1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung (mỗi ngày 1 nhân vật)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 08/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Công Hoan - Văn và Người
    Báo Nhân dân 14/6/1997
    Nguyễn Công Hoan sinh 6-3-1903 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, tỉnh Hải Dương, mất 6-6-1977 tại Hà Nội. Ông đã sống qua cái mức "cổ lai hy" và đã theo nghiệp văn hơn nửa thế kỷ, vì thế văn và người Nguyễn Công Hoan là một tấm gương cho các thế hệ văn chương Việt Nam. Có thể nói, Nguyễn Công Hoan đã ươm giống, chăm xới để làm ra hoa kết quả một di sản lớn hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài và nhiều tiểu luận văn học có giá trị.
    Những tác phẩm văn học của Nguyễn Công Hoan được Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I - 1996) gồm "Kép Tư Bền" (truyện ngắn, 1935), "Bước đường cùng" (tiểu thuyết, 1938), "Nông dân và địa chủ" (truyện ngắn, 1955), "Tranh tối tranh sáng" (truyện dài, 1956), "Người cặp rằn hầm xay lúa ở ngục Côn Lôn 1930" (1960), "Hỗn canh hỗn cư" (truyện dài, 1961), "Đời viết văn của tôi" (hồi ký, 1971) và "Tuyển tập truyện Nguyễn Công Hoan" (3 tập).
    Xuất thân làm nghề giáo, và qua nhiều lần thay đổi địa bàn làm việc Nguyễn Công Hoan có dịp đi nhiều, chứng kiến nhiều cảnh sống của nhiều tầng lớp xã hội. Cuộc sống thôi thúc ông cầm bút viết về "những điều trông thấy mà đau đớn lòng". Nguyễn Công Hoan bắt đầu văn nghiệp của mình vào những năm hai mươi của thế kỷ này khi ở Việt Nam, văn học được viết bằng quốc ngữ đã khá phổ biến. Mười bảy tuổi, ông đã có truyện in báo và đến năm 19 tuổi (1922) cho in tập "Truyện thế gian" do Tản Đà thư cục xuất bản. Năm 1923, Nguyễn Công Hoan lại tự xuất bản tập truyện ngắn "Kiếp hồng nhan". Nhưng phải đến năm 1935 với tập truyện "Kép Tư Bền", Nguyễn Công Hoan trở thành nhà văn có danh tiếng trên văn đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Năm 1938, Nguyễn Công Hoan cho xuất bản tiểu thuyết "Bước đường cùng" - một tác phẩm góp vào bức tranh chung về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng bên cạnh những trước tác bất hủ của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... Từ sau Cách mạng Tháng Tám, Nguyễn Công Hoan tham gia nhiều công tác văn hóa xã hội ở nhiều cương vị khác nhau và tiếp tục sáng tác. Các tác phẩm "Nông dân và địa chủ", "Tranh tối tranh sáng", "Hỗn canh hỗn cư" của ông tiếp tục phản ánh cuộc sống và con người nông thôn Việt Nam trong những thời điểm lịch sử quan trọng trước và sau Cách mạng. Là một nhà văn lão thành, Nguyễn Công Hoan đã có ý thức đúc rút, tổng kết kinh nghiệm sáng tác của mình để truyền lại cho các thế hệ sau trong sự nghiệp văn. Vì lẽ đó mà "Đời viết văn của tôi" (1971) như là một cẩm nang văn học đối với những "hậu duệ văn học". "Tuyển tập truyện Nguyễn Công Hoan" có thể xem là một bộ sưu tập khá đầy đủ về thành tựu sáng tác của Nguyễn Công Hoan trong hơn 50 năm cầm bút.
    Nói đến Nguyễn Công Hoan trước hết là nói đến một bậc thầy truyện ngắn trong văn học Việt Nam hiện đại. Thế giới truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đa dạng, phong phú như một "bách khoa thư", một "tấn trò đời" mà đặc trưng là xã hội phong kiến nửa thực dân ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ hai mươi. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan có nhiều nét gần với truyện cười dân gian, tiếp thu được truyền thống lạc quan của nhân dân muốn dùng tiếng cười như một "vũ khí của người mạnh" để tống tiễn cái lạc hậu, cái xấu xa vào dĩ vãng. Năm 1935 khi "Kép Tư Bền" xuất hiện đã làm cho phái "nghệ thuật vị nhân sinh" mà Hải Triều là người khởi xướng, có đủ chứng cứ để đấu tranh với phái "nghệ thuật vị nghệ thuật". Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan với đặc điểm của nó đã nâng cao khả năng nhận thức và khám phá các hiện tượng xã hội phức tạp. Chế độ phong kiến nửa thực dân ở Việt Nam trước 1945 đầy dẫy sự lừa bịp và khôi hài thế, nhưng kẻ thống trị luôn luôn tìm mọi cách tạo ra cái vẻ ngoài "nghiêm chỉnh" của nó. Cần phải phanh phui mâu thuẫn nội tại đó để làm lộ rõ sự không khớp giữa bản chất và hiện tượng, giữa nội dung và hình thức, làm bật lên tiếng cười đả kích sâu cay tất cả sự xấu xa của xã hội cũ. "Đào kép mới" và hàng loạt truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước 1945 là chĩa vào các thói xấu của kẻ thống trị và phê phán một cách không thương tiếc. Chúng ta có quyền tự hào về Nguyễn Công Hoan và coi ông là bậc thầy truyện ngắn.
