1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung (mỗi ngày 1 nhân vật)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 08/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    AIXENHAO (1890 - 1969)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Đuaitơ Đêvit Aixenhao (Dwight David Eisenhower) - Tổng chỉ huy quân Đồng minh (Anh - Mỹ) trên mặt trận thứ hai của Chiến tranh thế giới II, Tổng thống Hoa Kỳ 1953 - 1960.
    Aixenhao tham gia binh nghiệp từ trẻ. Năm 1926, tốt nghiệp Viện Hàn lâm Tổng tham mưu. Trong những năm 1933 - 1935, ông công tác trong bộ Tổng tham mưu Mỹ và 1935 - 1939, là ủy viên phái đoàn quân sự Mỹ tại Philippin.
    Trong Chiến tranh thế giới II, ông là Tổng chỉ huy quân đội Đồng minh (Anh - Mỹ) đổ bộ lên Bắc Phi, lên đảo Xixilia (Italia) (1943). Năm 1944, Aixenhao chỉ huy quân Đồng minh mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu, đổ bộ vào nước Pháp, rồi đánh sang Đức. Năm 1945, Aixenhao là Tổng chỉ huy quân đội Mỹ chiếm đóng Tây Đức. Từ 1945 - 1948, ông giữ chức Tham mưu trưởng và từ 1948, làm Giám đốc trường đại học Côlômbi, đồng thời là cố vấn quân sự của Tổng thống Mỹ. Từ 12-1950 đến 6-1952, Aixenhao được cử làm Tổng tư lệnh tối cao của Tổ chức hiệp ước quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO).
    Năm 1952, Aixenhao được Đảng Cộng hòa đưa ra ứng cử tổng thống và đã giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử (nhiệm kỳ tổng thống 1953 - 1956). Khi lên làm tổng thống do quân đội Mỹ bị thiệt hại năng nề trong cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (1950 - 1953). Aixenhao đã phải chấp nhận ký hiệp định đình chiến với Triều Tiên và Trung Quốc (27-7-1953). Tháng 11-1956 Aixenhao trúng cử Tổng thống lần thứ hai (nhiệm kỳ 1957 - 1960). Đầu năm 1957, ông đề ra "chủ nghĩa Aixenhao" nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam Việt Nam chống Mỹ - Diệm đặc biệt là cuộc đồng khởi 1959 - 1960, đã làm cho "chủ nghĩa Aixenhao" bị phá sản.
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  2. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Tô Ngọc Vân - Một tài năng, một nhân cách lớn
    Báo Nhân dân
    --------------------------------------------------------------------------------
    Nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại trưởng thành và phát triển với nhiều thành tựu như ngày nay là nhờ đóng góp rất to lớn của họa sĩ đầu tiên, mà Tô Ngọc Vân là người đầu tiên, mà Tô Ngọc Vân là người đầu tiên cần được nhắc tới ấy.
    Tô Ngọc Vân sinh ngày 15-12-1906 tại Hà Nội. Quê ông ở Xuân Cầu (Văn Giang, Hưng Yên). Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời năm 1925, Tô Ngọc Vân là sinh viên khóa 1926 - 1931. Sau khi tốt nghiệp ông trở thành giảng viên của trường, dạy ở Lào và lại về trường (1939 - 1945). Ông là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1946, cho đến năm ông hy sinh 1954.
    Phải nói rằng trước năm 1925, các họa sĩ Việt Nam lớp đầu chưa có khái niệm rõ rệt về hội họa. Họ hướng về cái đẹp, đi tìm cái đẹp bằng những cảm nhận mơ hồ. Không tính đến mỹ thuật truyền thống, thì rõ ràng ngày ấy, hội họa hiện đại ở Việt Nam chưa có gì. Điều đầu tiên để nói là hội họa sơn dầu Việt Nam phát triển được chủ yếu nhờ công của Tô Ngọc Vân. Bằng khen danh dự cho tác phẩm sơn dầu "Bức thư" của Tô Ngọc Vân ở Triển lãm Hội họa Pháp, cùng với Huy chương vàng ở Triển lãm thuộc địa Pa-ri 1931 cho tác phẩm này, là sự khẳng định đầu tiên về tài năng của ông trong sáng tác bằng chất liệu sơn dầu. Trong khi Victor Tardien quá lo bảo vệ bản sắc dân tộc cho các sinh viên Việt Nam, khiến họ chỉ quan tâm đến các chất liệu lụa, khắc gỗ, rồi đến sơn mài... Còn Imguiberty, dạy sơn dầu, thì luôn nghĩ rằng cho sinh viên Việt Nam học sơn dầu chỉ vì đó là một môn học cơ bản, chứ chất liệu sơn dầu với Việt Nam quá xa lạ, hấp thụ đã khó, sáng tác làm sao được thì chỉ Tô Ngọc Vân, vào lúc ấy, thấy trước triển vọng của sơn dầu. Với một bản chất mạnh mẽ, nồng nhiệt luôn luôn sôi nổi, Tô Ngọc Vân tìm thấy ở chất liệu sơn dầu khả năng diễn tả trực tiếp, đầy đủ nhất những cảm xúc mạnh nhiều khi táo bạo của mình. Nhờ học được ở Imguiberty, Tô Ngọc Vân đã trang bị được một kỹ thuật sơn dầu hoàn hảo. Những tác phẩm của ông trong thời kỳ này đều là những tác phẩm nổi tiếng, mẫu mực và quý giá cho mãi về sau: "Thiếu nữ bên hoa huệ", "Hai thiếu nữ và em bé", "Thiếu nữ và hoa sen"... Từ một họa sĩ quan niệm rằng "Không có thứ nghệ thuật nào lại không có sự nhục cảm", Tô Ngọc Vân, cũng như nhiều họa sĩ cùng thế hệ, đến với cách mạng, đi vào kháng chiến với tất cả tấm lòng nhiệt thành. Những bức sơn dầu lộng lẫy, hấp dẫn, sáng lòa hình thể, màu sắc của người họa sĩ, đột nhiên thay đổi hẳn phong cách trong "Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ Phủ". Đây là bức chân dung sơn dầu đẹp nhất của Tô Ngọc Vân sáng tác trong thời kỳ đầu của nền mỹ thuật Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Một bức tranh giản dị, trang nghiêm mà không kém phần tráng lệ huy hoàng. Tô Ngọc Vân bố cục hình Bác khoan thai và đĩnh đạc, choán cả diện tích nền tranh, ánh sáng ngang, rực lên, làm rõ một không khí mộc mạc, mà vô cùng sinh động.
