1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chân dung tác giả văn học (Mới: Nhà thơ Paul Éluard )

Chủ đề trong 'Văn học' bởi Julian, 28/11/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
    Với 17 truyện ngắn xinh xắn trong tập Giao Thừa, nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư trở lại với giọng văn mộc mạc và trong trẻo, nhưng nỗi buồn nặng hơn. Tất cả như thể hiện cô thèm được nói, được viết về cuộc sống quanh mình. Và thèm cả ai đó "quất cho vài roi" để thấy rằng mình đang viết "chán chán thế nào".
    - Nhận giải Nhất Văn học tuổi 20 năm 2000 với tập truyện "Ngọn đèn không tắt", 3 năm sau ra tập "Giao Thừa", Tư đã ngấp nghé tuổi 30. Điều ấy có thay đổi gì trong quan niệm sống và viết không?
    - Chỉ một chút thôi. Tôi có cảm giác mình bây giờ viết buồn hơn lúc trước.
    - Đọc truyện của Tư cứ xuôi đi mải miết bởi cách viết hồn nhiên, giản dị và dễ thương. Tư có cho rằng đó là thế mạnh của mình?
    - Không, tôi muốn viết tinh tế, sâu sắc, góc cạnh hơn (dường như các nhà phê bình cũng thích thế). Nhưng khổ nỗi, tạng tôi nó vậy, phong cách viết tự nó vậy, chữ nghĩa cũng tự "chảy" ra như vậy.
    - Tư từng nói "tôi nghĩ đến ứ đầy rồi viết", từ "Ngọn đèn không tắt"sang "Giao Thừa", bắt gặp những cái tên lặp đi lặp lại: Chị Diệu, Diệu; con San, anh San; ông già Chín...; và những cảnh đời: toàn người chất phác, hồn hậu, tốt bụng vô ngần, vậy mà chẳng ai được sung sướng. Gấp truyện lại chỉ còn một nỗi buồn rất lạ! Vậy có thể hình dung cuộc sống quanh Tư như thế nào?
    - Hình dáng buồn cười, thô mộc, quê mùa, không trau chuốt (nên tôi lười cả việc đặt tên cho nhân vật của mình). Hai mươi bảy tuổi vẫn yêu, vẫn tin rằng cuộc đời này màu hồng (mà tới một cái tuổi nào đó sẽ thấy nó đen thui) nên vẫn thích viết về những người tốt. Có điều họ không sung sướng vì tôi nghĩ, tốt mà được đền đáp thì người đời rủ nhau đi sống tốt hết rồi.
    - Các cuộc phê bình cây bút trẻ yên lặng quá. Thiếu người trẻ viết phê bình đã đành, người già thường có cái nhìn không thiện cảm với cây bút trẻ là một nhẽ, nhưng vẻ như truyện ngắn thời gian qua chưa tạo được chú ý. Có lúc nào Tư thèm được một nhà phê bình nào đó "quất" cho mình vài roi để lớn lên?
    - Thèm. Tự soi gương không bao giờ nhìn thấy hết những khiếm khuyết của mình. Đôi lúc nghe bạn bè cằn nhằn lúc này Ngọc Tư viết "chán chán làm sao", tôi muốn biết "chán chán làm sao" là thế nào? Có ai giúp tôi không?
    - Có thể hy vọng ở những tập truyện mới dày hơn, khác hơn, thậm chí là tiểu thuyết ở Tư không?
    - Sẽ đến một tuổi nào đó, một cú sốc nào đó, hay đến lúc bạn nói bạn chán cách viết của tôi rồi, biết đâu tôi sẽ đổi thay. Nhưng bây giờ thì chưa.

    Lovetolive[/size=18]
  2. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Nam Cao

    Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (1915-1951) thuộc thế hệ văn học tiền chiến nhưng mất rất sớm trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tác phẩm của ông quan trọng là của thời trước chiến tranh với những khổ đau của dân quê và những hủ tục của một thời mà con người nghèo nàn chỉ biết bám víu vào những hư vị hão trong thôn đảng.
    Giá trị con người được đề cao trong truyện của Nam Cao, nhất là trong truyện ngắn nổi danh Chí Phèo mà trước đây ít người được biết.
    Truyện ngắn Nam Cao có nghệ thuật trong kết cấu và ngôn từ . Nhiều truyện của ông mang tính cách tâm lý đến bây giờ vẫn còn là những khuôn thước tốt cho người muốn bước vào lãnh vực truyện ngắn. Với Nam Cao, ta có thể nói như với Edgar Poe, truyện ngắn đã thành hình và có quy luật riêng của nó .
    Có những nhà văn mà tác phẩm càng đi vào thời gian càng có giá trị Nam Cao ở vào trường hợp đó . Truyện của ông là những bộ nhớ ghi lại một cách sống động những sinh hoạt đặc biệt của nông thôn Việt Nam cách đây nửa thế kỷ . Ta yêu mến dân tộc ta . Ta tha thiết với những gì mà dân tộc ta đã trải qua tất nhiên ta tha thiết và mến yêu những nét chấm phá trong truyện của Nam Cao . Ở đây có đầy đủ hết, từ anh mõ nghèo nàn nhưng ai cũng sợ, đến những chức dịch luôn luôn ậm ọc nhưng chỉ biết có những miếng đỉnh chung tại chốn đình chung, từ một anh tha phương cầu thực tấp vào sống nhờ trong làng đến một người lính tập có dịp ra khỏi lũy tre làng xã nên đã mở mắt với đời ... đủ cả .
    Có người nói Nam Cao nổi tiếng nhờ truyện Chí Phèo . Đúng, nhưng thiếu, Chí Phèo là tuyện đỉnh văn chương của Nam Cao, và các truyện khác của ông cũng là những tác phẩm rất có giá trị trong văn chương Việt.
    Lovetolive[/size=18]
  3. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0

    Nguyễn Huy Thiệp

    "Đặc điểm lớn nhất của xứ sở này là nhược tiểu. Đây là một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp. Cô gái ấy vừa thích thú, vừa nhục nhã, vừa căm thù nó. Vua Gia Long hiểu điều ấy và đấy là nỗi cay đắng lớn nhất mà ông cùng cộng đồng phải chịu đựng. Nguyễn Du thì khác, ông không hiểu điều ấỵ Nguyễn Du là đứa con của cô gái đồng trinh kia, dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn nạn đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du ngập trong mớ bùng nhùng của đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hẳn ngoài đời sống ấỵ Người mẹ của Nguyễn Du (tức nền chính trị đương thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau người ta mới thấy điều này vô nghĩa
    Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950, quê quán: Thanh Trì, Hà Nộị
    Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Yên ... Nông thôn và những người lao động vì thế để lại nhiều dấu ấn khá đậm nét trong nhiều sáng tác của ông. ``Mẹ tôi là nông dân, còn tôi sinh ra ở nông thôn
    Nguyễn Huy Thiệp chịu ảnh hưởng giáo dục chủ yếu của ông ngoại, vốn là người am hiểu nho học và mẹ, vốn là người sùng đạo Phật. Năm 1960, ông cùng gia đình về quê quán và định cư ở xóm Cò, làng Khương Hạ
    Nguyễn Huy Thiệp là một bông hoa nở muộn trên văn đàn. Vài truyện ngắn của ông xuất hiện lần đầu tiên trên báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1986. Chỉ một vài năm sau đó, cả làng văn học trong lẫn ngoài nước xôn xao những cuộc tranh luận về các tác phẩm của ông. ``Có người lên án anh gay gắt, thậm chí coi văn chương của anh có những khuynh hướng thấp hèn. Người khác lại hết lời ca ngợi anh và cho rằnh anh có trách nhiệm cao với cuộc sống hiện nay (Lời cuối sách của NXB Đa Nguyên)
    Sở trường của Nguyễn Huy Thiệp là truyện ngắn, có thể tạm được phân loại như sau:
    về lịch sử và văn học: Kiếm Sắc, Vàng Lửa, Phẩm Tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam, Chút Thoáng Xuân Hương ...
