1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung (mỗi ngày 1 nhân vật)

Chủ đề trong 'Lịch sử Văn hoá' bởi hoibihay, 08/06/2003.

  1. 0 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 0)
  1. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Hải Triều - Chiến sĩ tiên phong của nền văn học cách mạng
    Hải Triều - Nguyễn Khoa Văn là một trong những chiến sĩ tiên phong của nền văn học mới, nền văn học của thời đại cách mạng giải phóng dân tộc.
    Cống hiến lớn nhất của Hải Triều là trên lĩnh vực lý luận văn học và triết học, qua hai cuộc tranh luận nổi tiếng về "Duy tâm hay duy vật" và "Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh", diễn ra trong gần suốt thập niên ba mươi, một thập niên có ý nghĩa bản lề của cách mạng Việt Nam. Đảng CS Việt Nam thành lập năm 1930 trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Từ đó việc tuyên truyền, giác ngộ về lý luận cũng như tổ chức lực lượng, đều hết sức quan trọng. Hải Triều đã làm trọn nhiệm vụ mà Đảng đã giao phó cho ông.
    Cần phải nói đến cuốn "Chủ nghĩa mác-xít phổ thông" của Hải Triều, xuất bản năm 1938, khi chủ nghĩa mác-xít đang hoành hành ở Tây Ban Nha và cả thế giới đang ở đêm trước của trận bão lửa mà chủ nghĩa phát-xít sẽ làm bùng nổ vào năm 1939. Đó là một hành động dũng cảm. Và quả nhiên đến 1940, chính quyền thực dân đã xem Hải Triều là phần tử nguy hiểm, chúng bắt ông phải đi an trí (một hình thức giam lỏng). Cho đến sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) ông mới được trả tự do. Cuốn "Chủ nghĩa mác-xít phổ thông" của Hải Triều là tài liệu công khai duy nhất trước 1945, một tác phẩm lý luận quan trọng, ra đời kịp thời, chứng tỏ sự nhạy bén và táo bạo trong tư tưởng lý luận của Hải Triều. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Hải Triều đã cho tái bản cuốn sách này với sự bổ sung sâu sắc hơn. Nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành niềm say mê suốt đời của Hải Triều. Trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tuyên bố tự giải tán (chuyển vào hoạt động bí mật). Đảng thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Hải Triều thời kỳ đó làm Chi hội trưởng Chi hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác Liên khu Bốn, phụ trách tờ Tạp chí Tìm hiểu là cơ quan của Chi hội. Nhiều bài báo quan trọng của Hải Triều đã đăng trên tạp chí này. Đặc biệt là việc vận dụng chủ nghĩa Mác vào Việt Nam. Xây dựng một lý luận mác-xít cho cách mạng Việt Nam là vấn đề mà Hải Triều mong ước và thu hút tâm trí của ông. Nếu trước đây, đứng vững trên quan điểm triết học mác-xít, nắm vững phép biện chứng mác-xít, Hải Triều đã giành được thắng lợi trong cuộc tranh luận với Phan Khôi thì, trong kháng chiến chống Pháp, khi tư tưởng mác-xít đã giành được địa vị ưu thắng, Hải Triều lại càng ra sức tìm hiểu và vận dụng chủ nghĩa Mác vào hoàn cảnh cụ thể của Cách mạng Việt Nam. Đó là con đường đúng đắn, con đường cách mạng và khoa học, con đường mà các nhà kinh điển Mác - Lê-nin hằng mong đợi ở các thế hệ cách mạng sau này.
