1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung (mỗi ngày 1 nhân vật)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 08/06/2003.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Kỹ sư Phạm Quang Lễ (tức Giáo sư Trần Đại Nghĩa), sinh ngày 13-9-1913, tại xã Chánh Hiệp, huyện Tân Bình, tỉnh Vĩnh Long. Thân phụ là nhà nho nghèo Phạm Văn Mùi thường dạy bảo con theo các chuẩn mực đạo đức phương Đông: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Ông lấy chữ Lễ của nho gia để đặt tên cho con trai mình. Thân mẫu, bà Phạm Thị Diệu, vốn tin theo đạo Phật.
    Đỗ đầu kỳ thi thành chung ở Mỹ Tho, Phạm Quang Lễ lên Sài Gòn, vào học Trường Pê-tơ-ruýt Ký. Năm 1933, ông đỗ đầu kỳ thi tú tài bản xứ, sau đó, thi tú tài Tây ban toán, cũng đỗ đầu, rồi thi tú tài Tây ban triết, đỗ hạng ưu.
    Đọc lịch sử nước nhà, Phạm Quang Lễ nhận thấy bao nhiêu cuộc khởi nghĩa chống Pháp đã thất bại do thiếu vũ khí tối thiểu cần thiết. Ông khâm phục cuộc khởi nghĩa Hương Khê do vị Đình nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng lãnh đạo. Cao Thắng, một ông tướng giỏi của cụ, đã nghĩ tới việc tự trang bị vũ khí. Ông hướng dẫn hàng trăm thợ rèn Hà Tĩnh bắt chước, chế tạo thành công loại súng của Pháp kiểu 1874. Gần một nửa số nghĩa quân được trang bị bằng thứ súng ấy.
    Phạm Quang Lễ muốn noi gương Cao Thắng, nhưng tiến xa hơn.
    Suốt 11 năm ở Pháp (1935 - 1946) Phạm Quang Lễ chỉ theo đuổi một mục tiêu duy nhất là học cho kỳ được cách chế tạo vũ khí của phương Tây. Nhưng đế quốc Pháp đâu phải điên đến mức để cho người Việt Nam ta - kể cả những người đã mang quốc tịch Pháp - được vào học ở các trường dạy về vũ khí hay vào làm việc ở các viện nghiên cứu, các nhà máy sản xuất vũ khí. Vì thế, trong suốt 11 năm dài đằng đẵng ấy, ông chỉ có thể mò mẫm tự học một cách âm thầm, đơn độc và bí mật hoàn toàn.
    Muốn nắm vững kỹ thuật quân sự, trước hết, phải tinh htông kỹ thuật dân dụng. Phạm Quang Lễ thi đỗ vào Trường Đại học quốc gia Cầu - Đường, một "trường lớn" của nước Pháp, vì thế, bộ thuộc địa phải cấp học bổng cho ông. Sau đó, ông còn theo học các trường đại học Điện, Mỏ, Bách khoa và Học viện Kỹ thuật hàng không. Ông đỗ nhiều bằng kỹ sư, đồng thời, thi lấy nhiều chứng chỉ về khoa học cơ bản ở Trường Đại học Tổng hợp Xoóc-bon.
    Qua mối quan hệ rộng rãi, ông lặng lẽ tìm kiếm các bí mật quân sự, các bản thiết kế vũ khí. Dần dà ông thu thập được hơn 30 nghìn trang tài liệu về vũ khí, hầu hết là tài liệu mật. Theo Bác Hồ trở về nước, ông không mang theo một thứ của cải gì đáng giá ngoài một tấn tài liệu.
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  2. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Vừa về tới Hà Nội, kỹ sư Lễ đã lên Thái Nguyên, cùng ông Tạ Quang Bửu thử đạn ba-dô-ca Mỹ, nghiên cứu tìm cách tự chế tạo.
    Ngày 5-12-1946, từ Thái Nguyên trở lại Hà Nội, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đến Bắc Bộ phủ, giao nhiệm vụ Cục trưởng Cục Quân giới Bộ Quốc phòng và đặt cho "bí danh" là Trần Đại Nghĩa.
    Nửa tháng sau, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Trong các xưởng quân giới, công nhân làm việc miệt mài. Đường ray xe lửa, như có phép thần thông, biến dần thành tất cả các bộ phận của khẩu ba-dô-ca, đúng như thiết kế của kỹ sư Nghĩa, với dung sai nhỏ hơn 0,5mm. Ba-dô-ca bắn cháy xe tăng địch, bắn sập các ổ súng máy, làm cho bọn giặc cố thủ trong nhà gạch cháy thành than. Ba-dô-ca bắn thủng cả tàu chiến Pháp ngược sông Lô Thu - Đông 1947.
    Đánh địch cố thủ trong lô-cốt bê-tông cốt thép, ta cho nổ bộc lôi cỡ lớn hoặc mìn lõm cỡ lớn. Cách đánh đó nguy hiểm cho xung kích, anh em phải ém sát địch. Ơở các nước, người ta dùng đại bác hạng trung và hạng nặng hoặc đạn bay (Ca-chiu-sa). Lúc bấy giờ, ta chưa có đạn bay. Còn đại bác, thì chỉ trong những chiến dịch lớn, mới lôi ra dùng, vì nó nặng quá chừng! Kỹ sư Nghĩa ước mơ chế tạo được một loại súng thật nhẹ, có thể vận chuyển dễ dàng trên đôi vai anh vệ quốc, nhưng lại có sức công phá ngang một cỗ đại bác sáu tấn thép. Ông nghĩ tới súng không giật (SKZ). Đây là loại vũ khí hiện đại, mới xuất hiện lần đầu trong trận quân Mỹ đổ bộ lên đảo Ô-ki-na-oa (Nhật Bản) cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Tất nhiên, mọi kết quả tìm tòi, nghiên cứu, thiết kế về thứ súng ấy đều được giữ bí mật hoàn toàn.