    truyện ngắn mang hơi hướm huyền thoại hoặc "cổ tích": Những Ngọn Gió Hua Tát, Con Gái Thủy Thần, Giọt Máu, Muối Của Rừng, Chảy Đi Sông Ơi, Trương Chi ...
    về xã hội VN đương đại: Không Có Vua, Tướng Về Hưu, Cún, Sang Sông, Tội Ác và Trừng Phạt ...;
    về đồng quê và những người dân lao động: Thương Nhớ Đồng Quê, Những Bài Học Nông Thôn, Những Người Thợ Xẻ ...
    Ngoài ra, Nguyễn Huy Thiệp còn viết nhiều kịch, tiêu biểu là Xuân Hồng, Còn Lại Tình Yêu, Gia Đình (hay Quỷ Ở Với Người, dựa theo truyện ngắn Không Có Vua), Nhà Tiên Tri, Hoa Sen Nở Ngày 29 Tháng 4 ...; và nhiều thơ (chưa xuất bản tập thơ nào, song thơ xuất hiện khá nhiều trong các truyện ngắn của ông).
    Năm 1994, Nguyễn Huy Thiệp gác bút và xoay ra mở nhà hàng ở Hà Nội tên là Hoa Ban, rất ăn khách.

    Lovetolive[/size=18]
  4. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Tiểu sử Vũ Trọng Phụng

    Vũ Trọng Phụng sinh năm 1912 và mất năm 1939, quê ở lang Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất ở Hà Nộị
    Mồ côi cha từ thuở ấu thơ, gia đình nghèo, Vũ Trọng Phụng được bà mẹ tần tảo nuôi cho ăn học. Ông viết văn sớm, có truyện đăng báo từ 1930. Vũ Trọng Phụng viết nhiều thể loại nhưng nổi tiếng trên hai lĩnh vực phóng sự và tiểu thuyết.
    Vào những nắm 30 của thế kỷ này, cùng với sự phat triển mạnh mẽ của báo chí, một thể văn mới ra đời: thể phóng sự. Hàng loạt tên tuổi được chú ý nhờ gắn bó với thể văn này: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp, Phi Vân... (Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân cũng có viết phóng sự). Trong số những cây bút ấy, nổi trội hẳn lên là Vũ Trọng Phụng. Vì thế công chúng đương thời đã tặng ông danh hiệu: "ông vua phóng ự đất Bắc".
    Những tác phẩm chính:
    + Phóng sự: Cạm bẫy người (1933), viết về nạn cờ bạc bịp ở Hà Nội; Kĩ nghệ lấy Tây (1934), viết về cái nghề lấy Tây để nuôi thân; Cơm thầy cơm cô (1936), viết về cảnh đời những người đi ở.
    + Tiểu thuyết: Giông Tố (1936), Vỡ Đê (1936), Trúng Số Độc Đắc (1938)... trong đó tiểu thuyết trào phúng Số Đỏ là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo và đặc sắc hơn cả.
    Vũ Trọng Phụng có lối thuật kể thật là hóm hỉnh và có duyên. Nhưng tiếng cười vừa dứt, dư vị để lại sao mà cay đắng, chua chát! Vì sao mà những người đàn bà vốn lương thiện, thậm chí từng có một thời thanh xuân đầy mộng ước kia lại đến nông nổi phải làm cái "nghề" mà chính họ cũng thấy là đáng khinh, là bỏ đi nàỷ Thực chất đây là một thứ mãi dâm mạt hạng: làm "điếm" kiêm đầy tớ có thời hạn cho những tên lính viễn chinh dâm ô, hung dữ, liều lĩnh và thường là nhưng con sâu rượu thô bỉ. Mà cái "nghề" này có thể làm mãi được saỏ Lại còn những đứa con lai đẻ ra mọt cách bất đắc dĩ? Cho nên đằng sau cái "kỹ nghệ" quái thai kia là biết bao cuộc đời lỡ dỡ, biết bao tâm trạng tủi nhục, biết bao số phận tối tăm của những người đàn bà một nước thuộc địa bị đẩy tới bước đường cùng.
    Trong "Cơm thầy cơm cô", Vũ Trọng Phụng viết: "người phu xe biết hết mọi sự độc ác của loài người hơn là một học giả", "một kẻ đi ở (...) biết rõ những tính tình của loài người hơn là một văn sĩ tả chân".
    Ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng chính là đã quan sát, đã thuật kể bằng con mắt và tấm lòng của những người phu xe ấy, của những người đi ở ấỵ
    Tuy nổi tiếng, nhưng ngòi bút của Vũ Trọng Phụng không đủ nuôi gia đình. Ngày 18 tháng 10 năm 1939, Vũ Trọng Phụng mất trong cảnh túng quẫn vì bệnh lao phổi quá nặng, lúc mới 27 tuổi.
    Lovetolive[/size=18]
  5. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Phỏng vấn nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh
    Vài năm gần đây, tác giả thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh nổi lên như một hiện tượng, với những tìm tòi đổi mới cấu trúc câu thơ, sự bất ngờ từ những ý tưởng sáng tạo. Dường như anh đang là một trong những đại diện cho một giọng nói mới, đương nhiên là gây ra tranh cãi trong giới văn học. Nhân tập thơ mới ''''Vỉa Từ'''' sắp ra mắt, chúng tôi đã thực hiện một cuộc trao đổi về những gì ẩn chứa sau những tập thơ của anh.

    Tác giả thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh
    - Tập ''''Vỉa Từ'''' sắp ra đời, theo anh, có hoàn toàn thoát được khỏi bóng đổ của tập thơ trước là ''''Chất Trụ'''' hay không, tôi muốn đề cập trên phương diện phong cách nghệ thuật?
    - Hoàn toàn khác. Tôi phải khẳng định điều đó. Tôi quan tâm đến hai vấn đề lớn trên con đường sáng tạo của mình là Siêu hình học và Ngôn ngữ học. Nếu tập ''''Chất trụ'''' tập trung toàn bộ mối quan tâm của tôi về Siêu hình học, thì với tập ''''Vỉa Từ'''', vấn đề của nó là ngôn ngữ.
