1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung tác giả văn học (Mới: Nhà thơ Paul Éluard )

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 28/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Phùng Nguyễn phỏng vấn với Tạp chí Văn Nghệ Ngàn Phương

    VNNP: Mến chào anh Phùng Nguyễn. Tại sao tập truyện thứ hai của anh lại là ''Đêm Oakland và Những Truyện Khác'' mà không là ''Đêm Bakersfield'', nơi anh đang cư ngụ, hay một thành phố nào khác vậy anh ?
    PN: Chào Tường Vi. Chỗ bạn bè sao lại nỡ bắt đầu câu chuyện bằng một câu hỏi có tính ... phá phách như vậy? :-) Bakersfield vào mùa Hè rất nóng và rất khô, ngay cả vào ban đêm. Mang tên thành phố nay vào tựa của tập truyện e rằng sẽ làm người đọc ... khát nước. Thực ra, cái tựa chung đến từ ''Đêm Oakland. Câu Hỏi,'' một trong vài truyện hiếm hoi trong tập truyện mà tôi mong độc giả chú ý.
    2.
    VNNP: Từ tập truyện ngắn đầu tiên của anh là ''Tháp Ký Ức'' doVăn xuất bản năm 1998 cho đến ''Đêm Oakland và Những Truyện Khác'' vừa xuất bản năm nay 2001, khoảng cách là 3 năm. Theo anh, khoảng thời gian 3 năm để có thêm một tác phẩm như vậy là quá dài, hay quá ngắn, hay vừa đủ cho một nhà văn ?
    PN: Một, hai, hay ba năm có thể là quá ngắn hay quá dài, tùy theo khả năng làm việc của người viết. Trong trường hợp tôi thì hơi ngắn. Nếu Tường Vi để ý, ''Dựng Truyện'' hoàn tất vào tháng Sáu, 2000, và từ đó cho đến lúc tập truyện được in ra, tôi đã không có thêm truyện nào khác.
    3.
    VNNP: Vi đọc ''Đêm Oakland và Những Truyện Khác'' thấy phảng phất có anh trong nhiều câu chuyện lắm. Một nhà văn, một cựu chiến binh, một cuộc tình từ chatroom, v.v. NhưngVi vẫn xin anh tự giới thiệu với độc giả VNNP.
    PN: Một cuộc tình từ chatroom? Chatroom là cái gì vậy? :-)
    Tôi sinh ra ở một ngôi làng nhỏ thuộc tỉnh Quảng Nam. Thiên cư vào Sài Gòn lúc còn nhỏ. Lớn lên cũng đi lính như hầu hết những người cùng trang lứa. Đến Mỹ vào giữa những năm 80. Bắt đầu viết cuối năm 94. Đã từng có một thời gian sinh hoạt gần gũi với tạp chí điện tử Văn Học Nghệ Thuật Liên Mạng và đặc biệt diễn đàn Ô Thước, nơi tôi có cái hân hạnh được quen biết một số bạn bè trong đó có Tường Vi. Các tạp chí khác đã cộng tác: Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Việt, Thế Kỷ 21, Phố Văn.
    4.
    VNNP: Nguyên nhân nào khiến anh bắt đầu viết văn từ năm 1994, và anh có cho là anh đã chọn lựa đúng khi bắt đầu gia nhập vào thế giới văn chương không anh ?
    PN: Tôi thực không biết chuyện viết lách của mình có phải là một chọn lựa đúng hay không. Trong một truyện ngắn đăng trên tạp chí Việt, tôi cho nhân vật chính trong đó nói như thế này: ''Ở vào một thời điểm không lấy gì làm vui vẻ trong đời sống của mình, tôi cho rằng mình cần phải làm một điều gì đó, bất cứ điều gì, bên cạnh chuyện sinh nhai nhàm chán mà tôi vẫn phải làm hàng ngày. Tôi chọn viết lách thay vì đầu tư vào thị trường chứng khoán, đánh cá ngựa, chơi ma túy, hoặc la cà hàng đêm ở những quán rượu có nhảy cỡi truồng, những điều mà hậu quả chưa hẳn sẽ tệ hại hơn hậu quả có thể xảy ra cho điều mà tôi đã chọn lựa.'' Có lẽ quá trình chọn lựa của tôi cũng gần gũi với lời ''trần tình'' của nhân vật này.
    5.
    VNNP: Anh là một trong những người Vi quen rất khuyến khích mọi người, nhất là giới trẻ, cầm viết; anh thích có những khuôn mặt mới xuất hiện trên Văn. Xin anh lại một lần nữa khuyến khích các độc giả VNNP cầm viết bước tới văn chương (nghĩa là nêu ra những lý do vì sao mình nên viết).
    PN: Tường Vi và tôi đã có một thời gian dài sinh hoạt với nhau trong nhóm VHNT Liên Mạng tất không lạ gì cái tật hay ... xúi dại của tôi. Thực ra tôi chỉ mong được đóng góp phần nào trong việc phổ biến rộng rãi hơn những tác phẩm của các cây viết có triển vọng trên liên mạng bằng cách giới thiệu chúng (tác phẩm) đến các tạp chí văn học định kỳ của người Việt hải ngoại. Tôi không biết chắc ''khuyến khích'' có phải là một từ thích hợp hay không. Tôi nghĩ rằng điều kiện đầu tiên cho một người cầm bút là phải thích/muốn chia sẻ cảm xúc/tư tưởng của mình với một hay nhiều người khác. Khi đã muốn đủ thì sẽ có nhu cầu diễn đạt những cảm xúc/tư tưởng này dưới một dạng thích hợp nào đó, văn, thơ, nhạc, họa. Nếu có thể nói một điều gì đó để khuyến khích các bạn trẻ, tôi xin mượn lời của nhà thơ Ba Lan Wislawa Szymborska khi được hỏi một câu tương tự: ''... Trong một giai đoạn nhất định nào đó của đời sống, khi bắt đầu lìa xa tuổi ấu thơ, người ta bước vào cái thế giới của bất trắc và của trách nhiệm cá nhân, và không làm sao tránh được. Thử làm thơ [viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc] xem sao! Có thể sẽ là những bài thơ chẳng ra gì. Hoặc có thể nhà thơ sẽ thành công.''
    6.
    VNNP: Trở lại ''Đêm Oakland...'', có đôi câu chuyện (''Bước Hồi Sinh'' và ''Khách Quen''), anh đặt nhân vật chính là nữ, so với 13 truyện có nhân vật chính là nam. Tại sao lại có sự thay đổi này, và khi làm một người nữ trong câu chuyện, anh có thấy thoải mái để diễn tả tâm tư, tình cảm mình dù là tréo ngoe như vậy không ?
    PN: Tại sao ư? Tại vì thế giới này không chỉ có mỗi đàn ông! Đây là một điều vô cùng may mắn. Tôi chưa bao giờ thoải mái khi phải ... đoán mò về tâm tư tình cảm của phụ nữ. Tuy nhiên tôi đã có những cố gắng đặt mình vào vị trí của nhân vật khi viết những truyện kể trên. Nếu tôi thất bại trong việc diễn tả tính cách của nhân vật, đó chính là vì sức người có hạn. Mong Tường Vi và các nữ độc giả rộng lượng chỉ giáo.
    7.
    VNNP: Quá khứ có nhiều điều muốn nói. Có phải vì vậy mà hình ảnh và cuộc đời của Phùng Nguyễn phảng phất rất nhiều trong từng câu chuyện của anh ?
    PN: Có khi nào Tường Vi nghĩ rằng vì mối quan hệ bẵng hữu giữa chúng ta đã khiến cách nhìn của Tường Vi về tương quan giữa tôi và truyện của tôi có khác hơn của một người đọc hoàn toàn không biết gì về tác giả hay không? Thường thường những gì mà Tường Vi ''thấy phảng phất'' hình ảnh của tôi trong đó là những điều được mang vào truyện như là ''điểm quy chiếu'' hơn là một nỗ lực tự khai báo. Quá khứ đối với tôi là một tài sản không còn sinh sôi nảy nở trừ phi chúng được sử dụng như là một món đầu tư cho tương lai. Tôi sử dụng ''quá khứ'' trong tinh thần đó.
    8.
    VNNP: Vi biết là anh rất bận rộn. Công việc làm đòi hỏi anh nhiều thời gian, có khi phải đi đó đây cho training, v.v. Ngoài ra còn có bạn bè văn nghệ, gia đình. Anh dành thời gian nào cho việc viết lách thưa anh ?
    PN: Những lúc không có ai bên cạnh. Cũng may (!) là những lúc như thế không hiếm hoi lắm.
    9.
    VNNP: Văn của anh rất mượt mà. Khi viết, điều gì dễ gây cho anh nhiều cảm hứng nhất ? Có cần phải có một ''nàng văn'' cho các nhà văn không ? (giống như để làm thơ phải có nàng thơ vậy )
    PN: Cảm xúc, nhất định phải là như vậy. Thường thì truyện bắt đầu với một cảm xúc kéo đến bởi một sự kiện nào đó. Sau đó thì dĩ nhiên là phải quan sát, suy nghĩ về sự kiện. Và rất nhiều tưởng tượng.
    ''Nàng văn'' ư? Cần lắm chứ. Tất cả mỗi chúng ta đều cần một nàng hay một chàng. Nếu không có thì hãy tưởng tượng ra một nàng văn thực kiều diễm. Tôi vẫn làm như thế!
    10.
    VNNP: Trong tất cả các nhân vật mà anh dựng nên trong tập truyện, nhân vật nào gần với anh nhất, và nhân vật nào được anh ưa thích nhất ?
    PN: Nhân vật đứa bé trong ''Đêm Oakland. Câu Hỏi.'' Có một phần của tôi trong chú nhỏ này.
    11.
    VNNP: Thỉnh thoảng có thấy anh làm thơ. Thì vẫn biết là anh thích viết văn hơn làm thơ, nhưng khi nào thì anh có hứng làm thơ ? Nó có liên hệ đến một ''chuyện tình không đọan kết'' nào không anh ? :-))
    PN: Tôi chỉ làm thơ khi đầu óc không được bình thường. Những lúc khác (nghĩa là bình thường) thì lại không có can đảm để làm thơ (bởi vì sẽ không chịu đựng nổi ''tác phẩm'' của mình). Đáng tiếc là mọi chuyện tình đều có đoạn kết. Bất kể người ta có làm thơ hay không.
    12.
    VNNP: Xin cám ơn anh đã bỏ thời gian nói chuyện với độc giả VNNP. Mến chúc anh sáng tác thật nhiều để có tập truyện thứ ba sau một thời gian ngắn hơn, như là 1 hay 2 năm nữa chẳng hạn.
    PN: Xin cám ơn Tuờng Vi đã cho tôi cơ hội chia sẻ với bạn đọc của VNNP.
    Liên lạc nhà văn Phùng Nguyễn:
    Email: ndp@bak.rr.com or ndp@vinet.com

