coi chúng vào hàng đặc sản. Mỗi ngày có hàng vạn thực khách nhu cầu, và hàng triệu nhân sinh sống bằng công việc mò lặn, bắt vét, bán buôn chế biến... đem về ngâm một lát trong nước sạch cho chúng nhả hết cặn bã, rồi rửa sạch, cho vào chiếc nồi đồng không cho nước, chỉ cho thêm chút muối, chúng sẽ há miệng tự tiết ra nước, nước ấy cất đó, lát sau nhặt hết ruột trai, hến, trùng trục lấy nước nóng làm vệ sinh sạch sẽ, con nào ruột lớn quá thì thái nhỏ cho đều nhau.
    Cuối cùng, đổ vào nồi nước luộc màu hơi đục lờ lờ; nếu là mùa nhót thì cho thêm mươi quả nhót, nếu là mùa khế thì cho dăm quả khế chua tách múi, cộng với hành răm, thìa là mắm muối, rồi tùy theo lượng người ăn mà pha thêm nhiều ít nước đun sôi. Điều cần lưu ý, trước khi đổ thịt trai hến vào nồi, phải xào với mỡ và hành củ thái nhỏ cho thật nổi vị... khi đã đun thật kỹ là ta đã được nồi canh trai hết chua chua, dìu dịu lại man mát, thơm thơm. Người dân quê còn có món ăn dự trữ quanh năm, đó là vại cà bát muối kỹ, rồi chuyển dầm tương, miếng cà thái ra hồng hồng như miếng mứt hồng Tàu, nhưng sao mà nó hợp với cái vị canh trai, và một miếng cơm khi đã chan canh, cắn một chút cà đậm, mặn, giòn, thơm...
    Theo Cẩm nang tiêu dùng
    Nhót làm thuốc
    Trong y học cổ truyền, lá, rễ và quả cây nhót (còn gọi là cây lót, hồ đồi tử) có thể làm thuốc; dùng tươi hay phơi khô. Trong quả nhót có axit hữu cơ, lá nhót có tanin, saponozit, polyphenol.
    Lá nhót (dùng tươi hay phơi khô) chữa lỵ, cảm sốt, hen suyễn, nhiều đờm. Dùng 6-10 g/ngày dưới dạng bột hay thuốc sắc.
    Quả nhót chữa lỵ, tiêu chảy, nhân quả có tác dụng sát trùng, trị giun sán.
    Rễ nhót: Nấu nước tắm chữa mụn nhọt, không kể liều lượng.
    Bún Nhót
    Có tới trên chục món bún khác nhau. Song chỉ riêng bún riêu quả nhót nấu với trứng cua và bún cá rau cần thì đến mùa mới có. Cuối tháng 3 âm lịch, cây nhót trĩu quả chín đỏ vườn cũng là mùa cua đồng sắp đẻ. Nồi canh cua đồng có nhót, trứng cua ấy chan vào bát bún làm nổi lên sắc màu rực rỡ chói chang mà cũng khác hẳn mùi vị các loại bún riêu cua không có nhót, nhung cũng chẳng thơm ngọt bằng bún cá rau cần.
    Muốn ăn bún cá rau cần, cứ phải đợi đến mùa rau cần vào dịp tháng chạp cuối năm ta tới cữ tháng giêng, hai đầu xuân. Rau cần kết duyên với bún cá gợi mùi thơm ngát món hương quê. Bún cá mà thiếu mặt rau cần chẳng khác gì cô gái vô duyên ngồi khép nép một mình, không nổi sắc cũng chẳng đưa hương, bát bún cứ chông chênh, nhợt nhạt chẳng hề thơm mùi cá.
    Ở nông thôn miền Bắc sau ngày tát ao bắt cá hớt tôm, lòng ao sâu lút bùn đen, người ta vội cấy rau cần. Chỉ sau hơn một tháng là đã xanh rờn, sau hai tháng dọc cần cao vút quá gang tay, thế là hái ăn được, rau còn non chưa già.
