1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung các nhà Toán học và khoa học Việt Nam!

Chủ đề trong 'Toán học' bởi VIETHUY80, 21/01/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. VIETHUY80

    VIETHUY80 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/12/2001
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Chân dung các nhà Toán học và khoa học Việt Nam!

    Giáo sư Hoàng Tụy
    là người đặt nền móng cho chuyên ngành toán học mới: lý thuyết tối ưu toàn cục. Cống hiến lặng lẽ của ông với toán học sau này trong nước mới được nhiều người biết tới trong khi đó ở thế giới trường phái toán học Hà Nội đã mặc nhiên được thừa nhận. Nhà toán học đó xa lạ với mọi thứ hư danh, trong khi vẫn ở đỉnh cao của toán học và tiếp tục phát triển lý thuyết của mình.

    Ông ở khu nhà dành cho các nhà khoa học ở ngõ 260 khu phố Ðội Cấn. Những đứa cháu của ông vui vẻ đùa bỡn bên người ông tóc bạc. Sức trừu tượng của những suy luận toán không bứt nổi ông ra khỏi đời thường. Ðó vẫn là người ông giản dị với nụ cười trẻ trung. Ông là người hết sức gắn bó với cuộc sống, thật ít ai ngờ rằng "lát cắt Tụy" nổi tiếng lại xuất hiện từ việc ông tham gia vào việc áp dụng toán học trong giao thông vận tải.

    Hoàng Tụy sinh ngày 17-12-1927, tại Ðiện Bàn, Quảng Nam, là cháu nội em ruột cụ Hoàng Diệu - Nhà yêu nước chống thực dân xâm lược Pháp hồi đầu thế kỷ XX. Ông bộc lộ thiên hướng toán học từ những năm còn trẻ, tuy nhảy cóc hai lớp nhưng ông vẫn đỗ đầu kỳ thi tú tài phần 1, bốn tháng sau đỗ tú tài toàn phần ban toán. Năm 1951 đang là giáo viên dạy toán tại Liên khu 5, khi nghe tiến sĩ Lê Văn Thiêm vừa về nước mở trường khoa học cơ bản, ông xin phép chính quyền kháng chiến mang ba lô có muối, gạo và vài cuốn sách toán đi bộ ròng rã sáu tháng trời để tới chiến khu Việt Bắc, đến nơi thì biết rằng chương trình này ông đã tự học xong cả rồi.

    Ông thuộc vào dạng nhà toán học khai phá những con đường mới, mặc nhiên chấp nhận sứ mệnh của mình với niềm say mê vô bờ. Lĩnh vực nghiên cứu của ông khá phong phú: hàm thực, giải tích lồi, vận trù học, lý thuyết hệ thống và đặc biệt là lĩnh vực tối ưu. Tối ưu toàn cục là hướng nghiên cứu do ông đề xuất năm 1964. Ông vừa là người mở đường vừa là người đưa ra những kỹ thuật cơ bản khi giải bài toán tìm cực tiểu hàm lõm trên một tập đa diện lồi như siêu phẳng cắt, phép chia nón. Ðây cũng là bài toán trung tâm, thường gặp nhất và nằm trong mọi bài toán tối ưu toàn cục khác. Các ý tưởng cơ bản và phương pháp đề xuất trong công trình đó đã phát triển thành khái niệm và phương pháp có tính kinh điển. Ðến những năm 80 quy hoạch lõm được nhiều người nghiên cứu ứng dụng, nhu cầu đòi hỏi cần phải xây dựng một khung toán học vững chắc để bao quát những bài toán rộng hơn quy hoạch lõm. Lý thuyết tối ưu DC (Difference of two convex functions - hiệu hai hàm lồi) ra đời vào khoảng năm 1985 đáp ứng nhu cầu ấy. Với 106 công trình khoa học và ba chuyên khảo về lĩnh vực này giáo sư Hoàng Tụy được cộng đồng quốc tế coi là người dẫn đầu trong lĩnh vực tối ưu toàn cục. Ba chuyên khảo đã được xuất bản là: "Global Optimization - deterministic approaches" R.Horst & H.Tuy - Springer Verlag 1990 (Tối ưu toàn cục tất định), "Optimzation on Low Rank Nonconvex Structures" H.Konno, P.T.Thach & H.Tuy - Kluwer - 1997 (Tối ưu hóa trên những cấu trúc không lồi bậc thấp) và "Convex Analysis and Global Optimization" H.Tuy - Kluwer Academic Publishers 1998 - giáo trình giảng cho nghiên cứu sinh toán. Lý thuyết tối ưu DC còn có hạn chế vì chỉ mới khai thác tính chất lồi hoặc lồi đảo trong khi đó tính đơn điệu lại rất phổ biến. Cho nên ba năm gần đây giáo sư Hoàng Tụy mở hướng nghiên cứu mới về tối ưu đơn điệu, mà theo đánh giá của những chuyên gia trong ngành thì đó là khởi đầu của một giai đoạn mới cho tối ưu toàn cục tất định.

    Năm 1997 một cuộc hội thảo toán học quốc tế nhằm tôn vinh giáo sư Hoàng Tụy được tổ chức tại Viện công nghệ Linkoping, Thụy Ðiển. Tập sách Kỷ yếu hội thảo ấy cũng vừa được xuất bản tháng 7 năm 2001. Vẻ đẹp tự nhiên và tao nhã (từ dùng của các nhà toán học) của những chứng minh toán học của ông chinh phục được các nhà khoa học thế giới, các bài toán của ông có ứng dụng trong nhiều ngành khoa học, công nghệ và kinh tế trong đó có những vấn đề thuộc lĩnh vực mũi nhọn của thế giới về tin học và sinh học. Năm 1988 tại Ðại hội quốc tế về quy hoạch toán học lần thứ 13 tại Tokyo các nhà toán học thành lập tạp chí Global Optimization (Tối ưu toàn cục) mời ông làm Tổng biên tập nhưng ông từ chối với lý do Việt Nam lúc đó còn thiếu thông tin và chưa có điều kiện thuận lợi cho in ấn. Ông là ủy viên sáng lập của tạp chí này và là ủy viên Ban biên tập nhiều tạp chí quốc tế nổi tiếng khác như Mathematical Progamming (Quy hoạch toán học). Nhiều trường đại học lớn trên thế giới mời ông đến giảng bài và giúp đào tạo tiến sĩ chuyên ngành. Giáo sư Hoàng Tụy cũng là tác giả của một số công trình toán học xuất bản tại Việt Nam như "Lý thuyết quy hoạch tuyến tính" - 1967, "Giải tích hiện đại" - 1965, "Phân tích hệ thống và ứng dụng" - 1987, là những tài liệu giáo khoa nổi tiếng trong nước.

    Bài toán tối ưu đầu tiên của ông đăng ở Báo cáo của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô nên nhiều nhà khoa học thế giới tưởng ông là người Nga. Mãi đến năm 1971 giáo sư người Mỹ Egon Balas mới viết đúng tên ông và quê hương Việt Nam. Mới đây ông lại được mời sang Mỹ giảng chương trình tối ưu đơn điệu để áp dụng vào một số nghiên cứu công nghệ sinh học và kỹ thuật chế tạo. Những ứng dụng rộng rãi của hướng nghiên cứu của ông được đánh giá cao trên trường quốc tế.

    Dưới sự lãnh đạo của ông, nhóm nghiên cứu tối ưu và điều khiển tại khoa Toán Ðại học Tổng hợp trước đây và của Viện toán học Việt Nam dưới sự lãnh đạo của ông đã tham gia nhiều công trình ứng dụng thực tế về vận trù học, toán kinh tế, khoa học hệ thống v.v...

    Hoàng Tụy cùng với giáo sư Lê Văn Thiêm đã có đóng góp lớn trong việc thành lập Viện toán học và Hội Toán học Việt Nam. Viện toán học Việt Nam hiện nay được Viện hàn lâm khoa học thế giới thứ ba công nhận là một trong 10 trung tâm toán học xuất sắc của các nước đang phát triển. Trong thời gian dài ông đóng vai trò lãnh đạo Viện toán học và Hội toán học. Năm 1995 ông được trường Ðại học tổng hợp Linkoping (Thụy Ðiển) phong tặng Tiến sĩ danh dự về công nghệ. Năm 1996 ông được Nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học kỹ thuật.

    Thật khó tin rằng trong một đất nước nghèo nàn và bị bao vây lại có một nhà toán học tạo dựng ra một trường phái xuất sắc như vậy

    Vhuy

    Được viethuy80 sửa chữa / chuyển vào 17:08 ngày 21/01/2003
  2. VIETHUY80

    VIETHUY80 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/12/2001
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0

