1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung các Thư pháp gia Việt Nam

Chủ đề trong 'Nghệ Thuật Thư Pháp' bởi duongphuongbay, 05/05/2004.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. ngothanhngoc

    ngothanhngoc Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    28/08/2003
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    sao post hoài không được bực mình quá
    Được ngothanhngoc sửa chữa / chuyển vào 02:32 ngày 10/01/2005
  2. duongphuongbay

    duongphuongbay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    1.108
    Đã được thích:
    0
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh (khi viết lấy tên Nhất Hạnh) là một bậc thầy về suy niệm, được đánh giá là một biểu tượng Phật giáo đối với các nước phương Tây. Ông đã thiết lập tại Pháp một dòng Phật giáo mới - dòng Tiếp hiện - với mong mỏi áp dụng vào xã hội đương đại và nhằm khuyến dụ giới trẻ không nên quá lệ thuộc vào chủ nghĩa vật chất. Ông là tác giả của gần một trăm đầu sách (trong đó có 4 cuốn vừa được xuất bản tại VN-NXB Tôn giáo 2004).
    Nhân dịp xuân về và cũng để mừng ông cùng phái đoàn tăng thân Làng Mai về thăm lại quê hương sau 38 năm xa cách, xin trân trọng giới thiệu với các bạn bài viết (có lược bớt) này để chia sẻ với hy vọng của ông về sự tỉnh thức để đi đến những thành công.

    Thư pháp (calligraphy) của tôi không xuất sắc gì mấy. Vậy mà tập viết hoài ngó cũng được. Càng viết, chữ càng ngó được hơn...
    Chắc các bạn tò mò muốn biết tôi viết những chữ gì. Tôi chỉ viết những chữ mà khi treo lên người ta có thể thực tập theo được mà thôi. Ví dụ: "Breathe, you are alive" (thở đi, bạn đang là sự sống mầu nhiệm), "drink your tea" (uống trà cho thảnh thơi và hạnh phúc đi bạn, chữ Hán là nghiết trà khứ), "the tears I shed yesterday have become rain" (nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa), "breathe and smile" (thở đi, mỉm cười đi), "you are not a creation, you are only a manifestation" (ngươi không phải tạo sinh mà chỉ là biểu hiện), "present moment, wonderful moment" (an trú trong hiện tại, giờ phút đẹp tuyệt vời), "there is no way to happiness, happiness is the way" (có con đường nào dẫn tới hạnh phúc đâu, hạnh phúc chính là con đường), v.v...

    Chữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh​
    Bức mà phật tử gốc Việt ưa thích nhất là bức có ba chữ "thở đi con". Ai cũng muốn thỉnh một bức về treo trong phòng khách để khi có chuyện bất an thì nhớ mà thực tập, còn khi bình thường mà thực tập thì nuôi dưỡng thêm hạnh phúc đang có. Có những bức viết trọn một, hai, bốn câu thơ hay cả bài thơ. Những câu thơ trong Truyện Kiều có thể hiểu theo nghĩa thiền quán cũng rất được hâm mộ, như câu "Bây giờ rõ mặt đôi ta/ Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao" hay câu "Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời", hoặc câu "Một nhà sum họp sớm trưa/ Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng/ Bốn bề bát ngát mênh mông/ Triều dâng hôm sớm mây ***g trước sau". Có một cặp tân hôn xin chữ, tôi đã cho câu "Trước sau cho vẹn một lời/ Duyên ta mà cũng phúc người phải không?", đổi một hai chữ cho thích hợp.
    Chữ Hán tôi viết rất ít, bởi vì hiện giờ ít người đọc được chữ Hán và thích treo chữ Hán. Tôi thấy những bức chữ Anh, chữ Việt hoặc chữ Pháp ***g kính treo lên cũng đẹp vô cùng, và khi đọc thì người ta hiểu liền. Tôi cũng có viết nhiều câu đối, câu đối chữ Việt, và cả chữ Âu Mỹ nữa! Có một bữa, tôi thấy ông đồ xưa của Vũ Đình Liên đã sống dậy! Ông đồ xưa chỉ viết chữ Nho, ông đồ xưa nếu bây giờ sống dậy thì viết được cả chữ Việt và chữ Tây, và vẫn sử dụng được bút lông mực Tàu như thường.
    Và ông không phải chỉ dùng giấy đỏ. Ông dùng giấy đủ màu, nhất là màu trắng ngà. Bút lông của ông được chế tạo rất nhiều kiểu, sản xuất ngay cả ở các nước Âu Châu. Tôi thấy nhiều nhà thơ Việt Nam hiện đại đã viết thơ của mình thành bức, bằng chữ Việt, có khi viết bằng bút lông, có khi viết cả bằng bút sắt. Tôi đã thấy nét chữ của nhiều vị, trong đó có Vũ Hoàng Chương và Cao Tiêu. Tại sao lại chỉ viết chữ Hán? Càng viết, chữ càng đẹp. Đồng bào và người ngoại quốc rất thích treo những bức chữ đẹp và có ý nghĩa, bằng chữ Việt hoặc bằng chữ nào mà họ hiểu. Cố chấp thì ông đồ sẽ chết vĩnh viễn, còn nếu ông đồ biết thích nghi thì ông đồ sẽ sống mãi mãi. Chúng ta không cần phải khóc ông đồ như thi sĩ Vũ Đình Liên:
    Năm nay hoa đào nở
    Không thấy ông đồ xưa
    Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ?
    Tôi muốn nói chuyện đạo Bụt, đạo Bụt tại Châu Á nói chung, và đạo Bụt tại Việt Nam nói riêng. Đạo Bụt nếu không được làm mới để có thể đáp ứng với nhu cầu đích thực của người thời nay thì đạo Bụt sẽ từ từ vắng mặt, nghĩa là sẽ chết, như ông đồ xưa. Đại sư Thái Hư thấy được điều đó nên đã hô hào cách mạng giáo lý, cách mạng giáo chế và cách mạng giáo sản. Nếu chúng ta chỉ biết thủ cựu, nếu chúng ta có quá nhiều sợ hãi, nếu chúng ta chỉ biết củng cố địa vị thì chúng ta không thể nào làm mới được đạo Bụt. Phải giảng dạy đạo Bụt như thế nào để tuổi trẻ bây giờ có thể áp dụng được vào trong đời sống hằng ngày của họ, chuyển hoá được khổ đau, khai thông được bế tắc, xây dựng lại được tình thâm. Lễ bái, cầu phước và tín mộ không đủ. Tuổi trẻ không muốn đến chùa để chỉ đốt nhang, đốt vàng mã, vái lạy và tụng những kinh mà họ hoàn toàn không hiểu. Buổi công phu sáng gần hết là bằng tiếng Phạn, có tính chất của Mật Tông, mà lại là tiếng Phạn phiên âm Hán Việt xa lắc với nguyên âm. Buổi công phu chiều thì chủ yếu là để cầu sinh Tịnh Độ. Không mấy ai đọc được và hiểu được kinh chữ Hán.