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 20:08 ngày 24/08/2003
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Tính tự truyện của Phùng Nguyễn

    Nguyễn Vy Khanh
    Có những nhà văn mở đầu sự nghiệp với những tác phẩm mang tính tự thuật, lấy đời sống và kinh nghiệm bản thân làm chất liệu, rồi với thời gian tính chất này sẽ loãng dần, như Nguyên Hồng, Tô Hoài, Duyên Anh, Thanh Tâm Tuyền,.. . Phùng Nguyễn khởi nghiệp văn chương khi tuổi đã trung niên và theo thiển ý, tự truyện đã và vẫn là cái nền chính của những gì ông viết. Từ Tháp Ký-Ức đến Đêm Oakland Và Những Truyện Khác (1), tính tự sự ở Phùng Nguyễn có lúc công khai, lộ liễu, có lúc tiềm ẩn; ít ra ông cho người đọc cảm tưởng đó! Ông đưa người đọc hành hương với ông trở lại nơi đất cũ, nhà cũ, thời niên thiếu của ông, một tháp ký-ức giữa những tàn tích của quá khứ, ngay trên bãi đất hiện tại ! Những bước chân hoài niệm và chiêm nghiệm qua văn chương ! Riêng tập sau, tính tự sự không còn cao như tháp nhưng vẫn dày dặc ở bề sâu, ở tính cách.
    Với Phùng Nguyễn, quá khứ như đối tượng của một đặt lại vấn đề cho hôm nay hay ngày mai. Tự truyện là văn bản bám vào hiện thực; người viết truyện kể lại như sống lại quá khứ qua tâm tưởng và ký ức, cảm tính hay ý thức. Tự truyện tức kể lể chuyện cũ, chuyện đã xảy ra hay từng mơ mộng mong xảy ra, ''đợi khuya tàn bắt sống một chiêm bao'' - như với cô gái tóc thắt bím trong Phía Bên Kia Đường. Dù gì thì đó là của một con người có hữu thể, thực tính, đã sống thật, có khi trọng tâm chỉ ở cuộc sống cá nhân người đó, cuộc đời hoặc nhân cách con người đó.
    Trong Đêm Oakland Và Những Truyện Khác, người đọc thường gặp những ''tro tàn'', '' tro than của quá khứ'', ''quá khứ buồn tủi'', ... Ở truyện Đêm Oakland. Câu Hỏi, những thằng Kình, thím Tám, chị Sáu, chị Hạnh,... đi vào thế-giới Phùng Nguyễn như những ám ảnh, và vì là ám ảnh nên họ ở lại nơi chữ nghĩa của Phùng Nguyễn. Dù nhân vật ''tôi'' đã qua đêm và con đường bỏ lại phía sau nhưng câu hỏi hãy còn đó! Những người bạn trẻ vẫn bị ám ảnh đã không thể quay lưng lại với ''cái quá khứ buồn thảm mà bọn người lớn chúng tôi cứ giữ rịt lấy như một bộ phận bất khả phân của phần đời còn lại'' (tr. 27). Quá khứ với những cuộc sống thôn dã không trầm lặng vì lòng người bạo động. Hạnh trở nên trò chơi định mệnh của hai phe đối đầu qua Hồ Luyện phe quốc gia và qua Kình của phe ''giải phóng''.
    Phùng Nguyễn thích kể chuyện tình và những tái ngộ với những khuôn mặt của thời trước. Cháy Lên Những Ngọn Đồi Cỏ Khô kể chuyện một thương binh thời chinh chiến, nay ở một cuộc đời mới nơi xứ người, nhận chân ra tình yêu là cái đã mất và không ai trách nhiệm gì về tình cảm của người khác. Qua Thái, một nhân vật phụ, ''tác giả'' đã có cái nhìn xuyên qua không gian hiện tại để trở về một nơi chốn quá khứ, khiến nhân vật xưng ''tôi'' hiểu được thế nào là tình yêu và thế nào là hạnh phúc !
    Tình yêu qua ngã ''chatroom đìu hiu'' (tr. 74) là dịp để tự sự lên ngôị Những đối phó, mưu chước và những lời lẽ, cung cách chiều chuộng lấy lòng và cả phân tích tâm lý. Ngay đến khi chạm mặt, vẫn là những đắn đo tính toán hơn thiệt về tình cảm. Tương quan qua lời hơn là hành cử đối xử (Quan Hệ) !
    Cũng vì chiến-tranh mà những người thân thiết có lúc phải chiến tuyến đối nghịch, như Tấn và Thuận trong Chim Gáy Sau Vườn. Nơi chim gáy cũng là chốn chớm nở của tình yêu trái ngang của Xuyến, cũng là nơi bạn thành thù phải giết nhau, và oan trái thay người chết lại là người con gáị Cũng nơi đó, Thuận, người sống sót cuối cùng trong ba nhân vật, ''nhận ra'' khung cảnh hạnh phúc dù trong thực tế chỉ là một giấc mơ, và cuối cùng ông chết khi đất nước thống nhất đang hồ hỡi ''đổi mới''!
    Tự truyện cả khi đứng ở vị trí của nhân vật khác, như cô chủ quán cà phê trong Khách Quen. Hay nói chuyện về một nhân vật thứ ba, người khác (không phải người khác đối diện), như trong Chuyện Thằng Bạn, nói chuyện Long nhưng vẫn tham chiếu so sánh với cái Tôi, một bên gái theo bất cứ ở đâu, một bên chấp nhận thua thiệt thất bại, chỉ mong luôn được uống cà phê với bạn để dễ dõi theo những ''hạnh phúc'' của bạn. Cái Tôi ở đây định hình trong tương quan với tha nhân và thế-giới ở ngoài, thế-giới trở thành nơi phản chiếu cái Tôi !
    Phùng Nguyễn hay dùng thể độc thoại, kể lể như tự kể. Ở nhiều truyện chen lẫn những độc thoại nội tâm - một diễn văn không người nghe hay không cần, không phải có, cho người đọc cảm tưởng tâm tình tư duy đến lộn xộn. Ngay khi đối thoại với người đọc, đưa người đọc vào trong truyện, khi kể một chuyện tình của những con người viết văn vốn ''cô đơn'' (Tỏ Tình Với Bình Minh).