    Kỹ sư Nghĩa cùng các cộng sự gần gũi như Nguyễn Trinh Tiếp phải lặp lại cái công việc của nhà sáng chế - phát minh, độc lập với người Mỹ. Cuối cùng, ông đã thành công. Chỉ sau SKZ của Mỹ mấy nắm, SKZ Việt Nam xuất hiện lần đầu trong trận Phố Lu, đánh phá tan tành các lô-cốt địch có tường bê-tông dày hơn một mét.
    Năm 1950, chiến trường nam Trung Bộ nhận được 10 khẩu SKZ và 150 quả đạn từ Việt Bắc chuyển vào. Iít lâu sau Nam Bộ quê hương ông cũng bắt đầu nhận được SKZ.
    Có SKZ rồi, kỹ sư Nghĩa nghĩ tới đạn bay. Và ông cũng đã thành công, chế tạo được loại tên lửa nặng 30 ki-lô-gam có thể đánh phá các mục tiêu cách xa bốn ki-lô-mét.
    Sau thắng lợi của Chiến dịch Thu Đông 1947, Bác Hồ và Nhà nước ta phong quân hàm đợt đầu tiên. Ngay từ dạo ấy, kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã là thiếu tướng. Ông cũng là người trí thức Việt Nam đầu tiên được tặng danh hiệu Anh hùng (1953).
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  3. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Einstein sinh năm 1879 trong một gia đình Đức nhưng gốc Do Thái. Năm 1980 cha ông, Hermann Einstein , và chú ông, Jakob Einstein, di chuyển từ Ulm tới Munich để mở một cơ sở kinh doanh về nghề điện. Tại Munich ông được cho theo học một trường rất chặt chẽ về kỷ luật, và trong thời gian đó ông chưa có gì tỏ lộ là người có khả năng siêu việt cả. Còn mẹ ông thì lại muốn ông phải học về vĩ cầm. Dù về sau ông cũng trở thành một tay vĩ cầm có hạng, nhưng suốt đời ông chỉ chơi vĩ cầm hoàn toàn với mục đích giải trí mà thôi. Hai người chú của ông lại chính là hai kẻ đã khơi động cho ông những thiên năng mà ông sẽ trở thành khoa học gia bất tử về sau: Jakob kích thích sự ham mê về toán học, và người chú khác, Casar Koch, thì kích thích trí tò mò của ông về khoa học.
    Năm 12 tuổi Einstein quyết định dùng tài năng của mình để thiên hẳn về sự giải quyết những kỳ lạ của vũ trụ. Ba năm sau, vì có điểm rất xoàng về 3 bộ môn sư ký, địa lý và ngôn ngữ, ông rời trường học, không có bằng cấp, và đến Milan đoàn tụ với gia đình, lúc đó cha ông đã di chuyển gia đình ông sang Milan sau khi công việc thương mại ở Đức thất bại. Einstein tiếp tục theo học 4 năm ở Thụy Sĩ, đặc biệt chú trọng về toán học và vật lý ở ?oHàn Lâm Viện Bách Khoa Liên Bang? tại Zurich. Sau khi tốt nghiệp vào mùa xuân năm 1900 ông trở thành công dân Thụy Sĩ, làm nghề dạy toán (2 thánng) rồi làm nhân viên khảo sát bằng sáng chế cho văn phòng của viện này ở Bern. Năm 1903 ông lập gia đình với người bạn cùng học và cũng là người yêu của ông, ở đại học đó, là Mileva Maric.
    Đầu năm 1905 ông cho in luận án ?oMột xác định mới về kích thước của phân tử? trên nguyệt san chuyên về khoa vật lý nổi danh bằng Đức ngữ ?oAnnalen der Physik? và ông đã nhận được bằng tiến sĩ của đại học Zurich. Cùng trong năm ấy, thêm 4 tác phẩm khác nữa của ông đăng trên tờ Annalen, và chính 4 tác phẩm này đã làm thay đổi vĩnh viễn cái nhìn của con người về vũ trụ.
    Trong khoảng thời gian làm việc cho cơ quan khảo sát bằng sáng chế, và sau đó là dậy ở trường Bách Khoa ở Zurich, ông có những tháng năm sống hạnh phúc với gia đình và hai người con là Hans và Edward Einstein .
    Tháng 4 năm 1914, gia đình ông di chuyển tới Berlin, tại đó ông nhận chức vụ trong Hàn Lâm Viện của nước Phổ. Vợ ông và 2 người con đi nghỉ mát ở Thụy Sĩ rồi vì đệ nhật thế chiến nên bị kẹt lại, chuyện này ít năm sau dẫn đến việc ông ly dị với bà vợ. Trong thời gian này ông khám phá ra nhiều thuyết mới , quan trong nhất là thuyết Tương Đối tổng quát , trong đó ông làm đảo lộn một quan điểm đã được chấp nhận từ lâu của Newton cho rằng ?ogravity? là một hấp lực. Ông lập định rằng: ?ogravity: không phải là một hấp lực mà là một ?otrường hình cung? trong một khung cảnh ?okhông gian?"thời gian? tạo nên bởi sự hiện diện của trọng khối.
