1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Cay Chua Mặn Ngọt

Chủ đề trong 'Thái Lan' bởi hoanghac1, 24/04/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0

    Chào các bạn
    In Lao villages and towns, the food resembles that of Issaan, but with some pronounced regional differences north to south. Sin khouai, or water buffalo meat, is common, and so, surprisingly to us, are turkeys. In the remote and mountainous areas, there are more tribal people than there are in lowland Lao; the rural markets are full of leaves and roots and shoots gathered in the wild, and hunters sell small animals and birds that they have snared or shot in the jungle. In every market, large or small, there are also river frogs, eels, fresh-caught fish, a wide variety of leaves and herbs, and piles of river weed for sale, all gathered locally. It''''s a reminder of how large, wild, and relatively unpopulated Laos is: fewer than five million people in a country half the size of Thailand (with nearly sixty million people).
    In many ways, Laos fells the way Issaan and north Thailand must have felt before 1950. Older people from Thailand, traveling to Laos, frequently remark that Lao food markets remind them of Thailand forty or fifty years ago, "the old ways."
    The most distinctive regional cuisine in Laos is centered in Luang Prabang. Here flavors tend decidedly toward bitter, especially in simmered dishes such as oaw'''' moo (see Luang Prabang Pork Stew with Bitter Greens, page 245). Farther south, in Vientiane, the cuisine is more like that of Issaan, with grilled fish and chicken, stacks of sausages, thick spicy salsas, and marinated dried meats. In both regions, leaf-wrapped snacks, called miang, are a favorite street food (see Green-Wrapped Flavor Bundles, page 269). Some Vietnamese presence is visible in the food in major towns: Market vendors include people selling noodle soups (known as foe in Vientiane), grilled pork balls (nem nuong; see page 252), Saigon Subs (page 287), and crispy Vietnamese crepes (banh xeo; see page 280).
    One of the best reasons to travel to Laos is to taste Lao sticky rice. It''''s less polished than the Thai sticky rice that''''s commerically available, and hence has more of a grain taste. It is the daily staple, especially in villages and small towns.
    PS. Bạn Wbguy ơi ! Chữ LAAB dịch làm sao , nó có thể là NEM , hay Thịt sống , và SAEP ? Cám ơn bạn nhiều .
  2. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn
    In Lao villages and towns, the food resembles that of Issaan, but with some pronounced regional differences north to south. Sin khouai, or water buffalo meat, is common, and so, surprisingly to us, are turkeys. In the remote and mountainous areas, there are more tribal people than there are in lowland Lao; the rural markets are full of leaves and roots and shoots gathered in the wild, and hunters sell small animals and birds that they have snared or shot in the jungle. In every market, large or small, there are also river frogs, eels, fresh-caught fish, a wide variety of leaves and herbs, and piles of river weed for sale, all gathered locally. It''s a reminder of how large, wild, and relatively unpopulated Laos is: fewer than five million people in a country half the size of Thailand (with nearly sixty million people).
    In many ways, Laos fells the way Issaan and north Thailand must have felt before 1950. Older people from Thailand, traveling to Laos, frequently remark that Lao food markets remind them of Thailand forty or fifty years ago, "the old ways."
    The most distinctive regional cuisine in Laos is centered in Luang Prabang. Here flavors tend decidedly toward bitter, especially in simmered dishes such as oaw'' moo (see Luang Prabang Pork Stew with Bitter Greens, page 245). Farther south, in Vientiane, the cuisine is more like that of Issaan, with grilled fish and chicken, stacks of sausages, thick spicy salsas, and marinated dried meats. In both regions, leaf-wrapped snacks, called miang, are a favorite street food (see Green-Wrapped Flavor Bundles, page 269). Some Vietnamese presence is visible in the food in major towns: Market vendors include people selling noodle soups (known as foe in Vientiane), grilled pork balls (nem nuong; see page 252), Saigon Subs (page 287),
    and crispy Vietnamese crepes (banh xeo; see page 280).