    Vậy mà ta không có can đảm đem hai buổi công phu dịch ra quốc văn để hành trì. Ta sợ người ta đàm tiếu, chê bai là bỏ gốc rễ. Ta có bỏ gốc rễ đâu. Ta chỉ chăm sóc và làm mới cho gốc rễ thôi, để cho cội cây xưa có được sức sống mới đâm lên những chồi mới, nếu không cây sẽ chết. Cách đây chừng vài trăm năm, người ta đã từng bĩu môi chê chữ Nôm là quê mùa, là mách qué (nôm na là cha mách qué). Người ta bảo người đứng đắn và người trí thức chỉ dùng chữ Hán thôi. Vậy mà thi hào Nguyễn Du đã sáng tác Truyện Kiều bằng chữ Nôm và đã tạo nên được một niềm tin lớn cho quốc dân nơi khả năng tiếng Việt. Không dùng súng đạn và gươm giáo mà thi sĩ đã xây được thành luỹ vững chãi cho nền độc lập dân tộc. Độc lập chính trị chỉ có thể bền vững khi có độc lập văn hoá.
    Cụ Nguyễn Du là một ông đồ không bao giờ già, không bao giờ chết. Hồn của cụ sống mãi trong hồn của người trẻ bây giờ. Bài học đó há không đủ soi sáng cho chúng ta sao? Con cháu chúng ta bỏ chùa, bỏ đạo gốc tổ tiên chạy theo những trào lưu từ ngoài tới, lỗi đó là của ai? Làm mới đạo Bụt, áp dụng ngay những pháp môn của đạo Bụt nhập thế (phật tử Trung Quốc bây giờ gọi là Nhân Gian Phật Giáo, Tây phương gọi là Engaged Buddhism), sử dụng ngay tiếng Việt để tụng niệm trong hai buổi công phu, điều này rất cần thiết. Chúng ta đừng làm như ông đồ xưa, từ từ vắng mặt trong cuộc đời. Chúng ta phải tái sinh lại ngay lập tức để trở thành ông đồ nay. Chỉ có ông đồ nay mới làm thoả mãn được những nhu yếu của người ngày nay.
    Từ thế kỷ 14, Vua Trần Nhân Tông và thiền sư Huyền Quang đã thấy được sự thực này. Các vị đã bắt đầu sáng tác bằng tiếng Việt, sử dụng chữ Nôm. Ở Triều Tiên, ngày xưa cả nước đi theo đạo Bụt. Vào đầu thế kỷ này, chỉ còn dưới 50% dân chúng là phật tử. Giới trẻ đi theo ngoại lưu nhiều như thác lũ. Lý do là đạo Bụt bên đó quá bảo thủ và rất còn kỳ thị phụ nữ. Ta cầu xin các vị tôn đức trong sơn môn ta nghĩ lại cho con cháu được nhờ. Đạo Bụt không thể không được hiện đại hoá. Tại Tây phương, nhiều người đang muốn cho đạo Ky Tô được hiện đại hoá, nhưng họ chưa thành công vì thái độ thủ cựu và giáo điều của giới chức sắc bề trên. Nhiều nhà thờ vắng bóng tín đồ. Người xuất gia rất hiếm. Chỉ vì tại người ta bảo thủ quá, không chịu làm mới; không chịu cách mạng giáo lý và giáo chế. Đạo Bụt có tinh thần cởi mở tự do, dễ làm mới hơn nhiều. Ta có thể thành công trong vài thập niên nếu chúng ta tỉnh thức.
    Ông đồ xưa ơi, xin ông mau mau sống dậy. Cơ hội đã đến. Xin ông hãy chuẩn bị tái sinh. Hẹn ông cùng có mặt ở mùa hoa đào năm tới:
    Sang năm hoa đào nở/
    Sẽ thấy ông đồ xưa
    Với hình hài rất mới/
    Sống động hơn bao giờ.
    Chúng ta không có lý do gì để không thành công.
  3. duongphuongbay