    Trong một lần trả lời trên báo trực tuyến của Đức, tôi có nói đại ý rằng, các nhà thơ Việt sử dụng tiếng Việt nhưng lại bỏ quên tiếng Việt. Đó là xem ngôn ngữ như một phương tiện chuyển tải, chứ chưa xem nó như một đối tượng sáng tạo. Có nghĩa, chúng ta cứ mặc sức thừa hưởng di sản của tổ tiên như một điều tất nhiên, chứ không ai quan tâm đến việc cải tổ, tìm kiếm lại chúng, sáng tạo lại chúng trong một hình thức mới. Đó là chưa kể nhiều nhà thơ sa đà vào việc bắt bẻ những công trình tâm huyết của các nhà ngôn ngữ học với nhiều lí luận phá đám, cản trở, buồn cười và ngô ngọng. Điều mà đáng ra các thi sĩ phải ủng hộ, và đề cao trước nhất.
    Vai trò của nhà thơ, nghĩ cho cùng, là vai trò của chữ. Chữ nảy nở và tái sinh dưới quan điểm của Nghệ thuật mới. Tôi tâm đắc với quan điểm của nhà phê bình Roland Barthes trong cuốn Lé degré zéro de l?Té criture: ''''Mỗi chữ trong thơ hiện đại tồn tại một vỉa địa chất sinh tồn mang tất cả các nội dung của Từ, chứ không chỉ một nội dung có tính chọn lọc như trong văn thơ cổ điển''''. Tập ''''Vỉa Từ'''' tập trung vào vấn đề này nên hoàn toàn mang một phong cách mới về nghệ thuật. Có lẽ sẽ không có nhiều người thích, nhưng trong những tác phẩm đã viết của tôi, đây là cuốn tôi thích nhất.
    - Anh vốn nổi tiếng bởi những tìm tòi trong cấu trúc câu thơ. Anh có ý thức tìm cách mở rộng khả năng biểu đạt của câu thơ trong tiếng Việt hay không? Anh quan niệm thế nào về nhạc tính trong câu thơ Việt, có phải cứ nhiều âm vận, vần vèo, là giàu nhạc tính hay không?
    - Nhạc tính bắt đầu từ cảm quan và ý thức của mỗi người. Nó bị chi phối và ảnh hưởng nặng nề bởi bối cảnh xã hội và điều kiện sống. Nhưng tôi thích một câu của V.Bela: ''''Thế kỉ XIX: Thế giới là tôi. Thế kỉ XX, tôi không phải là thế giới!''''.
    Nhạc tính trong thơ Việt tù đọng, chậm thay đổi bắt đầu từ lí do cấu trúc của thơ Việt không thay đổi. Khi anh bắt đầu một cấu trúc khác, anh sẽ lắng nghe được một nhạc tính khác. Lúc đó anh mới thấy, mới cảm hết cái hay của điều đang xảy ra.
    Thơ hiện đại phải chống công thức, chống thói quen. Đó cũng là điều thú vị nhất của thơ. Còn nếu cứ theo một lối mòn, cho rằng nhiều âm vận, vần vèo là thơ giàu nhạc tính cao, đó là cách tư duy già cỗi vì mòn mỏi. Mà nếu tạm chấp nhận đi nữa, thì đó cũng chỉ là nhạc tính của thế kỉ bảo tàng, của những phong cách đã chết. Thơ trẻ Việt Nam cần có những cấu trúc mới với những âm vực giao hưởng rộng. Đó cũng là tiêu chuẩn đặt cái nhìn để đánh giá sự khác nhau giữa thơ các thế hệ.
    - Thế hệ anh quan niệm một bài thơ hình thành như thế nào, từ cảm xúc, tư tưởng, một yếu tố thần bí nào đó, hay một xúc cảm tôn giáo...?
    - Có thể cộng hưởng tất cả các yếu tố trên để có thể hình thành những bài thơ hay. Chỉ có một điều khác duy nhất, đó là, cái tôi độc lập, tự nhiên, không bị áp buộc viết để phải tuyên truyền cho bất cứ một điều gì và phải có lợi cho ai hết. Một bài thơ hình thành như một bài thơ, một thế giới, một quan điểm. Tôi cho rằng, tín hiệu của một nền văn hóa văn nghệ lành mạnh và hiện đại đó là một nền văn hóa văn nghệ có nhiều quan điểm. Siêu hình không phải là thần bí hay tôn giáo. Nó là khát vọng tìm kiếm sự bất tử của con người.
    - Giả sử đặt mình vào vị trí một người khách đang quan sát nền văn học đương đại của nước ta, anh thử phát biểu nó đang như thế nào? Và một vài dự báo của anh?
    - Thú thật, tôi thấy nó kì quặc giống như con sâu biến dạng trong thế giới truyện ngắn của Franz Kafka. Từ lí luận đến phê bình, từ truyện ngắn đến tiểu thuyết, từ thi ca đến âm nhạc... Nó biến dạng đại loại như thế này, nhà thơ thì lại tưởng mình là nhà phê bình, nhà báo thì cứ nghĩ mình là nhà văn, dịch giả thì cứ luôn nghĩ mình là... tác giả...
    Tính nghiệp dư rất nhiều mà chuyên nghiệp thì rất ít. Một nền văn học xuất sắc khó có thể được dựng nên bởi những tên tuổi nghiệp dư. Nhưng thế hệ nhà văn trẻ Việt Nam sẽ khác. Với những điều kiện thuận lợi và sự quyết tâm, họ khẳng định tính chuyên nghiệp trong từng tác phẩm.

    Nguyễn Hữu Hồng Minh: sinh 1972 tại Đà Nẵng.
    Tác phẩm chính đã xuất bản:
    - Giọng nói mơ hồ (thơ 1999)
    - Tháo Đáy (tập truyện 2000)
    - Chất Trụ và những bài thơ khác (2002)
    - Vỉa Từ (thơ 2003).