    GS.TSKH. Lê Văn Thiêm (1918-1991) - Nhà toán học Việt Nam
    Lê Văn Thiêm sinh tại làng Trung Lễ, huyện Đức Thọ (Hà Tĩnh). Năm 1939, ông du học tại Pháp. Ông là người Việt Nam đầu tiên nhận bằng Tiến sĩ Quốc gia về Toán (1948) của nước Pháp, cũng là người Việt Nam đầu tiên trở thành giáo sư toán tại một trường đại học ở châu Âu (đại học Zurich, Thuỵ Sĩ 1949). Sau khi trở về nước, từ năm 1950, ông đã có mặt tại chiến khu Việt Bắc nhận trọng trách thành lập trường Khoa học cơ bản, trường Sư phạm cao cấp và là hiệu trưởng của hai trường này. Ông là Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học Việt Nam, Chủ tịch đầu tiên của Hội Toán học Việt Nam và Tổng Biên tập đầu tiên của hai tờ báo toán học của Việt Nam (Vietnam Journal of Mathematics và Acta Mathematica Vietnamica). Hiện nay, tên ông được đặt cho giải toán quốc gia của Việt Nam. Ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Kháng chiến hạng Ba và Giải thưởng Hồ Chí Minh với cụm công trình về nghiên cứu cơ bản của Toán học lý thuyết và những bài toán về ứng dụng (1960-1970).
    Anh thanh niên Lê Văn Thiêm, con một gia đình thanh bạch, nhưng có truyền thống ham học, phải rời quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh, sống nhờ người anh là y sĩ Lê Văn Kỷ làm việc ở Quy Nhơn để tiếp tục học.
    Sau khi đỗ Thành chung năm 1936, anh Lê Văn Thiêm tự học trong 3 tháng thi đậu tiếp bằng Tú tài I thay vì phải học 2 năm như mọi người. Năm học 1936-1937, Lê Văn Thiêm ghi tên vào lớp học Toán (tương đương lớp 12 chuyên ban)trường Bưởi ở Hà Nội để chuẩn bị thi Tú tài Toán học. Anh vào học chậm 3 năm, ăn mặc lại "quê mùa", nói giọng nặng trịch với những thổ âm khó nghe, khó hiểu, nhưng chỉ cần sau khi học một thời gian ngắn là cả giáo sư Toán và bạn cùng lớp thán phục thiên tư toán học của người học trò xứ Nghệ đã nổi danh từ ngày còn ngồi trên ghế Collège de Quy Nhơn. Anh đỗ Tú tài Toán học không mấy khó khăn và ghi tên vào lớp PCB là lớp dự bị Đại học Y khoa vì thời ấy, Đại học Đông Dương không đào tạo Cử nhân Toán. Năm 1938, vì đỗ cao kỳ thi tốt nghiệp PCB nên Lê Văn Thiêm được học bổng du học tại Pháp. Đến Pháp, Lê Văn Thiêm xin ghi tên vào trường đào tạo Thạc sĩ Toán học, trở lại nguyện vọng ấp ủ từ lâu. Năm 1939, phát xít Đức thổi bùng ngọn lửa chiến tranh ở châu Âu và thôn tính luôn nước Pháp. Mãi đến năm 1941, anh mới có điều kiện học bình thường. Sau một năm, anh đã đỗ Cử nhân Toán học thay vì phải học 3 năm như mọi người. Anh từ bỏ nước Pháp để sang Đức và ở đó anh đã bảo vệ thành công xuất sắc luận án Toán học để nhận bằng Tiến sĩ A về Toán học. Anh có ý định học thêm để nhận học vị Tiến sĩ habil Toán học nhưng nước Đức phát xít đã thảm bại trước đồng minh vào năm 1945. Anh rời bỏ Berlin (Đức) trở về Pháp, vừa làm việc vừa kiếm sống, vừa tiếp tục học thêm để bảo vệ luận án, nhận học vị khoa học cao nhất: Tiến sĩ khoa học Toán học năm 1948. Giáo sư kể: "Sau 1945, tuy là nước thắng trận trong phe đồng minh nhưng kinh tế Pháp kiệt quệ, bánh mì phải phân phối từng trăm gam, thịt, bơ đều thiếu, anh thanh niên Nghệ Tĩnh vốn từ nhỏ quen sống thiếu thốn, mặc dù lúc đó đã có bằng Tiến sĩ A Toán học Đức và là giảng viên trẻ ở đại học nhưng hầu như hằng ngày chỉ sống bằng bánh mì phân phối và phomát cùng rau quả đạm bạc. Anh dành dụm tiền lương khiêm tốn với ý đồ sau khi bảo vệ luận án đạt học vị khoa học cao nhất sẽ làm thêm kiếm tiền đủ mua vé máy bay về nước".
    Năm 1946, được tin phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến Paris, anh Thiêm đã tự nguyện làm một số việc giúp đỡ phái đoàn và tập hợp anh em trí thức Việt kiều đi đón Hồ Chủ tịch. Được đồng chí Phạm Văn Đồng giao nhiệm vụ, anh đã sang Bỉ liên hệ giao dịch mua vũ khí để chuyển về nước. Năm 1948, anh đại diện cho Việt Nam lần đầu tiên dự Hội nghị Hoà bình thế giới tại Ba Lan. Cùng năm đó, anh là người Việt Nam đầu tiên nhận học vị Tiến sỹ Quốc gia về Toán học tại Pháp, sau đó trở thành giáo sư giảng dạy tại Trường Đại học Zurich (Thuỵ Sỹ). Cuối năm 1949, khi tài năng toán học nở rộ, vị giáo sư tiến sỹ 31 tuổi, Lê Văn Thiêm nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trở về Tổ quốc, tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ.
    Trong suốt 47 năm (1944-1991), Giáo sư đã để lại cho đời sau trên 20 công trình khoa học có giá trị trong đó có công trình là nguồn gốc xuất phát của một số luận án tiến sĩ Toán học của Mỹ hiện nay. Giáo sư Lê Văn Thiêm có những đóng góp to lớn cho Toán học trên cả ba phương diện: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai ứng dụng.
    Về nghiên cứu cơ bản, Giáo sư đã đề ra một phương pháp mới, nhờ đó giải được bài toán ngược của lý thuyết Nevanlinna (tên người khai sinh ra nó, nhà toán học Phần Lan), một trong những lý thuyết quan trọng nhất của thế kỷ XX. Về nghiên cứu ứng dụng, ông là người đầu tiên giải được tường minh bài toán thấm qua hai lớp đất bằng phương pháp sử dụng nguyên lý đối xứng của giải tích phức. Cùng với các học trò của mình, Giáo sư đã áp dụng bài toán này vào việc rửa mặn các vùng ruộng ven biển. Trên phương diện triển khai ứng dụng, Giáo sư cũng đã trực tiếp cùng với các học trò và đồng nghiệp của mình áp dụng phương pháp nổ định hướng để nạo vét kênh Nhà Lê và làm đường chiến lược trong rừng thời chiến tranh chống Mỹ. Sau này, để góp phần xây dựng đất nước, ông đã cùng các cộng sự của mình nghiên cứu xây dựng mô hình toán học và bộ chương trình giải các bài toán dòng chảy, phục vụ cho việc thiết kế và thi công công trình thuỷ điện Hoà Bình và quy hoạch đồng bằng sông Cửu Long.
    Giáo sư Lê Văn Thiêm còn có công rất lớn trong việc xây dựng tiềm lực và đội ngũ toán học nước nhà. Ông là Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học. Giáo sư cũng là người đề xướng và chủ trì 3 hội nghị Toán học toàn quốc nhằm xác định phương hướng nghiên cứu và tập hợp lực lượng toán học trong cả nước nghiên cứu, ứng dụng toán học và tin học phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước. Trong lĩnh vực giáo dục-đào tạo, Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ các nhà toán học Việt Nam và các ngành khoa học khác như hoá học, vật lý, sinh học.
    Giáo sư Lê Văn Thiêm có đóng góp lớn trong hợp tác quốc tế giữa các nhà toán học Việt Nam và các nhà toán học thế giới. Ông đã đưa Hội Toán học Việt Nam tham gia vào Hội Toán học quốc tế với tư cách là thành viên chính thức, đưa Viện Toán học tham gia vào Trung tâm Toán học quốc tế Banach (Ba Lan). Nhờ mối quan hệ tốt và uy tín khoa học của Giáo sư mà nhiều nhà toán học có tên tuổi trên thế giới như Laurent Schwartz, Grotendick (Pháp), Smale và Chomsky (Mỹ)... đã sang Việt Nam và nhiệt tình giúp đỡ cộng tác với các nhà toán học Việt Nam.
    Những đóng góp của Giáo sư Lê Văn Thiêm cho Toán học Việt Nam nói riêng và Toán học thế giới nói chung đã được thừa nhận rộng rãi. Và tinh thần tận tuỵ vì sự nghiệp khoa học, giáo dục và đạo đức tốt đẹp của Giáo sư luôn sống mãi trong lòng các thế hệ toán học Việt Nam.
    Tài liệu tham khảo:
    - Nhiều tác giả, Những người cùng thời, NXB Trẻ, 2002. GS. Nguyễn Cang, ấn tượng về một nhà khoa học, Tạp chí Xưa Nay, số 41B, 7/1997.
    - GS.TS. Trần Đức Vân, Giáo sư Lê Văn Thiêm-Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học, Hà Nội, 9/1998.
    GS.TS. Hà Huy Khoái, Giới thiệu vắn tắt Những công hiến khoa học của Giáo sư Lê Văn Thiêm.