    Tập truyện là sản phẩm về một cái Tôi khác cái Tôi vẫn phơi bày theo thói quen trong xã hội, cả trong những thói hư hay khuyết tật. Cái Tôi khác này là cái Tôi văn chương, cái còn lại sau khi đã được văn chương gạt bỏ những bình thường của thường ngày. Mỗi truyện là một bản, một mảnh của tác phẩm của người viết. Thế-giới trội bật của Phùng Nguyễn qua tập truyện là thế-giới nhà văn, rõ trong Văn Sĩ Ngại Ngần, Tỏ Tình Với Bình Minh, Dựng Truyện, Chuyện Thằng Bạn,... Phùng Nguyễn - qua nhân vật, có lúc hoài nghi hoài niệm và tính tự sự, khi dùng quá khứ làm chất liệu viết thành truyện đăng báo và được người đọc ưa thích (tr. 161). Vai trò của người viết ở thể loại tự sự quan trọng vì vừa là nhân vật, nội dung, vừa là người sáng tạo. Và người viết sẽ dễ chứng tỏ thành thật khi kể chuyện thời đã qua như những tiếp nối của hiện tại, như cộng những hiện tại đó lại ! Bài toán có khi kết quả ngược lại !
    Là mảng, con người phân thân, liên hệ với bốn người phụ nữ tên Châu, hay bốn người mà như một mờ ảo thực hư (Chuyện Tình Kể Lại). Ở đây, con người sống trong ảo vọng quá khứ, sống tâm bệnh hay thân xác trật nhịp khi kỷ niệm không đủ làm ''chạy máy'' cái Tôi ! Sống trong thế-giới của tưởng tượng, cứ tưởng thật là thật. Ảo tưởng cô gái Phía Bên Kia Đường với hai đuôi tóc vung vẫy, tưởng có đó nhưng chưa có đó, chưa mà Tôi đã cất giấu trong ''một ngăn kéo trân trọng nào đó của ký ức'' nhưng hóa ra không dễ vì ''nàng cứ chồm ra vào những lúc bất ngờ nhất'', vì lẽ ''Cô chưa hề biến mất bởi vì cô chưa từng hiện hữu. Cô chỉ nằm trong óc tưởng tượng của tôi khi tôi đi dọc theo quãng đường đã định sẵn cho chuyến đi bộ mỗi buổi sáng'' (tr. 132). Nhìn thấy chuyện sắp xảy ra bằng ảo tưởng và hoài niệm quá khứ, mơ có thành như thực cũng là nỗi hy vọng đừng trở lại thành ảo tưởng! Rõ Phùng Nguyễn rất giàu lan man, dự phóng, nhất là khi lùi lại thời gian. Và đầy nhịp điệu của tình cảm và cả lý luận!
    Người đọc Phùng Nguyễn ngay từ những hàng đầu dễ có cảm giác đã như ở trong tâm tư suy nghĩ hoặc ý thức sâu thẳm của ông, và chính những diễn tiến tâm tư này qua hình thức truyện, tiểu thuyết, cho người đọc biết hành động của nhân vật và những gì xảy rạ Về một phần của tôi mà tôi không thể chối bỏ. Độc giả đọc tiểu thuyết về một người lại như khám phá ra những ảo tưởng từ một người - ở đây là Phùng Nguyễn!
    Đêm Oakland Và Những Truyện Khác chủ đề chính là cái Tôi của Phùng Nguyễn, nhân vật cũng thường là Tôi. Người đọc truyện ông làm công việc phân tích tác giả như là tác phẩm, mới là tác phẩm. Có thể nói tất cả chi tiết, hình ảnh,... của truyện vốn là tự truyện nhưng đã được kỹ thuật văn chương dựng lại như ''tiểu thuyết'', và vì là tiểu thuyết nên cần đến những yếu tố bên ngoài nhân vật đã được tác giả xào nấu theo ý mình.
    Trong Bóng Phượng, Tôi đắm mình trong quá khứ của một thời quá vãng, một thời chiến-tranh. ''Có lắm khi tro tàn sẽ bị gió cuốn đi. Và cùng với chúng là cánh phượng hoàng sẽ ngàn năm bằn bặt. Còn lại là mảng hồi ức không trọn vẹn, những hình tượng sứt mẻ, cùng với những điều bất toàn khác đã làm nên một di sản kỳ dị mà đứa bé được thừa hưởng. Và sẽ không quên'' (tr. 142). Ở những hình ảnh phượng tím, ''những cánh hoa tím trên cây phượng Mỹ'' (tr. 133), hoặc thiên nhiên hoa lá, ''tàng lá xanh của cây gạo đầu làng nơi anh đã ngã xuống trong màu hoa đỏ vào một ngày chói chang nắng Hạ'' (tr. 138). Nhắc đến hoa tím phượng Mỹ tức có ý tham chiếu hoa phượng đỏ xa xôi của một chân trời khác! Cái Tôi chậm rãi sống, chậm rãi nên dễ sống lại dĩ vãng và sống lâu hơn, với nhiều chi tiết, như một Tôi chạy bộ qua những nẻo đường quen mỗi ngày trong chương trình phục hồi sức khỏe (Phía Bên Kia Đường).
    Ở Cựu Chiến Binh, Nhà Thơ, cái Tôi nhập vào vai người lính Mỹ, với những tâm tình và vấn đề Mỹ, ''Tôi'' tự truyện và người kia. Ở đây Tôi trở nên hình thức triệt để của ''vô danh'', nói triệt để nhưng không hẳn vì lý lẽ vẫn là của một con người Việt Nam vùng tác giả sinh trưởng! Không hiểu lối khai thác văn chương này có thành công không, chỉ sợ đưa đến bế tắc khi phải ẩn trốn không chỉ dưới hành vi của nhân vật mà cả đổi biệt hiệu như Roman Gary phải bí mật ký Emile Ajar để viết La vie devant soi, núp sau nhân vật Momo trong một xã hội đa văn hóa tràn ngập bởi dân Bắc Phi.
    Truyện cuối Dựng Truyện là một thích thú bất ngờ, hai thế-giới ''thực'' và ''tiểu thuyết'' trộn lẫn, trộn lẫn ở cả thể loại vừa tự sự vừa kịch bản. ''Tôi'' và ''người đàn bà '' tình cờ (mà đã được dàn cảnh) gặp nhau khi đi cùng chuyến máy bay đến thành phố nghỉ mát Fort Lauderdale ở Florida, từ điểm ''tình cờ'' mở đầu đó họ trở thành nhân vật cho một truyện mở đầu bằng ''nhà xoay lưng...'' để rồi truyện dựng lại với một kết cục là những nhân vật đã có liên hệ với nhau từ trước và tình yêu ''phân tâm'' ... thắng thế! Truyện đầu Văn Sĩ Ngại Ngần lại là một thử nghiệm liền hơi dù ngắn vẫn ''đến'' được với người đọc, chúng tôi tin thế!