    Nguyễn Công Hoan cũng đã thử sức mình trong truyện dài và gặt hái nhiều thành công. Trong số các tác phẩm viết vào thời kỳ 1936 - 1939 thì "Bước đường cùng" là cuốn tiểu thuyết có tính tư tưởng và nội dung hiện thực sâu sắc. "Bước đường cùng" chính là vấn đề dân cày, vấn đề của cuộc cách mạng dân tộc - dân chủ ở Việt Nam được thể hiện bằng hình tượng nghệ thuật sinh động, là cuốn tiểu thuyết trong đó nhà văn đã xây dựng được những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình theo yêu cầu của chủ nghĩa hiện thực. Tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan có một tiếng vang lớn trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (sau khi xuất bản, sách bị cấm lưu hành và tàng trữ trong toàn Đông Dương). Sau này, ngòi bút Nguyễn Công Hoan còn tiếp tục viết về nông thôn Việt Nam trong thời kỳ biến chuyển cách mạng. Các tác phẩm "Tranh tối tranh sáng", "Hỗn canh hỗn cư" được viết trên cơ sở kinh nghiệm vốn sống dồi dào của ông về xã hội cũ, về nông thôn Việt Nam với một cảm xúc và một ánh sáng tư tưởng mới, cho nên đã tạo ra được sức hấp dẫn.
    Nguyễn Công Hoan là nhà văn có công khai phá, mở đường cho chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam thời kỳ hiện đại. Sau năm 1930, và đặc biệt từ sự xuất hiện của "Kép Tư Bền" đã ghi dấu sự trưởng thành của nhà văn hiện thực phê phán. Nguyễn Công Hoan viết văn cùng thời với Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long... những người theo cách gọi của ông Vũ Ngọc Phan là "các nhà văn đi tiên phong". Đó là thời kỳ mà quan niện "Văn dĩ tải đạo" còn chi phối ảnh hưởng mạnh đến sáng tác. Nguyễn Công Hoan đã đột phá vào những thành trì, khuôn khổ của giáo huấn và tiếp nhận, tuân tho một chủ nghĩa khách quan lịch sử khi miêu tả hiện thực. Giới nghiên cứu văn học khi bàn đến sự hình thành chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam đều nhất trí đánh giá cao vai trò, vị trí của Nguyễn Công Hoan, người có những tác phẩm được coi là "cổ điển" trong nền văn học hiện đại. Từ khi còn là học sinh, nhà văn tương lai Nguyễn Công Hoan đã say mê truyền thống trào phúng của dân tộc. Vì thế không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Công Hoan rất mến yêu Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà, Tú Mỡ và đã có những bài nghiên cứu sắc sảo, thú vị về các tác giả này.
    Nguyễn Công Hoan là người lao động nghệ thuật đích thực, là người sống giản dị, khiêm nhường với tất cả sự chân thành của mình. Ngay khi viết hồi ký "Đời viết văn của tôi", ông tâm sự: "Tuổi tôi tuy cao, nhưng sức chưa yếu, tôi còn làm việc được lâu. Ngay như lần này, tôi viết cuốn này, mà có hôm say mê, tôi cặm cụi tới mười hai, mười ba giờ đồng hồ chưa thấy mỏi". Nguyễn Công Hoan là tấm gương của một người đã trọn vẹn đời mình cống hiến cho sự nghiệp văn học, tấm gương của một người đã miệt mài lao động sáng tạo nghệ thuật hơn nửa thế kỷ. Nói đến Nguyễn Công Hoan là nói đến một nhà văn yêu nước, một ngòi bút chiến đấu vì lẽ phải bằng tiếng cười chính nghĩa và tài năng trong văn chương
    Hello,anh sờ tí sao em không đồng ý!!!! (Lionel Richie)
  2. thosan

    thosan Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    12/06/2003
    Bài viết:
    914
    Đã được thích:
    0
    ASÔCA (292 - 237 TCN)
    Asôca (Asoka) - hoàng đế ấn Độ thuộc vương triều Môria (273 - 237 TCN), một trong những hoàng đế nổi tiếng trong lịch sử ấn Độ cổ đại.
    Asôca đã tiến hành lần đầu tiên trong lịch sử cổ đại ấn Độ, công cuộc thống nhất gần như toàn vẹn bán đảo ấn Độ, (trừ phần cực nam), thiết lập nên một đế quốc rộng lớn, hùng cường.
    Asôca đã cho xây dựng nhiều công trình kiến trúc, đặc biệt là việc xây dựng kinh đô Pataliputơra với nhiều chùa chiền, cung điện, dinh thự trên một quy mô lớn và một trình độ kiến trúc cao. Từ thời Asôca còn để lại đến ngày nay một số cột ghi pháp lệnh của nhà vua bằng đá nguyên khối, đỉnh cột có tạc hình thú vật (sư sử, voi, bò rừng, ngựa).
    Dưới thời Asôca, đạo Phật phát triển mạnh và được coi là quốc giáo. Nhà vua đã gia nhập hội Phật giáo. Dưới sự bảo trợ của Asôca, lần đầu tiên trong lịch sử ấn Độ và lịch sử Phật giáo, một đại hội Phật giáo có tính chất quốc gia đã được triệu tập tại kinh đô Pataliputơra. Nhờ đại hội này, giáo hội Phật giáo đã được củng cố và hoàn thiện với hệ thống tổ chức, giáo lý, lễ nghi và cùng với nó là việc xuất hiện nhiều chùa chiền, nhiều ngôi mộ hình tháp (stupa)... Asôca còn khuyến khích việc truyền bá đạo Phật ra nước ngoài. Một phái đoàn trong đó có em trai và em gái của Asôca tham gia đã được phái sang truyền đạo ở Xrilanca (đảo Xâylan) và trồng cây bồ đề làm lưu niệm ở bên đó.