    Năm 1947, Tô Ngọc Vân là trưởng đoàn văn hóa Cứu quốc ở khu Mười. Ông cũng đồng thời là giám đốc xưởng Mỹ thuật, Hiệu trưởng trường Mỹ thuật kháng chiến. Tô Ngọc Vân đã tổ chức một xưởng khắc và in tranh tuyên truyền trên một quả đồi lớn ở làng Xuân Aáng, Phú Thọ. Ông cùng các văn nghệ sĩ trong đoàn kháng chiến: Thế Lữ, Bùi Huy Phồn, Nguyễn Tuân, Nguyễn Khang... và các đồng nghiệp và học trò của mình đi khắp các ngả đường chiến dịch, với tấm lòng một người yêu nước và lòng khát khao sáng tác của một nghệ sĩ lớn.
    Tô Ngọc Vân luôn luôn có những cuộc tranh luận thẳng thắn về nghệ thuật, không phải chỉ một lần. Lúc Tô Ngọc Vân đang nổi tiếng về tranh sơn dầu chứ chưa làm sơn mài bao giờ, nhưng ông vẫn bênh vực cho chất liệu theo ông là đậm chất dân tộc, khẳng định những ưu điểm quý giá của sơn mài và tự mình sáng tác tranh "Nhã Nam tiêu thổ kháng chiến" để chứng minh.
    Tô Ngọc Vân chọn cho mình con đường sống với nhân dân, chiến đấu với nhân dân, và đã hy sinh vì nhân dân. Ông mất ngày 17-6-1954 trên đường đi chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Đọc lại những gì ông viết, những bài tranh luận của ông, lúc nào cũng thấy cháy lên sau con chữ tấm lòng yêu nước yêu dân. Dù những bài tranh luận về nghệ thuật hay những lời lẽ cụ thể như trong bài viết ông đọc ngày khai trường Mỹ thuật kháng chiến ở Việt Bắc 1950: "... Nhận của nhân dân cơm áo, chúng ta trả lại nhân dân bằng hội họa. Bằng cách đem hội họa phụng sự nhân dân, hướng dân để nâng cao trình độ thưởng thức hội họa của nhân dân. Đứng trên lập trường ấy, chúng ta ghi câu khẩu hiệu: "Hội họa là một công tác. Người vẽ là một cán bộ. Ơở đây chúng ta đồng tình với những bậc tiền bối danh sư của hội họa cổ điển, đem nghệ thuật mà phục vụ một đạo. Nhưng cái đạo của chúng ta là đạo làm một người của nhân dân...".
    Không phải chỉ trên lý thuyết Tô Ngọc Vân trên cương vị Hiệu trưởng, cùng một đội ngũ họa sĩ tài năng đầy tâm huyết đã truyền cho một lứa họa sĩ trẻ trong khóa Mỹ thuật kháng chiến ấy cả tinh thần sáng tạo và lòng yêu đất nước, yêu nhân dân. Lớp học trò của ông đang là chỗ tựa vững chắc nhất cho nền mỹ thuật cách mạng, dân tộc và đổi mới hiện nay. Công lao của Tô Ngọc Vân đối với nền mỹ thuật Việt Nam cần được ghi nhận và đánh giá thật công bằng. Giải thưởng Hồ Chí Minh lần thứ 1 và Huân chương Độc Lập hạng nhất mà Đảng và Nhà nước truy tặng ông năm vừa qua là biểu hiện của sự ghi công đó. Những tác phẩm của ông vẽ trong kháng chiến "Dừng chân bên đồi", "Hai chiến sĩ", "Nữ cứu thương", "Bà Bủ", "Tôi có ý kiến", "Đi học đêm"... cùng hàng nghìn ký họa, không chỉ đem lại cho ông Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1954, mà còn khẳng định tài năng lớn của ông vẫn lớn lên cùng với cuộc kháng chiến của dân tộc, cũng như thế nhân cách của ông suốt hơn 50 năm qua, vẫn tỏa sáng và để lớp nghệ sĩ sau ông không ngừng suy ngẫm và noi theo
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  3. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    ALÊCHXAN Đại đế (356 - 323 TCN)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Alêchxan Đại đế (hay Alêchxanđrốt Makêđônia - Alexandros Makedonia) - vua của nước Makêđônia (336 - 323 TCN) một nhà quân sự nổi danh của thế giới cổ đại.