    Lovetolive[/size=18]
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Tính tự truyện của Phùng Nguyễn

    Nguyễn Vy Khanh
    2.
    Dòng tự sự của Phùng Nguyễn không thể không đụng đến hội nhập. Sự chia xa, mất mát, đổ vỡ ... che giấu một ước muốn sống, làm lại, rồi đến ước muốn sáng tạo, một kiếm tìm ý nghĩa mới. Một trong những phương tiện là qua văn chương. Kinh nghiệm lưu thân của mỗi người viết là cá biệt, có thể vô nghĩa, nhưng sẽ hóa thân khi trở nên thường trực, khi cá thể trở thành phổ quát. Bản ngả lùi một bước, hai bước sẽ rơi vào khoảng không và Tôi hội nhập vì tự nhiên, sinh tồn, hoặc vì không còn lựa chọn khác. ''Khoảng không'' trở thành một sức mạnh sống còn, một sức sống yêu đời. Con người sống xa quê hương có thể không ngày về, sống lưu đày, thường sống cái trống rỗng hụt hẫng thường trực đó. Đưa đến hai tính hiện thực và trống không của văn chương lưu đày. Hội nhập xây trên phủ định văn hóa, gia đình, đạo đức. Phải phá không gian và thời gian để sống cái hôm nay. Tâm tình lưu xứ ở Phùng Nguyễn dù vậy chưa hẳn đã bị hội nhập lấn át. Quê hương, chốn tình yêu, nơi kinh nghiệm sống đầu đời,.. trở thành không gian tâm tưởng, không gian con chữ! Kinh nghiệm qua phân không gian-thời gian này là một kinh nghiệm về cái bất khả thi trong thực tại nhưng khả thi trong văn chương. Lưu đày là sự hủy phá một không gian, có thể tâm thức, và áp đặt nó vào không gian mới có. Một trốn chạy ở giữa hai thực thể không gian cũng như thời gian. Cố gắng ký ức như Phùng Nguyễn với hai tập truyện là hậu quả của những khuynh hướng không tưởng làm nên văn chương lưu đày, ở ngoài ! Hoàn cảnh có thể khiến thành dòng, xuôi chảy !
    Truyện Đêm Oakland. Câu Hỏi dùng cái nền nếp sống ở xứ người, với những Đức, Thiện và ... ''tôi'' dĩ nhiên! Tra vấn về hội nhập ở những mảng tuổi đời khác nhau, ở những nỗi trôi của tiếng nói và khả năng phát biểu tiếng mẹ đẻ: ''Bất kể những khác biệt lớn về tuổi thơ và kinh nghiệm chiến-tranh, tôi cho rằng Đức và tôi cùng thuộc về nhóm những kẻ đứng chông chênh trên hai mảnh ván trôi ngược chiều nhau, cố giữ thăng bằng để không rơi vào cái vực đen ngòm của hoang mang bên dưới. Thực ra, cái mảnh ván cứ kéo giật tôi về quá khứ có nhiều cơ hội thành công hơn. Có những điều nằm ở đó sẽ đeo đuổi tôi cho đến hết đời. Trong nhiều năm, tôi cứ đi giật lùi nhiều hơn là đi tới. (...) Mãi về sau này khi nỗi ngạc nhiên qua đi, tôi cho rằng nếp nghĩ của mình có thể đã xuất phát từ nỗi sợ của người bị giật mất đi chiếc phao cuối cùng của lòng tự hào. Khi người ta không có nhiều thứ để bám vào, khả năng sử dụng nhuần nhuyễn tiếng mẹ đẻ trong một môi trường không thuận lợi có thể chứng minh được nhiều điều, kể cả việc biểu hiện một cách kín đáo, và trong cùng một lúc mong muốn người khác nhận ra, thẩm quyền về và lòng trung thành với chính cái quá khứ buồn tủi của mình...'' (tr. 14-15). Từ đó dùng quá khứ như cắt nghĩa, như làm nền cho đời sống hôm nay, ở xứ người, lưu thân trong hội nhập !
    Toàn tập truyện có thể xem như là cuộc sống ở Mỹ, cuộc sống hội nhập, không gian Mỹ, nhưng cái nền vẫn là một Việt Nam quê hương, một Việt Nam tuổi thơ rồi tuổi trẻ, một Việt Nam học đường rồi tình yêu. Những mảng quá khứ đó đã là hoài niệm, kỷ niệm,.. quanh quẩn, chợt hiện về đó rồi đi đó. Những cái Tôi hay một cái Tôi biến thiên, lớn dậy, ... có tuổi! Những cánh đồng tuổi thơ không bình yên vì chiến-tranh, những cánh đồng mót khoai chỉ còn là những dây rễ ăn vẫn ngọt lịm. Sống nơi dư thừa vật chất nhưng lòng con người xa xứ vẫn có những niềm vui lạ lẫm như Chung thích đi lượm tỏi và bắt hến xào ăn với bánh tráng nơi hồ xa xôi đường đi cheo leo bờ vực hiểm nghèo để rồi phải chuốc lấy tai nạn chết người. Những con hến mà hành trình đã khởi từ một quá khứ quê nghèo ở miền Trung nước Việt (Bắt Hến Ở Hồ Isabella). Sống cái ''đương thời'' của quá khứ ở một không gian khác là sống ở đáy sâu thời gian nhưng vẫn làm cho con tim đập và máu chạy đều !
    Đang nhìn lại thể loại tự sự trong văn chương Việt Nam thì nhận được tập truyện Phùng Nguyễn mới xuất bản, đó là lý do chúng tôi cụ thể hóa một số suy nghĩ về thể loại này nhân đọc Đêm Oakland Và Những Truyện Khác. Với Phùng Nguyễn, cái Tôi luôn ở đó hơn là không ở đó. Cái Tôi biến thiên từ ngập ngừng đến ''làm chủ tình hình'' trên trang viết và ở cấu trúc câu chuyện - tiêu biểu trong Dựng Truyện. Từ cảm nhận, chiêm nghiệm cái Tôi mới đi đến thực hiện cái Tôi trong văn chương, Phùng Nguyễn hãy còn ở giai đoạn tìm kiếm, dù đã có những thử nghiệm văn chương đáng kể như ở Văn Sĩ Ngại Ngần, Dựng Truyện,... Trong bài này chúng tôi dùng tập truyện của Phùng Nguyễn để bàn về thể loại tự truyện chứ không hề có ý rằng sáng tác của Phùng Nguyễn toàn là tự truyện.
    Phùng Nguyễn dĩ nhiên không tự sự trí thức như Roland Barthes, Jean-Paul Sartre từng trãi lên trang giấy và cũng không tự sự chính trị như biết bao hồi ký ở hải ngoại, ông cống hiến cho người đọc những tự sự tình cảm sống động, có khi êm đềm như những giòng lưu bút, có lúc sôi xục như những cuộc tình sôi nổi nhiêu khê ! Simone de Beauvoir có lần vào cuối đời đã tâm sự với Annie Ernaux : ''Mục đích chính của đời tôi có thể chỉ là để thân xác tôi, cảm xúc và tư duy tôi trở thành văn chương, có nghĩa là cái gì đó tri thức được và một cách tổng quát, sự hiện hữu của tôi tan biến trong tâm trí và sự sống người khác'' (2).