    Hello,anh sờ tí sao em không đồng ý!!!! (Lionel Richie)
  3. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Đạo diễn Thế Lữ và kịch kháng chiến
    Khi bị Pháp chiếm làm thuộc địa, về phương diện văn hóa, Việt Nam đã lâm vào tình thế bị cưỡng bởi văn hóa Pháp, cũng như trước đó, tình thế này cũng đã từng có khi Việt Nam bị Bắc thuộc một ngàn năm ngay sau giai đoạn văn hóa đỉnh cao đầu tiên: Văn Lang - Âu Lạc. Trong tình thế như vậy về văn hóa, người Việt Nam đã tỏ rõ nội lực của mình trong một động thái hết sức thông minh, linh hoạt: "Việt Nam hóa" những ảnh hưởng của văn hóa ngoại xâm, để biến thành của cải văn hóa của chính mình. Công cuộc này phần nhiều do những người trí thức Việt Nam đã làm được qua các thời đại lịch sử.
    Trong những năm tháng bị thuộc Pháp, bằng cách ấy, những trí thức Tây học, đặc biệt là những văn nghệ sĩ, đã lần lượt biết cách "Việt Nam hóa" những thể loại văn học nghệ thuật phương Tây, để cho ra đời Thơ Mới, văn xuôi mới, và trong đó có một thể loại sân khấu rất quan trọng đang đóng vai trò hàng đầu của sân khấu Việt Nam hiện đại: thể loại kịch (từng được gọi với thuật ngữ ban đầu là "kịch nói" hoặc "thoại kịch").
    Thế Lữ là một người tiền phong đầu thế kỷ XX đã từng đi đầu trong công cuộc "Việt Nam hóa" mấy thể loại cơ bản ấy của văn nghệ Việt Nam hiện đại, trước hết là Thơ Mới, sau đó là tiểu thuyết đường rừng, truyện ngắn, phê bình nghệ thuật báo chí và đặc biệt là thể loại kịch (chủ yếu là chính kịch Pháp: drame). Lại cũng chính ông là người khai phá cho một nghề nghiệp, mà sau này, ta dám chắc rằng, không có nó, thì không thể có sự phát triển chiến lược trên một cơ sở văn hóa tử tế, lành mạnh cho sân khấu Việt Nam hiện đại. Đó chính là nghề đạo diễn. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, Thế Lữ chỉ e dè và thận trọng tự gọi mình là nhà dàn cảnh (bởi ông biết rõ rằng đạo diễn kịch là một nghề phải được học hành bài bản, chính qui ở học đường nghệ thuật, và phải được làm nghề trong môi trường nghệ thuật mang tính chuyên nghiệp. Còn như ông, chỉ là người học lóm, kiểu "a ma tơ" thôi).
    Song le, ông tự đào luyện mình bằng sách vở, tự thành lập ban kịch và lần lượt đứng đầu tổ chức mấy ban kịch nổi tiếng nhất thời đó tại Hà tthành: Ban kịch Tinh Hoa, Ban kịch Thế Lữ và Ban kịch Anh Vũ... Điều đáng kể nhất của Thế Lữ, với tư cách tiền phong trong việc "Việt Nam hóa" kịch Tây là ông đã phấn đấu hết sức cho tính chuyên nghiệp của sân khấu kịch Việt Nam ngay từ buổi sơ khai, và từ đó đặt nền móng vững chắc cho kịch kháng chiến. Và lại đến lượt kịch kháng chiến tiếp tục đặt nền móng vững vàng cho kịch Việt Nam hiện đại.
    Câu hỏi đặt ra là, bằng cách nào những người làm kịch buổi đầu ấy, cùng với người tiền phong Thế Lữ, đã đến với Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để làm kịch kháng chiến? Trong khi trước đó, Thế Lữ chủ trương làm kịch chỉ vì cho kịch mà thôi. Trong một lần trò chuyện thẳng thắn với Song Kim, bạn đời, bạn nghề theo kịch với ông ngay từ đầu, Thế Lữ đã từng quả quyết rằng: Anh là nghệ sĩ, suốt đời anh chỉ sống cho văn chương nghệ thuật mà thôi! Anh không làm chính trị (trang 112, Hồi ký Những chặng đường sân khấu của NSND Song Kim - NXB Sân Khấu, Hà Nội 1995).
    Song, đến khi tình thế lịch sử thay đổi, Nhật đảo chính Pháp đầu 1945, quân Nhật khủng bố gắt gao, mật thám, hiến binh Nhật lùng sụt khắp nơi, đàn áp thẳng tay các đoàn thể, tổ chức xã hội của thanh niên, của người dân Hà Nội - địa bàn hoạt động số một của Ban kịch Anh Vũ của Thế Lữ - thì Thế Lữ ngộ ra rằng, vận mệnh của kịch sẽ gắn chặt với vận mệnh của dân tộc mình. Và không đời nào, kẻ xâm lược lại để yên cho người bị xâm lượt làm nghệ thuật thực sự.