    Alêchxan là con của vua Makêđônia Philip II và hoàng hậu Ôlimpiát. Alêchxan được hưởng thụ một nền giáo dục toàn diện, không chỉ giỏi về võ nghệ mà còn rất yêu thích văn học. Ông được nhà triết học nổi tiếng nhất thời cổ đại là Arixtốt bồi dưỡng cho những tinh hoa của nền văn hóa Hi Lạp cổ đại.
    Năm 336 TCN, Philip II bị ám sát chết, Alêchxan lên kế nghiệp vua cha, năm 20 tuổi. Ông là một người chỉ huy quân sự tài giỏi, một nhà chính trị và tổ chức giàu năng lực. Sau khi đàn áp các cuộc khởi nghĩa của các thành bang Hi Lạp, ông đã đem quân đội liên minh Hi Lạp - Makêđônia chinh phục đế quốc Ba Tư. Quân đội của ông thực hiện chiến thuật "Phương trận" (Phalange) hay hình khối vuông. Bộ binh xếp thành từng khối dày đặc, hàng trước mang giáo ngắn, hàng sau giáo dài (có ngọn giáo dài tới 5 mét), tua tủa như những con nhím. Binh sĩ còn có mộc che bảo vệ. Kị binh tinh nhuệ được bố trí hai bên sườn của bộ binh. Khi tác chiến, bộ binh có nhiệm vụ công kích chính diện, còn kị binh nhanh nhẹn thì vòng sang hai bên đối thủ và bao vây đằng sau lưng nhằm tiêu diệt hoàn toàn quân địch. Nhờ có một đội quân tinh nhuệ và một chiến thuật tiên tiến nhất thời bấy giờ, trong vòng 4 năm (334 đến 331 TCN), ông đã tiêu diệt toàn bộ đế quốc Ba Tư, xâm chiếm một lãnh thổ rộng lớn từ Ai Cập đến Ba Tư. Ông còn kéo quân vào miền tây bắc ấn Độ, nhưng không giành được thắng lợi phải quay trở về, đóng kinh đô tại Babilon.
    Alêchxan tích cực truyền bá nền văn hóa Hi Lạp cổ đại sang phương Đông và xây dựng nhiều thành thị kiểu Hi Lạp tại đây ( các thành thị này đều mang tên Alêchxanđria). Hai nền văn hóa Đông - Tây đã hòa hợp với nhau, tạo thành một nền văn hóa rực rỡ mới gọi là nền văn hóa Hi Lạp hóa.
    Trong khu đang chuẩn bị cuộc viễn chinh mới, thì Alêchxan bị mắc bệnh sốt ác tính, và mất ở Babilon lúc mới 33 tuổi (323 TCN). Sau khi ông mất, không có con thừa kế, đế quốc đã bị các tướng tranh giành và cuối cùng chia xẻ thành ba vương quốc: Hi Lạp - Makêđônia, Ai Cập và Ba Tư.
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  4. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    GSTS Đỗ Xuân Hà-Người Việt Nam đầu tiên bảo vệ tiến sĩ văn học tại ĐHTH Lômônôxốp.
    (PTS Bùi Thế Đức)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Anh Hà xuất thân trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng ở Hà Nội. Cuối năm 1951, anh được Cục Quân y cử đi học trường Thiếu sinh quân Việt Nam ở Cao Bằng, rồi từ đây anh được chuyển sang học tại Quế Lâm và Nam Ninh Trung Quốc. Năm 1954, khi hòa bình vừa lập lại, anh Hà vinh dự trong tốp học Việt Nam đầu tiên được cử sang học tại Liên Xô. Cuối năm 1961 anh tốt nghiệp với tấm bằng đỏ trở về nước giảng dạy tiếng Nga tại trường ĐH Ngoại ngữ Hà Nội và sau đó tiếp tục giảng dạy chuyên ngành Văn học Nga - Xô viết ở khoa Văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội suốt 14 năm liền.
    Năm 1975, sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, anh được cử đi nghiên cứu sinh tại khoa Ngữ văn trường ĐH Lômônôxốp và hoàn thành bảo vệ xuất sắc luận án chỉ trong thời gian hơn 2 năm. Trở về nước, anh lại tiếp tục giảng dạy tại khoa Văn trường ĐHSP Hà Nội cho các khóa sinh viên, giảng dạy chuyên đề và hướng dẫn luận văn tốt nghiệp cho hệ sau ĐH. Trong các bài giảng của anh chứa đựng những hơi thở lớn của thời đại, những vấn đề nóng hổi của văn học Xô - Viết và thế giới. Với những thành tựu đã đạt được trong nghiên cứu và giảng dạy, bốn năm sau anh lại được Đảng và Nhà nước cử đi thực tập sinh cao cấp tại khoa Ngữ văn trường ĐHTH Lômônôxốp. Sau hai năm miệt mài nghiên cứu, tháng 3-1985 anh Hà là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ chuyên ngành lý luận văn học trước một Hội đồng của các nhà bác học Xô - Viết có tên tuổi.