    Đã từng được nhiều giải thưởng văn học của các báo như Tiền Phong, Tuổi Trẻ... Gần đây nhất là Giải thưởng thơ Tạp chí Sông Hương 2003
    Lovetolive[/size=18]
  6. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Hưng Quốc
    Những bài viết về nhà thơ Bùi Giáng

    TRƯỜNG HỢP BÙI GIÁNG
    Khi viết về thơ ở miền Nam trước 1975 cũng như thơ trong nước sau 1975, tôi ít nhắc đến Bùi Giáng. Không phải vì tôi đánh giá ông thấp. Ngược lại. Tôi đồng ý với Mai Thảo: Bùi Giáng là một tài thơ trác tuyệt. " Có Ông, thi ca mới đích thực có biển có trời" (1). Càng đọc Bùi Giáng tôi càng thấy ông lạ lùng. Con người ông lạ lùng: nói như Thanh Tâm Tuyền, qua lời kể của Mai Thảo, Bùi Giáng là người " ngủ ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ thơ, làm thơ" (2). Thơ ông càng lạ lùng, lạ lùng đến nổi ai cũng ngại ngùng khi viết về ông. Kể chuyện về ông: có, nhưng phê bình thơ ông: chưa. Có lần, Thanh-Tâm-Tuyền gọi Bùi Giáng là một " thiên tài tự hủy ghê gớm nhất của thi ca Việt Nam hiện đại" và là " một hồn thơ bị vây khốn" (3). Bị vây khốn bởi cái gì? Theo tôi, Bùi Giáng bị vây khốn, trước hết, bởi những hoài nghi, những dằn vặt. Thì một số khá đông các nhà thơ khác ở miền Nam thời kỳ 1954-1975 cũng hoài nghi, cũng dằn vặt. Song, có điều, không ai sống đến tận cùng sự hoài nghi, sự dằn vặt như là Bùi Giáng. Thơ Bùi Giáng là những phún thạch phun lên từ hỏa diệm sơn của hồn ông. Nhưng khác các nhà thơ khác, Bùi Giáng lại ngụy trang thảm kịch của mình bằng một giọng cợt nhã, bông đùa. Trong một bài viết về Hàn Mặc Tử, sau khi ghi nhận thơ Hàn Mặc Tử là " một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Lúc hãi hùng khiếp đảm, lúc quạnh quẽ lạc phách xiêu hồn" , Bùi Giáng nhắc đến thơ của chính ông như một sự so sánh:
    " Thơ tôi làm...là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão giông một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu. Làm mục tử chăn trâu không xong bỏ trâu bò chạy lạc, phá phách mùa màng khoai sắn, thì tôi chạy về bẩm báo với ni cô cho phép con chuồn chuồn của tôi cư lưu một phút giây trong linh hồn bao dung phương trượng. Ni cô xua đuổi tôi thì tôi ra bờ sông nằm ngủ khóc một mình thơ dại giữa chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao" .(4)
    Có dìu ba đào về chân trời nào khác thì ba đào vẫn cứ là ba đào, động biển vẫn cứ là động biển. Bay đi đâu cánh chuồn chuồn của Bùi Giáng cũng gặp giông bão. Giông bão dậy lên, trước hết, từ đôi cánh của nó: ngôn ngữ. Ðã đành làm thơ, ai cũng chú trọng đến ngôn ngữ. Song tôi có cảm tưởng ít có ai bị ám ảnh bởi vấn đề ngôn ngữ một cách nặng nề, triền miên như Bùi Giáng. Chữ " ngôn ngữ" thường xuyên xuất hiện trong thơ ông, đặc biệt trong hai tập thơ mới xuất bản ở hải ngoại sau 1975 (5), ở đó câu Ðường qua ngôn ngữ tuyệt trù, Ðường qua ngôn ngữ điệp trùng và Ðường qua ngôn ngữ cuối cùng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong nhiều bài thơ khác nhau. Hãy để ý đến nhóm từ " đường qua ngôn ngữ" : với Bùi Giáng dường như công việc làm thơ chủ yếu là một cuộc hành trình vượt qua ngọn đèo cheo leo của ngôn ngữ trước khi là bất cứ một cái gì khác. Ngọn đèo ấy không những cheo leo mà còn mù mịt, thăm thẳm. Phần lớn các câu thơ kế tiếp mấy câu vừa dẫn đều là bóng đêm (Mừng xuân viễn vọng đêm bù cho đêm; Mừng xuân viễn vọng đêm lừng lẫy đêm; Mừng xuân viễn tuyệt đêm từng từng đêm...) Xuân, ừ thì xuân. Nhưng đêm vẫn mịt mùng đêm. Ðêm vô tận. Ngôn ngữ không làm cho bóng đêm ấy tan biến. Trái lại.
    Chấm ngòi bút sắt se vào mực
    Viết ra câu thúc giục sương mù
    (Mùa xuân chiêm bao)
    Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dù nhận chân được vị thế hẩm hiu của nhà thơ trong xã hội, vẫn tin tưởng vào ngôn ngữ và vẫn tự hào về công việc sáng tạo của mình, nói như Thanh Tâm Tuyền, " cuộc hành trình hoàn toàn cô độc" trên một " con đường chưa ai tới" (6), Bùi Giáng, ngược lại, tuy vẫn làm thơ, hơn nữa, còn làm thơ cực kỳ nhiều, nhiều hơn bất cứ một người nào khác, lại có vẻ rất coi thường cái việc làm thơ ấy và chắc chắn là không mấy tin tưởng vào khả năng thể hiện của ngôn ngữ:
    Người điên ngôn ngữ điệp trùng
    Dở chừng như mộng dở chừng như mê
    Thưa em ngôn ngữ quặt què
    Làm sao nói hết nghiệp nghề người điên
    (Người điên)
    Trong quyển " Mùa thu trong thi ca" , Bùi Giáng viết:
    Một hôm Mai Thảo bảo rằng
    Làm thơ bê bối sao bằng đi rong
    phố phường mọc cỏ quanh năm
    (Sa mạc phát tiết)
    Có người đọc câu thơ thấy đâm ra bực mình hỏi: " Phố phường đâu có cỏ nào mọc! Thằng thi sĩ ăn nói tầm phào, sai sự thật!" Ấy thế là người ta cưỡng bức thi ca một cách không chính đáng. Và trầm trọng hơn nữa, người ta tưởng chừng như tin rằng ngôn ngữ có thể nói ra được sự thật. Tưởng chừng như người ta chẳng bao giờ suy gẫm về Kim Cương Kinh. " Thế gian ngôn ngữ phi chân kinh" .(7)
    Ngôn ngữ không những quặt què, không những không nói ra được sự thật mà, hơn nữa, trong thời hiện đại, đặc biệt khi cuộc chiến tranh lạnh giữa hai khối Tư bản - Cộng sản đang gay gắt, khi cuộc chiến tranh giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam đang ác liệt, khi vấn đề thắng bại không những được quyết định ngoài chiến trường mà còn trên các bàn hội nghị quốc tế, ngôn ngữ còn có tác dụng ngược lại: nó che giấu sự thật và, thay vì đem lại sự cảm thông giữa loài người, nó lại làm cho con người ngộ nhận lẫn nhau, thù ghét lẫn nhau, say sưa chém giết lẫn nhau. Ðó là lý do tại sao Bùi Giáng lại:
    Tôi gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ
    Mỹ Thọ muôn đời là lục tỉnh hôm nay
    Tôi gọi Sóc Trăng là Sóc Trắng
    Gọi người sương phụ gái thơ ngây
    (Lẫn lộn lung tung)
    Bùi Giáng xáo trộn chữ nghĩa để nói lên một sự thật: ngôn ngữ đang bị xáo trộn, đang bị tha hóa. Bùi Giáng gọi Mỹ Tho là Mỹ Thỏ, Mỹ Thọ, người ta cho là hài hước hoặc điên khùng, nhưng chẳng phải là trong cuộc sống, người ta đã không từng gọi một kẻ bán nước là yêu nước, một kẻ giết người như ngoé là nhân đạo, một kẻ bắn súng vào anh em vào đồng bào vào đồng loại vì một thiên đường không tưởng nào đó là cách mạng đó ư? Chẳng phải là người ta đã không từng gọi nhà tù là trại học tập, độc tài là tập trung dân chủ, sự ngu đần là đỉnh cao trí tuệ, khố xanh khố đỏ là quốc gia, thái độ khom lưng trước ngoại bang là biểu hiện của tinh thần dân tộc đó ư? Thử thế chữ Mỹ Tho bằng bất cứ chữ nào trong từ điển chính trị Việt Nam hiện đại, người ta sẽ thấy ngay cái điều mà Ionesco từng nói: " một nền văn minh của ngôn ngữ là một nền văn minh quẩn trí, hỗn độn" (8). Ngôn ngữ mất linh hồn. Ngôn ngữ xác xơ, rách mướp, tơi tả. Nhiều người thuộc loại nhạy cảm nhất trong thời đại chúng ta đã thất vọng não nề. Sự thất vọng ấy ở Tây phương, dẫn đến sự im lặng của một số người cầm bút, sự ra đời của loại kịch không lời; ở Bùi Giáng, tạo ra những vần thơ đại loại thế nầy:
    ...Một hai hai một di hài
    Dài hi hữu mộng an bài chẩm ma
    Chả xin? Chả hỏi? Vịt gà?