    Vhuy
  3. VIETHUY80

    VIETHUY80 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/12/2001
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Giáo sư Tạ Quang Bửu (1910 - 1986) Một trí thức uyên bác và giàu nhiệt huyết
    Giáo sư Tạ Quang Bửu sinh ngày 23/7/1910 trong một gia đình nhà giáo tại thôn Hoành Sơn, xã Nam Hoành, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Trong tộc phả họ Tạ Quang có câu: ?oPhụ giáo tử đăng khoa, cử nhân tại quán? (cha dạy con đi thi, đỗ cử nhân không ra làm quan). Cho đến đời cha ông là Tạ Quang Diễm, dòng họ Tạ Quang đã 11 đời thực hiện lời căn dặn trên. Đó là thời kỳ suy vong của chế độ phong kiến, nhiều nhà nho có khí tiết không ra làm quan để phản đối triều đình thối nát. Nhưng đến đời Tạ Quang Bửu, ngay từ khi nước ta đang ở dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, ông đã đem hết lòng nhiệt huyết và kiến thức sâu rộng của mình ra phục vụ Tổ quốc và nhân dân.
    Năm 1929, sau khi đỗ đầu tú tài bản xứ và đỗ đầu tú tài Tây ban Toán, ông nhận được học bổng của Hội Như Tây Du học Trung kì và sang Pháp học. Ông thi đỗ vào trường Centrale (A) Paris năm 1930, học Toán ở các trường Đại học Paris, Bordeaux (Pháp) và Oxford (Anh) từ 1930 đến 1934. Tại Pháp, ông theo học chương trình cử nhân khoa học ở Sorbonne. ở đây có hai giảng đường lớn: Hermite dàng cho cử nhân và Darboux dành cho những người học trên đại học. Ông đã đến nghe giảng ở Hermite và tham dự các buổi xê-mi-ne ở Darboux. Tại đây, ông đã tiếp xúc với nhiều nhà toán học trẻ của nước Pháp, bí mật tham gia nhóm Nicolas Bourbaki. Mục đích của nhóm N. Bourbaki là tổng kết toàn bộ thành tựu toán học của loài người, mọi thành viên khi in các công trình toán học dù dưới dạng báo hay sách đều kí một bút danh là N. Bourbaki. Nhóm đã công bố hơn 40 công trình đồ sộ, được đánh giá cao đến mức nhiều ý kiến cho rằng có thể chia lịch sử toán học thế giới ra 2 kỉ nguyên: tiền Bourbaki và Bourbaki.
    Trong việc học, ông chỉ cốt sao thu nhận được nhiều kiến thức nhất chứ không quan tâm đến việc thi lấy bằng. Bên cạnh việc nghe giảng tại giảng đường đại học, ông dành phần lớn thời gian tự học. Ông thành thạo tiếng Anh, tiếng Pháp, sử dụng được tiếng Đức, đọc hiểu tiếng Nga, Hán, Hi lạp cổ, Latinh. Tự cập nhật kiến thức, quan tâm rộng rãi, thường xuyên đến các ngành khoa học cơ bản nói chung và toán học nói riêng, là nét nổi trội nhất trong sự học của ông. Giáo sư Hoàng Xuân Sính đã từng viết về ông: ?oAnh giống như người thày của tôi, Alexandre Grothendieck... bao giờ cũng bay vượt lên cao, trừu tượng hoá tối đa các vấn đề cụ thể mà nhà toán học tinh tế đã nhìn thấy những mối quan hệ sâu sắc. Và sau khi làm việc trên những đối tượng rất trừu tượng, tưởng như nó là kết quả thuần tuý của sự tưởng tượng thì ứng dụng nó vào những lĩnh vực tưởng như không có gì liên quan đến nhau lại vô cùng phong phú?.
    Trở về nước năm 1934, ông không ra làm quan mà chỉ nhận dạy Toán và tiếng Anh tại một trường tư, Trường Providence (Thiên Hựu) ở Huế. Nhiều người đã từng là học sinh cũ của trường vào khoảng những năm 1934- 1935 vẫn nhớ đến một giáo sư ?orất khác thường?: Giáo sư Tạ Quang Bửu. Giáo sư vừa ở Pháp về đậu nhiều bằng cử nhân... lại từ chối làm việc cho chính quyền bảo hộ, không nhận dạy ?otrường công? lương cao mà chỉ thích dạy trường tư. Học sinh rất thích thú với cách giảng sinh động và phát âm rất chuẩn-?orất ănglê? của thày.. Ngoài tiếng Anh và Toán, Lí, Hóa mà thày rất giỏi, thày Bửu còn dạy các môn khoa học tự nhiên khác theo yêu cầu của nhà trường. Các môn này (động vật, thực vật, khoáng vật) thày tự nghiên cứu trong sách chuyên ngành cao hơn nhiều so với chương trình trung học rồi lên lớp với những mẫu hiện vật thày tự sưu tầm. Cách dạy của thày có cái gì đó khác với những người khác khiến nhiều học sinh, kể cả những người không được học với thày, vừa kính trọng vừa quí mến tìm đến với thày. Với thể thao, thày Bửu cũng tỏ ra xuất sắc ở một số môn và truyền đạt kinh nghiệm luyện tập cho các học sinh như: đánh bóng bàn theo kiểu Barma, người Hung-ga-ry đương kim vô địch thế giới, tập điền kinh theo phương pháp khoa học nhất, bơi kiểu Krôn (Crawl, bơi trườn)...
    Từ năm 1942 đến năm 1945, ông được cử giữ chức Vụ trưởng Vụ Nghiên cứu Hãng Điện-Nước Trung kì. Và trong thời gian này, ông cũng được bầu làm Huynh trưởng Hướng đạo sinh Trung kì. Đây là phương pháp giáo dục dành cho thanh thiếu niên, những người tham gia công khai nguyện ?oTrung thành với Tổ quốc?, làm những việc có ích cho xã hội như đi lạc quyên cứu đói, hoạt động truyền bá quốc ngữ, giúp đỡ người nghèo... Hướng đạo cũng rèn luyện cho thanh niên cách sống tự lực trong những điều kiện khác nhau. Vốn ghét thực dân, quan lại, Tạ Quang Bửu đã dần dần đưa phong trào hướng đạo thoát khỏi ảnh hưởng của Pháp và ngầm chống lại phong trào ?ovui vẻ, trẻ trung của Ducroy.
    Tháng 8/1945, ông cùng luật sư Phan Anh ra Hà Nội tham gia cách mạng. Ngay trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, ông đã cho ra mắt bạn đọc mấy cuốn sách: ?oThống kê thường thức?, ?oVật lý cương yếu?, ?oNguyên tử ?" hạt nhân ?" vũ trụ tuyến? và ?oSống?. Trong cuốn sách mỏng, giáo sư đã vận dụng những phát minh mới nhất trong vật lý lượng tử để giải thích sự sống, trình bày cấu trúc phân tử của gen, sự di truyền và biến dị, tính trội và tính lặn, các tác nhân gây đột biến như tia Rơgen, tia vũ trụ... Tuy nhiên theo Giáo sư ?oĐiều cốt yếu không phải: Sống là gì? Điều cốt yếu nhất là: Làm gì trong lúc sống?? Những cuốn sách của Giáo sư Tạ Quang Bửu và những hoạt động hướng đạo sinh của ông trước đó đã gây được những ảnh hưởng sâu sắc đên tầng lớp thanh niên trí thức lúc bấy giờ. Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 1948 ở Việt Bắc, Giáo sư Nguyễn Xiển đã nói: ?oTrong thời kì kháng chiến này, ông Tạ Quang Bửu là nhà khoa học viết được nhiều nhất, do vậy, có thể ảnh hưởng nhiều nhất đến thế hệ đương thời?.
    Cũng trong thời kì này, ông đã đảm nhận những chức vụ quan trọng như Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời, phụ trách giao thiệp với Mỹ và Anh (9/1945-1/1946); Thứ trưởng Bộ Quốc phòng rồi Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (8/1947-8/1948). Năm 1947, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu đã chỉ đạo và biên soạn cuốn sách ?oBắn máy bay bằng súng trường tập trung? phổ biến rộng rãi khắp nơi và sau đó, góp phần chấm dứt thời kì máy bay Pháp làm mưa làm gió trên vùng trời Việt Nam. Sau này, phi công Mỹ bị giam ở ?oHilton Hà Nội? viết thư cho Đài Tiếng nói Việt Nam hỏi: ?oLàm sao dân quân du kích Việt Nam có thể dùng súng trường bộ binh để bắn rơi máy bay phản lực?? Giáo sư Tạ Quang Bửu đã đọc vào máy ghi âm giải đáp câu hỏi bằng tiếng Anh đầy lý lẽ.
    Đến thời kì chống Mỹ, dù không còn làm việc ở Bộ Quốc phòng, Giáo sư Tạ Quang Bửu vẫn tham gia giải quyết những vấn đề gay cấn nhất trong khoa học kỹ thuật quân sự. Mùa hè năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh thả thuỷ lôi trên sông biển nước ta và phong toả cảng Hải Phòng. Giáo sư đã trực tiếp chỉ đạo một tổ nghiên cứu thiết kế, chế tạo khí tài phá thuỷ lôi (mật danh GK1), phá bom từ trường (mật danh GK2) do Tiến sĩ Vũ Đình Cự làm tổ trưởng.
    Trong sự nghiệp của mình, Giáo sư Tạ Quang Bửu kiêm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng khác nhau. Tuy vậy, ngay cả khi bận công việc chính sự, ông vẫn dành thời gian đem kiến thức uyên bác của mình truyền thụ lại cho các thế hệ học trò. Ngay trong những ngày Toàn quốc kháng chiến, ông vừa tham gia các công việc của Chính phủ vừa giảng dạy môn Vật lý tại Trường Đại học Hà Nội. Rồi ngay sau khi miền Bắc được giải phóng, ông được cử làm Giám đốc Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội (1956-1961) đồng thời là Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng Thư kí Uỷ ban Khoa học Nhà nước.
    Học trò của Lê Quý Đôn đã viết về thày mình: ?oThày ta là tinh tuý của suối nguồn học vấn?. Còn học trò của Tạ Quang Bửu tôn vinh ông là ?oLê Quý Đôn của thời đại Hồ Chí Minh?. Thời Lê Quý Đôn, người ta bảo nhau: ?oThiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn? (Thiên hạ có điều gì không biết đến hỏi Bảng nhãn Lê Quý Đôn). Thời nay, nếu có một nhà khoa học uyên bác trên nhiều lĩnh vực và gần như ai hỏi điều gì đều có thể giải đáp thì người ấy chính là Tạ Quang Bửu. Quả vậy, ông thông hiểu lịch sử Việt Nam và nhớ như thuộc lòng lịch sử của hai cuộc chiến tranh thế giới. Về cổ học, ông đọc được Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử, Đạo đức kinh, Nam Hoa kinh... trong nguyên bản Hán ngữ. Là lãnh đạo Uỷ ban Khoa học Nhà nước, ông trực tiếp làm trưởng ban Sinh vật - Địa học. Các bài giảng của ông về sinh học hiện đại có các giáo sư đầu ngành đến dự. Khi ông thuyết trình tại các hội thảo toán học, người nghe vừa ngạc nhiên vừa khâm phục kiến thức uyên bác và cập nhật của ông...
    Một trong những công lao to lớn của Giáo sư Tạ Quang Bửu là xây dựng nền đại học trong kháng chiến chống Mỹ, góp phần vào sự nghiệp đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật nước ta. Ông là Bộ trưởng đầu tiên của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (Bộ ĐH&THCN) từ năm 1965 đến năm 1976). Được thành lập trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Bộ ĐH&THCN có trách nhiệm nặng nề : duy trì mọi hoạt động giáo dục và đào tạo, đảm bảo nhu cầu cán bộ khoa học cho tiền tuyến cũng như hậu phương; bảo vệ đội ngũ cán bộ giảng dạy và học sinh, sinh viên cũng như cơ sở vật chất hiện có; chuẩn bị cho sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh. Ngay từ thời kì đầu, Giáo sư Tạ Quang Bửu đã chú trọng đến chất lượng dạy và học. Ông đã đề xuất cải tiến nội dung giảng dạy những điều ?ocơ bản nhất, hiện đại nhất và sát hợp với điều kiện Việt Nam nhất?. Theo sự chỉ đạo của Giáo sư, hệ thống các ban thư kí các bộ môn và các ngành đào tạo được thành lập để cải tiến chương trình đào tạo đồng thời các cán bộ có trình độ cao và kinh nghiệm giảng dạy cũng được tập hợp để biên soạn các giáo trình... Những năm đầu của thập kỉ 70 (thế kỉ XX), Giáo sư Bửu đã tổ chức một loạt các cuộc hội thảo về phương pháp giảng dạy đại học. Chủ trương mở rộng quy mô đào tạo bằng việc lập nhiều trường chuyên ngành đã được phối hợp chặt chẽ với chính sách tuyển chọn mỗi năm hàng trăm sinh viên, cán bộ ưu tú để gửi đi đào tạo tại các nước xã hội chủ nghĩa.
    Do công lao cống hiến của mình, ông được kết nạp vào Đảng (7/1947), là đại biểu Quốc hội liên tục từ khoá I đến khoa VI và đã được Đảng, Nhà nước ta tặng thưởng:
    - Huân chương Độc lập hạng Nhất,
    - Huân chương Kháng chiến hạng Nhất,
    - Huân chương Chiến thắng hạng Nhất,
    - Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất,
    - Huân chương Chiến công hạng Nhất,
    - Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba,
    - Huy chương Quân kì quyết thắng.
    Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1) về khoa học công nghệ với tập hợp các công trình ?oGiới thiệu khoa học kĩ thuật hiện đại (sau 1945), chỉ đạo các nhiệm vụ quan trọng trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước và những quan điểm xây dựng ngành Đại học và Trung học chuyên nghiệp nước nhà?. Các công trình của ông được đánh giá là đã định hướng phát triển một số ngành khoa học cơ bản; chỉ đạo kỹ thuật việc rà phá bom mìn phong toả Vịnh Bắc Bộ, Hải Phòng và chỉ đạo những nhiệm vụ kỹ thuật quan trọng khác trong kháng chiến chống Mỹ. Những ý tưởng chỉ đạo của ông về bồi dưỡng nhân tài, chú trọng phát triển các công trình khoa học trọng điểm, về hợp tác khoa học, kỹ thuật với nước ngoài cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
    Là một nhà khoa học uyên bác, là người lãnh đạo xuất sắc các ngành khoa học và giáo dục, Giáo sư Tạ Quang Bửu với cái tâm trong sáng luôn quy tụ được những nhà khoa học giỏi ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Cái tâm và trí tuệ của Giáo sư Tạ Quang Bửu sẽ mãi mãi toả sáng trong các thế hệ trí thức Việt Nam.
    Bài viết tham khảo tư liệu từ :
    - GS. Nguyễn Văn Đạo (chủ biên), ?oGiáo sư Tạ Quang Bửu - Con người và sự nghiệp?, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,2000.
    - Hội Khoa học Lich sử Việt Nam (chủ biên), ?o Tạ Quang Bửu - Nhà tri thức yêu nước và cách mạng?.
    Phạm Viết Hoàng, ?oThày Bửu dạy bắn súng bắc cầu... ?o in trong cuốn ?oTài trí Việt Nam?, NXB Thanh niên và Tạp chí Thế giới mới, Hà Nội, 1997.