    Một sự kiện cách mạng long trời lở đất xảy ra: Tổng khởi nghĩa 19/8/1945 - Cách mạng Tháng Tám thành công. Đó là một buổi sớm mùa thu mà hai vợ chồng Thế Lữ - Song Kim coi đó là buổi sớm đẹp nhất trong cuộc đời chung của họ. Thế Lữ nói với Song Kim: Tổng khởi nghĩa rồi! Cách mạng thành công rồi! Ta đã cướp lại được chính quyền! Cả đoàn kịch tập trung ở rạp Gô Mông thị xã Thanh Hóa để chào đón cách mạng thành công. Nguyễn Xuân Khoát phổ biến bài Tiến quân ca cho cả đoàn và vở Đời nghệ sĩ được bổ sung cảnh cuối: đoàn nghệ sĩ lang thang đón tin tổng khởi nghĩa thành công, chào lá cờ đỏ sao vàng trong nụ cười và nước mắt. Và một màn hoạt cảnh được soạn gấp, mang tên Những trang oanh liệt kể lại lịch sử chống ngoại xâm với Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh... và kết thúc vào ngày Cách mạng Tháng Tám.
    Cứ thế, trong niềm hân hoan cách mạng, đoàn Anh Vũ quay về Hà Nội giữa năm 1946. Bọn Pháp gây hấn trở lại, Hồ Chủ tịch kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19.12.1946. Bằng tất cả sự chân thành và tình cảm hồn nhiên với Cách mạng Tháng Tám, khi ấy Thế Lữ bảo Song Kim: Chúng ta không trở về Hà Nội nữa. Chúng ta đi kháng chiến! - Nhưng chúng ta sẽ làm gì được cho kháng chiến? - Làm kịch! Phải! Làm kịch kháng chiến!
    Và thế là những nghệ sĩ ấy đã khoác ba-lô, lên chiến khu Việt Bắc, theo cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp suốt 9 năm. Tất cả gia tài sân khấu của họ chỉ vỏn vẹn có tình yêu nghệ thuật và từ tình yêu ấy, họ đã biết đến một tình yêu lớn lao hơn: tình yêu cách mạng, yêu nước, và thấu hiểu rằng: sân khấu kịch hoàn toàn có thể tham gia vào cuộc kháng chiến chống Pháp một cách tích cực đầy hiệu quả.
    (Thanh Niên - 18/8/1999)
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  4. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bạch Cư Dị (772 - 846)
    Bạch Cư Dị - nhà thơ nổi tiếng đời Đường (Trung Quốc). Bạch Cư Dị, tự là Lạc Thiên, xuất thân trong một gia đình địa chủ quan lại, người tỉnh Thiểm Tây. Thuở nhỏ, Bạch Cư Dị đi theo cha làm quan ở tỉnh Giang Nam. Ông có điều kiện đi thăm nhiều nơi danh lam thắng cảnh và tiếp xúc với cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân. Năm 28 tuổi, ông thi đỗ tiến sĩ và hai năm sau được bổ làm quan. Con đường quan chức của ông có nhiều gập ghềnh, khi thăng khi giáng, lúc được vời vào triều, khi bị đẩy về các vùng xa xôi hẻo lánh. Bạch Cư Dị là người thanh liêm, chính trực, có tư tưởng tiến bộ, nhưng sống vào lúc nhà Đường đang bị suy thoái, bộ máy quan liêu thối nát, cho nên tuy là quan lại nhưng ông đã viết những bài thơ vạch trần tội ác của giai cấp thống trị và nói lên nỗi thống khổ của nhân dân. Về hình thức, thơ ca của ông bình dị, lưu loát được nhân dân ưa thích.
    Ông đã để lại cho đời sau gần 3000 bài thơ. Ông còn là nhà lý luận văn học xuất sắc.
    Rút dao chém xuống nước,nước bắn đầy mặt.
  5. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Nhà Việt Nam học Trần Kinh Hòa
    Học giả Chen Ching Ho (Trần Kinh Hòa) sinh năm 1917 tại Đài Loan, qua đời ngày 19/11/1995 tại thành phố Hồ Chí Minh.
    Vào những năm 1942-1945, ông từ Đài Loan tới Hà Nội làm cộng tác viên cho Viện Viễn Đông bác cổ (EFEO). Sau đó, ông tới Tokyo trình luận văn tiến sĩ sử học về Việt Nam. Những năm 1956-1966 ông trở lại Việt Nam dạy ở các đại học Sài Gòn, Huế và Đà Lạt. Đặc biệt tại Huế, ông là một trong những người phụ trách ủy ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam. ủy ban đã nghiên cứu và ấn hành các tác phẩm An Nam chí lược của Lê Tắc (1961), Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (1963), Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập I triều Gia Long (1959) tập II triều Minh Mạng (1960), còn tập III triều Thiệu Trị chưa in xong ... Cũng trong thời gian này, ông đã công bố những thiên khảo luận rất công phu, như: Mấy điều nhật xét về Minh hương xã và các cổ tích tại Hội An đăng trong Việt Nam khảo cổ tập san (Sài Gòn, 1960) và Hà Tiên trấn diệp Trấn Mạc thị gia phả, Thanh Hà Trần thị chính phả (Trần Tiễn Thành), Thành trì chí (Gia Định thành công chí), Xiêm La quốc lục trình tập lục ... đăng trong các tập san chuyên môn. Về lịch sử ngoại thương Việt Nam với người Hoa, ông đã viết: Phố Thanh Hà, Hội An, Trần Thượng Xuyên, Văn bia ở Singapore ... Là học giả uyên bác về các văn bản cổ Việt Nam, ông Chen Ching Ho đã phân tích kỹ lưỡng tác giả và những bản Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam liệt truyện và Châu bản triều Nguyễn....