    Cuộc tranh luận nghệ thuật 1935 - 1936 càng khẳng định thắng lợi của quan điểm mác-xít về triết học và nghệ thuật. Những năm ba mươi đã xuất hiện những lực lượng xã hội đầy mâu thuẩn ở Việt Nam. Thời kỳ này chữ quốc ngữ trở nên phổ cập trong đời sống văn hóa xã hội. Một lớp thanh niên trí thức vừa thông thạo tiếng Pháp vừa am hiểu tiếng Việt, vừa chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn học nghệ thuật Pháp (qua chương trình các trường thuộc địa) vừa có ý thức vươn lên khẳng định vị trí xã hội của mình. Họ đã có thể sáng tác thơ văn và lấy thơ văn làm tiếng nói, làm tuyên ngôn của mình. Phía sau đó, các lực lượng chính trị đều có ý thức chiếm lĩnh các địa hạt văn hóa nghệ thuật, xem văn hóa nghệ thuật là nhân tố quan trọng trên con đường chính trị của mình. Chính quyền thực dân và phong kiến muốn duy trì một thứ văn hóa nghệ thuật có tác dụng củng cố quyền lực thống trị, muốn các hoạt động văn hóa nghệ thuật hướng cho công chúng tách rời với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngăn cản đời sống văn hóa Việt Nam với đời sống văn hóa tiến bộ và cách mạng trên thế giới, mà tiêu biểu lúc đó là nền văn hóa Liêng bang Xô-viết. Chính quyền thực duân khuyến khích việc than mây khóc gió, sống và chết vì tình, quên hết sự đời chung quanh mà chui đầu vào tháp ngà nghệ thuật. Hãy quên mình là người nô lệ! Hãy quên dân tộc mình, đồng bào mình đang sống trong lầm than, tăm tối! Chúng tôi ủng hộ, bảo vệ thứ văn chương nghệ thuật bi lụy, lẩn tránh thực tại bất công.
    Những người cộng sản không thể bỏ mặc trận địa cực kỳ quan trọng cho các thế lực ********* hoành hành. Cuộc đấu tranh tất yếu phải xảy ra. Hải Triều lại một lần nữa giành thắng lợi vẻ vang cho quan niệm văn học nghệ thuật tiến bộ và cách mạng.
    Những vấn đề nghệ thuật mà Hải Triều và các đồng chí của ông đặt ra trong cuộc tranh luận nghệ thuật hồi đó, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Thực tiễn đời sống hơn sáu mươi năm qua đã chứng tỏ sự đúng đắn trong quan điểm nghệ thuật của Hải Triều.
    Hải Triều có một phong cách lý luận rất quý. Tư tưởng lý luận triết học hay nghệ thuật được ông diễn đạt một cách dễ hiểu, ngắn gọn, hàm súc. Văn lý luận của Hải Triều không có tính kinh viện nặng nề khô khan. Riêng về tranh luận, có thể nói Hải Triều là một trong những phong cách mẫu mực mà ngày nay chúng ta cần phải tiếp tục phát huy. Lô-gích của Hải Triều sắc sảo, mạnh mẽ, hài hước, dí dỏm hoặc dịu dàng tình cảm, tùy hứng đối tượng tranh luận. Đối với các bậc trưởng thượng, ông rất kính trọng nhưng không nhân nhượng về tư tưởng, học thuật.
    Với các bài viết về các tác phẩm Kép Tư Bền, Lầm than và Thư gửi bạn Từ Ngọc hay bài Ngược đường số Chín, các bài về Goóc-ki, Rô-manh Rô-lăng, Hăng-ri Bác-buýt, về văn học Xô-viết, v.v. Hải Triều tỏ ra là một ngòi bút phê bình văn học sắc sảo, nhanh chóng nhận ra những phẩm chất đáng quan tâm ở các hiện tượng văn học mới xuất hiện, trong một bối cảnh rối ren, phức tạp của đời sống văn học lúc bấy giờ. Hải Triều còn là một nhà bình luận nhạy bén, sắc sảo. Trong tình hình thông tin ít ỏi khó khăn thời ấy mà ông theo dõi rất sát các sự kiện thời sự chính trị quốc tế. Đọc các bài "Ai đốt nghị viện Đức", "Hội nghị kinh tế thế giới", "Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương", "Mười chín năm kiến thiết ở Liên Bang Xô-viết"... ta thấy rõ bút lực cường tráng của Hải Triều trên lĩnh vực bình luận chính trị.