    Vhuy
  4. www.ttvnonline.com

    www.ttvnonline.com Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    08/01/2003
    Bài viết:
    34
    Đã được thích:
    0
    Giáo sư, Viện sỹ Trần Đại Nghĩa (1913-1997)
    Nhà khoa học Việt nam chân chính
    Giáo sư Trần Đại Nghĩa tên khai sinh là Phạm Quang Lễ, sinh ngày 13/9/1913, tại Xuân Hiệp, Vang Bình, Vĩnh Long, Nam Bộ, trong một gia đình nhà giáo nghèo.
    Mồ côi cha từ năm 10 tuổi, Phạm Quang Lễ do tiếp thụ được truyền thống yêu nước thương người của gia đình và có trí óc thông minh, đã được mẹ và chị hết lòng nuôi dưỡng. Năm 1926, Lễ học xong bậc tiểu học, tốt nghiệp hạng ưu và sau đó đỗ tiếp vào Trường trung học Mỹ Tho. Vì đỗ hạng ưu nên Lễ được cấp học bổng. Suốt bốn năm học ở bậc trung học đệ nhất cấp, Lễ là học sinh xuất sắc, thường đạt điểm cao và đứng đầu về các môn khoa học tự nhiên như toán, vật lý, hoá học. Năm 1930, Lễ tốt nghiệp trung học phổ thông và tiếp tục học Trung học đệ nhị cấp Pê-trus Ký, một trường học nổi tiếng của Sài Gòn. Trường quy định chặt chẽ giờ học, giờ nghỉ, giờ ăn, giờ ngủ nhưng đối với những học sinh ham học như Lễ, giờ học trong nội quy còn quá ít. Anh và các bạn đã nghĩ ra cách học. Khi có lệnh tắt đèn đi ngủ, họ chia nhau người vào nhà tắm, người vào nhà cầu, bật đèn học tiếp. Thoạt đầu, các giám thị rất ngạc nhiên: nhà cầu đóng cửa hàng giờ mà không có ai ra, nhà tắm đóng cửa mà không có tiếng xối nước. Sau đó nhiều người phát hiện được mưu mẹo của Lễ và các bạn anh nhưng rồi nể họ là những học sinh ham học nên phần đông giám thị bỏ qua. Cũng trong thời kỳ Lễ học Trung học đệ nhị cấp Pê-trus Ký, có nhiều hoạt động chống thực dân Pháp nổ ra như hoạt động của cụ Phan Bội Châu, phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, các cuộc bãi công, bãi thị do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, khởi nghĩa Yên Bái. Các sự kiện đó khơi sâu lòng yêu nước trong giới học sinh. Tuy nhiên, hầu hết đều bị thực dân đàn áp dã man và bị thất bại. Một trong những nguyên nhân thất bại là vấn đề vũ khí: lực lượng cách mạng không có vũ khí trong khi quân đội thuộc địa được ?otrang bị đến tận răng?. Muốn thắng kẻ thù, ngoài những người lo về chính trị, phải có người lo về quân sự, về khoa học, về vũ khí. Cho nên, Lễ đã sớm xác định hướng đi cho mình là học giỏi, nhất là các môn khoa học tự nhiên để sau này nghiên cứu về vũ khí giúp cho công cuộc giải phóng dân tộc.
    Năm 1933, chàng thanh niên 20 tuổi, Phạm Quang Lễ đã đỗ xuất sắc hai bằng tú tài: Tú tài tây và Tú tài bản xứ.
    Tháng 9 năm 1935, nhận được học bổng du học bên Pháp của Hội ái hữu trường Xatxơlu Lôba (Pháp), Phạm Quang Lễ có cơ hội để thực hiện hoài bão của mình. Suốt 11 năm học tập tại Pháp, anh miệt mài nghiên cứu tại Trường đại học quốc gia Cầu Cống, Trường đại học Xoocbon, Viện Khí động học, Học viện Thống kê, Trường cao đẳng kỹ thuật Điện. Sau giờ học, anh thường đến các thư viện để tra cứu sách liên quan đến chế tạo vũ khí. Anh cũng tìm đến những hiệu sách cũ để tìm những quyển sách về đề tài này. Ngoài ra, Lễ còn tham dự các buổi thực nghiệm, đi tham quan các nhà máy, các viện nghiên cứu... nhất là các viện bảo tàng vũ khí.
    Trong lĩnh vực vũ khí quân sự, Đức là nước đạt nhiều thành tựu. Để đọc thẳng sách về vũ khí bằng tiếng Đức, Lễ đã tự học thứ tiếng này. Trong ba ngày, anh học hết những nguyên tắc cơ bản của văn phạm và bắt đầu đọc sách. Nhưng như vậy thì rất chậm vì anh phải tra từ điển quá nhiều. ?oTại sao trước hết ta lại không học các từ? Có thể như vậy sẽ nhanh hơn?- Lễ tự nhủ. Trong hai ngày, anh học thử hai mươi trang từ điển, gồm gần sáu trăm chữ và anh nhớ được hai trăm. Với cách học này, sau một tháng anh học xong và nhớ được khoảng 4000 từ đủ để đọc sách thẳng từ tiếng Đức. Ngoài nghiên cứu về sản xuất vũ khí, Lễ còn tìm hiểu thêm môn khoa học quản lý. Anh cũng nhận thấy phải giữ bí mật cho những công việc của anh. Vì thế, anh đã tìm đọc những sách nói về công tác phản gián. Anh cần biết các điệp viên thường làm những gì khi điều tra đối tượng của họ, để anh giữ mình... Anh làm việc kín đáo đến mức: công việc anh làm trong mười một năm vẫn không ai hay, trừ một vài người bạn.
    Sau khi tốt nghiệp các trường đại học (trong khoảng thời gian 1936-1941), Phạm Quang Lễ đã lần lượt làm việc tại ba công ty chế tạo máy bay của Pháp. Trong thời gian này, ông đã thu thập thêm kiến thức về pháo, súng máy và bom mìn đồng thời quan sát các ụ súng của quân đội Pháp chuẩn bị để ứng chiến với phát xít Đức.
    Tháng 9 năm 1946, ông cùng với một số trí thức khác theo Bác Hồ về nước để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta. Khi còn lưu tại Pháp, Bác Hồ đã hỏi ông hai câu:
    Câu thứ nhất: "ở nhà cực khổ lắm, chú về có chịu được không?" ?" Ông thưa: "Chịu nổi".
    Câu thứ hai: "Bây giờ ở nhà kỹ sư, công nhân về vũ khí không có, máy móc thiếu, liệu chú có làm được việc không?" - Ông nói: "Thưa Bác, tôi đã chuẩn bị mười một năm rồi và tôi tin là làm được."
    Ngày 5 tháng 12 năm 1946, trước Ngày Toàn quốc kháng chiến, tại Bắc Bộ Phủ, ông được Bác Hồ giao cho một trọng trách. Bác nói: "Kháng chiến sắp đến nơi rồi. Hôm nay, Bác quyết định giao cho chú nhiệm vụ làm Cục trưởng Cục Quân giới. Chú sẽ chăm lo vũ khí cho quân đội. Đây là việc đại nghĩa. Vì thế, từ nay Bác đổi tên cho chú là Trần Đại Nghĩa..."
    Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, Trần Đại Nghĩa với tư cách là một lãnh đạo và một nhà khoa học, đã cùng với các đồng chí của mình và hàng ngàn công nhân kỹ thuật trong cả nước hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình: sản xuất vũ khí cho quân đội Việt Nam. Thành công về quân giới của chúng ta trong hai cuộc kháng chiến chủ yếu là do biết tập trung vào vũ khí phục vụ chiến tranh nhân dân. Những công trình khoa học kỹ thuật chế tạo vũ khí như Bazôka, súng đại bác không giật (SKZ), ... thực sự là những kỳ tích của Trần Đại Nghĩa và các cộng sự của ông. Các công trình này đã đóng góp vào việc giải quyết lý thuyết và thực nghiệm các vấn đề về cơ khí, hoả thuật và thuốc phóng để chế tạo thành công súng Bazôka bắn đạn lõm, công cụ chủ yếu chống chiến xa lúc bấy giờ, với sức xuyên thép 150 mm, súng có thể vác vai cơ động, cự ly bắn 50-150 m. Loại vũ khí này mang tính sáng tạo cao, phù hợp với điều kiện vật chất và kỹ thuật của Việt Nam lúc bấy giờ, góp phần quan trọng vào việc tăng cường hoả lực của bộ binh ta, tạo điều kiện thuận lợi để đánh thắng kẻ thù.
    Trần Đại Nghĩa cũng là một nhà nghiên cứu rất có quyết tâm, không sờn lòng trước những khó khăn. "Người nghiên cứu phải có một niềm tin mãnh liệt không nản chí trước những thất bại tạm thời, bền bỉ, nhẫn nại đến mức cao nhất", ông luôn nghĩ và làm như vậy.
    Vì những đóng góp to lớn đối với quân đội Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung, Trần Đại Nghĩa được kết nạp vào Đảng năm 1949 và được phong quân hàm Thiếu tướng.
    Ngày Quốc tế lao động năm 1952, Trần Đại Nghĩa được tuyên dương Anh hùng lao động trong số bảy Anh hùng của Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc được tổ chức tại Việt Bắc. Bác Hồ trong một bài báo ký tên C.B đã viết về ông: "Anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa là một đại trí thức, mang một lòng nhiệt thành về phụng sự Tổ quốc, phục vụ kháng chiến".
    Năm 1996, giáo sư Trần Đại Nghĩa đã được Nhà nước trao Giao thưởng Hồ Chí Minh với công trình: "Nghiên cứu và chỉ đạo kỹ thuật chế tạo súng Bazôka, súng SKZ, đạn bay trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954". Trước đó, ông cũng được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Quân công hạng ba và Huân chương Quân công hạng nhất.
    Được Đảng và Nhà nước tin tưởng, ông đã lần lượt đảm trách những chức vụ quan trọng:
    Cục trưởng Cục Quân giới (12/1946-05/1954)
    Cục trưởng Cục Pháo binh (8/1949-11/1951)
    Thứ trưởng Bộ Công nghiệp (9/1950-9/1960)
    Thứ trưởng Bộ Công nghiệp nặng (9/1960-2/1963)
    Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kiến thiết Nhà nước (2/1963-3/1972)
    Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước (10/1965-8/1966)
    Phó Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần (8/1966-1/1977)
    Viện trưởng Viện Khoa học Việt Nam (1/1977-1/1983), tiền thân của Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia ngày nay.
    Năm 1983, ông nhận nhiệm vụ vận động đội ngũ trí thức trong tất cả các ngành khoa học và công nghệ thành lập Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp hội). Giáo sư Trần Đại Nghĩa trở thành Chủ tịch đầu tiên của Liên hiệp hội, nhiệm kỳ 1983-1988.
    Dù ở cương vị nào ông cũng hoàn thành nhiệm vụ. Là một quân nhân, Thiếu tướng Trần Đại Nghĩa luôn dũng cảm, tận tuỵ. Là một nhà khoa học, Giáo sư, Viện sỹ Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô Trần Đại Nghĩa đã nêu tấm gương của một nhà nghiên cứu chân chính, hết lòng vì sự nghiệp khoa học.
    Bài viết có tham khảo tư liệu từ:
    Truyện ngắn: Người anh hùng thầm lặng. Tác giả: Vũ Hùng. NXB Kim Đồng, 1985.
    Tập hồi ký: Người cha thân yêu. Tác giả: Hoàng Văn Thái, Huỳnh Đắc Hương, Trần Nhẫn, Đào Đình Luyện, Trần Đại Nghĩa, Tư Cường, Nguyễn Tuyên. NXB QĐND, 1986.
    Hồ sơ của Giáo sư. Viện sỹ Trần Đại Nghĩa tại Ban Tổ chức ?" Cán bộ, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam.
    Khoa học và Công nghệ Việt Nam 1996-2000. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, 2001.
    http://www.ttvnonline.com
  5. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Bác VIETHUY80 ơi!!!Home xin mãi cho bác , mới không còn treo nick nữa đó. Post bài tiếp đi bác. Đang hay mà!!!
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  6. VIETHUY80