    duongphuongbay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    16/06/2003
    Bài viết:
    1.108
    Đã được thích:
    0
    Thiền sư Thích Nhất Hạnh (khi viết lấy tên Nhất Hạnh) là một bậc thầy về suy niệm, được đánh giá là một biểu tượng Phật giáo đối với các nước phương Tây. Ông đã thiết lập tại Pháp một dòng Phật giáo mới - dòng Tiếp hiện - với mong mỏi áp dụng vào xã hội đương đại và nhằm khuyến dụ giới trẻ không nên quá lệ thuộc vào chủ nghĩa vật chất. Ông là tác giả của gần một trăm đầu sách (trong đó có 4 cuốn vừa được xuất bản tại VN-NXB Tôn giáo 2004).
    Nhân dịp xuân về và cũng để mừng ông cùng phái đoàn tăng thân Làng Mai về thăm lại quê hương sau 38 năm xa cách, xin trân trọng giới thiệu với các bạn bài viết (có lược bớt) này để chia sẻ với hy vọng của ông về sự tỉnh thức để đi đến những thành công.

    Thư pháp (calligraphy) của tôi không xuất sắc gì mấy. Vậy mà tập viết hoài ngó cũng được. Càng viết, chữ càng ngó được hơn...
    Chắc các bạn tò mò muốn biết tôi viết những chữ gì. Tôi chỉ viết những chữ mà khi treo lên người ta có thể thực tập theo được mà thôi. Ví dụ: "Breathe, you are alive" (thở đi, bạn đang là sự sống mầu nhiệm), "drink your tea" (uống trà cho thảnh thơi và hạnh phúc đi bạn, chữ Hán là nghiết trà khứ), "the tears I shed yesterday have become rain" (nước mắt ngày xưa nay đã thành mưa), "breathe and smile" (thở đi, mỉm cười đi), "you are not a creation, you are only a manifestation" (ngươi không phải tạo sinh mà chỉ là biểu hiện), "present moment, wonderful moment" (an trú trong hiện tại, giờ phút đẹp tuyệt vời), "there is no way to happiness, happiness is the way" (có con đường nào dẫn tới hạnh phúc đâu, hạnh phúc chính là con đường), v.v...