    Lý thuyết này của ông , tháng 11 năm 1919 một nhóm khoa học gia của hội Khoa học gia thuộc Hoàng Gia Anh Quốc ở Luân Đôn đã nhân vụ nhật thực ngày 29 tháng 5 năm đó, ở Vịnh Guinea, tính toán, và kiểm chứng hoàn toàn cẩn thận những điều chính Einstein đã phát biểu trước qua lý thuyết Tương Đối tổng quát của ông. Kết quả của thí nghiệm kiểm chứng đó khiến người ta đã thán phục, coi ông như là thiên tài vĩ đại nhất của thế giới vào lúc đó. Cùng năm đó ông lấy Elsa, người vợ thứ hai của ông.
    Ông cũng bắt đầu dùng uy tín của mình để tranh đấu cho ý niệm về hòa bình, ông chỉ trích thái độ mang tính quốc gia cực đoan ở Đức. Trong suốt 3 năm, ông di chuyển không ngừng, đi hầu hết khắp nơi, từ thủ đô các nước ở Âu hâu, tới Á châu, Trung Đông, và Nam Phi để vận động cho vấn đề này. Năm 1921 trong khi đang ở Thượng Hải, ông được thông báo là đã được trao giải Nobel về vật lý qua căn cứ vào ?othuyết quang điện và những tác phẩm của ông trong lãnh vực vật lý lý thuyết.?
    Từ năm 1920 ông có cao vọng khám phá một lý thuyết bao hàm tính phổ quát của vật chất và năng lượng vào một phương trình hay một công thức giản dị mà ông gọi là thuyết Thống Nhất (Unified Field Theory). Thuyết này, cho tới khi ông mất, ngày 18 tháng 4 năm 1955, vẫn còn là một thuyết chưa có kết quả cụ thể
    Là khoa học gia ưu việt số một của thế kỷ, những tiêu chuẩn của thời đại ?" bom nguyên tử, thuyết ?obig bang,? vật lý về hạt nhân, và điện tử ?" tất cả đều mang những dấu ấn sâu đậm của ông. Điều khiến người ta lạ lùng là về tính giản dị của con người siêu việt đó. Tỉ dụ như ông tham dự vào những vụ dùng cà vạt và bí tất để trao đổi áo lót hay quần lót bị nhậy cắn. Hoặc nói những câu như ?okhoa học sẽ tuyệt vời nếu người ta không phải bám vào nó mà kiếm sống.?
    Những tư tưởng của Einstein, cũng như của Darwin, vượt quá lãnh vực khoa học, mà ảnh hưởng cả tới những lãnh vực văn hóa, như hội họa và thi ca. Lúc đầu, ngay cả nhiều khoa học gia cũng không hiểu thuyết Tương Đối, người ta hỏi Arthur Edington, một vật lý gia thiên thể học (astrophysics) , người có tinh thần dí dỏm cao độ: ?ongười ta nói là lúc đầu chỉ có 3 người hiểu được thuyết Tương Đối của Einstein thôi, có đúng vậy không?? Ông Edington đã trầm ngâm suy nghĩ một lúc rồi chậm rãi đáp: ?otôi đang suy nghĩ không biết ai là người thứ 3 đây!?.
    Khi đảng Quốc Xã lên cầm quyền ỡ Đức, Einstein bị buộc phải rời Đức, và nhận một chức vụ dạy ở viện Khảo Cứu Cao Cấp thuộc đại học Princeton, tiểu bang New Jersey, Hoa Kỳ. Khi hỏi về lương bổng thì Einstein, một người rất ngây thơ về tài chính, chỉ đòi số lương $3000, trong số đó ông lại phải trao $1600 cho Elsa (người vợ sau của ông và cũng đã ly dị).
    Khi được khoa học gia người Hung Gia Lợi, Leo Szilard, thông báo là người Đức có thể tìm cách chế tạo bom Nguyên Tử, Einstein đã viết cho tổng thống F.D. Rosevelt một lá thư đề cập tới chuyện này, dù rằng ông chẳng biết gì về sự mới phát triển của khoa vật lý nguyên tử .
    Sau này, khi biết sự tàn phá của bom nguyên tử đối với hai thành phố Hiroshima và Nagasaki của Nhật ông đã hết sức ngậm ngùi, đau khổ. Sau đệ nhị thế chiến Einstein càng trở nên mạnh mẽ vận động cho việc cấm sử dụng võ khí nguyên tử.
    Về vấn đề võ khí nguyên tử, nhiều người thường gán cho ông là cha đẻ ra bom nguyên tử, nhưng thực ra ông chỉ là cha đẻ ra công thức lừng danh E=m*c2 mà căn cứ vào đó các nhà khoa học khác, như Openhomer, đã làm ra bom nguyên tử. Về vấn đề này, trước sau cả thảy ông gửi cho tổng thống Hoa Kỳ DFR 4 lá thư (xin xem bản Anh ngữ của 4 lá thư này trong phần tài liệu của Thanh Nghị số này.)
    Sau đệ nhị Thế Chiến ông trở nên người vận động và tuyên bố mãnh liệt về việc cấm làm võ khí dùng nguyên tử năng. Ngoài sự vận động cấm thực hiện vũ khí nguyên tử, ông còn lên án kịch liệt chính sách chống Cộng quá khích ở Hoa Kỳ (McCarthyism) và hỗ trợ vận động chấm dứt sự tin tưởng mù quáng vào vấn đề chủng tộc.
    Khi chiến tranh lạnh đạt tới mức cao độ, những phát biểu của vị giáo sư lừng danh dường như có ý nghĩa rất nhiều, tuy đôi khi có vẻ chất phác. Tạp chí ?oLife? thời gian đó đã liệt kê tên ông vào danh sách 50 vị lừng danh ?odu hành và bị lừa bịp.?