    Di sản văn học của Hải Triều có ý nghĩa quý báu trong tình hình hiện nay. Nền văn học sau chiến tranh có những yêu cầu khác hơn, phải thực hiện những việc mà trước đây trong tình trạng chiến tranh khốc liệt, ta chưa thể làm việc. Nhưng về cơ bản nền văn học cách mạng vẫn tiếp tục con đường cách mạng Việt Nam đã vạch ra từ đầu, từ những trước tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh những năm hai mươi, đến Luận cương Cách mạng năm 1930, đến Đề cương Văn hóa Việt Nam 1943, một con đường văn học mà thực tiễn hai cuộc chiến tranh giải phóng đã tạo dựng nên...
    Như vậy, nền văn học Cách mạng Việt Nam dù ở thời kỳ trước 1945 đến 1975 và sau đó chỉ có thể khác nhau về hoàn cảnh, điều kiện xã hội, về những yêu cầu cụ thể nhưng bản chất không thể thay đổi. Trên quan điểm đó, càng thấy giá trị của Hải Triều trong công cuộc đấu tranh tư tưởng và nghệ thuật nhằm xây dựng một nền văn nghệ dân tộc và hiện đại, hội nhập với nhân loại nhưng vẫn giữ vững bản sắc dân tộc và làm phong phú thêm quan điểm nghệ thuật cách mạng của Đảng ta.
    (Nguyễn Văn Lưu - theo Nhân Dân)
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
  2. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    BANDĂC (1799 - 1850)
    Ônôrê đơ Bandăc (Honoré de Balzac) - nhà văn hiện thực lớn của nước Pháp.
    Bandăc vốn không phải dòng dõi quý tộc, mà xuất thân trong một gia đình bình dân (cha là nông dân, mẹ là con nhà buôn), nhưng vì có cảm hình với tầng lớp quý tộc, nên tự nhận mình là quý tộc (chữ "đờ" để chỉ dòng dõi quý tộc)
    Bandăc sinh ra và lớn lên tại thành phố Tua, miền Tây nước Pháp. Sau khi tốt nghiệp đại học luật khoa (1820), ông làm thông sự ở tòa án. Sau thấy mình có thiên hướng viết văn, ông chuyển sang viết văn. Vì muốn giàu nhanh chóng, ông viết vội vàng để in cho được nhiều cuốn truyện. Nhưng thấy tiền kiếm chẳng được bao nhiêu, ông lại xoay sang nghề xuất bản. Kết quả ông bị phá sản và mắc nợ rất nhiều. Ông trở lại nghề viết văn. Ông làm việc hết sức cần cù, trung bình mỗi ngày từ 14 đến 16 tiếng đồng hồ. Ông viết đi viết lại, sửa chữa nhiều lần những trang bản thảo của mình. Ông cũng dành nhiều công sức nghiên cứu, quan sát cuộc sống và đọc sách tham khảo. Trong hơn 20 năm cặm cụi (kể từ tác phẩm đầu ta ra đời năm 1829), ông đã viết tới 96 cuốn tiểu thuyết và truyện ngắn, tập hợp thành một bộ mang tên là Tấn trò đời.
    Tấn trò đời của Bandăc là một bức tranh miêu tả trung thực sinh động xã hội Pháp ở nửa đầu thế kỷ XIX. Bandăc đã lột trần những thủ đoạn làm giàu của giai cấp tư sản. Đối lập với giai cấp tư sản giàu có, trong các tác phẩm của Bandăc cũng hiện lên hình ảnh đáng thương của những người bình dân chỉ mong muốn một cuộc sống yên ổn mà không được. Những tác phẩm nổi tiếng của ông là: Tấm da sầu não, Ơgiêni Grăngđê, Lão Gôriô, Vỡ Mộng, Trời không có mắt (hay Cậu em họ Pông) v.v...