    Chữ của Thiền sư Thích Nhất Hạnh​
    Bức mà phật tử gốc Việt ưa thích nhất là bức có ba chữ "thở đi con". Ai cũng muốn thỉnh một bức về treo trong phòng khách để khi có chuyện bất an thì nhớ mà thực tập, còn khi bình thường mà thực tập thì nuôi dưỡng thêm hạnh phúc đang có. Có những bức viết trọn một, hai, bốn câu thơ hay cả bài thơ. Những câu thơ trong Truyện Kiều có thể hiểu theo nghĩa thiền quán cũng rất được hâm mộ, như câu "Bây giờ rõ mặt đôi ta/ Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao" hay câu "Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời", hoặc câu "Một nhà sum họp sớm trưa/ Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng/ Bốn bề bát ngát mênh mông/ Triều dâng hôm sớm mây ***g trước sau". Có một cặp tân hôn xin chữ, tôi đã cho câu "Trước sau cho vẹn một lời/ Duyên ta mà cũng phúc người phải không?", đổi một hai chữ cho thích hợp.
    Chữ Hán tôi viết rất ít, bởi vì hiện giờ ít người đọc được chữ Hán và thích treo chữ Hán. Tôi thấy những bức chữ Anh, chữ Việt hoặc chữ Pháp ***g kính treo lên cũng đẹp vô cùng, và khi đọc thì người ta hiểu liền. Tôi cũng có viết nhiều câu đối, câu đối chữ Việt, và cả chữ Âu Mỹ nữa! Có một bữa, tôi thấy ông đồ xưa của Vũ Đình Liên đã sống dậy! Ông đồ xưa chỉ viết chữ Nho, ông đồ xưa nếu bây giờ sống dậy thì viết được cả chữ Việt và chữ Tây, và vẫn sử dụng được bút lông mực Tàu như thường.
    Và ông không phải chỉ dùng giấy đỏ. Ông dùng giấy đủ màu, nhất là màu trắng ngà. Bút lông của ông được chế tạo rất nhiều kiểu, sản xuất ngay cả ở các nước Âu Châu. Tôi thấy nhiều nhà thơ Việt Nam hiện đại đã viết thơ của mình thành bức, bằng chữ Việt, có khi viết bằng bút lông, có khi viết cả bằng bút sắt. Tôi đã thấy nét chữ của nhiều vị, trong đó có Vũ Hoàng Chương và Cao Tiêu. Tại sao lại chỉ viết chữ Hán? Càng viết, chữ càng đẹp. Đồng bào và người ngoại quốc rất thích treo những bức chữ đẹp và có ý nghĩa, bằng chữ Việt hoặc bằng chữ nào mà họ hiểu. Cố chấp thì ông đồ sẽ chết vĩnh viễn, còn nếu ông đồ biết thích nghi thì ông đồ sẽ sống mãi mãi. Chúng ta không cần phải khóc ông đồ như thi sĩ Vũ Đình Liên:
    Năm nay hoa đào nở
    Không thấy ông đồ xưa
    Những người muôn năm cũ
    Hồn ở đâu bây giờ?
    Tôi muốn nói chuyện đạo Bụt, đạo Bụt tại Châu Á nói chung, và đạo Bụt tại Việt Nam nói riêng. Đạo Bụt nếu không được làm mới để có thể đáp ứng với nhu cầu đích thực của người thời nay thì đạo Bụt sẽ từ từ vắng mặt, nghĩa là sẽ chết, như ông đồ xưa. Đại sư Thái Hư thấy được điều đó nên đã hô hào cách mạng giáo lý, cách mạng giáo chế và cách mạng giáo sản. Nếu chúng ta chỉ biết thủ cựu, nếu chúng ta có quá nhiều sợ hãi, nếu chúng ta chỉ biết củng cố địa vị thì chúng ta không thể nào làm mới được đạo Bụt. Phải giảng dạy đạo Bụt như thế nào để tuổi trẻ bây giờ có thể áp dụng được vào trong đời sống hằng ngày của họ, chuyển hoá được khổ đau, khai thông được bế tắc, xây dựng lại được tình thâm. Lễ bái, cầu phước và tín mộ không đủ. Tuổi trẻ không muốn đến chùa để chỉ đốt nhang, đốt vàng mã, vái lạy và tụng những kinh mà họ hoàn toàn không hiểu. Buổi công phu sáng gần hết là bằng tiếng Phạn, có tính chất của Mật Tông, mà lại là tiếng Phạn phiên âm Hán Việt xa lắc với nguyên âm. Buổi công phu chiều thì chủ yếu là để cầu sinh Tịnh Độ. Không mấy ai đọc được và hiểu được kinh chữ Hán.