    One of the best reasons to travel to Laos is to taste Lao sticky rice. It''s less polished than the Thai sticky rice that''s commerically available, and hence has more of a grain taste. It is the daily staple, especially in villages and small towns.
    Trong thị trấn và thôn làng người Lào , thức ăn tương đồng như của người Issaan , nhưng cũng có một số người biểu rằng , vẫn có sự khác biệt theo miền bắc hay miền nam . Sin Khouai , thịt trâu rất thông dụng và có cái làm chúng tôi ngạc nhiên , là có cả thịt gà tây . Ở những miền xa xôi hay vu`ng núi đồi , có nhiều bộ tộc sinh sống hơn ở vùng Hạ Lào ; chợ quê bày bán đầy rau củ , lá và măng non , những thứ này họ đi hái nhặt trong miền hoang dã , và các chàng thợ săn xách các con thú nho nhỏ và chim chóc mà họ đã bẫy được hay săn bắn trong rừng . Trong các ngôi chợ dù lớn hay bé , có bày bán cả cóc ếch , lươn , cá vừa bắt , đủ loại hoa lá và rau cỏ , và các bó rau muống chất hàng đống , là những thứ kiếm được tại nơi họ ở . Nó nhắc nhở một điều nước Lào không có mật độ đông , rộng lớn , hoang dã : dân số chỉ có ít hơn năm triệu người trong một quốc gia bằng nửa Thái Lan (với sáu mươi triệu người)
    Trong nhiều phương diện , người Lào có nhiều điểm tương tự như người Issaan và người miền Bắc Thái Lan trước năm 1950 . Nhiều cụ già bà lão từ Thái , đi du lịch qua Lào , thường nhận xét rằng các ngôi chợ thực phẩm người Lào , làm họ nhớ đến Thái Lan đến bốn mười hay năm mươi năm về trước , " cảnh cũ người xưa , ôi giấc mơ về "
    Nghệ thuật nấu nướng theo miền khác hẵn nơi khác , tập trung ở thành phố Luang Prabang . Ở nơi đây , người ta lại thích thức ăn đăng đắng hơn , đặc biệt như món kho như là OAW'' MOO ( xem món Thịt Heo hầm với Khổ qua của Luang Brabang , trang 245) . Về phương nam , ở thành phố Vạn Tượng , cách nấu nướng lại giông giống như người Issaan , với những món gà quay hay cá nướng , hàng chuỗi xúc xích , sao sa sền sệt cay xè , và những miếng khô (trâu) đã ướp hương vị . Cả hai miền , các loại thức ăn gói bằng lá , gọi là MIANG , là những món được ưa thích trên đường phố (xem trang 269) . Có vài món ăn của người Việt trong các thị trấn lớn : các quầy hàng với người ăn với tô súp ngạt ngào hương thơm , PHỞ ; những xâu nem nướng thơm phức , những ổ bánh mì Sai Gòn và những chiếc bánh xèo vàng ngầy ngậy , ăn nghe dòn dòn trong miệng .
    Một trong những lý do mà người ta ưa thích du lịch ở Lào là để thưởng thức món XÔI NẾP . Nó ít bóng bẩy mỡ hơn xôi Thái mà họ hay quảng cáo thương mại , và nêm nếm được hương vị ngọt ngào của từng hạt nếp một . Nó là thức ăn chính yếu hàng ngày , đặc biệt ở các thôn làng và trong thị xã nhỏ .
    Chú thích :
    1. river weeds : loài cỏ dại dưới sông , tôi nghĩ đây là chắc là rau muống (water green) , hay lục bình , mà lục bình chỉ để heo lợn ăn .
    2. miang : tôi nghĩ là các loại bánh ú , bánh ít , gói bằng lá chuối , lá dong .