    Trở về nước công tác, anh được GSTS Phạm Minh Hạc - Bộ trưởng Bộ Giáo dục lúc bấy giờ giao cho trọng trách làm Tổng thư ký Hội đồng khoa học Viện KHGD Việt Nam và Phó viện trưởng Viện GD. Tại đây anh đã có những đóng góp đáng kể khi triển khai các đề tài nghiên cứu, nhất là về lĩnh vực giáo dục thẩm mỹ còn rất mới ở Việt Nam. Rồi khi khoa báo chí của trường ĐHTH Hà Nội mới được thành lập, anh lại được GSTS Đào Trọng Thi - Hiệu trưởng nhà trường - người đã có những năm tháng gắn bó với anh tại trường ĐHTH Lômônôxốp và GS Hà Minh Đức - Chủ nhiệm khoa báo chí - đã mời anh về phụ trách bộ môn văn học nước ngoài của khoa. Vốn là người gắn bó với chuyên môn, say sưa với công tác đào tạo nên anh đã "dứt ấn từ quan" nhận lời về khoa báo chí tiếp tục công tác chuyên môn cùng bạn bè, đồng nghiệp, dành hết tâm huyết của mình cho các lớp sinh viên - những nhà báo tương lai của đất nước.
    Hơn một phần ba thế kỉ dùi mài kinh sử, giờ đây GSTS Đỗ Xuân Hà đã là tác giả của gần 50 công trình nghiên cứu khoa học, hàng chục cuốn sách dịch về các thể loại ở trong nước và thế giới, trong đó có nhiều cuốn nổi tiếng... Hiện anh là ủy viên BCH Ban liên lạc những người đã học ở SNG, ủy viên BCH Hội giảng viên tiếng Nga và văn học Nga của Việt Nam. Có thể khẳng định anh là chuyên gia hàng đầu về văn học Nga và văn hóa Nga, là nhà nghiên cứu có tên tuổi về lý luận giáo dục thẩm mỹ và giáo dục nghệ thuật cho học sinh phổ thông ở Việt Nam. Những công trình khoa học nghiên cứu của anh về các lĩnh vực nói trên từ lâu đã được công bố rộng rãi và nổi tiếng không chỉ ở nước ta, mà còn ở các nước khác như Ba Lan, Nga, Hungari, Ucraina...
    (PTS Bùi Thế Đức)
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  5. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    ARABI (1839 - 1911)
    --------------------------------------------------------------------------------
    Amét Arabi (Ahmed Arabi hay Arabi Pacha) - sĩ quan quân đội Ai Cập, người lãnh đạo phong trào giành độc lập dân tộc của nhân dân Ai Cập chống đế quốc Anh cuối thế kỷ XIX.
    Arabi xuất thân nông dân, theo nghề binh từ khi còn trẻ và đã lên đến chức đại tá. Khi Đảng Dân tộc, đảng của các sĩ quan và trí thức yêu nước tiến bộ Ai Cập, có xu hướng đòi độc lập dân tộc thoát khỏi sự nô dịch của thực dân Anh được thành lập, Arabi được bầu làm thủ lĩnh của Đảng.
    Tháng 9 - 1881, Arabi lãnh đạo binh sĩ bao vây hoàng cung, yêu cầu quốc vương triệu tập quốc hội mới và thay đổi chính phủ. Tháng 12 - 1881, trong cuộc bầu cử quốc hội mới, Đảng Dân tộc chiếm đa số ghế và một chính phủ mới của Đảng Dân tộc được thành lập. Arabi giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Chiến tranh.
    Việc Đảng Dân tộc lên cầm quyền đã uy hiếp sự thống trị của Anh ở Ai Cập. Sau nhiều lần mua chuộc dụ dỗ Arabi không thành công, thực dân Anh quyết định dùng vũ lực. Arabi trở thành lãnh tụ cuộc kháng chiến của nhân dân Ai Cập chống thực dân Anh. Quốc vương và bè lũ ********* Ai Cập chạy sang phía Anh. Quân xâm lược Anh đã vi phạm công ước quốc tế, đưa quân tiến vào kênh Xuyên - vùng trung lập hóa, điều mà Arabi không ngờ tới, rồi từ vùng kênh đào tiến vào phía đông Cairô. Cuộc chiến đấu diễn ra không cân sức, Arabi đã bị thất bại. Tháng 9-1982, thực dân Anh bắt được Arabi, và đày ông ra đảo Xâylan (bây giờ là Xri - Lanca khi đó đang là thuộc địa của Anh).
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  6. khongtenso6

    khongtenso6 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    17/06/2003
    Bài viết:
    51
    Đã được thích:
    0
    Tôi có thấy bác hoibihay nhắc đến đồng chí Lê Duẩn trong phần viết về Bác Hồ. Vậy Lê Duẩn không là danh nhân à, Tổng bí thư của ta đấy chứ!. Ông Đồng Ông Giáp còn thua xa ...
    FLATTERY CAN LEAD YOU ... EVERYWHERE.