    VIETHUY80 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/12/2001
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0

    bài viết của Giáo sư Phan đình Diệu
    Tưởng nhớ Giáo sư Tạ Quang Bửu (1913-1986),
    người thầy lớn trong khoa học và trong cuộc sống

    Có một thói quen, không hiểu đã có từ bao giờ nhưng tôi nhớ đã được thừa hưởng từ những ngày kháng chiến chống Pháp, là gọi thầy giáo bằng " anh ", dù thầy có khi lớn hơn mình đến vài ba chục tuổi. Gọi bằng anh, một tiếng " Anh " đầy tôn kính mà thân tình. Rồi cách gọi Anh như vậy cũng được dùng cả với những người mà mình kính trọng, ngưỡng mộ, và may mắn có được chút quan hệ thân thiết tuy không phải là thầy dạy mình. Tôi biết tiếng Giáo sư Tạ Quang Bửu, một nhà khoa học, một người hoạt động Nhà nước và xã hội nổi tiếng, từ khi mới là một học sinh trung học ở quê nhà. Mãi đến cuối những năm 50, khi đã tốt nghiệp đại học, đã đi dạy và bắt đầu tham gia chập chững vào con đường nghiên cứu khoa học, tôi mới được gặp Anh. Và, cũng như bao bạn khác, quên hết mọi xa cách về tuổi tác và cương vị công tác, chúng tôi đã gọi anh một cách hết sức tự nhiên là " Anh Bửu ".
    Hồi ấy, Anh đã về làm Hiệu trưởng Đại học Bách khoa Hà nội mới thành lập, rồi vài năm sau, làm Phó Chủ nhiệm kiêm Tổng thư ký Uỷ ban Khoa học nhà nước. Việc nước ta có một Uỷ ban Khoa học do những vị tài cao học rộng đầy uy tín (và cũng đầy huyền thoại) đứng đầu làm cho bọn trẻ chúng tôi hết sức háo hức, hăng hái tham gia mọi hoạt động do Uỷ ban tổ chức. Tôi dạy toán ở Đại học Sư phạm, tham gia đều đặn các sinh hoạt xêmine toán ở Uỷ ban. Một điều thú vị là tuy bận nhiều việc và quán xuyến nhiều ngành, nhưng Anh Bửu vẫn dành thì giờ tham gia chủ trì và thuyết giảng tại xêmine Toán về những vấn đề mới, có tính chất định hướng. Cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ những buổi giảng của Anh, say sưa và sâu sắc, luôn hấp dẫn người nghe, hấp dẫn bởi cái say sưa nhiệt tình của người giảng là chính, dù người nghe chúng tôi nhiều khi chưa lĩnh hội được cái sâu sắc của bài giảng qua ngôn ngữ bác học của Anh. Đối với tôi, dù chưa hiểu bao nhiêu, nhưng tác động quan trọng của các bài giảng đó là gợi sự tò mò và lòng ham tìm hiểu ; và rồi như sau này khi đã trải qua phần lớn cuộc đời mình, tôi nghiệm ra rằng cái hấp dẫn nhất đối với mình bao giờ cũng là cái chưa hiểu.
    Các bài giảng của Anh gây tác động nhiều nhất với tôi hồi đó là Về các cấu trúc Bourbaki. Sau khi tốt nghiệp rồi ra dạy học, mấy năm đầu tôi say mê học Lý thuyết số, rồi lan man từ các con số, do tò mò muốn hiểu cái gốc " tận cùng " của toán học, vào những năm 1959-60, tôi bắt đầu tìm học Lôgích toán, Lý thuyết tập hợp... Tự học trong điều kiện tài liệu thiếu thốn, nên tôi chỉ hiểu lọ mọ thôi, nhiều cái không hiểu mà cứ tưởng là hiểu, hiểu sai mà cứ tưởng là hiểu đúng. Nghe Anh Bửu giảng các cấu trúc Bourbaki, tôi cũng chỉ hiểu lơ mơ, nhưng là những cái lơ mơ đầy hấp dẫn. Cho đến nay, tôi vẫn còn giữ được quyển sách nhỏ Về các cấu trúc Bourbaki của Anh. Quyển này, cũng tương tự như các quyển Nguyên tử, hạt nhân, vũ trụ tuyến và Sống mà Anh viết từ những năm 1947-48 trong chiến khu, có một nét chung là Anh muốn giới thiệu kịp thời, qua cách tóm lược cô đọng và súc tích của mình, những tư duy mới, những kết quả mới trong khoa học thế giới, nhằm giúp anh chị em khoa học trong nước tiếp cận nhanh với hiện đại. Không thể xem đó là những tài liệu phổ biến khoa học dễ hiểu. Với kiến thức sâu rộng của Anh, Anh có cách hiểu riêng để nắm bắt những điều cốt lõi trong các lý thuyết mới, và tôi nghĩ những điều Anh viết ra thường là những tiếp thu trí tuệ của Anh đối với các lý thuyết đó, do đó dễ hiểu với Anh mà khá khó hiểu với người khác. Nhưng tác động của những quyển sách nhỏ đó có lẽ chính là ở chỗ nó gây cho ta sự hấp dẫn say mê từ những hiểu biết lơ mơ luôn gợi trí tò mò. Từ tò mò đi đến tìm hiểu nghiêm túc, và rồi đến khi đã học tương đối thuần thục, trở lại đọc quyển sách nhỏ của Anh, ta sẽ có cái thú vị tìm được những đặc thù riêng trong cách cảm nhận của Anh mà trước đây ta chưa hiểu.
    Các cấu trúc Bourbaki, được xây dựng trên cơ sở lý thuyết tập hợp và lôgích cổ điển, là nền tảng để phát triển toàn bộ toán học, đó là niềm tin toán học ban đầu mà các bài giảng của Anh đã góp phần xác lập trong nhận thức của tôi. Nhưng rồi, niềm tin đó sớm bị lung lay. Hồi đó, tuy hiếm tài liệu, nhưng ham tìm thì rồi cũng có. Tôi say mê tìm các tài liệu " phê phán " toán học cổ điển, và thích thú đọc những hướng nghiên cứu xây dựng toán học theo các quan điểm lôgích, trực giác, kiến thiết... Cũng nhờ đó, tôi đã được " hưởng " cái nhọc nhằn thú vị khi cố đọc cho hiểu định lý Gödel với đầy đủ chứng minh tinh tế của nó 1. Có lần tôi mang những thắc mắc về quan niệm " đúng, sai " trong toán học hỏi ý kiến Anh, thì tôi biết được là tuy Anh thuyết giảng về Bourbaki, nhưng Anh cũng biết khá rành về các khuynh hướng khác, và anh nói với tôi về " cái đúng của Toán học phải tìm ngoài Toán học ". Vâng, và ngoài Toán học, cuộc đời còn biết bao công việc cần thiết khác. Sau này tôi được biết là hồi đó trong nhiều công việc quan trọng của Anh, có việc chuẩn bị gửi cán bộ ta sang thực tập nghiên cứu về máy tính và khoa học tính toán ở Liên Xô, nòng cốt để xây dựng ngành Tin học của ta sau này.
    Chưa phải ngay từ những ngày đó tôi đã có thể lĩnh hội hết những điều được nghe Anh nói, nhưng rồi nhiều năm về sau, qua thực tế, tôi hiểu ra rằng Anh học nhiều về toán với ý thức rõ rệt coi Toán học như một công cụ sắc bén của tư duy lôgích để từ đó tìm hiểu thấu đáo những vấn đề của nhiều lĩnh vực khoa học khác như vật lý, sinh học, khoa học điều khiển và quản lý, vân vân..., tức là tìm hiểu những thành tựu của khoa học hiện đại để định hướng cho việc xây dựng một nền giáo dục và nền khoa học kỹ thuật tiên tiến của đất nước. Ý thức đó, cái ý thức gắn việc tìm hiểu khoa học hiện đại với kỳ vọng phát triển một nền giáo dục và khoa học tiên tiến cho nước nhà, có lẽ đã đeo đẳng mãi cho đến tận ngày Anh ra đi.
    Cuối năm 1962, tôi được sang Liên Xô, làm nghiên cứu sinh tại Khoa Toán-Cơ, Đại học Tổng hợp Mạc tư khoa. Hồi đó, tôi " mê " toán học kiến thiết, một hướng toán học theo các quan điểm phê phán của phái " trực giác " nhưng được xây dựng trên cơ sở lý thuyết hiện đại về thuật toán, đang bắt đầu phát triển khá mạnh ở Liên Xô. Mê thì học thôi, chứ cái ý thức phục vụ xem chừng còn mơ hồ lắm. Rồi một lần, tôi nhận được thư Anh. Xúc động và bất ngờ, thư Anh viết thân tình như của một người Anh lớn, chứ không như của cán bộ lãnh đạo. Tôi nhớ mãi câu " Cảm ơn các anh đang thực hiện những mơ ước của bản thân tôi... ". Tôi hiểu trong đó vừa có sự gửi gắm, vừa có sự nhắc nhở. Và tôi dần có ý thức nhiều hơn về trách nhiệm đối với nơi đã gửi mình ra đi. Cũng vào thời gian đó, thầy giáo tôi, Giáo sư Markov, trước niềm đam mê hơi thái quá của đám học trò đối với cái toán học kiến thiết của ông, đã có một lời căn dặn hóm hỉnh mà tôi còn nhớ mãi : " Chúng ta có thể để cho trí tưởng tượng bay cao bao nhiêu cũng được, nhưng bao giờ cũng cần nhớ tìm con đường từ nơi cao ấy trở về mặt đất ". " Mặt đất " ấy của tôi là ở nơi đâu, tôi cũng bắt đầu nghĩ đến, và càng nghĩ càng thêm gắn bó.