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
  3. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Nhà văn, nhà viết kịch Học Phi
    Báo Nhân dân 17/6/1997
    Chúng tôi đến thăm và chúc mừng nhà văn lão thành Học Phi vào một buổi chiều đầu tháng 6, trời nắng như đổ lửa. Hàn thử biểu chỉ trên 39oC. Vậy mà, nhìn qua mắt cáo tường vẫn thấy nhà văn đang trần áo cặm cụi ngồi viết trước bàn. Chúng tôi phải bấm chuông đến 3 lần ông mới đứng dậy ra mở cửa. Nhìn ông khó ai có thể đoán ra được ông đã 83 tuổi. Ông vẫn lanh lẹ, hoạt bát, đặc biệt trí nhớ còn rất tốt, tai, mắt vẫn tinh, nhờ sống điều độ và thường xuyên tập thể dục. Đúng như một nhà báo đã viết: "Con người này dường như muốn chống lại quy luật của tạp hóa". Đáp lại câu hỏi của tôi, tại sao trời nắng thế này mà ông không nghỉ, ông cho biết, ông đang chạy nước rút cho cuốn tiểu thuyết viết về kháng chiến ở quê hương ông, chỉ còn mấy chục trang nữa, phải cố gắng hoàn thành trong vụ hè này.
    Nhà văn Học Phi quê ở Hưng Yên, nơi có phố Hiến nổi tiếng, có cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy oanh liệt, do cụ Tán Thuật lãnh đạo, đã làm rugn chuyển cả bộ máy cai trị của thực dân Pháp, khi chúng mới tiến quân ra bắc. Ông đã viết một cuốn tiểu thuyết về cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, lấy tên là "Bà đốc Huệ".
    Học Phi tham gia cách mạng từ rất sớm và bắt đầu viết văn từ 1936, sau khi ở tù đế quốc ra. Tác phẩm đầu tay của ông là tiểu thuyết Hai làn sóng ngược, dựa theo nội dung một vở kịch ngắn cùng tên của đồng chí Nguyễn Văn Năng viết ở trong tù. Cuốn tiểu thuyết này sau đổi tên là Xung đột và tác giả ký là Tú Văn, để đăng từng kỳ trên báo Đời nay, tờ báo công khai của Đảng. Sau Xung đột là hàng loạt truyện ngắn đăng trên báo Tin tức và các báo khác của đoàn thể ở Hà Nội hồi ấy. Trên bước đường sáng tác, buổi đầu, ông được đồng chí Trường - Chinh và đồng chí Trần Huy Liệu tận tình giúp đỡ, dìu dắt. Mỗi kỳ báo ra - báo Đời nay - đồng chí Trường - Chinh đều chăm chú đọc bài của ông và góp ý kiến cho ông từng chi tiết nhỏ. Đồng chí thường nêu gương các nhà văn tiền bối ở trong nước và trên thế giới để ông học tập.
    Cuối 1939, chiến tranh đế quốc lần thứ hai bùng nổ, bọn thống trị trở lại đàn áp cách mạng dữ dội, ông bị an trí về Hưng Yên cùng với một số anh em nữa. Ơở đây, ông vừa tham gia công tác với địa phương, vừa tiếp tục viết. Đã xuất bản được 3 cuốn tiểu thuyết: Đắm tàu, Dòng dõi, Yêu và thù. Cũng trong thời gian này ông được trung ương giao cho nhiệm vụ tham gia xây dựng Đội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam, tiền thân của các Hội Văn học nghệ thuật hiện nay.
    Nhà văn Học Phi cho biết, mãi đến cuối 1944, ông mới viết kịch do yêu cầu của công tác cách mạng. Vở kịch đầu tiên của ông có tên là: "Đào Nương" dựa theo truyện cô đào hát Đào Thị Huệ đã dùng tiếng hát của mình vận động quân Minh ở thời Trần đầu hàng. Vở kịch này được Học Phi viết lại năm 1980 lấy tên là "Người kỹ nữ ở Đông Quan".