  7. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    em bÂy giỏằ chỏằ? nhỏc 'ỏn cĂc 'ỏằ"ng chư câ câ 1 chút,kỏằo mỏƠt công bỏằ lao vào thỏÊo luỏưn không có lỏằÊi cho diỏằ.n 'àn
    ÐỏĂi danh y Tuỏằ? Tânh
    Tuỏằ? Tânh chưnh tên là Nguyỏằ.n BĂ Tânh, biỏằ?t hiỏằ?u là Hỏằ"ng Nghâa, phĂp hiỏằ?u (theo tên gỏằi cỏằĐa nhà chạa) là Tuỏằ? Tânh. "ng sinh ra ỏằY làng Nghâa Phú (tỏằƠc gỏằi là làng Xặa), thuỏằTc tỏằ.ng Vfn Thai, huyỏằ?n Cỏâm Giàng (gỏĐn Kỏằ Sỏãt), phỏằĐ ThặỏằÊng Hỏằ"ng, tỏằ?nh HỏÊi DặặĂng - nay là thôn Nghâa Phú, xÊ Cỏâm Vâ, huyỏằ?n Cỏâm Giàng, tỏằ?nh HỏÊi DặặĂng. Thôn này ỏằY cĂch ga Cao XĂ trên 'ặỏằng sỏt Hà NỏằTi - HỏÊi Phòng 1,5 km và cĂch tỏằ?nh lỏằà HỏÊi DặặĂng hặĂn 10 km.
    Vơ sinh ỏằY làng Nghâa Phú, phỏằĐ ThặỏằÊng Hỏằ"ng, nên Tuỏằ? Tânh 'ỏãt biỏằ?t hiỏằ?u là Hỏằ"ng Nghâa. Vơ thỏ mà sau này ông có tĂc phỏâm "Hỏằ"ng Nghâa giĂc tặ y thặ", và cuỏằ'n "Nam DặỏằÊc ThỏĐn Hiỏằ?u", là hai tĂc phỏâm quẵ giĂ còn 'ỏằf lỏĂi cho chúng ta 'ỏn hôm nay.
    Vỏằ nfm sinh cỏằĐa Tuỏằ? Tânh cho 'ỏn nay vỏôn còn nhiỏằu ẵ kiỏn khĂc nhau. Vỏằ thanh danh cỏằĐa Tuỏằ? Tânh, cĂc tài liỏằ?u câng chặa thỏằ'ng nhỏƠt. TặặĂng truyỏằn, Tuỏằ? Tânh là mỏằTt nhà sặ thông minh lỏằ-i lỏĂc, thi 'ỏưu Ðỏằ? nhỏằi cĂc nhà sặ trong chạa Dâng Nhuỏằ?. ỏằz chạa này, ông có phĂp danh là Tiỏằfu Huỏằ?, biỏằ?t danh là Tuỏằ? Tânh. "ng 'ặỏằÊc nhà chạa cho hỏằc chỏằ và hỏằc nghỏằ thuỏằ'c 'ỏằf giúp viỏằ?c chỏằa bỏằ?nh cho dÂn nghăo trong xÊ, huyỏằ?n. Nfm 22 tuỏằ.i, Tuỏằ? Tânh 'i thi HặặĂng và 'ỏằ- nhỏƠt bỏÊng, nhặng ông không ra làm quan mà vỏôn ỏằY lỏĂi chạa tiỏp tỏằƠc viỏằ?c chỏằa bỏằ?nh, lỏƠy phĂp hiỏằ?u Tuỏằ? Tânh câng tỏằô 'ó. Nfm 30 tuỏằ.i, Tuỏằ? Tânh trỏằY vỏằ chạa Yên Trang làm sặ trỏằƠ trơ, tu sỏằưa lỏĂi chạa và nhiỏằu chạa khĂc trong huyỏằ?n. Nfm 45 tuỏằ.i, Tuỏằ? Tânh 'i thi Ðơnh và 'ỏằ- Hoàng giĂp. Nfm 55 tuỏằ.i, ông bỏằc ta, chúng 'Ê phĂ hỏằĐy nhiỏằu thặ tỏằn. Nhỏằng bỏÊn hiỏằ?n còn do ngặỏằi 'ỏằi sau ghi châp qua truyỏằn khỏâu dÂn gian nhặ: "Nam DặỏằÊc ThỏĐn Hiỏằ?u" do Hòa thặỏằÊng BỏÊn Lai chạa Hỏằ"ng Phúc (ỏằY Hòe Nhai,Hàng Than, Hà NỏằTi) biên tỏưp, bỏằ. sung vào nfm TÂn Tỏằà cĂch 'Ây 'úng 240 nfm (1761-2001).
    "Nam dặỏằÊc chưnh bỏÊn", do triỏằu 'ơnh Lê DỏằƠ Tông biên tỏưp (sau 'ỏằ.i tên sĂch là "Hỏằ"ng Nghâa giĂc tặ y thặ") và 'ặỏằÊc in vào nfm ỏÔt Dỏưu (1717) gỏằ"m: "Quyỏằfn thặỏằÊng và quyỏằfn hỏĂ".