    Cassidy viết: ?o Ông ta có một ý niệm đạo đức thẳng băng mà những người khác không thể thấy, ngay cả những nhà đạo đức khác.? Gerald Holton, nhà vật lý kiêm sử gia, thêm vào: ?oNếu những ý niệm của Einstein là thô thiển thì thế giới ngày nay thực tình sẽ ở trong một hình trạng tồi tệ.? Thực ra, Holton cho rằng những thiên khiếu về dân chủ và bản năng của Einstein là ?omột mẫu mực chính trị lý tưởng cho thế kỷ thứ 21,? sự biểu hiện tốt nhất của thế kỷ này cũng như những hy vọng cao nhất cho thế kỷ tới, chúng ta còn có thể đòi hỏi gì hơn nơi một người là hiện thân của 100 năm qua?
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  4. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Lê Thánh Tông một ý chí tự cường lớn
    --------------------------------------------------------------------------------
    Lê Thánh Tông, tự là Tư Thành, còn có tên là Hạo, hiệu Thiên Nam động chủ. Ông là con Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao- con gái Thái Bảo Ngô Từ, một công thần khai quốc của nhà Lê. Ông là con trai thứ tư và cũng là út của Thái Tông, sinh ngày 27/7/1442. Lê Thánh Tông là một trong những ông vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các ông vua Việt Nam.
    Lê Thánh Tông lên ngôi lúc 18 tuổi, sau khi Nhân Tông bị hãm hại và Nghi Dân bị lật đổ, trị vì đất nước 38 năm, hai lần đổi niên hiệu (Quang Thuận và Hồng Đức) thọ 55 tuổi. Trong lịch sử nước ta, thời Thịnh Lê (nửa sau thế kỷ XV) là thời kỳ độc lập cường thịnh, sự phát triển về mọi mặt của nhà nước phong kiến khi ấy đạt tới đỉnh cao, để lại một dấu ấn đậm nét với những giá trị văn hóa lớn như Hồng Đức hình luật, Hồng Đức thiên hạ bản đồ, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức quốc âm thi tập... Tất cả thành tựu đó đều gắn liền với tên tuổi Lê Thánh Tông, người được các sử gia đương thời khen là "có hùng tài đại lược". Nói tới Lê Thánh Tông, người ta cũng không quên một việc có ý nghĩa lịch sử: Năm 1464, ông ra lệnh rửa oan cho Nguyễn Trãi, cho sưu tầm thơ văn của Nguyễn Trãi bị thiêu huỷ sau vụ án "Lệ chi viên". Lê Thánh Tông đã tạc lại bia cho Nguyễn Trãi bằng câu thơ "ức Trai tâm thượng quang khê tảo".
    Trong thời gian làm vua, Lê Thánh Tông tỏ ra là nhà tổ chức vô cùng tài giỏi và có tinh thần cải cách khá táo bạo cũng như có một ý chí tự cường dân tộc mạnh mẽ. Sau khi lên làm vua một năm, ông đã trách lỗi cựu thần Ngô Sĩ Liên: "Ta mới coi chính sự, sửa mới đức tính, ngươi bảo nước ta là hàng phiên bang của Trung Quốc thời xưa, thế là người theo đường chết, manglòng không vua".
    Về cơ cấu tổ chức chính quyền, Lê Thánh Tông xóa bỏ việc chia đất nước thành năm đạo thời Lê Lợi, đổi thành 12 đạo, sau gọi là 12 thừa tuyên. Dưới thừa tuyên là phủ, huyện, châu, tổng, xã. Hệ thống quan lại từ trung ương xuống địa phương cũng thay đổi rất nhiều theo hướng canh tân nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của thực tế đất nước. Lê Thánh Tông nói: "Đất đai bờ cõi ngày nay so với đời trước khác nhau nhiều lắm, không thể không thi quyền chế tác cho hết đạo biến thông". Và "không phải ta cố làm ra vẻ thông minh, thay đổi phép cũ để buộc miệng thiên hạ. Từ nay trở đi con cháu ta nên biết rằng ra quy chế này là do bất đắc dĩ vậy".
    Về phương diện quốc phòng, Lê Thánh Tông cũng là nhà tổ chức, xây dựng quân đội, nhà chiến lược quân sự đại tài. So với trước, Lê Thánh Tông đã làm đổi mới hẳn nền quốc phòng đương thời. Quân đội được tổ chức lại chặc chẽ, cơ động, thường xuyên được học tập binh pháp, rèn luyện việc đánh thuỷ, đánh bộ...
    Lê Thánh Tông còn ban hành 43 điều quân luật rất nghiêm. Tên tuổi Lê Thánh Tông gắn liền với bộ luật Hồng Đức, một trong những thành tựu đáng tự hào nhất của thời đại và sự nghiệp của ông. Bộ luật Hồng Đức ra đời là sự kiện đánh dấu trình độ phát triển cao của xã hội nước ta hồi thế kỷ XV. Lê Thánh Tông, người khởi xướng Luật Hồng Đức là người gương mẫu tôn trọng luật pháp, thực hiện nghiêm chỉnh luật lệ đã ban hành. Lê Thánh Tông từng nói với các quan cận thần rằng: "Pháp luật là phép công của Nhà nước, ta và các ngươi phải cùng tuân theo". Câu nói đó thể hiện một nét vĩ đại trong tư tưởng Lê Thánh Tông.
    Nếu như về chính trị, quân sự, kinh tế, Lê Thánh Tông đã để lại một sự nghiệp rực rỡ thì về văn hóa, giáo dục, ông cũng xứng đáng được hậu thế tôn vinh là nhà văn hóa lớn của dân tộc. Lê Thánh Tông đã có công lao tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc.