    Đầu năm 1945, cũng do yêu cầu của công tác, ông viết vở "Cà sa giết giặc", vì hồi ấy ông thường nương náu ở các chùa. Tác giả viết "Cà sa giết giặc" là để giải quyết tư tưởng cho các sư. Vở kịch được công diễn lần đầu ở Nhà hát lớn Hà Nội vào dịp Quốc khách 2-9-1946, được dư luận chú ý, đa số diễn viên toàn là sư. Bị cái thế giới kỳ ảo của sân khấu hấp dẫn, Học Phi chuyển hẳn sang viết kịch. Song phải mất gần 10 năm, sau một loạt vở ngắn viết để phục vụ các nhiệm vụ chính trị trước mắt trong kháng chiến, ông mới có vở "Chị Hòa" gây được tiếng vang sâu rộng. Tiếp theo đó là các vở "Bên đường dốc", "Một đảng viên", "Lúa mùa thu", "Mở đường", "Mai"... Từ ngày nghỉ công tác hành chính (1976), thực hiện đúng kế hoạch đã đặt ra với mình, ông trở lại viết tiểu thuyết và đã viết được 4 cuốn là Ngọn lửa, Hừng đông, Xuống đường, Bà đốc Huệ và sắp hoàn thành xong cuốn thứ 5 là Cuộc đời về cuối. Nhưng ông vẫn còn nhớ sân khấu, nên ở mỗi cuốn tiểu thuyết ông lại rút ra từ một đến hai vở kịch như Ni cô Đàm Vân, Cô hàng rau là rút ra từ các quyển "Ngọn lửa" và "Hừng đông" vở Hoàng Lan (hay "Bài thơ cái chết của con sói"), Đêm dài là rút ra từ Xuống đường, v.v... Tính ra ông đã viết được gần 30 vở kịch, vừa dài vừa ngắn và 9 cuốn tiểu thuyết. Hầu hết kịch và tiểu thuyết của ông đều nói về lịch sử Đảng, chỉ có một cuốn tiểu thuyết "Bà đốc Huệ" và một vở kịch "Người kỹ nữ thành Đông Quan" là nói về lịch sử dân tộc. Vì thế anh em gọi ông là "tác giả một đề tài" - đề tài về Đảng - Trong cơ chế thị trường, đã có không ít tác giả chạy theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận người xem, người đọc, nhưng ông kiên trì đi theo con đường của mình đã chọn không một chút chao đảo, ngả nghiêng. Cây đại thụ ấy của sân khấu vẫn đứng vững vàng hơn nửa thế kỷ qua
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng
  4. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    BECDặ (1885 - 1935)
    Anban BecdặĂ (Alban Berg) - nhà soỏĂn nhỏĂc nỏằ.i tiỏng ngặỏằi Ăo
    BecdặĂ sinh ỏằY Viên (thỏằĐ 'ô Ăo) trong mỏằTt gia 'ơnh trư thỏằâc giàu có. Tỏằô thỏằi hỏằc sinh, BecdặĂ 'Ê sĂng tĂc mỏằTt sỏằ' ca khúc. Bỏằ' mỏƠt sỏằ>m (1900) cho nên sau khi tỏằ't nghiỏằ?p trung hỏằc, ông phỏÊi 'i làm viên chỏằâc Nhà nặỏằ>c. Nhặng sau 'ặỏằÊc hặỏằYng mỏằTt sỏằ' gia sỏÊn thỏằôa kỏ, ông thôi nghỏằ công chỏằâc và chuyên vào Âm nhỏĂc. Nfm 1915, ông bỏằHỏằu duyên thiên lẵ nfng tặặĂng ngỏằT....Vô duyên 'ỏằ'i diỏằ?n bỏƠt tặặĂng phạng
  5. hoibihay

    hoibihay Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    14/04/2003
    Bài viết:
    430
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Huy Tưởng