  3. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn
    Khmer (or Cambodian) home-style cooking, like all food and cooking in Southeast Asia, is based on dishes to eat with rice-not sticky rice, but aromatic jasmine rice. Rice noodles are an important staple, and so is fish. Fresh fish is grilled or curried or stir-fried, and, like the people of Thailand, Laos, and Vietnam, Khmers use fish sauce (tuk traey in Khmer) and fermented fish paste (prahok) to season and flavor their food. Though Khmer cuisine has no strong vegetarian tra***ion (unlike Vietnamese and Chinese), meat and fish are eaten only in moderation, with plenty of herbs and cooked and fresh vegetables, and always as an acompaniment to rice or noodles.
    Tastes tend to be milder than in Issaan cooking, with less fiery heat. There''s less sweet in the flavor balance than in southern Vietnamese food and more sour and acid citrus flavors. In the markets, the heaps of thinly sliced lemongrass, with women busy slicing more as you pass by, and the stacks of galangal and ginger for sale are surprising at first sight, and give a vivid idea of what a large role these distinctive flavors play in the cuisine. As in Thailand, galangal flavors most curry pastes; ginger is often used as a vegetable in stir-fries, huge handfuls of it, rather than just as flavoring (see Khmer Stir-fried Ginger and Beef, page 219). Curry pastes are made fresh, pounded and ground in a stone mortar; they often have a distinctively strong lemongrass note. Curries are simmered or steamed and are rich with coconut milk (for example, Khmer Chicken Samla'' with Coconut Milk, page 204). It''s all very tropical and aromatic compared to northern Thailand or Yunnan.
    French colonial rule, from the 1880s until the 1950s, had a lasting impact on Cambodian food, as it did on Vietnamese, at least in the cities and towns. In the cities, French-style bread is still sold in the mornings and is also used to make sandwiches (see Mekong Subs, page 284); butter found its way into some dishes; and meat eating, especially of beef or water buffalo, increased among those who could afford it. Coffee, cultivated in Cambodia, Laos, and Vietnam, is common in the cities.
    (Trích trong HOT SOUR SALTY SWEET , trang 16)
  4. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn
    Cách nấu ăn của người Miên , giống như thực phẩm và cách nấu của miền Đông Nam Á , căn bản là các món ăn với cơm - không phải xôi nếp , mà là loại gạo tẻ thơm ngát . Bún hay mì là món hay ăn , cũng như món cá . Cá tươi đem nướng hay nấu cà ri hay chiên xào , và , tương tự như Thái Lan , Lào , và Việt Nam , người Khờ Me dùng NƯỚC MẮM (tiếng Miên là TUK TRAEY) và MẮM CÁ BÒ HÓC (prahok) để tra hay nêm nếm vào thức ăn . Mặc dù người Miên không có tập tục ăn chay trường (như người Trung Hoa và người Việt ) , thịt và cá ăn rất điều độ , có chừng mực , họ ăn với rất nhiều rau quả , và nấu nướng với rau xanh còn tươi màu , và luôn luôn ăn kèm theo cơm hay mì , bún .
    Mùi vị êm dịu hơn thức ăn của người Đông Bắc Thái Lan ( Issaan ), ít cay nồng hơn , ít ngọt ngào hơn so với thức ăn của người miền nam Việt Nam , và chua hơn , dậy thơm mùi chanh tươi . Trong các ngôi chợ , xả được bào và chất đầy vun , và khi có ai đi ngang qua , các bà các cô vội vã nhanh tay bào gọt thêm , và khi thoạt nhìn thấy hàng đống củ gừng non hay già để bán , bạn có thể có một ý nghĩ vui vui đậm đà trong đầu là cái mùi vị đặc biệt hăng cay đã đóng một vai trò quan trọng trong nghệ thuật nấu ăn của người Miên . Như ở trong Thái Lan , món cà- ri nào đều phảng phất mùi gừng cay ; gừng được chiên xào với rau , không phải chỉ cho thoáng hương thơm , mà cho một nắm tay đầy gừng vào . (xem món Thịt Bò xào gừng , trang 219) . Người ta pha chế nước cà- ri tươi bằng cách giã đập cho nhuyễn trong cối đá ; và thường dậy lên mùi xả nồng nàn . Những món ăn có cà ri được hấp hay ninh hầm và beo béo ngọt ngào với cốt nước dừa (xem món Gà Samla với nước cốt dừa , trang 204) . Nó là tất cả những gì , thức ăn ngạt ngào hương thơm của miền nhiệt đới có thể so sánh với món ăn của người bắc Thái hay Vân Nam .