    Nếu phải phân biệt hai loại tự sự tiểu thuyết và tự sự hồi ký, thì Đại Học Máu của Hà Thúc Sinh, Câu Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Đình Tấn và cả Những Ngày Thơ Ầu của Nguyên Hồng đều thuộc tự sự hồi ký, viết là để kể cái gì; còn Đêm Oakland Và Những Truyện Khác của Phùng Nguyễn có thể xếp vào loại tự sự tiểu thuyết, xử dụng cái Tôi cho mục đích tiểu thuyết. Tiểu thuyết hóa cái Tôi, tiểu thuyết đời sống và con người tác giả; nghĩa là vay mượn dù chỉ phần nào. Tác giả chủ động trong vai người kể chuyện và là nhân vật chính - xưng ''tôi'' hoặc ngôi thứ ba hoặc cách khác - thể loại này Serge Doubrovsky là người tiền phong với tác phẩm Fils (1977) ghi ở trang bìa trước ''roman'' mà ở trang bìa sau lại ghi ''autofiction'' với cắt nghĩa ''Autobiographie? Non... Fiction d''évènements et de faits strictement réels; si l''on veut, autofiction'' (3). Doubrovsky còn là một nhà lý luận và phê bình văn chương nổi tiếng, phải chăng khi ông thử nghiệm thể loại sáng tác này (4), ông như muốn chính thức hóa khuynh hướng tự truyện (autobiographie) từng là mốt tiểu thuyết ở Ấu Mỹ với Jean-Paul Sartre, Claude Simon, Simone de Beauvoir, Marguerite Duras, Philippe Solelrs, ... Dĩ nhiên, hồi ký (memoirs/mémoires) và ''chuyện đời tôi'' (life story) không phải là những thể loại thuần văn chương ! Ngoài ra, thể loại tiểu thuyết tự truyện vốn là một phản ứng lại khuynh hướng cấu trúc. Ở đây, nhân vật và cuộc đời hắn như được viết lại !
    Nguyễn Vy Khanh
    14-7-2001
    Chú:
    (1) Tháp Ký-Ức (1998) và Đêm Oakland Và Những Truyện Khác (2001) đều do nhà Văn xuất bản ở California. Các nhà xuất bản Việt Nam ở hải ngoại thường thiếu sót ghi tên thành phố nơi xuất bản, gây khó cho vấn đề lên thư tịch. Thí dụ NXB Văn xuất bản hai tập truyện của Phùng Nguyễn ở hai thành phố Westminster và San Jose (?) tuy cùng tiểu bang nhưng cách nhau nhiều trăm dặm đường.
    (2) L''événement. Paris: Gallimard, 2000.
    (3) ''Tiểu sử ư? Không ... Tiểu thuyết biến cố và sự việc hoàn toàn có thật; nếu muốn, hãy gọi là tự sự tiểu thuyết''.
    (4) Sau thêm Un amour de soi (1982) và Le livre brisé (1989). Ông là người đầu tiên dùng từ autofiction, sau còn được các nhà lý thuyết văn học gọi là roman autobiographique
    Lovetolive[/size=18]
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 04:24 ngày 04/11/2003
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Bác nhaque có thể vào địa chỉ http://members.aol.com/canhen/xsach.htm để xem toàn bộ chùm Chân dung các nhà văn của Xuân Sách
    Love to live
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Trần Thùy Mai lặng lẽ với văn chương
    Hơn 10 năm, kể từ truyện ngắn ''Một chút màu xanh'', ''Huyền thoại về chim phượng''..., cây bút nữ Trần Thùy Mai đã đi được một chặng đường dài. 5 tập truyện ngắn, 1 giải thưởng Hội Nhà văn VN 2002 và gần đây là ''Biển đời người'', ''Thập tự hoa''... chứng tỏ bút lực dồi dào. Dưới đây là tâm sự của nhà văn.
    - Nhiều người bảo chị là nhà văn của đề tài tình yêu. Tình yêu trong những truyện ngắn của chị là huyền thoại. Chị nghĩ sao?
    - Mỗi người viết có một cái gu riêng. Tôi chỉ viết về những gì mình nghĩ, mình thích, những gì gắn bó thật sự với mình. Khi viết về tình yêu, tôi không có ý định khai thác nó như một đề tài ăn khách và dễ viết. Tôi cũng không muốn thể hiện tình yêu như một cõi viễn mộng để trốn tránh cuộc đời mà muốn thể hiện nó như một động lực của sự sống, biểu hiện tối ưu của tính nhân văn. Mà tính nhân văn luôn là cốt lõi của văn học.
    - Tại sao trong nhiều truyện của chị nhân vật xưng "tôi" thường là nam giới?
    - Tôi là con thứ hai trong gia đình. Lúc sinh tôi, mẹ chỉ mong ước đó là con trai. Vì vậy, khi nhỏ, tôi ăn mặc giả trai và được đối xử như với con trai. Có lẽ vì vậy mà trong tính cách vẫn còn một chút ký ức của nam tính rơi rớt lại...
    - Những lúc cảm thấy thật buồn và cô quạnh, chị thường làm gì?
    - Cứ mặc kệ cho nó buồn. Không gượng ép, không gắng gỏi chống lại. Nhiều khi cảm thấy nỗi buồn cũng như một cơn đau đầu, đau hết mức thì sẽ qua. Khi còn nhỏ, tôi nghiền đọc truyện của A. Dumas và thường nhớ câu nói của ông "chỉ có cái chết là không chữa được". Nhớ lại 15 năm trước, các nhà thơ Nga còn đòi "quyền được buồn" thì sẽ thấy được thể hiện nỗi buồn cũng là hạnh phúc.
    - Vậy, triết lý sống của chị là gì?
    - Nếu chịu khó để hiểu con người thì sẽ không thể buồn lâu, giận lâu một ai. Vì không đòi hỏi nên mình cũng ít đau khổ hơn.
    - Một ngày của chị bắt đầu như thế nào?
    - Dậy vào buổi sáng. Uống cà phê một mình. Sau đó đến cơ quan. Gần trưa về nhà. Đi chợ. Nấu ăn. Ăn cơm trưa cùng với một con chó tên là Gấu và hai con mèo. Chiều lại về cơ quan hoặc đi đâu đó, lại uống cà phê ở một quán quen thuộc. Đêm xuống. Lại về nhà ăn cơm. Dọn dẹp nhà cửa. Ngồi vào bàn viết một cái gì đó và đợi ngày hôm sau. Cứ thế...
    - Có lúc nào chị cảm thấy buồn nản đến mức muốn bỏ bút?
    - Tôi không thích cách nói "viết không phải là nghề mà là nghiệp". Với tôi, viết là một nghề. Nó giống như mọi nghề khác ở chỗ phải có kỹ năng và lương tâm. Chẳng hạn, người thợ mộc đóng một cái ghế thì không phải chỉ cần tay nghề mà còn phải có tấm lòng, làm sao cho ghế được bền đẹp, không làm cho người dùng thất vọng. Viết văn cũng vậy. Đã đành là sống bằng nhuận bút nhưng cũng phải gắng công làm ra thành phẩm của mình với tất cả tâm tư. Vì thế, trong cuộc đời tôi đã có nhiều lúc buồn nản nhưng chưa bao giờ thấy chán viết, chưa bao giờ muốn bỏ bút.
    - Gần đây, nhiều truyện ngắn hay của chị đã lọt vào mắt xanh các nhà làm phim. Những truyện ngắn sẽ thành phim ấy đã được chuyển thể đến đâu rồi?
    - Truyện ngắn Trăng nơi đáy giếng do Vũ Bích Thuỷ viết kịch bản, Vinh Sơn đạo diễn đã được duyệt. Phim sẽ khởi quay vào cuối năm nay tại Huế. Kịch bản phim Thương nhớ Hoàng Lan của Phạm Hoàng Hải đã viết xong, đang chờ duyệt. Còn Gió thiên đường thì tôi đang viết lại kịch bản lần thứ hai. Chỉ mong rằng nó không "đổ" như đã viết lần đầu.
    Love to live
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Ðoàn Cầm Thi
    Thu Trần Dần