    ở nước ta thời phong kiến, nền giáo dục, khoa cử chưa bao giờ thịnh đạt cũng như vai trò của giới trí thức chưa bao giờ được đề cao như đời Lê Thánh Tông. Ngoài Hàn lâm viện, Quốc sử viện, Nhà thái học, Quốc tử giám là những cơ quan văn hóa lớn của Nhà nước, Lê Thánh Tông còn cho xây kho bí thư chứa sách. Và đã tạo lập hội Tao Đàn do ông làm Tao đàn nguyên suý, vừa sáng tác thơ văn, vừa phê bình, nghiên cứu. Những trước tác của Hội Tao đàn được chép trong bộ sách đồ sộ Thiên Nam dư hạ tập, Quỳnh uyển cửu ca, Minh lương cẩm tú, Hồng Đức quốc âm thi tập... Thiên Nam dư hạ tập, công trình mang dấu ấn vương triều này là một "bách khoa thư" của thời đại Lê Thánh Tông; trong đó không chỉ ghi chép thơ văn mà còn ghi chép về lý luận, phê bình văn học, về lịch sử, kinh tế, quan chế, địa lý...
    Với tư cách là Tao đàn nguyên suý, Lê Thánh Tông dẫn đầu phong trào sáng tác và trước thuật, để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ: Thiên Nam dư hạ tập, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn, Anh hoa hiếu trị, Châu cơ thắng thưởng, Chinh tây kỷ hành, Văn Minh cổ suý...
    Xét về phương diện thơ, Lê Thánh Tông là một thi sĩ mang tầm vóc thời đại. Thơ ông là tiếng nói của một nhân cách lớn, một nhà tư tưởng, một trái tim yêu nước tràn đầy tự hào dân tộc và bát ngát núi sông hùng tráng:
    Nắng ấm nghìn trượng tỏa trên ngọn cờ
    Khí thế ba quân át cầy cáo
    Phương đông mặt trời mọc, mây nhẹ trôi
    Phóng hết tầm mắt ngắm núi sông muôn dặm.
    Và:
    Con thuyền như vẽ lướt gió dài muôn dặm
    Cửa biển Bạch Đằng trời nước một màu
    Nhớ mãi công cần vương của Hưng Đạo xưa
    Chợt nhớ năm Toa Đô nộp mạng
    Ngày ấy xã tắc nhà Trần không suy chuyển
    Núi sông nước Việt một thời vẫn như xưa.
    Trong một bài thơ nôm Lê Thánh Tông "tự thuật" về mình:
    Lòng vì thiên hạ những sơ âu,
    Thay việc trời dám trễ đâu.
    Trống dời canh còn đọc sách,
    Chiêng xế bóng chửa thôi chầu...
    Thật đẹp biết bao hình ảnh một ông vua đứng đầu quốc gia việc nước bộn bề, bận rộn "song tay không lúc nào rời quyển sách".
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  5. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Acsimet (Archimède) - nhà bác học lớn của Hi Lạp cổ đại sinh ở thành Xiracudơ trên đảo Xixilia, một thành bang của Hi Lạp cổ đại. Cha của Acsimet là một nhà thiên văn và toán học nổi tiếng, đã đích thân giáo dục và hướng dẫn ông đi sâu vào hai bộ môn này. Về sau, ông được gửi sang thành phố Alêchxanđria ở Ai Cập, một trung tâm khoa học của Hi Lạp cổ đại, tiếp tục học tập, nghiên cứu và trau gồi tài năng.
    Acsimet có nhiều cống hiến trong lĩnh vực vật lý, toán và thiên văn học. Về vật lý, ông có nhiều phát minh đặc sắc. Ông đã sáng chế ra chiếc máy bơm dùng để tưới tiêu nước cho đồng ruộng Ai Cập. Ông là người đầu tiên sử dụng hệ thống các đòn bẩy và ròng rọc để nâng các vật lên cao. Ông đã tìm ra định luật về sức đẩy của nước. Về toán, Acsimet đã giải những bài toán về tính độ dài đường cong, đường xoắn ốc, đặc biệt đã tính ra số pi bằng cách đo hình nhiều góc nội tiếp và ngoại tiếp. Về thiên văn, ông đã nghiên cứu sự chuyển động của Mặt Trăng và các vì sao.
    Acsimet suốt cuộc đời say sưa học tập, nghiên cứu. Tương truyền rằng ông đã tìm ta định luật về sức đẩy của nước khi đang tắm. Ông đã sung sướng nhảy ra khỏi bồn tắm, chạy thẳng về phòng làm việc, quên cả mặc quần áo, miệng kêu lớn: "Ơrêca ! Ơrêca" (Tìm thấy rồi! Tìm thấy rồi). Trong cuộc chiến tranh của Hi Lạp chống quân xâm lược Rôma, ông đã sáng chế ra nhiều vũ khí mới như máy bắn đá, những cái móc thuyền, đặc biệt trong đó có một thứ vũ khí quang học để đốt thuyền giặc. Thành Xicacudơ đã được bảo vệ đến 3 năm mới bị thất thủ. Khi bọn xâm lược hạ được thành, chúng thấy ông vẫn đang say sưa ngồi nghiên cứu những hình vẽ trên đất. Ông đã thét lên: "Không được xóa các hình vẽ của ta", trước khi bị ngọn giáo của kẻ thù đâm vào ngực. Acsimet đã anh dũng hi sinh như một chiến sĩ kiên cường.