    Còn cá nấu bún thường là cá quả từ ba lạng tới nửa cân. Cá đánh vẩy, chặt vây xong, lọc lấy hai bên lườn thái mỏng rồi bỏ chảo chiên giòn cháy cạnh. Xương cá và đầu cá bỏ vào một nồi khác đổ đầy nước ninh nhừ, nêm gia vị, thêm ít dọc hành tươi, thìa là thái vụn, bỏ cả vào nồi đun sôi lại để làm nước chan.
    Rau cần nhặt bỏ hết rễ, rửa sạch bùn đem thái khúc rồi xào tái cùng với những miếng cà chua bổ dọc miếng cau: Khi ăn mỗi tô bốc một lượng bún vừa đủ, gắp 2/3 cần xào tái, 1/3 cần còn sống phủ lên mặt bún, cuối cùng rải những miếng cá rán, rắc tiêu bột lên trên và múc nước canh sôi bỏng chan ngập bát, ăn ngay lúc đang nóng.
    Nhìn tô bún cá bốc khói thơm phức ngửi đã muốn ăn. Và đến khi dưa vào miệng cái chất dai dai ngầy ngậy của cá béo, cái mùi thơm thanh thanh của rau cần tái và sống trộn lẫn vị ngọt đậm của thứ nước dùng ngấm từ xương và đầu cá tiết ra? chẳng ai ăn chỉ một tô mà đã muốn đứng dậy vì chưa thấy đã. (VHNTAU)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Mời thăm trang Ca Dao Tục Ngữ http://e-cadao.com với trên 20,000 câu

    Hôm qua đã mời các vị ăn món trái Nhót hôm nay xin dọn món Don mời quý vị xơi. Don không phải thuộc loại thực vật mà là loại hào hến
    Don
    Từ bao đời nay người dân Quảng Ngãi đã biết tận dụng những sản vật sẵn có ở địa phương để chế biến những món ăn độc đáo. Các món đặc sản này bình dị nhưng đậm đà phong vị quê hương, ngon miệng và giàu chất bổ dưỡng. Don là một trong những món ăn rất độc đáo của Quảng Ngãi, nhẹ, mát, bổ, rẻ tiền và hấp dẫn. Con don thuộc họ nhà hến, thân bọc bằng hai nửa vỏ úp nhau nhưng don nhỏ hơn hến và chỉ có ở sông Quảng Ngãi. Người ta đi cào don như cào hến. Nấu don thường theo tỉ lệ một bát don vỏ hai bát nước. Cách đãi don cũng như cách đãi nấu hến. Khi don chín, đãi bỏ vỏ, lấy ruột cho vào nước luộc. Đó là cách ăn một lần chung cả nước lẫn cái. Ruột don ít nhưng nước don thơm ngon, vừa ngọt, vừa thanh.
    Ở thị xã Quảng Ngãi có thể gặp don bán khắp nơi, từ các quán sang trọng đến các gánh vỉa hè. Dân sành điệu thường ăn don gánh. Do ở quán, cách nấu bị pha tạp và chủ quán thường hay sử dụng don làm sẵn để vào tủ lạnh. Ngày tết don bán rất đắt hàng. Người bán thường nấu dễ dãi, đại khái cho kịp khách. Dân ghiền phải đi lùng don gánh. Có du khách từng rất thích thú khi một lần được ăn món ?oDon? bán ở vỉa hè. Người bán bỏ ra một chồng bánh tráng nướng, một chén tương ớt và một đĩa đậu phộng rang vàng ươm. Người bán hàng múc cho khách một tô nước màu có rắc khá nhiều hành ngò. Khách đón nhận lấy tô, bỏ tương rắc đậu vào rồi khuấy nhẹ, từ dưới bát nổi lên những lát hành tây xắt mỏng và những con trông giống như con hến nhưng bé thua con hến 2-3 lần. Đấy chính là món ?oDon? một đặc sản của văn hóa ẩm thực tại thị xã Quảng Ngãi.