    Vậy mà ta không có can đảm đem hai buổi công phu dịch ra quốc văn để hành trì. Ta sợ người ta đàm tiếu, chê bai là bỏ gốc rễ. Ta có bỏ gốc rễ đâu. Ta chỉ chăm sóc và làm mới cho gốc rễ thôi, để cho cội cây xưa có được sức sống mới đâm lên những chồi mới, nếu không cây sẽ chết. Cách đây chừng vài trăm năm, người ta đã từng bĩu môi chê chữ Nôm là quê mùa, là mách qué (nôm na là cha mách qué). Người ta bảo người đứng đắn và người trí thức chỉ dùng chữ Hán thôi. Vậy mà thi hào Nguyễn Du đã sáng tác Truyện Kiều bằng chữ Nôm và đã tạo nên được một niềm tin lớn cho quốc dân nơi khả năng tiếng Việt. Không dùng súng đạn và gươm giáo mà thi sĩ đã xây được thành luỹ vững chãi cho nền độc lập dân tộc. Độc lập chính trị chỉ có thể bền vững khi có độc lập văn hoá.
    Cụ Nguyễn Du là một ông đồ không bao giờ già, không bao giờ chết. Hồn của cụ sống mãi trong hồn của người trẻ bây giờ. Bài học đó há không đủ soi sáng cho chúng ta sao? Con cháu chúng ta bỏ chùa, bỏ đạo gốc tổ tiên chạy theo những trào lưu từ ngoài tới, lỗi đó là của ai? Làm mới đạo Bụt, áp dụng ngay những pháp môn của đạo Bụt nhập thế (phật tử Trung Quốc bây giờ gọi là Nhân Gian Phật Giáo, Tây phương gọi là Engaged Buddhism), sử dụng ngay tiếng Việt để tụng niệm trong hai buổi công phu, điều này rất cần thiết. Chúng ta đừng làm như ông đồ xưa, từ từ vắng mặt trong cuộc đời. Chúng ta phải tái sinh lại ngay lập tức để trở thành ông đồ nay. Chỉ có ông đồ nay mới làm thoả mãn được những nhu yếu của người ngày nay.
    Từ thế kỷ 14, Vua Trần Nhân Tông và thiền sư Huyền Quang đã thấy được sự thực này. Các vị đã bắt đầu sáng tác bằng tiếng Việt, sử dụng chữ Nôm. Ở Triều Tiên, ngày xưa cả nước đi theo đạo Bụt. Vào đầu thế kỷ này, chỉ còn dưới 50% dân chúng là phật tử. Giới trẻ đi theo ngoại lưu nhiều như thác lũ. Lý do là đạo Bụt bên đó quá bảo thủ và rất còn kỳ thị phụ nữ. Ta cầu xin các vị tôn đức trong sơn môn ta nghĩ lại cho con cháu được nhờ. Đạo Bụt không thể không được hiện đại hoá. Tại Tây phương, nhiều người đang muốn cho đạo Ky Tô được hiện đại hoá, nhưng họ chưa thành công vì thái độ thủ cựu và giáo điều của giới chức sắc bề trên. Nhiều nhà thờ vắng bóng tín đồ. Người xuất gia rất hiếm. Chỉ vì tại người ta bảo thủ quá, không chịu làm mới; không chịu cách mạng giáo lý và giáo chế. Đạo Bụt có tinh thần cởi mở tự do, dễ làm mới hơn nhiều. Ta có thể thành công trong vài thập niên nếu chúng ta tỉnh thức.
    Ông đồ xưa ơi, xin ông mau mau sống dậy. Cơ hội đã đến. Xin ông hãy chuẩn bị tái sinh. Hẹn ông cùng có mặt ở mùa hoa đào năm tới:
    Sang năm hoa đào nở/
    Sẽ thấy ông đồ xưa
    Với hình hài rất mới/
    Sống động hơn bao giờ.
    Chúng ta không có lý do gì để không thành công.
  4. vnuh