    Và thân thể máu me và thịt xương...
    ...Ma đên ỳ nẽ ô mà
    Xơ tin ô đố đâu là đến đây
    Xền nô đô thí xi đầy
    Xè rê tê nến ngọn lầy lội cơn
    A tin a tỉ oan hồn
    Vong lưu lỳ lẩy cung đờn cợt trêu
    Người ơi ô ướt dấu bèo
    ồ thôi thế vậy thu vèo sang thu
    Lừng bay thân thế pha mù
    Sương mây tuyết dậy thân bù cho thân
    (Ðạm Tiên)

    Lovetolive[/size=18]
  7. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Hưng Quốc
    Những bài viết về nhà thơ Bùi Giáng ( II )
    Gắn liền với sự hoài nghi ngôn ngữ là sự hoài nghi lý trí. Trong lúc hầu hết các nhà thơ khác, mặc dầu hoài nghi lý trí, luôn luôn khắc khoải tìm kiếm sự thật, với niềm tin dù mơ hồ và mong manh, là sự thật ấy có đâu đó, sẽ gặp được một ngày. Bùi Giáng, ngược lại, tuy dịch và viết khá nhiều tác phẩm về triết học hiện đại Tây phương, lại hoàn toàn phủ nhận đầu óc duy lý của Tây phương, hoàn toàn mất niềm tin với mọi cái gọi là chân lý. Cuộc đời, với Bùi Giáng, là chuổi dài những nghi vấn và phẩn nộ:
    Ði vào giữa cuộc thị phi
    Nửa tam bành tới nửa nghi vấn về
    (Y ư mộng, du ư mê)
    Làm thơ, với Bùi Giáng, là một hành động phản kháng, phản loạn. Như Từ Hải trong truyện Kiều của Nguyễn Du: Sao bằng riêng một biên thùy
    Cõi điên vũ trụ tùy nghi tung hoành
    Xiết bao vô ngại ngọn ngành
    Chọc trời khuấy nước tan tành thịt xương
    Ấy như thể, ấy như dường
    Ði vô tận ý đi đường chơn không
    Ði mây gió đi phiêu bồng
    Ngàn trăng ngậm bóng sương đồng ra đi
    Ði về thể lệ lâm ly
    Ði đi suốt cõi lời nghi vấn lời.
    (Sao bằng)
    Nghi vấn. Lúc nào cũng nghi vấn. Nghi vấn cả lời nói của mình. Bài thơ Tặng Mã Giám Sinh là một bài thơ hay:
    Hỏi tên? Rằng biển dâu xanh
    Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
    Gọi tên? rằng một hai ba
    Ðếm là diệu tưởng đo là nghi tâm.
    Tôi đoán là Bùi Giáng rất tâm đắc bài thơ nầy. Nó được in lần đầu trong " Mùa thu trong thi ca" với tựa là " Mã Giám Sinh" , sau in lại trong " Thơ Bùi Gíáng" xuất bản tại Canada năm 1990 với sự thay đổi nhỏ: thêm chữ " tặng" ở tựa đề. Có hay không có chữ " tặng" , thật ra cũng chả có gì quan trọng. Cũng như mọi cái tựa trong thơ Bùi Giáng chả có gì là quan trọng. Lười, ông thường nhặt bất cứ từ hay nhóm từ nào trong bài dùng để làm nhan đề. Bài thơ trên được đặt tựa là Mã Giám Sinh hay Tặng Mã Giám Sinh có lẽ để ghi lại xuất xứ một nguồn cảm hứng: nó xuất phát từ mấy câu thơ trong Truyện Kiều có liên quan đến Mã Giám Sinh:
    Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
    Hỏi quê, rằng: huyện Lâm Thanh, cũng gần.
    Trong bài Chiều nguyên xuân in trong tập Mưa Nguồn, xuất bản từ năm 1963, Bùi Giáng đã bị ám ảnh bởi vấn đề quê hương:
    Hỏi rằng: người ở quê đâu
    Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
    Từ " ở rất lâu quê nhà" đến " mộng ban đầu đã xa" , tư tưởng của Bùi Giáng đã vượt biên, lấn sang một tầm khác. Với một sức oằn khác. Dẫu sao, ở đây điều quan trọng nhất là câu cuối cùng: " đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm" . Mọi sự phân biệt đều bị xóa nhòa. Tôi cho đây là đặc điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ Bùi Giáng: Thơ Bùi Giáng chính là sự xóa nhòa của mọi đường biên quen thuộc vốn được mọi người chấp nhận như là một quy ước, một luật lệ trong văn học từ xưa đến nay.
    Thứ nhất là xóa nhòa những đường biên về giọng điệu. Những ai từng viết lách ít nhiều cũng đều hiểu cái khó nhất đối với người cầm bút là pha trộn giọng điệu, nghĩa là, chẳng hạn, vừa nghiêm túc lại vừa cười cợt, vừa uyên bác lại vừa bình dân, vừa suy tư lại vừa thích thảng. Bùi Giáng vượt qua tất cả những khó khăn ấy một cách nhẹ nhàng. Ví dụ dưới đây, tôi chọn một cách tình cờ:
    Hai cô bán phở dịu dàng
    Ðừng nên nói bậy hai nàng buồn ta"
    -Trẫm từ lịch kiếp phôi pha
    Tái sinh bất chợt mà ra phụ lòng
    Tình thương ẩn mặt từ trong
    Nội tâm vô tận mà long đong vì
    Phong tao phấn đại tương nghi
    Tùy thời thể dựng mà tuy nhiên là.
    (Tặng quán phở Huyền Trân)
    Ai cũng thấy rõ hai câu đầu và sáu câu sau có giọng điệu khác hẳn nhau. Vậy mà, riêng tôi, thú thật, tôi không hiểu tại sao Bùi Giáng có thể chuyển từ hai câu đầu xuống sáu câu dưới một cách dễ dàng tự nhiên như vậy. Mà đây cũng lại là một đặc điểm rất phổ biến trong thơ Bùi Giáng. Nói một cách tóm tắt, thơ ông có hai loại từ vựng: một loại tạm gọi là bác học và một loại tạm gọi là bình dân. Bác học thì như thục nữ, thuyền quyên, cảo thơm, thượng thừa, miên trường, đoạn trường, băng tuyết, thập thành v.v...nghĩa là những từ Hán Việt lâu lắm không còn được sử dụng nữa. Còn bình dân thì như đại ca, Huê ky., Liên Xồn, lai rai, nhậu nhẹt, máu me, số dzách, dấn bước, dấn liều v..v...nghĩa là những khẩu ngữ còn lấm lem bụi bặm ngoài đường ngoài phố. Cả hai loại đều dễ khiến giới làm thơ chùn tay. Dùng loại trên thì dễ có nguy cơ trở thành sáo, cổ. Dùng loại dưới thì dễ có nguy cơ trở thành nhả nhớt, rẻ tiền. Bùi Giáng hoàn toàn thoát khỏi hai nguy cơ ấy. Hơn nữa, ông còn hòa trộn cả hai loại ngôn ngữ ấy lại với nhau một cách tài tình. Ðọc, người ta không hề có chút cảm giác lấn cấn nào. Như một phép mầu.