    Cuối năm 1996, nhân dịp Nhà nước ta trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho một số nhà văn, trong đó có Nguyễn Huy Tưởng, Nhà xuất bản Văn học đã cho ra mắt bạn đọc toàn bộ di sản văn chương của ông gồm 4.245 trang với đủ các thể loại: thơ, kịch, tiểu luận phê bình, văn xuôi, ghi chép, nhật ký. Nguyễn Huy Tưởng sinh ra vào lúc thực dân Pháp đã củng cố được vị trí thống trị trên đất nước ta. Cũng như những trí thức, nghệ sĩ cùng thế hệ, ông phải chịu cái rủi ro, cái thân phận cơ cực của kẻ nô lệ. Nhưng, thế hệ ông lại có cái may được chứng kiến một giai đoạn lịch sử oanh liệt và hào hùng với các sự kiện long trời lở đất làm thay đổi vận mệnh dân tộc. Đó là sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương với vai trò tổ chức và lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, là Cách mạng Tháng Tám thành công, là cuộc kháng chiến 9 năm trường kỳ và anh dũng kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu", là thời kỳ mới của đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất bắc - nam... Từng ấy sự kiện kết hợp với một tư chất, tài năng và tâm huyết của Nguyễn Huy Tưởng đã phấn đấu một cách gian khổ và chật vật. Những dòng nhật ký ông viết vào những năm từ 1939 đến năm 1942 cho thấy quá trình thai nghén vở kịch Vũ Như Tô và truyện lịch sử Đêm hội Long Trì, tìm cách nói gián tiếp tỏ lòng yêu nước, tỏ thái độ trước giặc ngoại xâm, là giải pháp hữu hiệu nhất để Nguyễn Huy Tưởng đạt được khát vọng sáng tạo của mình. Vượt lên trên cả những câu thúc của miếng cơm, manh áo, ông say sưa với lý tưởng nghệ thuật, lý tưởng nhân sinh mà ông theo đuổi. Yý thức về thiên chức nghệ sĩ, lương tâm nghệ thuật và trách nhiệm công dân đã được gửi gắm, thể hiện tập trung trong vở kịch Vũ Như Tô. Tuy chưa phải là sự thể hiện tách bạch, rõ ràng như có lúc người ta mong muốn, nhưng chính sự đa nghĩa của vở kịch đã làm động não nhiều thế hệ. Ngay từ những sáng tác đầu tiên này, tài năng và nhân cách nghệ sĩ ở Nguyễn Huy Tưởng đã được khẳng định. Với Vũ Như Tô, tuy còn vương vấn bởi những đam mê nghệ thuật, nhưng Nguyễn Huy Tưởng đã bắt đầu nhận thức được sức mạnh của quần chúng. Có lẽ vì vậy mà từ cuối năm 1942, đặc biệt là từ khi có Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) của Đảng ra đời, ông đã gia nhập Hội văn hóa Cứu quốc và tích cực hoạt động truyền đạt Đề cương và những tư tưởng cách mạng của Đảng. Đầu năm 1945, Hội văn hóa Cứu quốc quyết định ra tờ tạp chí Tiên phong, nhà ông ở làng Dục Tú lại trở thành trụ sở đầu tiên của tòa soạn.
    Cách mạng Tháng Tám thành công, thay đổi thân phận của dân tộc. Số tạp chí Tiên phong đang làm dở, nhưng cuộc đời Nguyễn Huy Tưởng cũng như cuộc đời các nhà văn, nghệ sĩ, trí thức theo Đảng đã sang trang hoàn toàn mới. Ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, được bầu vào Quốc hội khóa I, giữ chức Phó thư ký Hội văn hóa Cứu quốc Việt Nam.