    "Ainsi sous chaque Mot de la poésie moderne gît une sorte de géologie existentielle, où se rassemble le contenu total du Nom, et non plus son contenu électif dans la prose et dans la poésie classique."

    "Như thế, dưới mỗi Chữ trong thơ hiện đại tồn tại một vỉa địa chất sinh tồn mang tất cả các nội dung của Từ, chứ không chỉ một nội dung có tính chọn lọc như trong văn thơ cổ điển".
    Roland Barthes - Le degré zéro de l''''''''écriture
    Thu là mùa của thi sĩ. Dường như điều này đã trở thành qui luật. Mở bất cứ tuyển tập thơ nào, người ta bắt gặp rất nhiều Thu. Thu ngân nga, thu thả lá vàng, thu đượm hương cốm trong thơ Việt.
    Phải chăng Trần Dần, thi sĩ của cách tân, có thoát khỏi qui luật đó?
    Tôi mở Mùa sạch [1], và thấy "Lịch thu".

    I
    Tay thu cấy thu
    Hạt thu ngâm thu
    Ngoại thành thu gieo thu
    Gió thu vi vu thu
    Vải thu đầm đập chiều thu

    II
    Mưa thu phay phay thu
    Nhà máy xay thu xay thu
    Xổ số thu quay thu
    Mậu dịch thu bày thu
    Đèn thu hấp hay thu
    Khăn san thu bay thu
    Nốt giày thu hày hạy nội thành thu

    III
    Cành thu chiết thu
    Công viên thu rét đầu thu
    Gái thu ríu rít thu
    Lụa thu tinh khiết thu
    Phòng cưới thu xì xẹt nhạc thu
    Đàn thu da diết phím thu
    Phong bì thu trinh tuyết tem thu
    ...

    Phải nói ngay rằng "Lịch thu" không nằm trong Phần I - Mùa sạch, mà trong Phần II - Lịch Việt Nam. Nhưng ngay từ đầu, cách Trần Dần đặt tên cho các bài thơ trong Mùa sạch: "Hành trình trong", "Sau mưa", "Đỉnh sạch", "Lịch hài nhi", "Lịch xuân", "Lịch họ hàng",... cho thấy rằng ông không có ý định đóng khung MÙA và LỊCH vào một nghĩa cụ thể.
    *
    Nguyễn Du tả thu: "Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô". Trăm năm sau, "Đây mùa thu tới" của Xuân Diệu ra đời và được liệt ngay vào hàng kiệt tác:

    Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
    Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
    Đây mùa thu tới - mùa thu tới
    Với áo mơ phai dệt lá vàng

    Từ nửa thế kỷ nay, "Tiếng thu" Lưu Trọng Lư ngân nga trong lòng người Việt:

    Em không nghe mùa thu
    Dưới trăng mờ thổn thức
    Em không nghe rạo rực
    Hình ảnh kẻ chinh phu
    Trong lòng người cô phụ

    Với Nguyễn Đình Thi, THU là nỗi xao xác buồn của buổi giã từ Hà Nội:

    Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
    Những phố dài xao xác hơi may
    Người ra đi đầu không ngoảnh lại
    Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

    Trong những bài thơ trên, mọi yếu tố được sử dụng nhằm một mục đích duy nhất: lấy cảnh thu bên ngoài để diễn tả thế giới bên trong sâu thẳm của tâm hồn con người, ở đây là tâm hồn thi sĩ. Một tư tưởng nhất quán chạy dọc các tác phẩm: phản ánh mối tương hợp, vẻ hài hoà giữa thi nhân và vũ trụ, theo qui luật "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Ở đây, ý bao giờ cũng có trước. Chữ chỉ để phục vụ ý, là phương tiện để chuyển tải thông điệp của nhà thơ. Việc chọn chữ này bỏ chữ kia thực ra cũng chỉ nhằm tăng tính hiệu quả của công việc chuyển tải đó. "Từ cuộc sống mà toát ra ý, thì ý ấy đầu thai thành cảm xúc, tình cảm, ý ấy nên trở thành tứ": Xuân Diệu viết như vậy trong Công việc làm thơ [2]. Cho nên, cái cách tân mà Thơ Mới kêu gọi, chỉ là trong cách diễn đạt: quan niệm về thơ của phong trào này không có gì Mới.
    Nguyễn Đình Thi, trong cuộc thử nghiệm táo bạo ở Việt Bắc, tìm cách giải phóng thơ khỏi sự cầm tù của vần điệu. Nhưng ông vẫn cho rằng thơ phải chứa "tình cảm" và "tư tưởng", thông qua "hình ảnh": "Hình ảnh của thơ không phải những hình ảnh mà cái ống kính ghi được. Đứng bên ngoài mà chụp ảnh lại sự vật thì trông mà không thấy. ''''''''Trong nghệ thuật, một phong cách là một tâm trạng''''''''. Những hình ảnh của thơ đã bao hàm một nhận thức, một thái độ tình cảm hoặc suy nghĩ. Câu thơ nói cảnh mà kỳ thực nói ý tình. ''''''''Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa'''''''', Mắt trông mà lòng đã nặng buồn nhớ, khát khao biển rộng" [3]. Thơ Nguyễn Đình Thi, trong mọi cách, vẫn là thơ "kể chuyện":