    Gắn liền với sự xóa nhòa trên là một sự xóa nhòa khác: xóa nhòa ranh giới giữa truyền thống và hiện đại. Không phải Bùi Giáng kết hợp truyền thống và hiện đại, như cái điều chúng ta có thể nói về một số nhà thơ khác. Nói đến sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại tức là thừa nhận chúng ta có thể ít nhiều khu biệt đâu là truyền thống và đâu là hiện đại. Ở Bùi Giáng, mọi nỗ lực khu biệt ấy đều trở thành vô vọng. Ở Bùi Giáng, tính chất truyền thống và tính chất hiện đại tan hòa vào với nhau. Là một. Thể thơ ông dùng: cũ; hình tượng ông dựng: cũ; ngôn ngữ ông viết: cũ, thế nhưng, rất lạ, toàn bộ bài thơ của ông thì lại mới, mới như chưa từng có ai viết được như thế. Mới đến độ tôi có cảm tưởng phần lớn những từ, những chữ nào đã được Bùi Giáng sử dụng một lần đều trở thành của riêng của Bùi Giáng, một thứ tài sản của Bùi Giáng, trên đó có dấu ấn của Bùi Giáng; sau đó, ai dùng lại những từ ấy, chúng ta cứ ngờ ngợ như họ ăn cắp của Bùi Giáng. Ðọc thơ của bất cứ người nào, hễ gặp chữ " giũ áo" , " rớt hột" , " đười ươi" , " chuồn chuồn" ," châu chấu" ...chúng ta hay tri hô lên: Bùi Giáng! Ngay cả một số từ quen thuộc hơn, như " thập thành" , " máu me" , " lai rai" ...chúng ta cũng lại tri hô lên: Bùi Giáng! Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiếm có trường hợp nào lạ lùng đến như vậy. Phần lớn, tính chất độc đáo chỉ ở cấp độ bài hoặc cấp độ câu. Ở Bùi Giáng, tính chất độc đáo thể hiện ngay ở đơn vị từ. Với sự xuất hiện của Bùi Giáng, số phận các nhà thơ đâm ra lao đao hẳn. Khi chọn chữ không khỏi có cảm giác e dè vì sợ dẫm vào dấu chân của Bùi Giáng.
    Thứ ba, là sự xóa nhòa ranh giới giữa cái gọi là thơ và cái gọi là phi thơ. Ngổn ngang trong thơ Bùi Giáng những chi tiết ngỡ như không bao giờ thành thơ được, ngỡ như mãi mãi thuộc thế giới của văn xuôi, của tiểu thuyết, của đời thường. Nhớ người yêu, có lẽ ai cũng nhớ như Bùi Giáng nhưng không có ai viết được như Bùi Giáng:
    Bây giờ em đứng nơi đâu
    Cỏ trong mình mẩy em sầu ra sao
    (Gửi thôn nữ Vĩnh Trinh)
    Bùi Giáng có tài hóa giải những tình thế oái oăm: cái đáng lẽ sàm sỡ, dưới ngòi bút ông, tự nhiên thành thơ mộng, thiết tha, tội nghiệp. Bùi Giáng cũng có tài làm cho những cái lắt nhắt trở thành mênh mang:
    Sáng nay bao tử mơ mòng
    Cà phê bên nọ, cháo lòng bên kia
    (Sáng nay)
    Tất cả những chi tiết ấy đều tầm thường đến độ nhảm nhí. Ði vào thơ Bùi Giáng, tự dưng chúng lại có một âm vang gì rất lạ, rất xa, tưởng như không còn là chuyện " cà phê" hay " cháo lòng" nữa.
    Một nỗi phân vân giữa cuộc đời, chẳng hạn. Một niềm xót xa trong cảnh khốn cùng, chẳng hạn. Bùi Giáng còn có tài làm cho những cái linh thiêng trở thành bình thường. Những Thượng Ðế, Phật, Thánh Hiền...đi vào thơ ông, mất một chút hào quang, song bù lại, dường như đẹp hơn. Bùi Giáng làm cho cái đáng kính biến thành cái đáng yêu. Hình tượng ni cô trong thơ ông là một ví dụ. Bùi Giáng cũng lại có tài làm cho cái thô và tục trở thành những cái thơ mộng, xôn xao. Cuối cùng, thứ tư, tôi tạm gọi là sự xóa nhòa giữa cái lý và cái phi lý; ít có ai để ý trong thơ Bùi Giáng có đặc điểm nầy: ông rất thích dùng những từ có tính chất lý luận như " mặc dù" , " càng...càng" , " vẫn là" , " và" , " vì" . " rằng" , " bởi chưng" , " chỉn e" , " té ra" , và đặc biệt, nhiều nhất là từ " tuy nhiên" ... Chắc chắn là không có nhà thơ nào dùng các từ nầy nhiều bằng ông. Thế nhưng, cách Bùi Giáng sử dụng các liên từ nầy rất lạ lùng, không giống bất cứ người nào trước ông hoặc sau ông. Xin hãy đọc lại bài Tặng quán phở Huyền Trân dẫn ở trên, và hãy chú ý đến ba câu cuối cùng: chữ " vì" và chữ " là" đứng hết sức lửng lơ. Chúng không nối kết cái gì cả. Chúng cũng không giải thích cái gì cả. Chúng hoàn toàn trái ngược mọi luật lệ ngữ pháp. Chúng thường xuất hiện ở những vị trí thật bất ngờ: ở cuối câu, thường là câu cuối bài:
    -Em về - nhà cửa nhỏ nhoi
    Buồn rầu khôn xiết em soi gương và...
    (Em đi)
    -Nối đuôi khởi sự từ đầu
    Ví dù kết thúc trước sau vẫn là...
    (Vẫn là là)
    -Bá phương phảng phất rồi xa
    Mùi hương xa vắng càng xa xôi càng...
    (Băng tâm)
    -Mai sau dù có đi về
    Xin nhìn gió rụng ngành tre thưa rằng...