    Trong thời kỳ bị đô hộ bởi người Pháp , từ năm 1880 đến khoảng năm 1950 , ít nhiều còn vương sót lại đến thực phẩm của người Miên cũng như người Việt Nam , ít ra thì ở các tỉnh thành . Trong thành phố , mỗi buổi sáng bánh mì Pháp được rao bán ( ơi ới) , và có bán cả ổ bánh mì kẹp thịt , dăm bông ( xem Bánh mì Mekong , trang 284) . Bơ cũng được ăn chung với một vài món ; thịt thà , đặc biệt là thịt bò hay thịt trâu , ai có dư dả thì mới hay ăn nhậu đủng đỉnh được . Cà phê được trồng trọt tại Cambochia , Lào và Việt Nam , nên đâu đâu cũng thấy các quán hàng cà phê trong tỉnh thành .
    Chú thích :
    1 . Galangal : Một loại gừng
    Botanical: Alpinia officinarum. Family: N.Ọ Zingaberaceae or Scilaminae
    Synonyms---Galangạ China Root. India Root. East India Catarrh Root. Lesser Galangal. Rhizoma Galangaẹ Gargaut. Colic Root. Kaempferia Galangạ
  5. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn
    Cái đồng hồ mà sau 75 nhiều người gọi là cái đổng có người lái , 2 cửa sổ thì ... nghe kỳ cục nhưng cũng hiểu là cái ... gi
    Galangal : Một lọai gừng cũng đúng, nhưng nếu gọi là Riềng thì nghe dễ hiểu hơn..hì hì (SonNguyen)
    Chào Sơn Nguyen
    Cám ơn Sơn nhiều , mình tra từ điển online
    và từ diển Anh Việt của NXBHN không có chữ
    đó , tôi coi hình trong Britain Encycl. thì nó
    trông giống như chữ riềng (giềng ) cộng
    thêm lá mơ nữa là đủ cặp ...hì hì...
    HH
  6. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Hot Sour Salty Sweet
    In Vietnam''s Mekong Delta region and in nearby SaiGon as in the rest of Vietnam, the standard eating implements are chopsticks (south of China, everywhere else in Mekong region, people eat either with their hands or with a spoon and fork, except when eating noodles). Noodles and noodle soups are common, and the regional version of noodle soup is called hu tieu, very like the Khmer name for noodle soup, ktieu. The local version of xoi, a breakfast of sticky rice steamed with mung beans or nuts, is lush with coconut milk and adorned with fresh herbs and strong flavors (see page 98), whereas in northern Vietnam, it''s a very simple steamed rice with beans or peanuts. Mekong river fish, freshly caught or from one of the many fish farms that operate from floating platforms in the river, are on sale at every market. Snake is popular, and so, at some times of year, are snails.
    Fresh herbs and greens in the form of a salad plate and garnishes are important flavorings and ingredients at almost every meal. Local specialties include sour soup, a close cousin of the Thai tom yum, a class of slow-cooked sweet and salty dishes known as kho tieu (see Slow-Cooked Sweet and Spicy Fish, page 191). The Vietnamese genius for combining fresh and cooked ingredients is evident in fresh rice paper-wrapped rolls (see Rice Paper Roll-ups with Shrimp and Herbs, page 177, and Vietnamese Grilled Pork Balls, page 252).