    Những món ăn ngon cũng được chế biến từ don như canh don, cháo don, gỏi don. Cách ăn ngon và tốn kém hơn là làm món ?oruột don xào? với miến, bún, bánh tráng hoặc bánh tây để nhắm với rượu, với bia. Đây cũng là món ăn đãi khách, bạn bè rất đặc biệt, đậm đà hương vị quê hương.( T/CQ H)
    Nếu quý vi thấy ăn Don chưa đã thèm thì xin trao cho quý vị nguyên một thực đơn gồm những món quốc hồn quốc túy của cả nước. Tha hồ mà chọn
    Món ăn 3 miền
    http://www.saigon.let/dulich/amthuc.htm
    Nếu cái link thực đơn trên không vào được thì thử cái nầy:
    http://e-cadao.com/queta/monanbamien.htm
    Ha` Phu+o+ng Hoa`i
  3. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    MENGHAN:
    We didn?Tt have a single good night?Ts sleep in Menghan (a small village on the Mekong at the southern tip of Yunnan; see map, page 6). Sleeping on the wooden floor of the old thatched house built high up on stilts, like every Dai house in Menghan, we heard chickens and other creatures nibbling and poking around right under our heads all night long. And then there was the distillery, also beneath our room, and the smell of the fermented rice in all those old wooden barrels. The idea that it could all explode crossed our minds, which didn?Tt help make getting to sleep any easier.
    Days were great, though. Better than great. We were, we think, only the second lodgers ever to set foot in the Dai guest house. It was the first lodger, an Englishman, whô?Td told us how to find it. The family that ran the guest house had decided to rent out two spare little rooms, and they?Td pulled him off the street. Five day later, hê?Td reluctantly left town; hospitality at the Dai guest house was something pretty special.
    When we first arrived, wê?Td barely had time to put our bags down before Dom and Tashi had disappeared with the family?Ts two teenage girls and a couple of their friends. They went for ice cream, then for a motorbike ride (four people per motorbike), then to a temple festival, where they had grilled tofu with chile sauce, then back for another ice cream. Meanwhile, we had lunch.
    We had a bowl of rice, an egg and tomato stir-fry, a grilled river fish wrapped around a ton of fresh coriander, a tempura made with an unknown-to-us tree leaf from the garden (served with its own chile sauce), and a fresh Dai salsa, spicy as could be. It was so good that by the time we were finished, we were already trying to imagine dinner.
    So, like the Englishman, we moved in. They adopted us, and we adopted them. Every day the girls went to school in the morning and again in the early evening, and while they were at school, Dom and Tashi were sad and slow. But then around seven-thirty at night, long after dark, wê?Td hear laughs and giggles coming through the night, and then suddenly wê?Td see their faces, and the faces of their friends, and then off they?Td all go together again into the dark night, Dom and Tashi in tow, in heaven.
    ?oDo people in Thailand look like me?? the mother, Mae, asked us.
    ?oWell, yes, sort of,? we answered. It seemed strange, she being Dai, speaking Thai, and never having been to Thailand, which is not so far away. And how could we explain that to us she looked more Thai then people sometimes look in Thailand, and that Menghan looked more Thai than towns today. All the while we were there, we had the feeling we were seeing the Thailand of several generations past: the old wooden houses built high up on stilts, the modest but beautiful temples, the graceful walk of people who have spent little time with cars.
    Perhaps, we thought, as national borders in the region continue to open, once again the Dai will come to know their cousins, the Thai, from the country to the south.