    (Em về)
    Lovetolive[/size=18]
  8. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Hưng Quốc
    Những bài viết về nhà thơ Bùi Giáng

    Một điều vừa thú vị vừa khó hiểu là: người đọc thơ Bùi Giáng lại ít chú ý, không bị giật mình vì những cách dùng từ, đặt câu ngược ngạo như vậy. Mà, ở những trường hợp nầy, Bùi Giáng đều cố tình cả. Một mặt, tần số xuất hiện của những kiểu câu như thế ê hề; mặt khác, nhiều lúc Bùi Giáng đem những liên từ lý luận ra đùa nghịch:
    -Nếu và nhưng vẫn ắt rằng
    Tuy nhiên thế nọ thường hằng thế kia
    Và nhưng tuy dẫu là chia
    Lìa cha biệt mẹ bốc tia sinh tồn
    (Tuy nhiên)
    -Tuy nhiên đất quạnh sơn hà
    Còn tuy nhiên mãi họa là nhiên tuy
    (Ich dụng hung sự)
    -Mần răng ra rứa ví dù
    Mần ri thế nọ tịt mù thế kia
    (Mỗi ngày)
    Một lần, Bùi Giáng giải thích: " Dù sao, tôi nói dù sao, bởi vì thiên hạ vốn ưa thích dù sao. Cho có mạch lạc. Chứ thật tình tôi chẳng rõ sao gọi là mạch lạc liên tục ngụ trong tính tình của ngôn ngữ dù sao dao sù" (9)
    Cách phân tích như trên khá nguy hiểm: nó dễ làm cho người ta có cảm tưởng thơ Bùi Giáng là một cái gì tĩnh tại và cố định. Thật ra, không phải. Theo dõi thơ Bùi Giáng chúng ta sẽ nhận ra ông thay đổi không ít. Tập Mưa Nguồn xuất bản năm 1962 rất trong sáng; từ tập Ngàn thu rớt hột (1963) về sau, thơ ông tối tăm hẳn; sau năm 1975, ở hai tập thơ xuất bản tại hải ngoại, thơ ông trong sáng trở lại, nhưng so với Mưa Nguồn, đằm hơn, lắng hơn và chín hơn. Mưa Nguồn là niềm nhớ thương đồng ruộng không nguôi:
    -Viết thơ lạc dấu sai dòng
    Viết trong tức tưởi sợ đồng lúa mong
    -Viết thơ là trở lại bên
    Con người thôn nữ răng đen hai hàng
    (Ca dao)
    Sau này, ông vẫn bâng khuâng nhớ đồng quê. Chỉ bâng khuâng thôi. Nghĩa là rất man mác. Có một câu thơ có lẽ ông thích, cứ lặp đi lặp lại rải rác ở nhiều bài thơ khác nhau:
    Trông về đồng ruộng đôi khi
    Thị thành tâm sự hoài nghi trăng tà
    (Gấu buồn)
    Nhưng tâm sự chính của ông là nỗi tuyệt vọng về khả năng giao cảm giữa người và người, niềm cay đắng trước một xã hội ngày một đảo điên. Ông hoàn toàn cô độc:
    quay về một cõi riêng thôi
    liệu trong tấc cỏ kiếm trời ba xuân
    (Ðời rộng đương chìm)
    Ông làm thơ cho hư không:
    Bây giờ xin ngó cụm cây
    Chắp hàng viết nốt áng mây về trời
    (Bây giờ)
    Ông độc thoại:
    Ngàn năm độc đối riêng hàng
    Tờ xanh ứa lệ đẫm trang xuân đầu
    (Khởi từ)
    Có khi ông im lặng:
    Từ đây đổi vịt thay gà
    Chán chường đến thế là ta ngậm lời
    (Nhà ma đi đời)
    Sau 1975, cảm giác cay đắng và tuyệt vọng ấy, không hiểu tại sao dường như nhẹ nhàng đi nhiều. Ðời sống ông cơ cực hơn, những cơn điên đến với ông thường xuyên hơn (10), song thơ của ông lại có vẻ thanh thản hơn. Ông bớt những thắc mắc siêu hình để quan tâm hơn đến khía cạnh cảm xúc, từ đó, nhấn mạnh đến yếu tố tâm hồn, coi đó là nguồn gốc của thơ:
    Chợt mùa thơ vội đổi giòng
    Cỗi nguồn cũng bởi tự lòng mà ra
    (Từ bấy tới nay)
    Với quan niệm như vậy, thơ không còn là trò đùa nghịch chữ nghĩa nữa mà là một sự bộc bạch tâm sự:
    Lời tỉnh táo, lời mê man
    Ðiệu thê thiết rống điệu bàng hoàng ca
    (Y ư mộng du ư mê)
    Do đó, ông khao khát được thông cảm:
    Xổ bầu tâm sự điêu linh
    Ai người chia xẻ với mình với ta
    (Một giờ)
    Bài Bao giờ in trong tập Thơ Bùi Giáng do Thế Kỷ 21 xuất bản là một bài thơ hay:
    Bằng bút chì đen
    Tôi chép bài thơ
    Trên tường vôi trắng
    Bằng bút chì trắng
    Tôi chép bài thơ
    Trên lá lục hồng
    Bằng cục than hồng
    Tôi đốt bài thơ
    Từng phút từng giờ
    Tôi cười tôi khóc bâng quơ
    Người nghe cười khóc có ngờ chi không
    Thơ, với Bùi Giáng, trước hết là một sự hiện hữu cụ thể với những màu sắc cụ thể nhất định: đó là một văn bản với những từ, ngữ, giấy, mực cụ thể. Văn bản ấy có đời sống riêng của nó: có sinh có tử. Nhưng đằng sau, ẩn náu phía trong cái hình thức cụ thể ấy lại là một tâm tình, là tiếng cười, là tiếng khóc. Tâm tình của người làm thơ òa vỡ bất chấp những giới hạn tự thân của ngôn ngữ:
    Ngữ ngôn khép kín mặc dầu
    Hùng tâm tim máu óc đầu mở ra
    (Bé con ơi)
    Bùi Giáng băn khoăn:
    Tôi cười tôi khóc bâng quơ
    Người nghe cười khóc có ngờ chi không ?
    Bùi Giáng lại năn nỉ:
    Tặng nhau từ ngữ lạc lầm
    Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn
    (Y ư mộng du ư mê)
    Trong bài Thuở chưa điên in trong tập Thơ Bùi Giáng do Việt Thường xuất bản tại Canada năm 1990, Bùi Giáng tự so sánh thơ mình ngày trước với thơ mình bây giờ:
    Ấy là thơ thuở chưa điên
    Ở trong dấu ngoặc quàng xiên reo cười
    Bây giờ xoang điệu đười ươi
    Ðiệu hoa lầu các ngậm ngùi dấn thân
    Sự khác nhau không phải ở chỗ: có lúc ông " quàng xiên reo cười" , có lúc ông lại " ngậm ngùi dấn thân" . Ở Bùi Giáng, cái cười và cái khóc đôi khi rất giống nhau. Theo tôi, chỗ khác nhau căn bản là: trước đây, Bùi Giáng loay hoay mãi trong " dấu ngoặc" của ý thức, của cái tôi; sau nầy, ông tung hê hết, ông hòa nhập vào cái chung của cuộc đời:
    Ta quên như thể mình ta quên mình
    (Tặng hai cháu Quỳnh và Na)
    Ông trở thành dễ thương và tội nghiệp vô cùng:
    Trái tim mỗi mới mỗi ngày
    Mỗi giờ phút động mây trời rung rinh
    Ðường đi mất hút thình lình
    Những khuôn mặt lạ những hình ảnh quen
    Tạm nhờ men rượu nguôi quên
    Niềm vui nỗi nhớ chênh vênh lạ lùng
    (Ðường quanh ngõ quẹo)
    Ở khía cạnh nầy, có thể nói Bùi Giáng xóa nhòa ranh giới giữa cái tôi và cái ta, giữa cái riêng và cái chung: Hoặc rằng người cũng là tôi
    Hay là tôi cũng là tôi như người
    Ấy rằng tinh thể đười ươi
    Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
    Ấy rằng một cũng là ba
    Là hai mai một mốt là hôm nay. Xóa nhòa. Xóa nhòa ranh giới giữa các giọng điệu, giữa truyền thống và hiện đại, giữa thơ và phi thơ, giữa cái lý và cái phi lý, giữa cái tôi và cái ta, cái riêng và cái chung, xóa nhòa mọi sự phân biệt, biện biệt; theo tôi, đó là những đặc điểm nổi bật nhất trong thơ Bùi Giáng. Bằng những sự xóa nhòa ấy, Bùi Giáng xóa nhòa luôn cả ranh giới giữa cái gọi là văn hóa cao cấp và văn hóa bình dân. Ðồng thời, Bùi Giáng cũng xóa nhòa luôn cả tính chất nghiêm nghị, nghiêm túc với những khẩu hiệu ồn ào như " vị nhân sinh" , " vị nghệ thuật" vốn kéo dài rất lâu trong văn học Việt Nam. Khác với các nhà thơ khác, lúc nào cũng nhăn mặt nhíu mày, lao vào thơ như lao vào một trận địa, kỳ khu và khắc khổ, lúc nào cũng khắc khoải sáng tạo ra cái mới, mà chưa chắc đã mới và chưa chắc đã hay. Bùi Giáng, ngược lại, làm thơ cứ như đùa như giỡn, như không phải đang làm thơ, vậy mà tự nhiên thơ lại trở thành bát ngát, lấp lánh và lộng sắc lộng hương. Mai Thảo kể: " ba chữ " vui thôi mà" là câu trả lời mơ hồ nghịch ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của (về?) lực thơ và số lượng thơ không thể tưởng tượng được ở nơi ông" , rồi bình tiếp: " thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui" (11). Theo Leslie Fiedler, sự xóa nhòa văn hóa giữa văn hóa bình dân và văn hóa cao cấp, và cùng với nó, việc đoạn tuyệt với chủ nghĩa đặc tuyển (elitism) và tính chất nghiêm cẩn (seriousness) là những đặc điểm chính yếu của chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism) (12). Ở khía cạnh nầy, Bùi Giáng rất gần các nhà thơ hậu hiện đại.