    In this tropical climate with its abundant supply of water, the fruit is fabulous, abundant, and varied. There are lichees and longans and mangoes and rambutans, flavorful avocados, and exotic-looking bright pink fruits known in English as "dragon''s eye." The Delta, Cantho in particular, is also known for its sweet snacks.
  7. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn
    Ở miền châu thổ sông Cửu Long , Việt Nam và lân cận Sài Gòn cũng như những nơi khác , đôi đũa là cái gắp thức ăn tiêu chuẩn (miền Nam Trung Hoa và những miền khác trong vùng sông Mekong , người ta ăn thức ăn với đôi bàn tay hay dùng thìa muỗng xiên nĩa , chỉ trừ khi họ ăn hủ tiếu hay bún phở .) Bánh phở, hủ tíu hay bún rất là phổ thông , chỗ nào cũng bày bán , và một trong những món như vậy là HỦ TIẾU , tương tự như tiếng Khờ Me , KTIEU . Một món khác như XÔI , gạo nếp thổi lên với đậu xanh hay đậu phọng (lạc) hay đậu đen , gói xôi thơm phức lơ thơ lất phất thêm nước cốt dừa béo ngậy , cộng thêm vài cọng rau thơm xanh ngào ngạt hương nồng , trong khi ở miền Bắc Việt Nam , thường nấu xôi đậu đen hay xôi lạc (xôi đậu phụng , thêm tí hạt vừng giã nhuyễn phưng phức thơm ngon ) . Cá sông Cửu Long ,
    vừa được bắt lên hay là từ một trong các trại nuôi cá , bè rộng cá lơ lửng trên mặt sông , được bày bán trong chợ. Rắn cũng đầy rẫy , và cả ốc bưu ,( ốc len xào dừa theo từng mùa , theo từng cơn nước gọi )
    Những dĩa to ăm ắp rau thơm , húng quế , húng cây , rau răm , tía tô , kinh giới , rấp cá được bày biện trên bàn , thơm tho và tô điểm thêm các món trong từng bữa ăn . Một món ăn đặc sản địa phương là CANH CHUA ( với cá bông lau ) , là anh em họ hàng láng xóm với món TOM YUM của Thái Lan , một món ăn khác , nấu với ngọn lửa riu riu mằn mặn ngòn ngọt là CÁ KHO TỘ (KHO TIÊU , với hương cay nồng của bột tiêu) . Thiên tài người Việt đã biết cách dung hòa kết hợp giữa thức ăn nấu chín và rau cỏ tươi xanh , thể hiện đầy đủ trong món GỎI CUỐN , tôm tươi luộc chín , thêm tí bún , sà lách ẩn bên lớp bánh tráng trong cuộn tròn .
    Trong khí hậu nhiệt đới với nguồn nước dồi dào vô tận , hoa trái đủ loại , vô số kể . Này vải , nhãn và xoài tượng xoài cát và chôm chôm , trái bơ beo béo , và một loại trái hơi hường hường , nhìn có vẻ ngoại lai , trái THANH LONG (mắt rồng) . Vùng đồng bằng Cửu Long , Cần Thơ nói riêng nổi tiếng với các loại bánh ngọt , bánh ít , bánh nhưng đậu xanh nước dừa .
    HoangHac 17.5.04
  8. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Cay Chua Ma(.n Ngo.t (Hot Sour Salty Sweet)
    Maybe it has to do with eating quantities of rice and noodles every day, maybe it''s just regional genius: Whatever the explanation, the dipping sauces, chile pastes, and cooked salsas that bring intense flavor and life to every meal are at the heart of the regional cuisines of Southeast Asia.
    The simple Thai-Lao bird chile and fish sauce combo, Thai Fish Sauce with Hot Chiles (page 33), is a table staple, there to be drizzles on bite by bite. It''s chile-hot, pungent, and salty, and oh so good.