    Khoảng từ 1966 tới gần đây, ông đi dạy học và nghiên cứu tại các đại học Hồng Kông, Tokyo, Bắc Kinh, Hoa Kỳ (IIIinois). Nhờ biết nhiều nguồn sử liệu, ông đã thực hiện được những công trình ngày càng sâu sắc và có tầm vóc quốc tế. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu của ông vẫn luôn là Việt Nam, dù viết bằng tiếng Hoa, tiếng Nhật, tiếng Anh hay tiếng Pháp. Một trong những thiên khảo cứu cuối đời ông mang tựa đề Những sứ đoàn công cán đi Hạ Châu đầu triều Nguyễn vừa được công bố trên tạp chí Nhật Sõdai Ajia Kenkyũ và dịch ra tiếng Pháp đăng trong tập san Viễn Đông bác cổ (BEFEO 1994: Les Missions Officielles dans les contrées méridionales de la première période des Nguyễn).
    Năm 1995, ông cùng phu nhân trở lại Thành phố Hồ Chí Minh với hy vọng chữa trị bệnh liệt nửa người mà ông mắc phải đã mấy năm nhưng định mệnh đã muốn ông thở hơi thở cuối cùng trên quê hương thứ hai của ông là Việt Nam. Ông ra đi để lại thương tiếc cho gia đình, môn sinh, đồng sự và bạn bè. Đồng thời ông cũng để lại một sự nghiệp Nghiên cứu Việt Nam khá phong phú tới nay chưa kịp lên hết danh mục và đánh giá đúng mức (ông còn lưu lại để chỉnh lý 80.000 tờ phiếu mục lục Châu bản từ Minh Mạng năm thứ 6 đến Tự Đức).
    Công trình của Trần Kinh Hòa đáng được giới sử học Việt Nam trân trọng và tiếp tục nghiên cứu.
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
  6. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    BACUNIN (1814 - 1876)
    Mikhail Aleksanđrovitch Bukunin) - nhà hoạt động cách mạng Nga, lý thuyết gia về chủ nghĩa vô chính phủ.
    Bacunia là sĩ quan pháp binh có nguồn gốc quý tộc; vì có tư tưởng cách mạng, ông đã từ chức và buộc phải lánh ra nước ngoài. Ông tới Pari, thủ đô nước Pháp (1842 - 1847) được gặp và quen biết Các Mác, Pruđông. Năm 1849, ông trở về Nga, bị bắt và đày đi Xibia (1859). Nhưng sau đó, ông trốn thoát (1861) và lánh nạn ở Anh, Thụy Sĩ và hầu khắp các nước châu Âu. Ông đã tham gia hoặc ủng hộ hầu như tất cả các cuộc cách mạng ở châu Âu (khởi nghĩa ở Pari 1848, Praha 1848, Ba Lan 1863, Lyông 1870 và Macxây 1870). Năm 1867, ông tham gia Quốc tế I và đã thành lập một chi bộ của người Italia ở Napôli. Năm 1868, ông thành lập "Đồng minh dân chủ xã hội", một tổ chức cách mạng có tính chất vô chính phủ, chủ trương xóa bỏ giai cấp, đưa mọi của cải vào làm của chung, thủ tiêu Nhà nước và mọi quyền lực. Trong Quốc tế I, Bacunin âm mưu chia rẽ, đối lập với Các Mac, hòng chiếm quyền lãnh đạo. Tại đại hội của Quốc tế I ở La Hay (Hà Lan 1872), ông đã bị trục xuất ra khỏi tổ chức Quốc tế. Tác phẩm thể hiện đầy đủ tư tưởng vô chính phủ của ông là cuốn Nhà nước và vô chính phủ (1873). Tư tưởng của ông đã có ảnh hưởng lớn đến phong trào vô chính phủ, nhất là ở Nga.
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
  7. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Nhà giáo Bùi Sĩ Liêm một nhà nho đáng kính trọng
    ở nước ta ngày xưa có nhiều nhà giáo cũng là nhà nho được nhiều người kính trọng như Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đặng Trần Côn, Vũ Tông Phan, Vũ Thạnh, Bùi Sĩ Tiêm ... Bài này chỉ nói về Bùi Sĩ Tiêm.
    Bùi Sĩ Tiêm (hoặc Bùi Vĩ Tiêm, Bùi Tiêm) là người làng Kinh Lũ (nay thuộc xã Đông Hưng) huyện Đông Quan, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Ông sinh năm 1690, thuở trẻ đi học ở Quốc Tử Giám, Thăng Long nổi tiếng là người học giỏi. Trong các buổi bình văn ở Quốc Tử Giám bao giờ văn ông cũng được xếp hạng ưu vì "lời văn đẹp đẽ phong phú hơn cả một thời" như Phan Huy Chú đã nhận xét. ở kinh sư lúc ấy có câu nói: "Đông Quan Kinh Lũ, đương kim độc bộ" (Người làng Kinh Lũ Quan hiện nay học giỏi có một)
    Năm 18 tuổi ông đỗ thi hương rồi lên học ở kinh đô. Năm 26 tuổi ông thi một lần đỗ ngay đình nguyên, đệ nhị giáp tiến sĩ khoa ất Mùi (1715) đời Lê Dụ Tông và Trịnh Cương. Tính ông rất khảng khái, cứng cỏi. Ông thăng tiến khá nhanh trên đường sĩ hoạn, trong 16 năm đã từ hàm chánh thất phẩm lúc đầu lên đến chánh ngũ phẩm, giữ chức Thái thường tự khanh.