  4. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Làng Menghan
    Khi ở Menghan , một ngôi làng nhỏ bên bờ sông Mekong , nằm về hướng cực nam của Vân Nam , chúng tôi không có đến một đêm ngủ ngon . Ngủ trên nền gỗ của một nhà sàn mái lợp tranh đã cũ kỷ lâu đời . Nhà này cũng như bao nhà sàn của người Đại ở Menghan , chênh vênh trên những cây cột cà kheo . Chúng tôi nghe tiếng gà gáy và nhiều tiếng kêu do côn trùng muông thú rồn rột gậm nhấm hay lọc cọc dưới ngay sau đầu chúng tôi . Cả đêm như vậy . Và lại còn có một hầm cất rượu sau phòng ngủ chúng tôi , mùi gạo lên men nồng nặc bay lên từ vài cái lu gỗ cũ . Tư tưởng lộn xộn chuyện này qua chuyện kia cũng không làm chúng tôi ngủ dễ dàng hơn . Dù sao ban ngày vẫn đẹp đẽ , tuyệt diệu hơn . Chúng tôi nghĩ rằng , chúng tôi là lữ khách thứ nhì từng đặt chân lên nhà khách của người Đại . Một người Anh , từng là khách trọ đầu tiên đã biểu chúng tôi như thế . Cái gia đình cho thuê nhà khách quyết định don dẹp để cho mướn hai phòng ngủ nho nhỏ dự bị , và họ đuổi ông Ăng lê ra ngoài đường . Năm ngày sau , ông ta lưỡng lự rồi bỏ thị xã ra đi ; sự hiếu khách của người Đại đôi khi cũng khá lạ kỳ đặc biệt .
    Lúc chúng tôi vừa đến , chưa kịp có thì giờ bỏ hành lý xuống , thì Dom và Tashi biến mất với hai cô gái con chủ nhà , tuổi vừa mới lớn và cùng với vài đứa bạn . Chúng nó rủ đi ăn kem , và rồi ngồi xe lôi đi rong chơi . (Xe lôi gắn máy có thể chở được bốn người ) , và rôì kéo tới một ngôi chùa đang có lễ lạc gì đó , chúng ăn đậu hủ nướng với tương ớt , rồi lại rủ đi ăn kem . Trong khi đó chúng tôi đã ăn xong bữa trưa .
    Chúng tôi được một chén cơm , một quả trứng và một trái cà chua đã chiên , một con cá nướng , bắt từ sông, được bọc kỹ bằng hàng đống lá ngò tươi xanh , một món tempura không biết gói bằng lá cây gì , mà họ hái từ vườn rau của họ (ăn với loại tương ớt riêng của họ ) , và món salsa ( sốt cà chua) cay ơi là cay . Nó ngon đến nỗi , khi vừa ăn xong , chúng tôi lại mường tượng đến bữa ăn tối kế tiếp .
    Thế ư ! Như gã Ăng lê kia , chúng tôi dọn vào . Họ tiếp chào chúng tôi và chúng tôi gật đầu chào lại họ . Mỗi ngày vào buổi sáng các cô gái đi học và cứ đến xế chiều họ lại đến trường nữa , Dom và Tashi buồn rũ người ra , chả thiết tha
    gì đến ăn uống . Nhưng đến khoảng bảy giờ rưỡi tối , đêm khuya về chúng tôi nghe những tiếng cười giòn và khúc khích , và đột nhiên chúng tôi nhìn thấy những khuôn mặt chúng nó , và mặt mày bạn bè tụi nó , và thoắt một cái , chúng biến mất tiêu cùng với nhau trong đêm tối , Dom và Tashi theo đằng sau , trong cảnh Thiên Đàng .
    Bà mẹ , tên Mae , hỏi chúng tôi :
    - Người bên Thái Lan nhìn có giống tôi không ?
    Chúng tôi trả lời :
    - Well , à à , vâng , một phần nào đó . Chuyện có vẻ là lạ , bà ta là người Đại , nói tiếng Thái và chưa từng bao giờ tới đất Thái , miền đất này cũng không xa nơi đây bao nhiêu . Làm sao chúng tôi có thể giải thích cho bả hiểu được , đối với chúng tôi bả nhìn còn giống người Thái mà chúng tôi đôi khi gặp ở đất Thái , và người dân làng Menghan trông nhìn , còn hơn người xứ Thái ngày nay . Tất cả những gì chúng tôi còn ở nơi đây , chúng tôi có cảm giác như là trông thấy Thái Lan về nhiều thế hệ trôi qua ; những ngôi nhà cheo leo trên dốc núi , xây trên cột kèo , các ngôi chùa khiêm tốn nhưng tuyệt mỹ , những bước đi duyên dáng của những con người rất ít đi xe ô tô .