    Trong cuỏằ'n "Hỏằ"ng Nghâa giĂc tặ y thặ", nhà xuỏƠt bỏÊn y hỏằc, Hà NỏằTi - 1978, lỏĂi châp: sĂch "Hỏằ"ng Nghâa giĂc tặ y thặ" do Y viỏằ?n triỏằu Lê DỏằƠ Tông xuỏƠt bỏÊn nfm Quẵ MÊo (1723).
    Quyỏằfn ThặỏằÊng: "Nam DặỏằÊc Quỏằ'c Ngỏằ Phú" gỏằ"m 590 tên vỏằng dỏôn gia, giỏÊm khi dạng thuỏằ'c chỏằa bỏằ?nh.
    Cuỏằ'n "Nam DặỏằÊc ThỏĐn Hiỏằ?u" cỏằĐa Tuỏằ? Tânh, 'ặỏằÊc nhà xuỏƠt bỏÊn Y hỏằc, in lỏĐn thỏằâ hai vào nfm 1972. BỏằT này gỏằ"m 11 quyỏằfn: Quyỏằfn 'ỏĐu nói vỏằ dặỏằÊc tưnh cỏằĐa 119 vỏằn (chặa kỏằf lỏằi giỏằ>i thiỏằ?u cỏằĐa nhà xuỏƠt bỏÊn và lỏằi tỏằa cỏằĐa cĂc quÂn y Viỏằ?n triỏằu Lê DỏằƠ Tông, dày 319 trang). CỏÊ hai bỏằT sĂch này cỏằĐa Tuỏằ? Tânh 'ỏằu có ỏÊnh hặỏằYng rỏƠt sÂu rỏằTng trong y gia Viỏằ?t Nam, mà cho 'ỏn hôm nay, vỏƠn 'ỏằ lẵ luỏưn và thỏằc tiỏằ.n vỏôn luôn 'ặỏằÊc thỏằôa kỏ phĂt triỏằfn và phỏằ. biỏn. NhỏƠt là cuỏằ'n "Nam DặỏằÊc ThỏĐn Hiỏằ?u" cỏằĐa ông, nhiỏằu thỏĐy thuỏằ'c tỏằô trặỏằ>c 'ỏn giỏằ, vỏôn theo phặặĂng phĂp trỏằc nhà. "ng 'Ê tỏằ.ng hỏằÊp và 'ỏằf lỏĂi nhỏằng bài thuỏằ'c kinh nghiỏằ?m quẵ bĂu cho mỏằTt sỏằ' khĂ nhiỏằu bỏằ?nh tỏưt. Ðó là mỏằTt tài liỏằ?u có giĂ trỏằn cho sỏằ thỏằôa kỏ và phĂt huy vỏằ'n câ y dặỏằÊc cỏằĐa nhÂn dÂn ta, thỏưt là mỏằTt cỏằ'ng hiỏn rỏƠt lỏằ>n cỏằĐa ông. Và câng chưnh do gÂy dỏằng 'ặỏằÊc phong trào trỏằ"ng cÂy thuỏằ'c trong gia 'ơnh 'ỏằf tỏằ chỏằa bỏằ?nh, nhỏằ vỏưy mà nfm 1533, vỏằ>i cÂy thuỏằ'c sỏàn có mà dÂn chúng thoĂt khỏằi bỏằ?nh sỏằ't rât hoành hành, hay dỏằRút dao châm xuỏằ'ng nặỏằ>c,nặỏằ>c bỏn 'ỏĐy mỏãt.
  8. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    ARAPHAT (1929 - ...)
    Yatxe Araphat (Yasser Araphat) - Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Tổ chức giải phóng Palextin (PLO), Tổng thống nước Cộng hòa Palextin, Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang cách mạng Palextin.
    Araphat sinh ngày 27-8-1929 ở Giêrusalem, theo đạo Hồi. Năm 1948, khi quân đội Ixraen xâm chiếm xứ Palextin, ông đã tham gia cuộc chiến tranh chống Ixraen. Sau đó, ông sang Cairô (thủ đô Ai Cập) học đại học và được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp học sinh Palextin ở Ai Cập. Năm 1956, khi đang là lính công binh của Liên bang Arập, ông đã tham gia cuộc chiến tranh chống đế quốc Anh, Pháp, Ixraen của nhân dân Ai Cập ở cảng Sait. Năm 1958, ông đến Côoét làm công trình sư các công trình công cộng ở đó.
    Sau khi quân đội Ixraen chiếm đóng Palextin, phong trào đấu tranh của nhân dân Arập - Palextin lúc đầu có tính chất tự phát, lẻ tẻ, nhưng từ năm 1964 đã được tập hợp thành một mặt trận dân tộc thống nhất - Tổ chức giải phóng Palextin (PLO). Năm 1969, ông được bầu làm Chủ tịch Ban chấp hành trung ương Tổ chức giải phóng Palextin (PLO) kiêm Tổng tư lệnh lực lượng vũ trang cách mạng Palextin. Năm 1974, ông dẫn đầu đoàn đại biểu Tổ chức giải phóng Palextin (PLO), tham gia cuộc thảo luận về vấn đề Palextin ở Hội nghị lần thứ 20, khóa 9 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Tháng 12-1987, Nhà nước Cộng hòa Palextin được thành lập, Yatxe Araphat được bầu làm Tổng thống.