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  6. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Hồ Biểu Chánh (1885 - 1958) - Nhà văn đi đầu phản ảnh hiện thực xã hội thực dân phong kiến
    (SGGP thứ bảy - 14/11/1998)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Hồ Biểu Chánh tên thật Hồ Văn Trung, sinh ngày 1-10-1885 tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công, nay là Tiền Giang, xuất thân ký lục, thông ngôn, thăng dần đến chủ quận, rồi tỉnh trưởng (đốc phủ sứ); nổi tiếng thanh liêm, thương yêu dân nghèo, giúp đỡ kẻ cùng khổ; mất ngày 4-11-1958 tại Phú Nhuận, TP.Hồ Chí Minh; để lại cho đời tổng cộng 131 tác phẩm đủ loại từ tiểu thuyết, phê bình, nghiên cứu, tuồng hát đến tình sử Trung Hoa, kim cổ kỳ quan...
    Những năm đầu thế kỷ, tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh đã đi sâu vào lòng người đọc đủ mọi trình độ, đông đảo nhất là tầng lớp quần chúng tay lấm chân bùn ở nông thôn và giới thợ thuyền bình dân ở thành thị. Người ta đọc ông, say mê đọc ông, ngay từ trong sách quảng cáo của những nhà thuốc "Nhị Thiên Đường", "Thiên Hòa Đường", "Đại Quang"...
    Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh không những phổ biến cùng khắp miền Nam, mà ngay cả giới văn học nghệ thuật miền Bắc hồi đó vẫn kiêng nể ngòi bút ông, xem ông như là nhà viết tiểu thuyết đầu tiên và sung sức nhất với đầy đủ phong cách hào phóng, ngôn ngữ đặc thù, mang trọn vẹn tính chất người Nam Bộ trung thực, hiền lành và chất phác. Trong khi ở miền Bắc, tiểu thuyết "Tố Tâm" (1925) của Song An Hoàng Ngọc Phách mang đầy tính lãng mạn, thì tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh ở miền Nam lại sớm đi vào dòng văn học phản ánh hiện thực, mô tả và lột trần hiện trạng xã hội lầm than, cơ cực thời đó. Nghèo đói, rách rưới, bất công và áp bức luôn đeo bám từng tác phẩm ông.
    Dù đứng trên góc độ nào, người ta vẫn phải nhìn nhận Hồ Biểu Chánh là một nhà văn được lòng độc giả. Bởi vì, trước hết, nội dung tác phẩm ông rất gần gũi với đời thường. Ông dựa vào thực trạng xã hội để sáng tác. Trong tác phẩm ông, người ta thấy có đầy đủ những "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín". Đó là "đạo đức" vượt không gian và thời gian của dân tộc Việt Nam vốn có bốn ngàn năm văn hiến. Tuy bị hạn chế trong việc lấy tác phẩm nước ngoài để phóng tác thành tác phẩm mình, ông vẫn luôn giữ được sắc thái, bản chất và phong cách Việt Nam. Ông dẫn dắt người đọc và gợi lại cho họ những cảnh nước đọng, bùn lầy ở nông thôn miền Tây Nam Bộ cũng như cảnh rừng rú còn hoang dã với đầy dẫy hùm beo, muông thú buổi sơ khai. Ông đã diễn tả trung thực phong cảnh từng vùng đất ông có dịp đi qua. Ông thể hiện rành rọt phong tục tập quán cũng như ngôn ngữ địa phương một cách chính xác. Đọc ông, người ta như thấy lại hoàn toàn bối cảnh xã hội chậm tiến xa xưa của cả một vùng đất Nam Bộ từ thành thị đến thôn quê với âm vang tiếng còi tàu súp-lê, tiếng chèo khua nước, tiếng chim kêu vượn hú, tiếng ngựa chạy bon bon, tiếng xe bò lạch cạch, tiếng muỗi mòng vo ve... từ Cà Mau, Châu Đốc, Vĩnh Long, Cần Thơ đến Sài Gòn, Thủ Đức, Biên Hòa... Người đọc cũng bắt gặp ở tác phẩm ông sắc thái quê mùa, thô kệch, chất phác, nhân hậu của nhân dân Nam Bộ thuở còn chịu nhiều hủ tục.
    Một cách khái quát hơn, trong bộ toàn tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, cuốn nào cũng có cốt chuyện hẳn hoi với đầy đủ thế thái nhân tình, được diễn tả bằng một giọng văn mộc mạc, hiền hòa, đôi khi ngô nghê như câu nói của người ít học, hay không học. Cốt lõi của tiểu thuyết ông, bao giờ cũng là sự tranh chấp giữa thiện và ác.
    Có người cho rằng tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh là thứ tiểu thuyết ru ngủ, không phản ánh hiện thực xã hội. Chắc chắn Hồ Biểu Chánh viết ra không phải để ru ngủ người đọc. Hơn thế nữa, ngòi bút ông đã từng mô tả sâu sát nỗi đau của người phụ nữ bị ràng buộc trong lễ giáo khắt khe, từng xót xa với cảnh đời đen bạc và tráo trở luôn đè bẹp trên đầu trên cổ những anh tá điền, cùng những kẻ cùng đinh mạt vận, nghèo đói, rách rưới, lang thang bị đời khinh rẻ một cách bất công như trường hợp nhân vật Lê Văn Đó trong "Ngọn cỏ gió đùa", chỉ vì gia đình đói khổ, chờ chết, buộc phải "ăn trộm" một nồi cháo heo để rồi bị kết án tổng cộng trước sau đến 20 năm tù oan ức. Tất cả những điều vừa kể, há chẳng phải là phản ánh hiện thực xã hội nhung nhúc dòi bọ, đầy dẫy bất công, áp bức, chén cơm pha mồ hôi sôi nước mắt của người lao động tay lấm chân bùn hay sao?