    vnuh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghe nói ngày xưa ở Huế có Hoà thượng Thiện Siêu (ôn Từ Đàm) cũng là người vết thư pháp xuất sắc, có bác nào biết không ?
  5. vnuh

    vnuh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    13/05/2003
    Bài viết:
    44
    Đã được thích:
    0
    Tôi nghe nói ngày xưa ở Huế có Hoà thượng Thiện Siêu (ôn Từ Đàm) cũng là người vết thư pháp xuất sắc, có bác nào biết không ?
  6. A_ZIZOU

    A_ZIZOU Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    874
    Đã được thích:
    1
    thế có ai biết về Đức hạnh o nhỉ , một nhà sư ở Huế , nghe nói đứng thứ 3 về nghệ thuật thư pháp việt phaỉ o ạ ,
  7. A_ZIZOU

    A_ZIZOU Thành viên tích cực

    Tham gia ngày:
    09/04/2002
    Bài viết:
    874
    Đã được thích:
    1
    thế có ai biết về Đức hạnh o nhỉ , một nhà sư ở Huế , nghe nói đứng thứ 3 về nghệ thuật thư pháp việt phaỉ o ạ ,
  8. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Cái ông Đức Hạnh, chắc bác Quản biết.Ông này viết thư pháp cho nhà sách Đông Tây, hồi triển lãm sách tháng 11-2004 tại vườn hoa Lê Nin, và hội chợ tết vừa rùi ở triễn lãm Giảng Võ. Tôi có tham quan nhà sách Đông Tây, và được thưởng thức tác phẩm của ông. Nếu nói thư pháp Việt , ông này đứng thứ 3 thì hơi quá. Vì mình thấy thư pháp Việt ông này ông có gì đặc sắc lắm.Chủ yếu là lối viết Chân, hơi Cuồng thảo một chút. Nếu nói về đường nét đặc sắc, và sáng tạo trong thư pháp Việt thì thua xa Trụ Vũ, Dũng Nguyên , Chính Văn, Bùi Hiến và Thanh Sơn.
    Thư pháp Việt của bác Quản nhà ta có thể sánh ngang với ông này.!!
    Ông này cũng viết thư pháp Hán, chủ yếu là chữ Chân.
    Thật sự một người viết thư pháp Việt, mà đá qua thư pháp Hán thì rõ rùi.
  9. home_nguoikechuyen

    home_nguoikechuyen Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    15/05/2002
    Bài viết:
    3.846
    Đã được thích:
    7
    Cái ông Đức Hạnh, chắc bác Quản biết.Ông này viết thư pháp cho nhà sách Đông Tây, hồi triển lãm sách tháng 11-2004 tại vườn hoa Lê Nin, và hội chợ tết vừa rùi ở triễn lãm Giảng Võ. Tôi có tham quan nhà sách Đông Tây, và được thưởng thức tác phẩm của ông. Nếu nói thư pháp Việt , ông này đứng thứ 3 thì hơi quá. Vì mình thấy thư pháp Việt ông này ông có gì đặc sắc lắm.Chủ yếu là lối viết Chân, hơi Cuồng thảo một chút. Nếu nói về đường nét đặc sắc, và sáng tạo trong thư pháp Việt thì thua xa Trụ Vũ, Dũng Nguyên , Chính Văn, Bùi Hiến và Thanh Sơn.
    Thư pháp Việt của bác Quản nhà ta có thể sánh ngang với ông này.!!
    Ông này cũng viết thư pháp Hán, chủ yếu là chữ Chân.
    Thật sự một người viết thư pháp Việt, mà đá qua thư pháp Hán thì rõ rùi.
  10. loa_ken_den_si

    loa_ken_den_si Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    07/12/2002
    Bài viết:
    7.720
    Đã được thích:
    1
    Cụ Tú Sót .... mệt lắm rồi các cụ ạ ...
    [​IMG]
    Cụ Tú Sót, tên thật là Chu Thành - Chủ nhiệm Câu lạc bộ thư pháp Cảo thơm thư hiên có "trụ sở" tại 16 Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội). Thế nhưng, cụ rất thích lấy bút danh là Chu Thành Thi và tâm đắc với vế đối từ cái tên của mình mà từ trước tới giờ chưa ai đối được. Đó là Chu Thành Thi tức Chi Thành Thu, Chu Bội Thi tức Chi Bội Thu, Chu Bằng Thi tức Chi Bằng Thu.
    Cứ dịp Tết đến, cụ lại ra ngồi viết chữ ở đầu dốc Bà Triệu. Cụ khoe đã từng viết chữ cho rất nhiều văn nghệ sỹ tên tuổi đất Hà Thành. Cụ Tú Sót cho biết, ra giêng từ mùng 10 đến rằm là đông nhất, đông như xem chọi gà ấy. Nhớ lại trước kia, khi cụ còn viết chữ ở mạn Cầu Giấy, khách đông như nêm, viết đến bã cả tay. Tối mịt mới được về nhà, lúc ấy mệt quá, không tài nào đạp nổi cái xe, đành phải thuê xích lô chở cả người cả xe về nhà. Không chỉ viết chữ, cụ Tú Sót có một số bài thơ trào phúng và rất thích ra câu đối. Cụ đã từng có tập thơ Cánh thời gian xuất bản năm 1997.......
    Được loa_ken_den_si sửa chữa / chuyển vào 23:44 ngày 20/12/2005

Chia sẻ trang này