    Phải chăng , chúng tôi nghĩ rằng , khi biên giới của đất miền Mekong được mở rộng ra , một lần nữa có lẽ người Đại này , họ sẽ cất bước ra đi , để đi tìm bà con cô bác xa xôi của họ .
    Chú thích : tempura : seafood or vegetables dipped in batter and fried in deep fat
    HoangHac phỏng dịch 6.7.04
  5. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0

    Phần này dịch thuật bởi IDLEHOUSE
    MUANG SING: Chúng tôi biết mình đã đến đúng nơi khi các con chúng tôi bị đánh thức dậy một buổi sớm tinh mơ do tiếng kẽo kẹt của cánh cửa khách sạn đang chậm rãi mở ra, và từ phía ngoài hành lang thò vào cặp sừng và cái đầu tò mò của một chú trâu khổng lồ. "Mau lại xem," các con gọi chúng tôi . Một con trâu có thể chỉ trông "to" khi cu cậu đứng ve vẩy đuôi gặm cỏ ngoài đồng, nhưng khi bạn thấy một con trâu như thế đứng ngay trước cửa căn phòng nhỏ xíu của các con mình, kích thước của nó sẽ mang cả một tầm vóc khác.
    Chúng tôi sẽ không bao giờ quên được những ngày ở Muang Sing, một thị xã nhỏ nằm tít mù ở góc tây bắc Lào, chỉ cách biên giới phía nam Trung Quốc vài dặm . Khách sạn của chúng tôi là một kiến trúc tầng trệt đơn sơ nằm bên đồng lúa . Mỗi buổi tối, điện lên được vài giờ nhờ vào cái máy phát điện trong thị xã; thời gian còn lại, chúng tôi chỉ có ánh sáng ban ngày và ánh nến ban đêm. Để giải trí, chúng tôi có thể đi lên đi xuống hai con đường cái bụi bặm của thị xã, hoặc chúng tôi có thể đi dạo hoặc đạp xe lên núi*, hoặc nữa thì lảng vảng trong phố. Chúng tôi ăn bữa chiều trong một quán ăn chẳng hạn, và ngồi xem người dân làng xem tivi, phim bộ của Tàu và phim đánh nhau của Thái . Đến khoảng chín giờ, máy phát điện sẽ ngưng chạy, và cùng với mọi người khác, chúng tôi thả bộ về nhà trong bóng tối, những tiếng người vang vẳng trong bóng tối .
    Sự kiện lớn nhất trong ngày là phiên chợ, họp mỗi sáng từ trước khi mặt trời lên. Những con đường của Muang Sing trở nên đông đảo với những người dân tộc xuống từ trên núi: Akha, Mien, Tai Dam, Hmong. Họ cười nói với nhau rôm rả, theo nhau xuống phố để mua, sắm, hoặc vui chơi . Nhiều người đến từ những bản làng rất xa, họ đã cuốc bộ trong bóng đêm hàng giờ trước đó với những thúng chất đầy hàng hoá săn hái từ rừng về: măng tre, cây thuốc, chim muông. Mỗi ngày, trong vài tiếng đồng hồ của buổi sáng, Muang Sing trở nên sống động nhộn nhịp như một thành phố Chicago của Lào, đối với chúng tôi, đây là một điều thật lý thú.
    Một buổi sáng kia, tôi gọi tô mì (noodles, có thể là bún) và ngồi xuống bên cạnh một chàng trai người Akha cũng đang ăn mì. Chúng tôi nhìn nhau thăm dò, kiểu người ta lưu ý nhau ở mỗi phiên chợ. "Quần anh đẹp lắm," tôi nói, tay chỉ chỉ chiếc quần vải được dệt bằng tay, hơi bụi bặm và sờn màu, nhưng vẫn đẹp tuyệt của anh ta . Anh không hiểu tôi vừa nói gì, và tôi cũng không hiểu những gì anh nói sau đó (có lẽ liên quan đến cái quần của tôi), nhưng chúng tôi thừa nhận sự hiện diện của nhau, và tiếp tục ngồi ngó đối phương. Sau đó chúng tôi mỗi người ăn hết tô mì của mình, và đường ai nấy đi .