    Khi bắt đầu có ý thức trách nhiệm đối với cái " mặt đất " của mình, một " mặt đất " còn lắm gian nan và nhiều thân thiết, thì cũng là lúc tôi suy nghĩ nhiều đến việc nên học cái gì. Học để thoả mãn trí tưởng tượng cũng là hay, nhưng là đâu con đường trở về " mặt đất " của mình ? Và từ đây, tôi bắt đầu học được ở Anh một bài học mới, một bài học khó, mà hình như cho đến nay tôi vẫn chưa thể nào học được thuần thục. Ấy là lần đầu tiên vào mùa thu năm 1965, sau khi làm xong cái phó tiến sĩ, tôi được bạn đề nghị cho ở lại thêm vài năm để làm tiếp luận văn tiến sĩ. Làm tiếp, thì tức là tiếp tục với toán học kiến thiết ! Mà trong những năm ấy, thế giới nở rộ bao nhiêu hướng nghiên cứu đầy hấp dẫn ngay trong lĩnh vực toán học : khoa học thông tin, khoa học hệ thống, các lý thuyết điều khiển, vân vân và vân vân... Và tôi cảm nhận được rằng các hướng khoa học này chắc là sẽ hữu ích cho cái " mặt đất " của mình hơn là toán học kiến thiết. Thế là tôi đề nghị xin không tiếp tục làm tiến sĩ, mà được dành thì giờ học thêm về các khoa học đó. Và bất ngờ thay, tôi được Sứ quán chuyển đến chỉ thị trả lời của Anh : phải tiếp tục làm xong tiến sĩ, rồi sau hãy hay. Sau là thế nào ? cuối năm 1967, bảo vệ luận văn tiến sĩ xong, tôi về nước, đến chào Anh, Anh chỉ cười, bảo : Đấy, bây giờ muốn học thêm cái gì thì học. Anh không giải thích gì thêm, mãi về sau tình cờ tôi mới hiểu được ý Anh : Anh muốn tôi có thêm chút vốn liếng để dễ được cuộc đời chấp nhận hơn, và do đó mới có cơ hội làm được việc có ích hơn.
    Muốn có ích cho đời, thì ngoài năng lực ra, cần phải được đời chấp nhận, bài học đó khi ngầm khi rõ, tôi đã được tiếp thụ ở Anh, không phải bằng thuyết giảng, mà bằng cách xử sự, bằng thiện chí, và cả bằng những cảm nhận không lời trong suốt nhiều năm về sau, thời gian mà may mắn tôi có cơ hội được gần Anh hơn. Tôi nhớ một chuyện vào đầu những năm 70. Hồi đó có một học sinh trẻ, tên là N., đến tìm tôi hỏi chuyện học. Sau vài lần kiểm tra, tôi ngạc nhiên thấy do không đi sơ tán nên đang học cấp 2 phải bỏ dở rồi chủ yếu là tự học lấy, mà chỉ trong vòng 3, 4 năm, em đã học xong cấp 3, tự học nhiều môn của chương trình đại học, đặc biệt nắm khá vững về giải tích, tôpô, và có thể nói là hiểu thấu đáo về lôgích toán. Em N. ở Hà nội với bà mẹ nuôi, còn bố mẹ đẻ làm nghề y, đã đi Nam từ 1954, khi em còn bé. Tôi báo cáo với các thủ trưởng ở Uỷ ban Khoa học, nơi tôi công tác, với đề nghị được giúp đỡ. Sau vài lần đến gặp N. ở nhà tôi để cùng kiểm tra, một thủ trưởng hăng hái nói : có thể tuyển ngay vào Viện Toán rồi sẽ tạo điều kiện bồi dưỡng tiếp ; thủ trưởng kia thận trọng hơn, vài hôm sau cho chỉ thị : không phí sức đào tạo những người như vậy. Tôi thất vọng tìm đến Anh, Anh hẹn gặp N. mấy lần, và sau đó bảo tôi : cái chuyện giúp N. giỏi Toán thì anh và tôi khỏi lo, tự nó sẽ giỏi, cái mà ta cần giúp là làm sao để cuộc đời chấp nhận nó. Và theo lời khuyên của Anh, N. thi vào năm thứ nhất Đại học, thi được điểm cao nhưng không được nhận học, tiếc là lúc đó Anh đi công tác xa nên chẳng biết kêu ai, năm sau lại kiên nhẫn thi một lần nữa, và nhờ có ý kiến của Anh nên được vào học, do học vượt nên tốt nghiệp sớm, nhưng rồi lần này thì tiếc thay, không sao làm được cho " cuộc đời chấp nhận", chẳng cơ quan nào nhận N., và em phải ngậm ngùi ngơ ngẩn ra đi.
    Bài học khó, tôi cố học, có thất bại và hình như cũng có lúc thành công. Và tôi hằng nghĩ trong việc thực hiện bài học này, Anh là một tấm gương lớn. Nhờ luôn tìm được lời giải đúng đắn cho bài học khó đó, mà Anh đã có những đóng góp to lớn tài năng và trí tuệ của mình vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Anh kính yêu, Anh đi xa rồi, có đôi lúc tôi muốn thầm hỏi Anh là trong suốt cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình, đã có khi nào Anh có cảm giác bất lực trong việc tìm lời giải cho bài toán đó không Anh ? Tôi còn nhớ rõ, vào năm 1976, sau khi đất nước thống nhất, Anh làm việc hết sức hào hứng với chiến lược con người, đi Nam khảo sát nhiều ngày chuẩn bị cho kế hoạch phát triển giáo dục Đại học trong cả nước. Và rồi, trong phiên họp Quốc hội sau đó, cũng như nhiều đại biểu khác, tôi sững sờ biết tin Anh thôi làm Bộ trưởng Bộ Đại học. Vài tháng sau, trong một cuộc họp, Anh cho tôi xem một tài liệu đánh máy khá dày, là bản góp ý kiến phân tích một cách khoa học tính duy ý chí và không hiện thực của nhiều chỉ tiêu kinh tế xã hội trong một Dự thảo kế hoạch được trình ở một Đại hội quan trọng trước đó mấy tháng. Tôi không dám hỏi gì Anh thêm, và cũng không làm cái việc nối ghép các sự kiện.
    Một buổi sáng vào đầu những năm 80, trên con tàu từ Budapest sang Paris, ngồi một mình liên tưởng làm sao tôi lại buột nghĩ được hai câu thơ mở đầu cho một bài thơ mà từ lâu tôi có ý định làm tặng Anh :
    Một khối nghĩ suy, một khối tình
    Nước non là đó, nọ là mình .
    Rồi tắt ngấm, không thể nào nghĩ hơn được nữa, ngay lúc ấy và cả nhiều năm sau. Ngợi ca Anh ư ? có thêm tôi thì cũng là thừa và biết đâu lại là vô duyên. Cho mãi đến sau khi Anh mất, một buổi chiều chở vợ đi chơi trên chiếc xe bé tí Peugeot l02, chiếc xe mà đã có lần tôi liều mạng chở Anh từ một cuộc họp về nhà do chờ ôtô của Bộ mà mãi không thấy đến đón, tôi miên man nghĩ đến Anh, có ý định nghĩ nốt cho trọn bài thơ còn bỏ dở. Lơ đãng thế nào để bánh xe kẹt vào đường ray tàu điện quãng phố Hàng Bột, cả hai vợ chồng ngã lăn ra đường. May không việc gì, lại lên xe đi tiếp. Và may mắn thay, sáu câu thơ đang thiếu bỗng chợt đến trong chốc lát. Tôi nhẩm nhớ, dở hay tôi không biết, có ý gì sai không và có điều gì không phải với Anh không, tôi chỉ còn biết mong được hương hồn Anh lượng thứ. Về nhà, tôi chép nắn nót những lời mộc mạc đó lên giấy, không gọt rũa gì thêm, vội mang đến nhà Anh đặt lên bàn thờ, rồi kính cẩn đọc dâng Anh 2.
    Thế mà đã mười mấy năm rồi. Viết mấy dòng tưởng nhớ Anh, nghĩ đến công lao to lớn của Anh, đến những săn sóc thân tình mà bình sinh Anh luôn dành cho những em út đi sau một cách ân cần, ngẫm lại mình không mấy thành công trong việc tìm lời giải cho bài học khó học được từ Anh, tôi bất giác ngậm ngùi :
    Nước non là đó, nọ là mình...
    Tháng 9 năm 1999
    Phan Đình Diệu
    1 Định lý Gödel nói rằng một lý thuyết toán học đủ mạnh, nếu phi mâu thuẫn thì không đầy đủ, và không tự chứng minh được tính phi mâu thuẫn của mình. Đây là một định lý toán học. không những có ý nghĩa toán học mà còn có ý nghĩa sâu sắc về nhận thức luận vượt ra ngoài phạm vi toán học.
    Vhuy
  7. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Toàn những nhà giáo, nhà nghiên cứu khoa học ưu tú.Thế mà bác vẫn chưa post về Giáo sư Nguyễn Cảnh toàn, thật là thiếu sót, và lỗi lớn.
    Nguyễn Cảnh Toàn - Người thầy về tư duy và nhân cách
    Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, Nhà giáo nhân dân, Danh nhân khoa học thế giới, Phó Tổng giám đốc Trung tâm tiểu sử quốc tế, đó là một loạt các chức danh khoa học của nhà toán học NGUYỄN CẢNH TOÀN, người được thế giới biết đến qua phát minh "Hình học siêu phi Euclid" mang tên ông.