    Năm 1731 Trịnh Giang kêu gọi các quan lớn nhỏ trình bày các kiến nghị cốt yếu, thiết thực với thời cuộc để ông ta chọn lấy những điều cần thiết mà thực hiện. Trịnh Giang ra chỉ dụ vào tháng 5 năm Tân Hợi (1731) thì tháng 6 ông dâng lên tờ khải 10 điều, nội dung đại thể có các vấn đề chính như sau:
    1. Nêu lên sự nghi ngờ của nhân dân về việc Trịnh Cương ép vua Lê Dụ Tông, bắt vua thoái vị để làm thái thượng hoàng, khuyên Trịnh Giang nên nối chí tổ tiên tôn phù vua Lê.
    2. Nói về sự nhũng lạm của quan lại các cấp. Ông mong mỏi Trịnh Giang làm cho: "Cái cửa tà vọng cong queo vĩnh viễn đóng lại, con đường công bằng trong sạch được đi lại thong dong."
    Quan và lại đặt ra quá nhiều: "Dân ít quan nhiều chẳng khỏi nhũng tệ". Vì vậy cần phải: "Liệu việc bổ quan, xem đất mà chia trị", phải giảm viên chức thừa ở các phiên bằng cách sắp xếp công việc giữa các cơ quan nhà nước, phải chia đặt lại địa phương, phải ngăn ngừa việc cầu cạnh, chạy chọt, lạm bổ, thăng chức quá nhanh, tệ ăn chặn tham nhũng của quan và lại các cấp.
    3. Về ruộng đất ông đề nghị: người nào có ruộng tư đủ cày cấp thì không được chia khẩn phần ruộng công, thiếu mới được chia thêm. Nông phu, từ 100 mẫu trở lên là thượng nông phu, từ 100 mẫu trở xuống là thứ nông phu, từ 50 mẫu trở xuống là hạ nông phu. Nhà nước chỉ để cho thượng nông phu 15 mẫu cày cấy, thứ nông phu 10 mẫu, hạ nông phu 5 mẫu, còn thì đem chia cho nông dân cày cấy lấy thóc nộp tô thuế; đề nghị thực hiện trợ canh công điền và tư điền.
    4. Về việc học tập, thi cử ông cho rằng: "Đề thi văn cổ phải kiểm tra học lực nông sâu, văn kim hỏi về thời sự phải xét được mưu trí học trò ... làm cho các bậc túc nho thi có thể dễ đỗ mà bọn "nhãi ranh học vẽ" hết lối đánh lộn sòng, thì người thi đỗ ra làm quan mới có kinh luân hữu dạng, các bậc hiền tài cùng tiến thì thế đạo mới phát huy.
    5. Ông còn đề nghị một số vấn đề khác như nuôi dưỡng và sử dụng hợp lý các loại binh lính, đối xử công bằng hợp lý giữa ưu binh (lính Thanh Nghệ) và nhất binh (lính tứ trấn) không bóc lột công sức, tiền của binh lính, như thường xuyên cử người đi xem xét tình hình dân chúng, cải tổ hệ thống hiến ty, thực hiện đúng hiến chương pháp luật, trừng trị kẻ ác, khuyến khích việc thiện ..v.v...
    Tờ khải 10 điều này thực sự là một đề nghị cải cách khá toàn diện. Chế độ của họ Trịnh, sau hai cuộc chiến tranh với con cháu họ Mạc đã bị lật đổ và với họ Nguyễn ở Đàng Trong, đã được củng cố, tiến bộ, đưa xã hội Đàng Ngoài tiến lên trong các đời Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn và Trịnh Cương, những thiếu sót và tiêu cực của chế độ ấy đã bắt đầu bộc lộ rà Bùi Sĩ Tiêm đã nhìn thấy đã phê phán. Tuy các kiến nghị giải quyết tình hình của ông có chỗ còn chưa phù hợp (như về ruộng đất, thuế má) nhưng cũng có nhiều điểm tốt, nếu được thực hiện sẽ làm cho xã hội được lành mạnh hơn. Song những nhận xét và kiến nghị của ông đụng chạm đến tất cả mọi tầng lớp xã hội từ nhà chúa đến các quan, đến lại và lính, đến các tầng lớp nông phu giàu có. Trịnh Giang lại là một nhà chúa hôn ám, ưa nịnh, kiêu ngạo. Vì thế tờ khải không được ai ủng hộ, còn Trịnh Giang thì tức giận cách hết quan chức và đuổi ông về quê.
    Ông về làng mở thư viện, lập trường dạy học. Sĩ phu kính mộ ông có phong thái, tiết tháo lẫm liệt vì nói thẳng mà bị ghét bỏ, có tinh thần dũng cảm mà bị đối xử bất công đã đến theo học rất đông. Trong các học trò ông nhiều người đã trở thành các viên quan có danh vọng.
    Ông mất dưới thời Trịnh Doanh là một nhà chúa sáng suốt. Hơn nữa những điều ông nói đã ngày càng lộ ra đầy đủ. Trịnh Doanh và triều đình thấy rõ ông là người sáng suốt, trung thực, dám nói thẳng mà bị đối xử bất công, đã truy trả hết chức cũ, tặng hàm tham chính và tước trung tiết hầu, lại cấp ruộng để thờ cúng.