    Kháng chiến bùng nổ, ông được giao nhiệm vụ tổ chức Đoàn văn hóa kháng chiến hoạt động ở chiến khu Việt Bắc, tham gia sáng lập Tạp chí Văn nghệ, Nhà xuất bản văn nghệ và được chỉ định vào Tiểu ban Văn nghệ Trung ương của Đảng.
    Tuy bận rộn nhiều với công việc đoàn thể, nhưng tinh thần công dân và cảm hứng nghệ sĩ đã thôi thúc Nguyễn Huy Tưởng viết kịch Bắc Sơn (1946), Những người ở lại (1948), Anh Sơ đầu quân (1950), Ký sự Cao Lạng (1950), v.v.. So với trước, sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng có sự chuyển biến rõ rệt. Tình yêu đất nước được thể hiện rõ ràng hơn, dứt khoát hơn qua thái độ gắn bó với kháng chiến, gắn bó với nhân dân, với dân tộc bằng nhiệt huyết công dân và trách nhiệm nghệ sĩ, Nguyễn Huy Tưởng đã góp phần tái hiện trong tác phẩm của mình hình ảnh những con người mới, những cán bộ, trí thức, nông dân, du kích, bộ đội... lần đầu tiên đi vào văn chương làm thay đổi cả chất lượng của một nền văn học. Trong trường hợp đó, nhà văn như bị những sự kiện và không khí thời đại cuốn đi một cách sôi nổi và cuồng nhiệt, hồn nhiên nhưng đầy trách nhiệm. Sau này, khi kháng chiến kết thúc, nhìn lại một vài sáng tác của mình, Nguyễn Huy Tưởng tự thấy chưa hài lòng. Ông luôn luôn muốn hoàn thiện lại các sáng tác mà theo ông là hơi vội vàng.
    Hòa bình lập lại, trong tình hình mới của đất nước, Nguyễn Huy Tưởng một mặt vẫn gắn bó với đời sống tư tưởng, đời sống văn học, đời sống lao động kiến tạo đất nước để rèn luyện mình, nhưng mặt khác, từ trong chiều sâu tư tưởng, ông vẫn không mấy khi được thảnh thơi, lúc nào cũng nghiền ngẫm, chiêm nghiệm. Có lẽ, sự kiện 19-12-1946 mà ông chứng kiến có ý nghĩa thôi thúc, nhắc nhở ông nhiều nhất. Mặc dù trong kháng chiến ông đã viết Những người ở lại, song đến cuối những năm năm mươi, ông lại tiếp tục khai thác sự kiện này ở một độ lùi thích hợp để khái quát, đánh giá theo một bình diện mới, một chiều sâu thẩm mỹ mới. Bằng Sống mãi với Thủ đô và kịch bản phim Lũy hoa, tuy công việc chưa hoàn tất, nhưng Nguyễn Huy Tưởng đã thêm một lần thể hiện tấm lòng của ông với kháng chiến, với những chiến sĩ cảm tử quân, những người Hà Nội "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" trong những ngày chiến đấu bảo vệ Thủ đô, bảo vệ thành quả của nước cộng hòa non trẻ. Qua nhật ký, ông tỏ ra chưa hài lòng với tác phẩm Bốn năm sau, một tác phẩm có thể xem là kết quả trực tiếp của chuyến đi thực tế dài ngày ở Điện Biên. Nhưng bù lại, hình như ông đã đạt được sự nhẹ nhõm, thanh thản nào đó ở bộ tiểu thuyết Sống mãi với Thủ đô, dù mới chỉ hoàn tất được tập I. Giá như cuộc đời ông không dừng lại ở tuổi 49 thì chắc hẳn hôm nay chúng ta còn được đọc nhiều hơn, được chứng kiến nhiều hơn tài năng, tâm huyết và tất cả những gì đã được bộc lộ ngay từ vở kịch Vũ Như Tô - thành công có ý nghĩa mở đầu cho văn nghiệp Nguyễn Huy Tưởng...
    Báo Nhân dân 17/4/1997
    Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ....Vô duyên đối diện bất tương phùng

Chia sẻ trang này