    Sinh ngày 28-9-1926 tại làng Nghiêm Thắng, xã Đông Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, ngay từ nhỏ, do tò mò khoa học, ham hiểu biết mà học sinh Nguyễn Cảnh Toàn đã hình thành sớm cho mình sự chủ động tìm học, tự học, học ở mọi nơi, mọi lúc, học cách tự duy, học cách làm việc và học cách phát hiện vấn đề. Những kỷ niệm như, nhìn đồng hồ là Nguyễn Cảnh Toàn biết được vận tốc gần như tức thời (tốc độ trung bình trong vài giây, trong một phút) của tàu hỏa, hay khám phá ra bí mật của số ghi trên cột km đã trở thành những tiền đề thành công sau này của ông. Thầy Đình Thành Chương (từng dạy ông ở trung học cơ sở) đã nhận xét về ông : "Toàn không phải là thần đồng nhưng rất biết cách học".
    Nhờ vốn liếng ông về cách học "chủ động và thông minh" đó mà ông gặt hái được nhiều thành công khi làm thầy. Ông là thầy về "cách học", dạy cho người khác "cách học". Ngày nay, một giáo viên dạy toán trung học phổ thông phải là cử nhân sư phạm, vây mà khi Nguyễn Cảnh Toàn bắt đầu dạy năm 1947, ông mới có 1/4 bằng cử nhân (toán học đại cương) mà lại chưa qua đào tạo sư phạm. Ấy vậy mà Nguyễn Cảnh Toàn vẫn nhận một chương trình toán nặng hơn chương trình tú tài chuyên toán chỉ trong một thời gian ngắn, ông đã nổi tiếng là thầy giỏi. Học trò ca ngợi ông vì lối tư duy độc lập không phụ thuộc vào sách giáo khoa dù cho tác giả là người có uy tín (Brachet). Những chỗ ông không theo Brachet thì ông nghiên cứu cách làm hay hơn. Ông giúp học trò cách tư duy và không bao giờ cho học sinh "trúng tủ". Ông là người có bản lĩnh, dám nhận những việc khó như dạy những môn mình chưa học, nhận nói chuyện những chủ đề không thuộc chuyên môn của mình, tự đẩy mình vào tình thế không thể thoái thác. Năm 1949, ông thi đỗ cử nhân và được Bộ điều lên dạy đại học. Ngay lập tức như cá gặp nước, một chuỗi những thành tựu của ông về toán học, về dạy học và quản lý giáo dục cứ liền tiếp nối nhau. Những quan điểm ông đưa ra tưởng như không tưởng, không thể chấp nhận nhưng thực tế đã chứng minh, ông luôn đúng. Ông đã đi trước thời gian.
    Ông còn tự mình học triết học duy vật biện chứng, coi đó là cốt lõi của tư duy sáng tạo, lúc đầu vận dụng còn sượng, sau tinh dần rồi góp phần không nhỏ vào thành công trong nghiên cứu, giảng dạy và quản lý giáo dục của chính bản thân ông. Về toán học, nhờ vận dụng "mâu thuẫn và thống nhất giữa hình học Euclid và hình học phi Euclid", ông đã tiến hành thuận lợi luận án tiến sĩ. Luận án đầu tiên của người Việt Nam được làm trong nước và bảo vệ xuất sắc ở Liên Xô (cũ) (1958). Đến luận án tiến sĩ khoa học, cũng nhờ vốn tư duy biện chứng, ông đã vượt qua được thách thức trong lịch sử toán học khi đưa ra kết luận "xa vô tận chỉ là tương đối", khác hẳn "Xa vô tận là tuyệt đối" trong không gian Euclid hay phi Euclid. Và từ một trường hợp cá biệt đó, ông đã khái quát lên thành một lý thuyết bao trùm hết những không gian như vậy, mang tên "hình học siêu phi Euclid" vì hình học phi Euclid chỉ là một trường hợp rất đặc biệt của nó. Đó chính là "Hình học Nguyễn Cảnh Toàn".
    Ngày đó, Trường Đại học Sư phạm chỉ học trong hai năm trong khi các tài liêu về khoa học tự nhiên của Liên Xô (cũ) lại tương đối dài. Nhu cầu "tinh giản" được đặt ra cấp bách. Điển hình cho việc "tinh giản", đó là việc ông đổi mới cách thành lập các công thức lượng giác của hình học Lobachevski. Và sau khi nghiên cứu nhận thấy các sách của Liên Xô (cũ) đều đi từ đơn giản đến phức tạp, ông đã vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa chủ quan và khách quan để đi ngược lại từ phức tạp đến đơn giản và kết quả là gọn đi rất nhiều. Giáo sư Efimov ở Trường Đại học Tổng hợp Moscow, sau khi được ông thông báo đã sửa lại sách của mình khi tái bản và chú thích rằng đây là cách làm của nhà toán học Việt Nam Nguyễn Cảnh Toàn. Ông còn là tác giả sách Phương pháp luận duy vật biện chứng với việc học, dạy và nghiên cứu toán học, cho đến nay là quyển sách duy nhất đề cập sát sườn đến việc vận dụng tư duy biện chứng vào việc học, việc dạy, việc nghiên cứu toán từ phổ thông đến trên đại học.
    Vào những năm 1960, việc hướng dẫn đào tạo trên đại học còn rất khó khăn do lực lượng hướng dẫn còn quá mỏng. Đa số nghiên cứu sinh đều được gửi ra nước ngoài. Ông thì quan niệm khác : Nếu chỉ chờ đợi "đi nghiên cứu sinh" thì không đáp ứng nổi nhu cầu trong nước, không lâu dài. Hơn nữa, không tạo ra được môi trường khoa học trong nước. Từ đó, ông quyết định tổ chức bồi dưỡng cán bộ giảng dạy ở khoa Toán - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội theo hai cấp : Cấp 1 (tiền thân của cao học), cấp 2 (tiền thân của đào tạo nghiên cứu sinh). Sau mười năm ở cương vị Chủ nhiệm khoa, rồi hiệu trưởng, ông đã xây dựng "cấp 1" thành nề nếp, còn "cấp 2" thì ngày 23-04-1970 trở thành một cái mốc lịch sử : Ba luận án cấp 2 (nay gọi là tiến sĩ) được thực hiện và bảo vệ tại trường của ông. Đây là một thắng lợi không những của riêng ông mà còn là bước tiến mới của nền giáo dục ở nước ta và cũng là động lực chính để Nhà nước cho phép chính thức mở đào tạo nghiên cứu sinh trong nước năm 1976.
    Ông cũng là người mở đường cho đào tạo từ xa thắng lợi, có nhiều sáng tạo độc đáo cho Việt Nam. Đó là việc đào tạo giáo viên trung học phổ thông bằng con đường tự học có hướng dẫn kết hợp với thực tập sư phạm dài ngày ở trường phổ thông (gọi tắt là vừa học vừa làm giáo viên). Thế giới cũng hiếm thấy việc dùng "từ xa" để đào tạo giáo viên vì rằng "chính quy" mới tạo ra "mô phạm". Ông đã đi trước thời gian với quan niệm "mô phạm" là mẫu mực trong việc phát huy nội lực tự học, tự nghiên cứu của người học; theo cách nhìn này thì "từ xa" có những thuận lợi. Ông coi trọng "học đi với hành", ở ông, "hành" không chỉ là ứng dụng kiến thức mà còn là ứng dụng các kiểu tư duy, thể nghiệm các trạng thái tâm lý được thể hiện qua bài Tư duy và nhân cách quan trọng hơn kiến thức đăng trên báo Giáo dục và Thời đại ngày 19-10-1997. Bởi vậy, theo ông, nghiên cứu khoa học phải được đưa vào ngay từ các trường phổ thông và ông viết cuốn sách Tập cho học sinh giỏi toán làm quen dần với nghiên cứu toán học (NXB Giáo dục - 1992, 1997, 1998). Tại hội nghị quốc tế Sanfrancisco (Mỹ năm 1996), ông cũng đề cập đến vấn đề này qua báo cáo "Đưa nghiên cứu khoa học vào trường phổ thông".
    Nhiều người nói vui, gọi ông là một ông "Vua tự học", là "hòa thượng Thích tự học". Ông đã giữ nhiều chức vụ như : Chủ tịch Hội đồng tư vấn của hội khuyến học, đứng đầu Trung tầm nghiên cứu và phát triển tự học cùng đặc san Dạy - Tự học, Tổng biên tập tạp chí Toán học và tuổi trẻ đã 37 năm, tham gia hoặc làm chủ biên, hoặc là thẩm định các từ điển toán học Nga - Việt, Anh - Việt, Từ điển thuật ngữ toán học, ủy viên Hội đồng chỉ đạo, Hội đồng biên tập Từ điển Bách khoa. Với những đóng góp quan trọng của ông, Trung tâm tiểu sử quốc tế đã tặng ông Bằng danh dự để ghi nhận những thành tựu nổi bật về toán học và giáo dục trong hơn nửa đầu thế kỷ 20 của ông.
    ------------------------------------
    Có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em.
  8. VIETHUY80