    Tháng 9-1993, Araphat thay mặt Tổ chức giải phóng Palextin (PLO) đã ký kết hiệp định với Ixraen, hai bên công nhận dải Gada (Gaza) và thành phố Giêricô (Jericho) do PLO quản lý được hưởng quyền tự trị. Sự hòa giải giữa PLO và Ixraen là bước đầu đem lại ổn định cho khu vực Trung Đông.
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  9. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Thơ Chế Lan Viên - chất anh hùng ca và trí tuệ
    Báo nhân dân 5/4/97
    Khó mà thâu tóm Chế Lan Viên trong một vài trang viết.
    16 tuổi viết Điêu tàn làm mọi người "kinh dị" (Hoài Thanh), 40 tuổi viết "Aánh sáng phù sa" cắm một cái mốc lớn trong thơ Việt Nam thế kỷ này, và từ đó đến gần 70 tuổi, luôn luôn trụ vừng là một trong những nhà thơ lớn của đất nước. Lạ nhất là mấy năm sắp mất làm gần 1.000 bài thơ, mở ra một thế giới nội tâm vô cùng đa dạng, nhiều chiều, một thế giới nhân ái, thắm đỏ tình yêu đời nhưng đồng thời trăn trở băn khoăn về lẽ đời, về ý nghĩa đời, về "bản thể" của thơ, của cá thể và của nhân loại. Chế Lan Viên như ngôi sao sa vụt lóe sáng lên lần cuối, và lần này nữa anh lại gây nên một niềm "kinh dị" mới. Anh là người đi tìm, là người sáng tạo không mỏi mệt. Anh là người của thời đại chúng ta, là khát vọng đồng thời anh cũng là nỗi đau, nỗi trăn trở khôn nguôi, anh là lòng yêu đời bất tuyệt, đồng thời anh cũng là người thấm thía cái bi kịch vĩnh cửu của con người khi chính mình trên đường đến hư vô.
    Con người cộng sản, con người cách mạng yêu nước Chế Lan Viên, con người thường, con người thi sĩ Chế Lan Viên đã quyện vào nhau, không chia cắt khiến cho trong thơ Việt Nam có một hiện tượng thơ phong phú đến như thế!
    Nhớ lại những năm chống Mỹ, ta không thể nào quên giọng thơ Chế Lan Viên. Cùng với Tố Hữu, anh là một tiếng nói thuyết phục, hấp dẫn lòng người trong những năm ấy. Anh là một thi sĩ hùng ca. Đó là tiếng kèn trận không tầm thường, không chỉ là hô hào mà nặng bao suy tư, triết lý. Nhiều kẻ ghét tiếng nói ấy, cố tình hạ thấp tiếng nói ấy, cho nó chỉ là "ca ngợi" đơn nghĩa, và Chế Lan Viên chẳng qua chỉ là anh "văn công sư đoàn"... Chế Lan Viên đầy nhiệt huyết và niềm tin, sống với lẽ phải lớn, biết mình phải làm gì khi Tổ quốc chống kẻ thù mạnh. Anh đã huy động sức thơ anh đến cạn kiệt để làm nhiệm vụ. Vào lúc ấy, không chỉ một mình Chế Lan Viên làm thế: "Ơở đất nước ba tuổi đã rời nôi lên ngựa sắt - Tuổi trẻ chơi lau đã chơi trò đánh giặc. Kiếm làm cho con rùa không thể yên thân trong cuộc sống thường... Thơ chỉ sống một phần cho mình còn ba phần cho nhiệm vụ". (Sử Di cảo II).
    Thơ Chế Lan Viên đã làm tròn nhiệm vụ đối với nhân dân, đất nước. Nhưng với thơ, với nghệ thuật vô cùng vô tận, anh biết rằng mình luôn luôn phải khởi đầu. Bởi vì cuộc sống luôn luôn khởi động và khởi đầu, không có kết thúc.
    Ngay cả khi anh nói lời từ biệt cuộc đời, anh vẫn nhìn về mai sau, về cỏ non, về tình yêu, tình bạn."... Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh trong cỏ. Trong hạt sương, trong đá... Trong những gì không phải anh. Anh tồn tại mãi. Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi. Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên" (Di cảo thơ I).
    Nhưng thôi, nói làm gì nhiều đến cái chết, sự lãng quên "Thơ ta đang giữa trận", giữa đời, hãy lo cho đời cái đã. Nhà anh ở cách lò thiêu Bình Hưng Hòa 500m, hằng ngày anh nhìn thấy khói lò thiêu bay trên trời quận Tân Bình. Trên đường "nhẩn nha mà rất gấp" đi đến lò thiêu, anh từng nghĩ: nên sống thế nào: Hiện sinh hay tôn giáo?... Và đã trả lời:
    "Khôn thay là chủ nghĩa Mác
    Không dại húc đầu vào cái siêu hình rất hóc
    Chị Minh Khai thêu áo cho con
    Anh Trần Phú giảng bài chờ máy chém
    Ta đạp lên siêu hình và bớt nghĩ về ta.
    Thế là yên chuyện
    Anh viết cho đời và anh yêu em.
    Trong khi chờ nhát cuốc-à, không.
    Chờ ngọn lửa của lò để đến Vùng Quên".