    Một chốc sau, chúng tôi lại chạm mặt nhau ở giữa chợ, lần nữa, chúng tôi lại ngắm nghía quần của nhau, chỉ có điều, lần này có vẻ chăm chú hơn. Một người bạn của anh đi ngang, sau đó thêm người nữa, rồi người nữa, chỉ trong chốc lát, đã có một đám đông nho nhỏ bu quanh chúng tôi . Sau đó, tôi thấy mình đang trả giá cho chiếc quần của anh ta . Thật là một màn thương lượng sôi động: được, không được, có lẽ được, dơ rồi, mắc quá, rẻ quá, cái này may dệt bằng tay, tốt hơn quần tôi nhiều, được. Anh ta quay lưng bỏ đi, tôi bỏ đi, rồi lại quay lại, lại thương lượng tiếp. Cuối cùng chúng tôi cũng mặc cả xong, một giá cả rất phải chăng theo như tôi nghĩ. Anh ta nghiêm trang quay bước theo hướng phía núi ra về.
    Sáng sớm hôm sau, ngay lúc rạng đông, anh ta đã có mặt trước cửa phòng khách sạn của chúng tôi . Anh vẫn còn mặc chiếc quần của ngày hôm trước, vẫn bụi bám và sờn màu, đứng đó với một vẻ mặt nghiêm trang không bao giờ thay đổi . Chúng tôi nhìn thấy trên tay anh là một chiếc quần, một chiếc quần mới . Một chiếc quần dệt bằng tay, thêu bằng tay, sẵn sàng** .
    Tôi hy vọng sẽ dùng được nó suốt một đời người .
    ----------
    *núi: trong bản chính đề là "hills" nhưng những người dân tộc này, theo sách vở Việt Nam thường bảo dân miền thượng, miền núi . Có nên dịch là đồi ? "đồi" trong tiếng việt có vẻ bé xíu xiu chớ hông có rừng như trong bài này . "non" có phải là bự hơn đồi, bé hơn núi (?)
    ** "ready-to-wear" là 1 expression i không biết dịch ra sao, vì nó giống như một khẩu hiệu người ta dùng để quảng cáo chất lượng của hàng hóa chế biến sẵn (ready to eat, ready to wear, ready to go) ý nói "có thể dùng ngay tại chỗ được", nếu dịch ra tiếng Việt như câu trên, trong đầu i hiện ra cảnh ông này tụt quần mặc ngay cái kia vào trước mặt chàng trai Akha, nên đành chịu .
    nguồn: Noodles and Noodles dishes/ p. 133
    IDLEHOUSE
  6. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Roads To Everywhere:
    Wê?Tre not particularly confident when it comes to handling motorcycles, especially larger ones, roadworthy ones, though we really wish we could be.
    If we ever get to feeling comfortable with them, the first place wê?Tll go is northern Thailand. Occasionally we meet people traveling there on motorbikes, and wê?Tre always jealous. The roads are so windy and deserted. The air is so fresh and clean. And the hills of northern Thailand always have that element of mystery. There are tribal people living in villages hidden in the ills; follow a dirt track, and sooner or later there will be a village. And then there is all the intrigue of the opium trade, though now everyone is growing strawberries instead of poppies. But there is still the intrigue.
    We often wondered about the little roads in Thailand. Thailand has a lot of roads, and they are in pretty good con***ion. We used to think that the roads had all been built by U.S. drug enforcement money, to bring the poppy-growing tribals more into the fabric of Thai life, giving them access to schools and hospitals, and, in turn, giving the military and the police easier access in policing the poppy cultivation. But then we realized that it?Ts not just the north, but other parts of the country as well.