    Dừng chân trong mưa bay
    ướt đầm mái tóc
    Em em nhìn đi đâu
    Môi em đôi mắt
    Còn ôm đây
    Nhìn em nữa
    Phút giây
    Chiều mờ gió hút
    Em
    Bóng nhỏ
    Đường lầy
    ("Không nói ")

    Có lẽ chính vì quá lo âu về "nghĩa" mà văn học đã phát triển chậm hơn các hình thức nghệ thuật khác? Trước một bức tranh trừu tượng, ít người đặt câu hỏi về "nội dung", "tình cảm", "tư tưởng", đơn giản vì hội hoạ hiện đại đã vượt ra khỏi những vấn đề này, lên đường tìm kiếm những cuộc phiêu lưu mới.
    Tính trừu tượng đó, Trần Dần muốn đem lại cho thơ. Ông đảo ngược hoàn toàn khái niệm về thơ, về chữ. Mùa sạch không có các yếu tố cảm xúc, tâm lý. Mùa sạch không "kể chuyện", không có "nội dung", không mang "ý nghĩa chủ đạo", không hàm chứa "tính tư tưởng". Bằng chứng là nó không thể diễn nôm được và khó học thuộc lòng. Các chi tiết của nó không liên quan đến nhau, không giải thích cho nhau một cách logique, hợp lý. Nhà thơ từ chối làm "văn vần". Vì vậy, mọi phân tích tâm lý và cú pháp nhằm "hiểu", "giải nghĩa", "giải mã" thơ Trần Dần, sẽ dẫn đến thất bại. Trong những bài thơ đầu của Mùa sạch, ''''''''tôi'''''''' xuất hiện nhiều lần. Ở "Hành trình trong", ta bắt gặp ''''''''Tôi trong''''''''. Trong "Sau mưa", ta có ''''''''Tôi đi sành sạch''''''''. "Đỉnh sạch" cho ta ''''''''Tôi trèo đỉnh sạch''''''''. Với "Ao ta", "Trên quả đất mùa", "Sáng chiêm sáng sáng", "Thích toàn mùa", ''''''''tôi'''''''' được phát triển hơn, nhưng nó không bao giờ là cái "tôi" tiềm ẩn, mang nặng ước mơ và hồi ức của chủ thể nhà thơ. Nó cũng vượt ra ngoài qui luật lấy vật để nói người, lấy ngoại cảnh tả nội tâm, lấy cái cụ thể để diễn đạt cái trừu tượng. Ngay cả khi "tôi" đi cùng với THíCH, thì rõ ràng nhà thơ cũng không có ý định khai thác nó trên phạm trù tâm lý:

    Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa
    Miền miền sầm uất thị thành mùa
    Bộ hành như dáo mác tủa mùa
    Tàu mùa tấp nập còi mùa
    Trong mát mặt trời mùa
    Ngực mùa len lụa phố mùi mùa
    ("Trên quả đất mùa")

    Tôi thích mùa sen gồm cả sen mùa
    Gồm cả cánh tem mùa
    Gồm cả lạt nem mùa
    Gồm cả cốc kem mùa
    Gồm cả cột đèn mùa
    ("Thích toàn mùa")

    "Lịch thu" không phản ánh một tâm trạng, một nỗi niềm. Nó không bộc lộ những suy nghĩ của nhà thơ về "sự đời", về những "xung đột" của cuộc sống. "Lịch thu" không có cái tôi trữ tình, cái tôi-thi-sĩ, càng thiếu cái người ta thường gọi là "điểm nhìn thẩm mỹ" hay "thi hứng sáng tạo". Thế giới của Trần Dần hướng tới phi nhân cách: nó không hiện lên qua trực quan của thi sĩ như trong thơ viết theo lối "truyền thống". Vì vậy thơ Trần Dần thoát được chất "truyền cảm", "hình tượng", "biểu cảm". Nó tự vứt bỏ khả năng làm chẩy nước mắt và không có ý định tìm kiếm sự "đồng cảm" của người đọc. Nó cũng từ chối một "chức năng cao cả" của văn chương: giải thích và cải tạo thế giới. Vâng, thơ Trần Dần không phải là "thơ quảng trường" - theo chính chữ của ông. Phải chăng vì thế mà thơ ông không ngân nga, không du dương, rất khó thuộc?

    IV
    Ruộng thu dọn cỏ thu
    **** thu nở thu
    Nụ thu nhú thu
    Phân thu ủ thu
    Đọt thu tụ sữa thu
    Cốm hồng thu dạm ngõ thu

    V
    Sen thu bành bạch đầm thu
    Nước thu thành thạch ao thu
    Mây thu sành sạch én thu
    Thuyền thu lành lạnh ngòi thu
    Giếng thu sành sạch gàu thu

    VI
    Xà lan thu vượt tải than thu
    Phố cúc thu mài mại trưa thu
    Thóc thu tài tãi sân thu
    Nhà ươm thu mày mạy nữ kỹ sư thu
    Tối thu thổi lổi sao thu
    Thị thành thu thổi lổi đèn thu
    ....

    "Lịch thu" trước hết là một ngày hội của chữ. THU có mặt hai lần trong mỗi câu thơ, chính xác, đều đặn. Đứng sau một từ, THU có tác dụng rửa chữ, trả nó về trạng thái tinh khôi ban đầu. Tay, cấy, hạt, ngâm, ngoại thành, gieo, gió, vải, mưa, nhà máy... xuất hiện trong thơ Trần Dần mộc mạc nhưng mạnh mẽ, tiềm tàng. Chữ của Trần Dần không bị giới hạn trong một nghĩa. Nếu MÙA của Xuân Diệu (trong "Đây mùa thu tới") và Lưu Trọng Lư (trong "Em không nghe mùa thu") chỉ được hiểu trong một nghĩa duy nhất: "phần thời gian trong năm, chia theo đặc điểm thiên văn, khí hậu", MÙA trong "mùa sạch" của Trần Dần mang một trường ngữ nghĩa vô hạn, lung linh. Nó có tất cả các nghĩa của chữ MÙA trong từ điển: 1. Phần thời gian trong năm, chia theo đặc điểm thiên văn, khí hậu (ví dụ: mùa thu, mùa đông....). 2. Phần thời gian trong năm, thích hợp cho trồng trọt canh tác (ví dụ: mùa cải bắp, tranh trái mùa). 3. Thời gian tiến hành những hoạt động thường kỳ (ví dụ: mùa thi, mùa bơi lội). 4. Thuộc loại lúa, hoa màu trồng từ giữa mùa hè, thu hoạch đầu mùa đông (ví dụ: khoai mùa, lúa mùa), vv...
    Mặt khác, Trần Dần ghép các chữ với THU, bất chấp mọi qui tắc thông thường về ngữ nghĩa và cú pháp, tạo ra những từ, những khái niệm hoàn toàn mới: "tay thu", "đèn thu", "hạt thu", "nữ kỹ sư thu", "thể thao thu",... "Đầm đập", "hày hạy", "hấp hay", "xì xẹt", "mài mại", "thổi lổi", "mày mạy", là những từ chỉ có trong kho-chữ-Trần-Dần. Đặc điểm của những từ này là không có định nghĩa chính xác. Chúng gợi, mở. Chúng vừa vô nghĩa vừa đa nghĩa, vừa cụ thể vừa khó nắm bắt, vừa có những hố đen vừa chan hoà ánh sáng. Nhưng đó chính là cái Trần Dần tìm kiếm.
    Hai chữ "Ao thu" của Nguyễn Khuyến, trong"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo / Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo...", có nghĩa xác định - mùa thu tại một làng Bắc bộ -, nhờ những từ đi kèm theo: nước, lạnh, thuyền, sóng, lá vàng, gió, buông cần, cá đớp, chân bèo. Tất cả tạo nên một hệ thống rất logique, nhằm giải thích nội dung sau: trước cái vắng lặng, buồn bã của cảnh trời đất mùa thu, cụ Tam Nguyên trăn trở, day dứt về thân phận của cá nhân, của quê hương. Ngược lại, rất khó phân tích rành rẽ nghĩa và vai trò của "mứt kẹo thu", "môi thu", tăc xi thu", "phố thu", "ngực thu"... trong bài thơ của Trần Dần.