    In southern Vietnam, every one sitting down to a meal, whether itâ?Ts a simple bowl of noodles or a multidish feast, takes pleasure in adding extra flavor and customizing each mouthful with tart-salt-sweet sauces like Vietnamese Must-Have Dipping Sauce (nuoc cham, page 28) and Vietnamese Peanut Sauce (nuoc leo, page 28). They can be spooned over a dish of rice or noodles or used as a dipping sauce for spring rolls or grilled meats. In Thailand, another succulent sauce, Tamarind Sauce with Coconut Milk (page 26), makes a wonderful topping for noodles.
    In the Index, youâ?Tll find other dipping sauces; recipes for them appear as part of the recipe for the specific dish each tra***ionally accompanies.
    On most tables in southern Yunnan, there is a small bowl of jar of Yunnanese Chile Pepper Paste (page 27), available to add chile heat to a bowl of noodles or whatever else youâ?Tre eating. Itâ?Ts made from dried red chiles and is a wonderful kitchen staple.
    At least one of a class of dishes we call â?oMekong salsasâ? appears at most rice meals throughout the Tai part of Southeast Asia, from southern Yunnan all the way to southern Laos. In Lao theyâ?Tre known as jaew, in northern Thai as nam prik, and in the Dai area of southern Yunnan as nam mi.
    Mekong salsas make great appetizers or between-meal snacks as well as being good side dishes at any meal, complements to foods of all kinds. Theyâ?Tre thick sauces made of cooked and pureed ingredients. Some are mild-tasting, others have more chile heat. Rich Lao Salsa (page 39) or Issaan Salsa with anchovies (page 38) can make a wonderful ad***ion to a multidish rice-based meal, its thick chile heat a good foil for a rich pumpkin soup or a mild, slightly sweet coconut milk curry.
    Grilled Tomato Salsa (page 44) can be drizzled over aromatic jasmine rice or scooped up with Thai-Lao Crispy Rice crackers (page 106). It is one of several salsas from the northern part of the Mekong region that are seasoned with salt, not with fish sauce, making them a great option for vegetarians wanting to embark on exploring tra***ional foods from the region.


  9. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Chào các bạn
    Có thể với món này , bạn ăn được nhiều chén cơm hay nhiều bát phở hay tô bún mỗi ngày , có thể nó là sự chế biến tài tình của miền này : dù giải thích làm sao , các loại sốt chấm , món ớt xay và món sao-sa ( cà chua ớt) đã được nấu chín ; tất cả mang lại cho chúng ta sự ngon miệng , thèm thuồng trong từng bữa ăn , trong đời sống hàng ngày ; là trái tim của nghệ thuật nấu nướng của miền Đông Nam Á .
    Sự pha chế đơn giản giữa nước mắm và ớt trái , trong chén nước mắm ớt bày biện giữa bàn là một điều không thể thiếu trong bữa ăn . Cắn miếng ớt từng tí từng tí một . Sao vừa mặn vừa cay xè , xót xa cái lưỡi . Ồ ! Ngon làm sao ).
    Ở miền nam Việt Nam , trong bữa cơm mọi người cùng ngồi xuống , cho dù chỉ có một món đơn thuần (rau muống luộc hay bầu luộc ) hay một bữa tiệc thịnh soạn linh đình nhiều món , ai nấy đều có thể thoải mái dùng thìa muỗng chan nước mắm chua ngọt vào dĩa cơm , hay vào tô bún thịt nướng cho vừa miệng mình hay chấm gỏi cuốn vào tương đậu phọng . Ở Thái Lan , một loại nước sốt me chua với nước cốt dừa , đầy chất bổ , chan lên mặt tô hủ tiếu trông thật hấp dẫn vô cùng .
    Trên các bàn ăn ở miền nam tỉnh Vân Nam , một lọ ớt xay có sẵn trên bàn , cho những ai thèm ăn cay , múc vào bát cơm hay tô mì, chén bún . Nó xay ra bằng loại ớt phơi khô , đỏ sậm màu và là món chính yếu trong góc bếp .