    ?oWhy so many roads?? A Thai friend at last told us: ?oThe reason we have so many roads is because so many of our politicians come from the construction industry. What is the English term? Kickback??
    Opium poppies bloom in the hills of Laos, Thailand, Vietnam, and Yunnan, During the colonial era, opium became and important cash crop.
  7. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Những con đường đi đến mọi nơi
    Chúng tôi cảm thấy không có nhiều tự tin , khi muốn lái một chiếc xe gắn máy , đặc biệt là các loại xe lớn , xe chạy đường trường , mặc dù chúng tôi rất ước mong lái được loại xe như vậy .
    Nếu như có thể được , lái xe gắn máy mà cảm thấy dễ chịu thoải mái , nơi đầu tiên mà chúng tôi muốn đến phải là miền Bắc Thái Lan . Thỉnh thoảng chúng tôi gặp dân chúng ở đó di chuyển bằng xe gắn máy , và chúng tôi thấy ghen tị với họ . Con đường dài ngoằn ngoèo và vắng vẻ . Không khí quá trong lành . Và những ngọn đồi trên miền Bắc Thái luôn luôn có một điều gì bí mật quanh đây . Có những người sắc tộc sống trong các làng mạc ẩn núp quanh các đồi nương ; theo sau con đường đất , chẳng chốc thì chầy bạn sẽ gặp ngay thôn làng đó. Và rồi trong trí óc chúng tôi gợi lên lòng tò mò về sự buôn bán thuốc phiện , dù bây giờ mọi người trong làng đều trồng dâu tây thay vì thuốc phiện . Nhưng nó chỉ là sự tò mò thôi .
    Chúng tôi thường tự hỏi về những con đường nho nhỏ ở Thái Lan . Nước này sao lại nhiều đường lộ quá , và trông chúng còn rất tốt , chả hư hỏng gì . Chúng tôi cứ nghĩ rằng những con đường lộ đó được xây dựng bằng tiền tài trợ chống ma túy của Mỹ , để chuyển đưa người dân tộc bộ lạc sống bằng nghề trồng cây á phiện , về lối sống cơ cấu người Thái , cho họ một lối dẫn nhập vào học đường và khám bệnh tại nhà thương bệnh xá , và , ngược lại , để cảnh sát và quân đội đi vào kiểm soát sự trồng trọt nha phiến dễ dàng hơn . Nhưng chúng tôi nhận ra rằng , không riêng gì ở miền Bắc Thái , mà những miền khác đều như vậy .
    " Tại sao lại có nhiều đường lộ như thế ? "
    Cuối cùng một người bạn Thái trả lời cho chúng tôi : " Cái lý do tại sao có nhiều đường lộ là vì có rất nhiều chính trị gia đến từ ngành kỹ nghệ xây cất . Tiếng Anh là Kickback : Đá giò lái .
    Cây thuốc phiện mọc đầy trên sườn đồi sườn núi nước Lào , Thái Lan , Việt Nam và tỉnh Vân Nam . Khi còn ở trong thời kỳ thuộc địa , nha phiến được trồng là nguồn lợi tực (thu được tiền mặt) quan trọng .
    Chú thích của HH :
    Nếu như nha phiến được trồng nhiều trên các sườn núi đồi tại Thái , Lào , Việt Nam và Vân Nam , sự kiểm soát của Mỹ về chuyển vận ma tuý rất khó có hiệu quả . Hầu hết nó sẽ đi qua ngõ Thái Lan , để từ đó lan tràn qua cả thế giới . Có lẽ đó là một lý do mà với sự trợ cấp của Mỹ , nước Thái đã xây cất nhiều đường lộ như vậy , để chận bắt làm giảm bớt lưu lượng sự chuyển vận ma túy .
  8. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào SC và các bạn
    Đính chính : Chữ Kickback có nghĩa như bạn SC : tiền hối lộ , bỏ túi riêng. .
    Cám ơn nhiều
  9. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    KHAO FOON: The Shan use rice or mung beans to make a wonderful snack, usually eaten in the morning, called khao foon. They snack in the market, or take a bag home.