    VIETHUY80 Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    18/12/2001
    Bài viết:
    668
    Đã được thích:
    0
    Nhà khoa học, nhà văn hoá lớn Hoàng Xuân Hãn* (1908-1996)

    Giáo sư Hoàng Xuân Hãn sinh ngày 14 tháng giêng năm 1908, nguyên quán tại Kẻ Trổ (tên chữ là Bình Lỗ), xã Nhân thọ, tổng Yên Hồ, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, nay là xã Đức Nhân, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình có truyền thống Nho học. Thuở nhỏ, ông học chữ Hán và Quốc ngữ trong gia đinh rồi vào Trường tiểu ?" trung học Vinh (học tiếng Pháp). Sau khi đỗ Thành chung năm 1926, ông chuyển ra Hà Nội, thi vào trường Trung học Bưởi, học được một năm lại chuyển sang học chuyên ban Toán ở Trường trung học Albert Sarraut. Năm 1928, ông đậu tú tài toàn phần và được sang Pháp du học. Với tinh thần khổ công cầu học, muốn thâu thái kiến thức mới mẻ nhất để trở về giúp ích cho nước nhà, ông đã lần lượt thi đỗ vào nhiều trường đại học danh tiếng của nước Pháp lúc ấy, như Trường Cao học Ulm, Trường Bách khoa, Trường Cầu cống và khoa cử nhân Toán học của Đại học Sorbonne. Ông đã vượt qua tất cả các môn học khó vào bậc nhất ở những trường này một cách xuất sắc, và lĩnh nhiều văn bằng sau khi ra trường, như cử nhân khoa học, kỹ sư cầu cống, thạc sĩ toán học.
    Trở về nước vào năm 1936, nhà trí thức Hoàng Xuân Hãn đã không chịu nhận chức vụ Giám đốc công chính do Pháp gợi ý với điều kiện phải nhập quốc tịch Pháp. Ông vui lòng nhận chức giáo sư trung học Trường Bưởi, lương thấp hơn, nhưng là một nghề ông yêu thích vì để đào tạo những thanh niên Việt Nam và được làm người Việt Nam. Ông còn được mời giảng môn toán ở các trường đại học Công chính, Canh nông và Đại học Hà Nội... lúc bấy giờ. Thiết tha mong mỏi mở mang kiến thức khoa học cho thanh niên ta trong những năm này, ông cùng với một số bạn bè như giáo sư Nguyễn Xiển, giáo sư Tạ Quang Bửu sáng lập tạp chí Khoa học trong đó ông giữ các chuyên mục đố và giải những bài toán vui, rất hấp dẫn tuổi trẻ và cũng liên quan đến đời sống thực tiễn, đến thiên văn, địa lý, lịch sử, văn hoá của phương Đông và Việt Nam. Muốn nâng cao từng bước nền tảng chung của khoa học nước nhà, theo ông, phải tìm cách dành cho được điều kiện dạy và học khoa học bằng tiếng Việt. Vì thế ông bắt tay soạn tập sách Danh từ khoa học, dùng tiếng Việt diễn đạt hàng loạt những khái niệm khoa học thuộc các bộ môn toán học, lý học, hoá học, cơ học và thiên văn học vốn chưa có bao nhiêu từ ngũ bằng tiếng Việt lúc ấy. Cuốn sách ra đời đã đem lại một không khí phấn khởi, tự hào và niềm hy vọng cho nhiều nhà khoa học từng thao thức nhiều năm về hiện đại hoá đất nước. Năm 1943, sách được giải thưởng của Hội khuyến học Nam kỳ với ý nghĩa một công trình mở đường cho việc xây dựng khái niệm và thuật ngữ khoa học của Việt Nam.
    Cũng trong năm 1943, khi Hội truyền bá Quốc ngữ thành lập, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã tham gia với tư cách một thành viên chính thức. Ông đảm nhận chức Trưởng ban tu thư và cùng một vài người khác cho công bố rất sớm cuốn sách Phương pháp học i tờ, đổi mới hẳn cách học chữ Quốc ngữ theo lối đánh vần a, b, c, giúp người học nắm được chữ Quốc ngữ nhanh chóng hơn nhiều. Cuốn sách đã được phổ biến rộng rãi trong nhân dân, và từ sau Cách mạng Tháng Tám, khi phong trào ?odiệt giặc dốt? do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động và được hưởng ứng trong cả nước, phương pháp học chữ Quốc ngữ của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã trở thành một phương pháp chủ đạo, giúp cho hàng triệu người có thể thoát nạn mù chữ chỉ trong vòng từ ba đến sáu tháng.
    Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, cùng một số trí thức tiêu biểu, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp. Tháng 4-1946, Hội nghị Việt ?" Pháp ở Đà Lạt mở, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được cử làm Chủ tịch Tiểu ban chính trị trong Phái đoàn nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà... Sau Hội nghị, trở về Hà Nội, ông tham gia giảng dạy các bộ môn kỹ thuật quân sự cho các khoá huấn luyện của Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
    Kháng chiến toàn quốc nổ ra, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn bị kẹt lại trong lòng Hà Nội. Trong những năm này, gia đình ông trở thành một cơ sở ở nội thành bí mật liên lạc với kháng chiến và ủng hộ tài chính, thuốc men. Đến năm 1951, gia đình ông sang cư ngụ ở Paris, Pháp. Từ đây, một mặt ông tiếp tục công việc của một nhà khoa học - kỹ thuật, đi sâu vào lĩnh vực nguyên tử và thi lấy bằng kỹ sư nguyên tử ở Saclay (1956). Mặt khác, ông dồn tâm huyết vào những công trình tầm cỡ, giá trị soi sáng trên nhiều bình diện cho văn hoá Việt Nam. Ông tham gia tổ chức Việt kiều yêu nước ở Pháp, hăng hái hoạt động tuyên truyền cho công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như cho phong trào hoà bình thế giới. Ông đã đến Giơ-ne-vơ, gặp phái đoàn Việt Nam trong những ngày Hội nghị Giơ-ne-vơ nhóm họp. Rồi suốt những năm nhân dân ta chiến đấu chống Mỹ , cũng với tinh thần yêu nước trước sau như một, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã luôn luôn có tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc trên diễn đàn của Hội Việt kiều yêu nước tại Paris mà ông là một uỷ viên Đoàn Chủ tịch...
    Cả cuộc đời của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn là tấm gương sáng về lẽ sống làm người, về phẩm chất của người trí thức chân chính. Có thể nói, ông là một nhà khoa học bách khoa, đã cống hiến sáng tạo không biết mệt mỏi trên nhiều lĩnh vực. Là một nhà thiên văn và lịch pháp học, ông đã dành rất nhiều năm để nghiên cứu Lịch và Lịch Việt Nam, khảo sát công phu và chuẩn xác sự chuyển đổi giữa Dương lịch và Âm lịch trong hàng thiên niên kỷ, chứng minh có những thời kì lịch của nước ta khác với lịch Trung Quốc, chứ không phải hoàn toàn giống như quan niệm của nhiều người. Nhờ đó, ông đã tạo một cơ sở khoa học xây dựng lịch pháp Việt Nam (Cụm công trình về Lịch và Lịch pháp Việt Nam của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã được trao giải thưởng Hồ Chí Minh, đợt 1).Là một nhà khảo cổ học, ông đã phát hiện nhiều di chỉ và di vật có giá trị, theo dõi, góp ý kiến với ngành khảo cổ học nước ta, gợi ý về những địa điểm mà trước kia ông đã tìm thấy. Trên cơ sở này, Viện Khảo cổ học đã phát hiện ra một số di chỉ khảo cổ... Là một nhà sử học, sau bảy năm nghiên cứu ròng rã các tài liệu thực địa và thư tịch về Lý Thường Kiệt và nhà Lý, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã công bố một công trình khoa học rất có giá trị về Lý Thường Kiệt trong hai năm 1949-1950. Bộ sách trình bày cặn kẽ, chuẩn xác về cuộc kháng chiến oanh liệt của quân dân nhà Lý chống quân xâm lược Tống, cũng như về đời sống văn hoá - xã hội của một triều đại cách chúng ta hơn chín thế kỷ, làm nổi bật những nét cấu trúc tinh thần truyền thống của xã hội Việt Nam, truyền thống ?oquật cường của dân tộc Việt?, bản sắc con người Việt Nam, bản sắc văn hoá Việt Nam. Bộ sách, như đã khẳng định trong ?oLời nói đầu? của nó, góp một tiếng nói hưởng ứng ?ocuộc chiến tranh giành độc lập của dân tộc? trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Là một nhà tư liệu học, có trong tay rất nhiều tài liệu cổ kim mà ông đã dày công thu thập, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đã khảo cứu về quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và biên giới, góp công sức vào việc xác nhận chủ quyền của nước Việt Nam đối với những vùng lãnh thổ này. Là nhà nghiên cứu văn học, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã từng về quê hương nhà thơ Nguyễn Thiếp, người đồng quận và là ông tổ bên ngoại của mình, tìm được tập Hạnh Am di cảo cùng các đạo sắc mang thủ bút của Quang Trung, nhờ đó đã viết lên cuốn La Sơn phu tử (1952),làm sáng rõ khá nhiều điểm về một giai đoạn quan trọng ?" giai đoạn Lê Mạt ?" Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam và về một nhân cách trí thức chân chính, nhân cách La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, người đã giúp Anh hùng Nguyễn Huệ với tư cách là cố vấn trong buổi nhiều nhương của đất nước. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng đã sưu tầm được bảy bản dịch Chinh phụ ngâm khúc trong đó có văn bản liên quan mật thiết đến tiểu sử và văn nghiệp của Phan Huy ích, và cho ra mắt công trình nghiên cứu so sánh Chinh phụ ngâm bị khảo, nêu lên một giả thiết khá sắc sảo về người dịch bản Chinh phụ ngâm hiện hành, làm xao động dư luận học giả trong thời gian dài (Theo Giáo sư Hoàng Xuân Hãn, người dịch bản Chinh phụ ngâm hiện hành là Đặng Trần Côn chứ không phải Đoàn Thị Điểm như nhiều người vẫn nghĩ).
    Có thể nói, công trình nào của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng có giá trị thuyết phục cao, nhờ sự kết hợp giữa tư liệu xác chứng và luận điểm mới mẻ nhưng điều quan trọng hơn cả là tác giả luôn luôn mong muốn gửi gắm trong đó sự kết hợp nhuần nhị giữa khoa học và tình yêu Tổ quốc. Một cuốn Song Tinh Bất Dạ bằng chữ Nôm, tiếng nói hiếm hoi của miền cực nam đất nước ở thế kỷ thứ XVIII, rất có thể đã thành tro bụi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp nếu không có Giáo sư Hoàng Xuân Hãn biết kịp thời sao lại... Một lời thề của Lê Lợi ở Hội thề Lũng Nhai trước ngày Lam Sơn khởi nghĩa chắc chắn sẽ không được các nhà Nôm học chú ý nhiều nếukhông có Giáo sư Hoàng Xuân Hãn từ hơn năm thập kỷ trước đây đã để mắt đến, lục tìm ra và phiên âm chính xác các từ vựng cổ. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cũng rất lưu tâm nghiên cứu về nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Ngay từ trước khi Viện Văn học có bản Lưu hương ký, ông đã có khá đầy đủ một tiểu sử của nhà nữ sĩ thời kỳ ở Yên Quảng cùng với những vần thơ rất đẹp của bà đề vịnh Vịnh Hạ Long...
    Trong những năm cuối đời, tuy sức đã yếu nhiều, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn vẫn cặm cụi hoàn thành công trình khảo đính Truyện Kiều, cố gắng khôi phục một văn bản gần nguyên tác nhất của Nguyễn Du. Cái chết quá bất ngờ (ngày 10/3/1996, tại bệnh viện Orsay, Paris, Pháp) đã không cho ông kịp hoàn thành trọn vẹn công trình tâm huyết này.
    Xét công lao to lớn của ông trong các lĩnh vực: chính trị, khoa học, văn hoá, giáo dục của đất nước, ngày 13/3/1996, ************* CHXHCN Việt Nam Lê Đức Anh đã quyết định truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì cho cố Giáo sư Hoàng Xuân Hãn...

    Gắng sức trồng hoa hoa chẳng bén, Vô tình cắm liễu lại nên cây.
  9. username

    username Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/07/2001
    Bài viết:
    1.672
    Đã được thích:
    0
    Cụ Hãn thì giỏi rồi, nhưng vẫn không hiểu vì sao về sau cụ lại không làm Toán. Một người như cụ chắc là không để chuyện cơm áo chi phối rồi, có lẽ vì cụ chuyển mối đam mê.
  10. BeastFromTheEast

    BeastFromTheEast Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    13/11/2002
    Bài viết:
    283
    Đã được thích:
    0
    Cũng phải thôi.
    Toán học và phụ nữ. Cả hai cái đó đều đẹp và quyến rũ như nhau.

    \m//​

Chia sẻ trang này