    Điều cần nhấn mạnh là đa số tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, cho tới ngày nay, không những còn được ưa chuộng bởi người lớn tuổi, mà ngay cả thanh, thiếu niên, sinh viên học sinh cũng tìm đọc để nhìn thấy trong đó những phong tục, tập quán, ngôn ngữ, phong cách người xưa như thế nào, nhất là nguồn đạo lý và lễ giáo thời ấy dạy dỗ con người những điều gì...
    Trong những sách nghiên cứu về văn chương Việt Nam tiền bán thế kỷ 20, người ta đã xem Hồ Biểu Chánh là một trong những nhà văn hàng đầu đóng góp nhiều công sức tài bồi nền móng cho giai đoạn xây dựng chữ quốc ngữ. Nhà văn Trần Bạch Đằng trong một bài đăng trên Văn nghệ TP.HCM năm 1988 nhận xét: "... càng lâu về sau, ông càng trở thành nhà văn cổ điển của nền văn học Việt Nam... Chúng ta tự hào đất nước có nhà văn Hồ Biểu Chánh".
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  7. Tigris_Corbetti

    Tigris_Corbetti Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    30/05/2003
    Bài viết:
    221
    Đã được thích:
    1
    ngày trước tớ cũng có đọc một cuốn về Trần Đại Nghĩa. Ngày ông còn ở Pháp do người thuộc địa ko được phép học về kĩ thuật quân sự, ông xin vào học ngành ... cầu cống. Rồi gián tiếp từ các nguyên lý thép cầu, miệng cống... để có các thành công trong kĩ thuật quân sự sau này.
    Tớ có chút thắc mắc về tên do Bác Hồ đặt cho ông, Đại Nghĩa thì chúng ta biết vì đại nghĩa của dân tộc, thế sao ko là Phạm Đại Nghĩa mà lại là Trần Đại Nghĩa ?

    Tigris Corbetti

    Ủng hộ:
    http://www.ttvnol.com/forum/t_202935/?2.712047E-02
  8. kien2005

    kien2005 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    20/05/2003
    Bài viết:
    132
    Đã được thích:
    0
    Bác ơi, để bảo vệ gia đình và họ hàng thân quyến, vì ưu điểm của các lực lượng thù địch của CMVN là được phép dùng đòn "thu phục nhân tâm" kiểu "một người theo CM, cả họ mắc vạ"
  9. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    AGIENĐÊ (1908 - 1973)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Sanvađo Agienđê (Salvader Allende) - Tổng thống nước Cộng hòa Chilê, người đứng đầu chính phủ tiến bộ Liên minh đoàn kết nhân dân (1970 - 1973) bị phe đảo chính giết hại.
    Từ khi còn là một sinh viên khoa Y trường đại học, Agienđê đã tỏ rõ nhiệt tình yêu nước và chí khí đấu tranh cách mạng. Ông đã được bầu làm Chủ tịch tổ chức sinh viên khoa Y và Phó chủ tịch Liên đoàn sinh viên đại học Chilê. Năm 1933, bác sĩ Sanvado Agienđê 25 tuổi, là một trong những người sáng lập Đảng Xã hội Chilê. Ông đã lần lượt gánh vác nhiều trách nhiệm quan trọng: Phó tổng thư ký (từ 1938) và Tổng thư ký Đảng Xã hội (từ 1942), Bộ trưởng Bộ Y tế trong Chính phủ Mặt trận nhân dân (1939 - 1942), đại biểu Đại hội quốc dân (từ 1937), Thượng nghị sĩ (1945 - 1970), Phó chủ tịch và Chủ tịch Thượng nghị viện (trong nhiều năm).
    Tháng 12-1969, Liên minh đoàn kết nhân dân bao gồm các Đảng Xã hội, Cộng sản, Cấp tiến, Xã hội - dân chủ và một số tổ chức quần chúng nhân dân khác đã được thành lập. Trong cuộc tổng tuyển cử bầu Tổng thống năm 1970, Liên minh đã đưa bác sĩ S.Agienđê, thủ lĩnh Đảng Xã hội ra tranh cử và giành được thắng lợi. Chính phủ Liên minh đoàn kết nhân dân do Tổng thống Agienđê cầm đầu được thành lập.
    Chính phủ Agienđê đã tiến hành nhiều cải cách kinh tế - xã hội như quốc hữu hóa các mỏ đồng lớn, cải cách ruộng đất, cải thiện đời sống cho nhân dân lao động... và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước Xã hội chủ nghĩa, tích cực ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc...
    Các thế lực ********* Chilê được sự giúp đỡ của đế quốc Mỹ đã tiến hành chống đối lại cách mạng Chilê trên khắp các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, gây nhiều khó khăn cho chính phủ Agienđê. Tháng 9-1973, bọn chúng đã tiến hành một cuộc đảo chính quân sự lật đổ chính phủ Agienđê. Tổng thống Agienđê đã chiến đấu chống quân thù và bị hi sinh.
  10. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Chu Văn An - Nhà giáo dục đầu tiên của Việt Nam
    --------------------------------------------------------------------------------
    Chu Văn An (còn gọi là Chu An) người thôn Văn, Xã Quang Liệt, nay là Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội (quê mẹ). Theo Đăng khoa học bổ dị, từ 14, ông thi đậu Thái học sinh (như tiến sĩ) nhưng không ra làm quan. Ông mở trường dạy học trên một cánh đồng tại làng Huỳnh Cung, giáp với thôn Văn. Học trò của ông rất đông, nhiều người thành đạt như Phạm Sư Mạnh, tể tướng đời Trần Dụ Tông, Lê Bá Quát làm thượng thư.