    Chế Lan Viên lớn ở thơ nhờ lý tưởng đó của mình. Để "siêu hình", để "mô đéc" như bao thi sĩ nhân loại đã làm, anh có ngón nghề, nhưng anh không làm thế, "Thế kỷ 20, Nôn mửa thành cổ điển. Và phá phát vào Hàn Lâm viện. Họ chia ra buồn tiền chiến và say hậu chiến. Biến chén rượu hạt mít và cái ao nhà thành ra biển. Dựng cặp đùi lên thành Khải hoàn môn". (Mô-đéc - Di cảo II).
    Chế Lan Viên ngồi trong xe buýt, xe lam đầy bụi từ Bà Quẹo về Sài Gòn "ra khỏi sức hút của danh vọng, bản thân, tên tuổi..." "nghĩ sâu vào cái đang sống bên ngoài" đổi đời "để" "đổi lời", đổi mới thơ. Và đổi mới thơ, đối với anh, trước hết là bám chặt vào đời, vào thời sự của đời, nỗi lo hôm nay, niềm hy vọng hôm nay của trái đất.
    Và vẫn giọng trữ tình - triết học, pha chút hài hước, anh đã nói lên bao nhiêu suy nghĩ của mình về những năm vừa qua, về nhân tình thế thái, về phân cực, về bất công, về tham nhũng, tham ô, về cơ hội phản thùng, về lãng quên kháng chiến... Dường như tất cả những suy nghĩ của chúng ta hôm nay đều có mặt trong thơ anh, thành thơ anh, rất bình dị mà sâu sắc, cái sâu sắc do nỗi đau sinh thành từ trai đến ngọc, từ đời đến thơ, rớm máu. Trái tim mình. Bất công, tội á... nhưng không có hiệp sĩ nào xách gươm lên ngựa cả, "Đừng ăn cơm nhà, đi làm chuyện vô công". Người ta nghĩ thế. Có lẽ anh trách chúng ta đấy! Anh tự nhận "tội" nhận lỗi về mình". Anh đang nói về người lính: "Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong - Mà tôi xấu hổ. Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay. Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ. Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười" (Ai? Tôi! Di cảo I).
    Thế còn đời anh - đời thực của anh thì sao? Ơờ thì túng thiếu, "nghèo ngặt", ốm đau..., ở thì phải nhặt lá bàng về đun bếp, ờ thì... chẳng sau đâu, anh là thi sĩ, anh đang ở các trời xa, thức cùng sao đêm,... Nhưng mà như anh nói: kẻ thù của anh là thời gian, năm hết thời gian đi nhanh khi nhìn những lá bàng rơi. Thế mà vẫn còn bị những kẻ cơ hội quấy phá. Thời gian trôi nhanh mà phải viết cho hay, cho lạ, cho mới, đi một mình lên biên thùy của các ý tưởng, đến các tình cảm chưa ai đặt chân đến. Thật vô cùng khó khăn.
    Chế Lan Viên là cả một thế giới phức hợp, nhiều chiều, sâu thẳm... nhưng bao giờ anh cũng là người giữa đời, giữa chúng ta, bình dị chiếc áo cũ, thiết tha tình bạn, tình đồng chí, anh em... Kìa, anh đang đưa tiễn tôi ra khỏi Viện tĩnh viên, khỏi cái làng ở cuối đường Bà Quẹo của anh chiều hôm ấy, anh đi xa quá rồi mà vẫn say chuyện, tôi giục anh về và anh đứng lại trông theo... và cái bóng anh những lần ấy còn trong tôi mãi mãi
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  10. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    ARIXTÔT (384 - 322 TCN)
    Arixtôt (Aristote) - nhà triết học và bác học nổi tiếng của Hi Lạp cổ đại.
    Arixtôt sinh ở Xtagia, một thành phố của nước Makêđônia, trên biển Êgiê, con của một vị lương y tại triều vua Philip II xứ Makêđônia. Arixtôt đã sang Aten học Platôn và ở lại bên đó lâu ngày. Nhờ đó, ông đã trở thành nhà bác học am hiểu, tinh thông nhiều ngành khoa học. Ông đã được vua Philip II nuôi làm thầy dạy Alếchxan đại đế.
    Arixtôt đã để lại nhiều tác phẩm về nhiều môn khoa học khác nhau: chính trị học, lôgích học, siêu hình học, tu từ học, thi học, sinh vật học, vật lý học, thiên văn học... Tác phẩm quan trọng nhất về mặt triết học của ông là cuối "Lô gích học", trong đó ông cho rằng con người là một "sinh vật chính trị" chỉ có thể sống một cách đạo đức trong khuôn khổ một đô thị, mà chế độ chính trị của nó là chế độ cộng hòa ôn hòa.
    Học thuyết của Arixtôt đã chi phối khoa học Âu châu trong suốt hơn 1000 năm dưới thời trung đại. Giáo hội Thiên chúa giáo đã biến học thuyết Arixtôt thành một thứ giáo điều, bắt mọi người phải tuyệt đối tuân thủ. Nhưng thực ra, đúng như V.Lênin nhận xét: "Chế độ tăng lữ đã bóp chết cái chất sống trong học thuyết Arixtôt mà chỉ còn giữ lại cái chất chết của nó mà thôi".
    Hello,anh sờ tí sao em không đồng ý!!!! (Lionel Richie)

Chia sẻ trang này