    Khao foon makers are specialists, like people who make tofu. The rice or beans are soaked in water, then ground to a smooth paste. The paste is cooked over low heat, stirred constantly. A coagulant is added (as it is in cheese or tofu making), and the paste thickens into a firm jellylike texture, with a neutral to slightly sour taste. If it?Ts made from rice, khao foon is creamy white to pale yellow in color; if it?Ts made from mung beans (as it is in the southern Shan State), it?Ts a beautiful pale green. Khao foon is served in cubes, chunks, or slices, in a bowl. On top go all kinds of condiments and flavorings, from finely chopped scallions to chile paste, ginger paste, dark vinegar, chopped roasted peanuts, and more.
    We ate the rice version of khao foon in Mae Sai and the mung bean version near Inle Lake, in the Shan State. The Phuan people, in the area around Phonsavan in eastern Laos, make a similar rice jelly that they call khao poon, as do the Bai near Dali, where it?Ts called mi lin fen. It?Ts sold in stalls in the market as a morning meal, topped in Dali with dark vinegar, and in Phonsavan with herbs, chopped scallions, and chile paste. The Phuan one we tried was very mild, with none of the fermented taste of the khao foon wê?Td eaten in Mae Sai.
    In Mae Sai one late afternoon (see Border Town, page 92), Chad?Ts niece Shieng took me off on her motorbike to a Tai Koen household that specialized in making khao foon. The family had moved to Thailand from the Shan State twenty years earlier. They were known, Shieng told me, as the finest khao foon makers in the area. By their beautiful tra***ional teak house, huge cauldrons of pale rice batter were slowly firming up into smooth jelly. In a few hours, the jelly would set completely; early next morning, well before dawn, it would be cut into chunks and carried off to the market to be sold.
  10. yony

    yony Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    03/06/2004
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    0
    chào bác hoanghac, các bài dịch của bác hay quá, nghe rất dân dã, dễ nhập tâm, cháu học đc bao nhiêu từ tiếng Anh về các món ăn. Nếu bác cần dịch tiếp sức thì bác nhắn cháu, cháu có thể dịch đc những phần liên quan đến lịch sử, điều kiện tự nhiên (hic hic, đấy là tự nhận thế ạ ). Cháu có 1 số tài liệu kiểu đó về vùng Đông Nam Á cũng hay lắm ạ, nhưng chắc post vào đây ko hợp.
    Chủ đề này làm mình biết thêm gốc rễ của mình qua lịch sử + các món ăn. Nhất là khi mình đi xa, nhiều khi cứ muốn biết tại sao mình có pha món này với gia vị kia.
    Mà sau khi ăn đủ các loại món ăn khắp nơi ca hát, mình phát hiện ra là món ăn của nc nào cũng ngon hết, cái chính là người nấu biết kết hợp vừa phải các vị, điều khiển đc độ mềm, mùi thơm của thức ăn.
    Nhân đọc các công thức của bác hoanghac, mình có nhớ ra 1 loại sốt - nước chấm (nước tương) mà bên này mọi người hay ăn với nem cuốn. Đấy là nước sốt Hồi sìn (hoisin) pha loãng đun với bơ lạc (peanut butter), 1 ít me, ớt, tỏi; xong rồi rắc lạc giã dập. Thấy mọi người bảo sốt này là gốc Thái nhưng lại có người bảo có công thức từa tựa như thế của Indonesia mỗi tội ko có me. Tớ ăn thử cả 2 thì thích cái sốt bị gọi là của Thái hơn .
    Ko biết sốt Hoisin có phải của người Hồi ko hả bác hoanghac? Mà kiểu có vị lạc, me như thế hình như giống kiểu đông bắc Thái? Hay là cái sốt đó bị modified cho dân Tây ăn rồi . Aniwei, cái sốt đó ăn nem cuốn cũng ngon, để thỉnh thoảng thay cho nc chấm chua cay mặn ngọt của mình cũng đc.
    Bác tiếp tục dịch bác nhé .

Chia sẻ trang này