    Ông dạy học rất nghiêm, lấy mình làm gương mẫu cho học trò noi theo. Tể tướng Phạm Sư Mạnh, Thượng thư Lê Bá Quát, những khi về trường thăm thầy, được thầy khuyên bảo, khen chê đều rất phấn khởi.
    Tài đức của Chu Văn An đến tai nhà vua. Trần Minh Tông (1300 - 1357) mời ông ra làm tư nghiệp trường Quốc Tử Giám (như phó giám đốc trường đại học) và dạy thái tử học. Thái tử Vượng lúc đó mới khoảng 5 - 6 tuổi. Cho nên ông giảng dạy ở Quốc Tử Giám là chính. 10 tuổi, thái tử Vượng lên ngôi (Trần Hiếu Tông). Vượng mất, Dụ Tông (1336 - 1369) lên nối ngôi khi mới 8 tuổi. Minh Tông vẫn làm Thượng hoàng đến năm 1457 thì mất, chính sự từ đó đổ nát. Dụ Tông trở nên hư đốn, suốt ngày cờ bạc rượu chè. Ông ta thường gọi bọn nhà giàu vào cung đánh bạc; bắt các quan thi uống rượu, ai uống được 100 thăng (chén to) thì thưởng cho hai trật; bắt các công chúa, vương hầu phải hát tuồng trong cung v.v... Chu Văn An nhiều lần khuyên can nhưng không được. Ông dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần. Dụ Tông không nghe. Ông bèn trả lại áo mũ, từ quan về quê.
    Chu Văn An ở nhà ít lâu, rồi đi chơi đây đó. Đến vùng Chí Linh, Hải Dương thấy thắng cảnh đẹp, ông liền dựng nhà ở núi Phượng Hoàng, thuộc làng Kiệt Đắc. Ông lấy hiệu là Tiều Âấn và mở trường dạy học, sống một cuộc đời thanh đạm.
    Sau đó, Dương Nhật Lễ cướp ngôi nhà Trần. Hoàng tử Phủ con Trần Minh Tông đánh tan được bọn Nhật Lễ, lên ngôi (Nghệ Tông). Chu Văn An từ Chí Linh chống gậy ra mừng vua. Trần Nghệ Tông (1320 - 1394) muốn mời ông ra tham dự việc triều chính nhưng ông từ chối. Bà hiến Từ hoàng thái hậu đã nói một câu chí lí: "Người ấy là bậc cao sĩ, thanh thiết, nhà vua không thể bắt làm bầy tôi được đâu...". Vua thưởng cho mũ áo, ông nhận và lạy tạ nhưng đem về cho người khác. Ông vui sống với học trò ở núi Phượng Hoàng, rồi mất vào khoảng cuối tháng 11-1370, thọ 78 tuổi (theo Đại Việt sử ký toàn thư).
    Trong quá trình dạy học, Chu Văn An đã soạn ra bộ Tứ thư thuyết ước. Theo tên sách ta có thể biết đây là tập giáo trình đầu tiên bàn về bốn quyển sách qui định trong chương trình giảng dạy: Đạ học, Trung Dung, Luật Ngữ và Mạnh Tử. Tiếc thay tập giáo trình này đã bị nhà Minh lấy mất. Nếu còn bộ sách, chúng ta sẽ hiểu cụ thể quan điểm của ông. Ơở miếu thờ Chu Văn An ở làng Huỳnh Cung còn ghi lời của Bùi Huy Bích (1744 - 1802) có đoạn, tạm dịch: Kính nghĩ phu tử, tinh thông về lý học, khi ra đời (xuất thế) cũng vì Lễ, khi ở ẩn (thoái ẩn) cũng vì nghĩa. Những học trò của ngài đã đem bày tỏ rõ ràng được đạo Nho, chống lại tà thuyết, gạt bỏ mê tín. Phong thái và ảnh hưởng của ngài dù đến trăm năm sau cũng cảm thấy như chính mình đang ở gần ngài. Trong Kinh thi, chẳng đã có câu: Núi cao, ngửa trông thấy càng cao, đường lớn càng đi càng thấy xa...
    Chu Văn An là chủ xướng 4 quan điểm sau:
    Cùng lý: bàn cãi cho biết lý lẽ của sự vật.
    Chính tâm: luôn luôn giữ lòng mình cho chính, không làm điều gì trái với lương tâm.
    Tịch tà: chống lại tà thuyết, những điều nhảm nhí.
    Cự bí: đấu tranh vượt mọi khó khăn, chống lại những sự việc làm hại đến nhân tâm.
    Ơở bốn quan điểm này, chúng ta thấy Chu Văn An quan tâm đầy đủ cả hai mặt trí dục và đức dục, học và hành.
    Chu Văn An là một nhà giáo tài đức trọn vẹn, có đóng góp to lớn với đất nước và đạo học. Có thể coi ông là nhà giáo dục học đầu tiên của Việt Nam vì có nhiều trò giỏi và những công trình biên soạn lớn. Bốn câu thơ sau đây của Đặng Minh Khiêm (nhà vịnh sử đời Lê) có lẽ đã tóm tắt được một phần cuộc đời và con người của ông. Tạm dịch như sau:
    Sớ thất trảm xong rồi, treo mũ từ quan
    Trên núi Chí Linh tiên sinh đã vẹn tiết của mình rất thong thả,
    Phong thái trong sạch và tiết tháo cứng rắn của tiên sinh từ nghìn xưa cũng hiếm có
    Lòng ngưỡng mộ tiên sinh của các sĩ phu ngun ngút như đỉnh núi Thái Sơn.
    (Giáo dục - Thời đại 20/11/1998)
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.

Chia sẻ trang này