    Ngày nay, những nhận xét và đề nghị của ông, đặc biệt là về quan lại và học tập, thi cử đời xưa cũng khiến chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều.
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
  8. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Bach (1685 - 1750)
    Johann Sebastian Bach - nhạc sĩ và nhà soạn nhạc thiên tài của nước Đức.
    Bach sinh ngày 21-3-1685 ở Aidơnach (Đức) trong một gia đình có truyền thống giỏi âm nhạc. Cha mẹ đều là nhạc công. Năm lên mười tuổi Sebastian đã mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải đến sống nhờ người anh họ Crixtôp, vừa học văn hóa, vừa học nhạc, vừa nhận đánh đàn đại phong cầm (orgue) cho dàn nhạc thánh đường của thành phố Aidơnach. Năm 18 tuổi, Băc bắt đầu sáng tác nhạc. Ông sáng tác mọi thể loại, trừ nhạc kịch. Một thời gian sau, Bach chuyển đến sống ở thành phố Vâyma, nhận làm nhạc trưởng trong dàn nhạc của công tước Vâyma. Về sau, không hài lòng với thái độ đối xử của công tước Vâyma, ông chuyển đến thành phố Laixích, nhận chỉ huy dàn hợp xướng của nhà thờ Xanh Tôma.
    Cuộc sống của Bach, cũng như Beethoven có nhiều nỗi bất hạnh. Về cuối đời, Bach mắc bệnh hiểm nghèo và bị mù hai mắt. Tuy vậy, ông vẫn vượt qua mọi đau khổ, tiếp tục sáng tác. Ông có bốn người con sau này đều trở thành nhạc sĩ nổi tiếng.
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
    Được hoibihay sửa chữa / chuyển vào 08:04 ngày 13/07/2003
  9. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Đình Thi - Nghệ sĩ và Cách mạng
    Báo Nhân dân 13/5/1997
    Trong số những nhà văn được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I, Nguyễn Đình Thi là người trẻ nhất. Ông sinh năm 1924 tại Luông Pha-băng (Lào). Tham gia hoạt động cách mạng từ khi là sinh viên trường luật, năm 1942, ông bắt đầu viết sách báo. Ông là một trong những người đầu tiên tham gia thành lập Hội Văn hóa Cứu quốc (1943). Từ Cách mạng tháng Tám đến nay, ông luôn luôn giữ trọng trách trong ngành văn nghệ. Có thể nói kể từ khi bước vào con đường hoạt động cách mạng, Nguyễn Đình Thi cũng chính thức bắt đầu cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình.
    Dù viết nhạc, viết văn hay làm thơ, viết kịch, viết tiểu luận, phê bình... cảm hứng chủ đạo ở Nguyễn Đình Thi là cảm hứng về đất nước và dân tộc anh hùng, ý thức về dân tộc, về Tổ quốc bao giờ cũng được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng, với Đảng. Người đọc bắt gặp ở ông một thái độ nhìn sâu vào đời sống, tìm về cội nguồn của những đau khổ, sướng vui, cho nên ở ông, luôn có sự đồng cảm với những vất vả lo toan của các tầng lớp lao động. Đó là do những năm tháng rong ruổi trên nhiều nẻo đường kháng chiến, Nguyễn Đình Thi đã quan sát, suy ngẫm, rất có ý thức tìm kiếm phát hiện những nét độc đáo của bản sắc con người và dân tộc Việt Nam.
    Với các ca khúc "Diệt phát xít", viết trước ngày khởi nghĩa và "Người Hà Nội" viết vào những ngày Hà Nội bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Nguyễn Đình Thi quả đã dựng được những tượng đài bất hủ về hào khí dân tộc, về nét đẹp văn hiến và anh hùng của thủ đô ta.
    Nguyễn Đình Thi là tác giả của một số tiểu thuyết sử thi có vai trò quan trọng trong lịch sử văn học cách mạng. Lần đầu tiên, trong "Xung kích", ông đã xây dựng hình tượng Anh bộ đội ***** - người nông dân mặc áo lính của một thời mộc mạc, gian khổ mà hành trang mang vào cuộc chiến đấu chủ yếu là lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù bọn địa chủ và tinh thần sẵn sàng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Hình tượng đó đã được ông trở lại qua các tiểu thuyết "Vào lửa", "Mặt trận trên cao". Vẫn trên những nét đẹp cơ bản của người lính chống thực dân Pháp, anh bộ đội của thời chống đế quốc Mỹ đã có một vẻ đẹp bề thế, vóc dáng hơn, bởi vì đi vào cuộc kháng chiến gian khổ lần này, họ đã có tri thức văn hóa và khoa học kỹ thuật, có trong tay những kinh nghiệm vừa đi qua cuộc kháng chiến chín năm.
    Với bộ tiểu thuyết "Vỡ bờ", ông thể hiện một cách đầy đủ nhất năng lực xây dựng tiểu thuyết, khả năng nắm bắt và tái tạo hiện thực, lịch sử, phát hiện những vẻ đẹp khác nhau về con người và đất nước... Trên nền của một cuộc đấu tranh gian khổ, từ những ngày hoạt động bí mật đến khi "Súng nổ rung trời giận dữ. Người lên như nước vỡ bờ", với một dung lượng hiện thực lớn lao bao gồm nhiều miền quê và nhiều số phận con người, Nguyễn Đình Thi đã thành công trong việc tái hiện một giai đoạn lịch sử, đặc biệt là với việc xây dựng nên hình tượng người cộng sản và những quần chúng đến với cách mạng, đến với lý tưởng cộng sản, làm cuộc đổi đời cho dân tộc. "Vỡ bờ" cũng đã thể hiện rất rõ tấm lòng yêu thương tha thiết của ông đối với vận mệnh và lịch sử dân tộc, với vẻ đẹp của tâm hồn và tính cách con người Việt Nam, của thiên nhiên Việt Nam.