    Ít ra trong các món ăn ở miền này , một món chúng tôi gọi là Mekong Salsa , nó hiện diện ở hầu hết các vùng có dân tộc thiểu số Tai (Thái) ở Đông Nam Á , từ miền nam Vân Nam đến Nam Lào . Ở Lào được gọi là Jaew , ở bắc Thái Lan là Nam prik ; và ở vùng người Dai của Vân Nam , gọi là Nam mi .
    Món sao sa của dòng sông Cửu long này là món khai vị tuyệt vời hay bữa ăn qua loa giữa 2 bữa ăn chính , cũng như là món ăn kèm (side dishes) bổ túc cho thức ăn đủ loại món nấu bằng gạo . Sao sa này là sốt đậm đặc , được pha chế từ thành phần nguyên chất và đã được nấu chín . Một vài loại nếm êm dịu , các loại khác thì cay xé lưỡi . Món sao-sa của Lào hay là Issaan salsa thêm mắm cá (anchovy) làm tăng thêm hương vị vào bữa cơm có nhiều món lăn xào chiên nấu . Với ớt đỏ tươi trong món sao-sa đã làm nổi bật tô canh bí rợ vàng óng ánh hay cho một bát cà ri nước dừa ngon ngọt dịu dàng .
    Với sao-sa cà chua nướng vĩ rưới ít một lên chén cơm gạo thơm ngạt ngào hay là bẻ miếng bánh cốm dẹp của Thái Lào (1) , múc vào sốt sao sa . Nó là một trong những món sao-sa từ miền bắc của sông Cửu Long , được tra gia vị nêm nếm bằng muối , mà không bằng nước mắm , để cho những người ăn chay một sự chọn lựa mới về thực phẩm đã có từ lâu đời trong miền .
    Chú thích :
    1. Thai-Lao Crispy Rice Cracker : bánh cốm dẹp Thái Lào . Bánh này dạng hình dĩa tròn , bề dày một phân tây , cấu trúc nhìn giống bánh cốm , ăn với sốt sao-sa . Nhưng bánh cốm Việt Nam , thường nấu bằng gạo nếp và có đường .
  10. hoanghac1

    hoanghac1 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    25/09/2003
    Bài viết:
    402
    Đã được thích:
    0
    Ớt Xay
    (Fresh chili - Garlic Paste)
    Chưa có một món chấm nào giống như món này , vài trái ớt đỏ tươi , pha trộn chung với tỏi và chanh vắt lấy nước , mang lại mùi vị thơm phức của miếng thịt quay hay nướng vĩ hay là tăng thêm hương vị nồng nàn của chén cơm hoặc tô phở . Nếu bạn cầm trên tay vài trái ớt đỏ tươi , thử làm ngay món ớt xay , một món gia vị (condiment dish). Ngoài chợ , họ bày bán loại này , gọi là ớt xay Sriracha , màu cam tươi và nếm cay xè ; làm tại Thái Lan và có bán rộng rãi ngoài các chợ , tiệm Đông Nam Á .
    Cho tương ớt vào một chén con , bạn có thể gắp một miếng thịt bò viên hay miếng thịt nướng , thịt luộc hoặc là chan lên mặt tô bún , bát phở.
    4 trái ớt đỏ tươi (bird chili hay serrano chiles) , thái mỏng
    2 tép tỏi băm vừa
    1/8 thìa muối
    1 thìa lớn nước cốt chanh xanh
    Đổ ớt , tỏi và muối vào cối và dùng chày giã dập ra thành tương . Vắt chanh vào .
    Phụ chú của HH : Người Việt thường chấm bò viên với chén con, trên đó có tương ớt , thêm tương đen , ớt sa tế và thêm tí củ cải muối .

Chia sẻ trang này