    VII
    Mứt kẹo thu ngòn ngọt môi thu
    Tăcxi thu vòn vọt phố thu
    Mayô thu đòn đọt ngực thu
    Thể thao thu thon thót nữ thu
    Yach thu tì tọt buồm thu
    Sao thu bòn bọt chiều thu

    VIII
    Nữ thợ cấy thu cấy thu
    Nữ thợ tiện thu tiện thu
    Nữ tự vệ thu xạ kích thu
    Nữ vận động viên thu thi thu
    Nữ diễn viên thu trình diễn thu
    Nữ dược sĩ thu chế thuốc thu
    Nữ hộ sinh thu đỡ đẻ thu
    Phân thu bón ruộng thu
    Rét thu gờn gợn xóm thu
    Lúa thu ngồn ngộn vè thu
    Đom đóm thu lườn lượn ngõ thu
    Khói thu lởn vởn bếp thu
    Gái thu con cón quê thu

    Cái cách THU được lặp đi lặp lại đến độ như mất trí, như ma ám ấy, thể hiện tính quyết liệt, gai góc của Trần Dần trong thử nghiệm: chạm đến đáy chữ, trèo sang phía bên kia cái gương, nhảy qua bóng mình. Đọc Trần Dần vì vậy là phải từ biệt trạng thái thường có khi đọc thơ "kinh điển": bình an nhưng bị động. Đọc thơ ông là sẵn sàng đón nhũng cú sốc, là không tìm cách "hiểu nghĩa", là yêu cái gồ ghề, là cùng ông tham gia vào trò ảo thuật chữ, là... cười trước những tổ hợp kỳ thú: "Nhà máy xay thu xay thu", "Vải thu đầm đập chiều thu", "Nốt giày thu hày hạy nội thành thu", "Đèn thu hấp hay thu", "Gái thu ríu rít thu", "Phòng cưới thu xì xẹt nhạc thu", "Nhà ươm thu mày mạy nữ kỹ sư thu", "Thị thành thu thổi lổi đèn thu", " Gái thu con cón quê thu"...
    THU trong thơ thường là cái cớ để nói về tình yêu, nôĩ buồn, kỷ niệm.... Nhưng THU Trần Dần là cuộc phiêu lưu của chữ. "Lịch thu", cũng như các tác phẩm khác của Mùa sạch, là một lời thách đố, bắt đầu từ những con chữ: mùa, sạch, sáng, trong, chiêm, hạt, sao, xuân, trưa, hè, tươi, mậu dịch, thu, đêm, đông.... Chữ bao giờ cũng là điểm xuất phát và cái đích của thơ ông: Trần Dần làm thơ không phải vì nhu cầu tình cảm hay giao tiếp. Ông làm thơ vì chữ. Vì vậy có lần ông tuyên bố: "Thơ vì thơ tuyệt đối. Hễ vì bất cứ gì khác, dù cao quí mấy, thơ sẽ chẳng còn là thơ. Không đùa được với thơ (... ). Những thơ tình, thơ chính trị, bất cứ tính từ nào, đều vô nghĩa với tôi". Ươm THU, ngâm THU, gieo THU, ghép THU, ông tạo nên những mầm THU lạ. Những con chữ của Trần Dần hay có những số phận bất ngờ. Từ Mùa sạch, THÈM và MÙA sẽ tiếp tục cuộc phiêu lưu mới trong Ô mai của Đặng Đình Hưng[4]. Chữ của Trần Dần bình đẳng: trong thơ ông không có từ mang nhiều chất thơ, từ mang ít chất thơ. Chúng bao giờ cũng mới, cũng hiện đại. Hơn thế nữa, chúng đương đại, với "mậu dịch", "phòng cưới", "xà lan", "tăcxi", "mayô", "yach",... Làm thơ, với ông là lẽ sống, đã đành. Nó còn thể hiện một cách sống: sống với thời đại của mình.
    Mùa sạch của Trần Dần gần gũi với những tìm kiếm của nhiều nghệ sĩ cùng thời với ông. Cách ông lặp đi lặp lại một từ (mùa, sạch, trong, thu...) hay một cụm từ ("Tôi nhất thích công tác ở Việt nam mùa", v.v) làm người ta nghĩ đến tác phẩm mang tên Marylin Moroe (1962) trong đó chân dung cô diễn viên Mỹ được A. Warhol vẽ theo lối chụp ảnh với nét bút và màu mực thô, rồi nhân lên hàng trăm lần...

    (Tháng Năm, 2003)
    _________________________
    [1]Mùa sạch, viết vào khoảng 1963-1964, in năm 1998, Hà Nội, NXB Văn Học.
    [2]NXB Văn Học, Hà Nội, 1984.
    [3]"Mấy ý nghĩ về thơ", viết 12.9.1949, in lại trên tạp chí Tác Phẩm Mới, số 3, năm 1992, Hà Nội.
    [4] Đặng Đình Hưng viết: "đi jữa mùa em jó lộng", "Anh cảm thấy bất lực. Không phải thiếu thèm. Ngược lại, thèm cứ chồm", ...

    Được julian sửa chữa / chuyển vào 11:04 ngày 01/02/2004
  8. caothaiuy

    caothaiuy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    885
    Đã được thích:
    0
  9. caothaiuy

    caothaiuy Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/08/2003
    Bài viết:
    885
    Đã được thích:
    0
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    To caothaiuy: Những năm đầu thập niên 40, Nguyễn Bính nhiều lần lưu lạc vào Miền Nam và vào quãng thời gian này ông đổi tên là Nguyễn Bính Thuyết. Đó là lý do bạn đọc ở đâu đó thấy ghi rằng tên của thi sĩ Nguyễn Bính là Nguyễn Bính Thuyết. Còn về mặt văn học sử thì vẫn phải lấy tên thật là tên khai sinh của nhà thơ,là Nguyễn Trọng Bính.
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 00:22 ngày 09/02/2004

Chia sẻ trang này