    Viết nhiều về sự anh hùng dũng cảm, nhưng mặt khác, ông không né tránh những mất mát đau thương. Ông cảm thông với những vất vả, nhọc nhằn trong mỗi đời người, người tan tóc, đau thương, lam lũ... do đói nghèo và chiến tranh đưa lại. Nét buồn trong "Không nói", "Người tử sĩ" dường như vẫn man mác cho đến tận "Buổi chiều Vàm Cỏ". Nếu như ở văn xuôi, nhân vật xuất hiện trên cái nền sự kiện và có số phận gắn chặt với sự kiện, trong thơ, mạch trữ tình gắn với tâm trạng một cách cụ thể hơn. Ông cũng có viết những bài thơ dài như "Mẹ con đồng chí Chanh", "Bài thơ Hắc Hải" nhưng những câu thơ của ông về thiên nhiên đất nước, về tình yêu vẫn là những câu thơ có sức lắng. "Phố dài xao xác heo may / Người ra đi đầu không ngoảnh lại / Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy", "Gió thổi mùa thu hương cốm mới", "Cỏ mềm thơm mãi dấu chân em", "Ôi những cánh đồng quê chảy máu / Dây thép gai đâm nát trời chiều", "Anh yêu em như "anh yêu đất nước"... là những câu thơ có sức sống qua thời gian và thật sự đem lại những giá trị thẩm mỹ cho người đọc. Từ "Không nói" đến "Nhớ", rồi "Chia tay trong đêm Hà Nội" tình yêu lứa đôi và tình yêu Tổ quốc đã được ông thể hiện một cách hài hòa. Bởi vậy, tuy cách xa, nhớ thương, tình cảm đó vẫn là "ngôi sao lấp lánh" chỉ đường, là "ngọn lửa hồng" sưởi ấm trái tim người chiến sĩ.
    Những năm tháng gần đây, Nguyễn Đình Thi ít viết truyện nhưng vẫn gắn bó với thơ và viết kịch. Càng ngày thơ ông dường như càng ít đi cái trữ tình thiết tha của thời tuổi trẻ. Nhưng cô đúc hơn, như thể đó là những trải nghiệm. Về kịch, sau "Con nai đen", ông viết "Rừng trúc", "Giấc mơ", "Hoa và Ngần", "Nguyễn Trãi ở Đông Quan", "Tiếng sóng"... Kịch của ông giàu chất thơ, gửi gắm những tình cảm, những suy nghĩ về đạo lý, về thời cuộc... Ông còn là tác giả của những tập phê bình và tiểu luận như "Mấy vấn đề văn học", "Công việc của người viết tiểu thuyết"...
    Nguyễn Đình Thi đi vào con đường hoạt động nghệ thuật cả ở lĩnh vực âm nhạc, thơ, văn xuôi, kịch và tiểu luận phê bình. Ông còn là một diễn giả đầy sức lôi cuốn trong những buổi thuyết trình, nói chuyện về nghề văn. Nói đến cái mạnh của Nguyễn Đình Thi là nói đến cái mạnh của một người vừa có tri thức, có văn hóa, vừa có vốn sống và tài hoa. Ông là khuôn mặt sáng giá trên văn đàn Việt Nam hiện đại
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
  10. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Byron(1788 - 1824)
    Huân tước Byron - nhà thơ lớn của nước Anh.
    Byron sinh tại Luân Đôn thủ đô nước Anh, trong một gia đình quý tộc. Ông khỏe mạnh và đẹp trai, nhưng chân đi hơi thọt. Ông có thái độ khinh thường dư luận, thường hay châm biếm, mỉa mai xã hội thượng lưu với khuôn sáo đạo đức giả của nó. Ông đã dùng văn thơ trào phúng làm vũ khí chống bọn cầm quyền thống trị tàn bạo đàn áp nhân dân và vạch rõ những bất công trong xã hội. Những bài thơ của ông tố giác cái xấu của cuộc đời (bài thơ trường thiên Cuộc du hành của Traidơ Harôn, xuất bản năm 1812); ca ngợi những người anh hùng khởi nghĩa (tập truyện thơ Manphơrết xuất bản năm 1817). Tập truyện thơ Đôn Giuan là một tác phẩm dí dỏm nói về bản thân tác giả, xuất bản năm 1824. Những tác phẩm của ông nổi tiếng ở khắp châu Âu.
    Chán ghét thói đạo đức giả của xã hội Anh, ông đã sang cư trú ở Italia, Thụy Sĩ, rồi Thổ Nhĩ Kỳ, Hi Lạp. Ông đã tham gia vào cuộc chiến đấu vì tự do của nhân dân Hi Lạp, chống quân xâm kược Thổ Nhĩ Kỳ và hi sinh lúc mới 36 tuổi.
    Byron thuộc thế hệ các nhà thơ lãng mạn Anh đã đứng lên chống lại xã hội quý tộc thượng lưu và những bất công xã hội. Những tác phẩm của ông đã có ảnh hưởng đến trào lưu văn học lãng mạn ở châu Âu.
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng

Chia sẻ trang này