    Bùi Giáng còn gần gũi các nhà thơ hậu hiện đại ở một khía cạnh khác nữa: một số khá nhiều các bài thơ của ông là loại thơ không thể giảng. Susan Sontag cho một trong những đặc trưng lớn của chủ nghĩa hậu hiện đại là tính chất phản diễn dịch (anti-interpretation), là sự nhấn mạnh vào hình thức và sự trình diễn (performance) hơn là nội dung và ý nghĩa (13). Chúng ta biết theo quan niệm của Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ chỉ là một hệ thống ký hiệu, ở đó, mỗi đơn vị ký hiệu đều có hai mặt: cái biểu đạt (signifier) và cái được biểu đạt (signified). Cái biểu đạt là âm hoặc chữ viết. Cái được biểu đạt là ý niệm do âm hoặc chữ viết ấy gợi lên trong đầu chúng ta. Ví dụ, nghe âm " chó" (cái biểu đạt), chúng ta nghĩ ngay đến giống vật thường được nuôi trong nhà (cái được biểu đạt) (14). Từ đó, người ta đi đến chỗ coi bài thơ cũng là cái biểu đạt. Ðọc thơ là để tìm kiếm cái được biểu đạt, tức ý nghĩa, điều ẩn giấu phía sau bài thơ. Với Bùi Giáng, cũng như với các nhà thơ hậu hiện đại, ngược lại, bài thơ là cái được biểu đạt chứ không phải là cái biểu đạt. Nói cách khác, bài thơ là bài thơ. Không có ý nghĩa nào ẩn sau bài thơ để chúng ta đào xới, tìm kiếm. Nó giống như một bức tượng đá. Bề mặt: đá; trong ruột: cũng là đá. Do đó, nếu hỏi ý nghĩa bài thơ Ðạm Tiên tôi dẫn ở trên là gì ư? Chịu! ý nghĩa của nó là chính sự hiện hữu của nó, là bài thơ có nhan đề Ðạm Tiên, vậy thôi! Chúng ta không thể phân tích. Chúng ta chỉ cần nghiệm (experience). Ðọc lần thứ nhất: chúng ta không hiểu gì cả. Ðọc lần thứ hai: chúng ta vẫn không hiểu gì cả. Nhưng càng đọc, chúng ta càng nghe rõ, càng thấm, càng cảm cái nhạc điệu lầm rầm, lầm rầm của bài thơ. Nghe như thần chú. Như tiếng tụng kinh. Như lời cầu hồn. Chúng ta sống trong một không khí huyền bí, ma quái, không có gì rõ nét. Thì Ðạm Tiên là một bóng ma mà! Ở nhiều bài thơ khác, điều chúng ta nghiệm được thường là sự bất lực của ngôn ngữ; chúng ta không hiểu vì chính nhà thơ cũng không thể diễn tả được những gì ông chỉ cảm nhận một cách mơ màng hoặc bằng trực giác hoặc bằng tiềm thức.
    Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại được chăng? Khái niệm hậu hiện đại, mặc dầu xuất hiện từ thập niên 30 và 40 với Frederico de Oniz, Dudley Fitts và Arnold Toynbee, được sử dụng khá nhiều tại Mỹ vào thập niên 50 và 60, trở thành thời thượng tại Âu Mỹ từ giữa thập niên 80 đến nay (15), vẫn còn khá xa lạ với giới cầm bút Việt Nam. Ðiều đó dễ gợi cho chúng ta ấn tượng chủ nghĩa hậu hiện đại là cái gì rất mới, chỉ gần đây thôi, gắn liền với máy vi tinh, chẳng hạn. Tuy nhiên, trên thực tế, khác hẳn. Danh sách các nhà thơ hậu hiện đại được Jerome Mazzaro phê bình trong quyển Postmodern American Poetry bao gồm W.H.Auden (1907-73), Randall Jarrell (1914-65), Theodore Roethke (1908-63) v..v..(16). Với Margaret E. Gray, ngay cả Marcel Proust (1871-1922) cũng là một nhà văn hậu hiện đại (17). Chúng ta có thể gọi Bùi Giáng là nhà thơ hậu hiện đại hay hậu " iện" đại (người vượt ra ngoài chủ nghĩa " iện" đại tại Việt Nam) hay " ậu" hiện đại (người ít nhiều - chứ chưa hoàn toàn - nhích ra khỏi chủ nghĩa hiện đại theo cách hiểu truyền thống tại Tây phương) được chăng? Dù sao, vấn đề xác định danh xưng ở đây, tôi nghĩ, cũng không phải là điều quan trọng. Quan trọng hơn, chúng ta cần ghi nhận đóng góp lớn lao của Bùi Giáng: ông đã tiến một bước khá xa trên con đường hòa giải giữa thơ và hiện thực cũng như giữa nhà thơ và người đọc.
    Nguyễn Hưng Quốc (Trích " Thơ, v.v...và v.v.." )
    Lovetolive[/size=18]
  9. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Hưng Quốc
    Những bài viết về nhà thơ Bùi Giáng
    Chú thích:
    (1) Mai Thảo (1994), " thay lời bạt: Một vài kỷ niệm với Bùi Giáng" , in trong tập Thơ Bùi Giáng, nxb Thế kỷ 21, California, 1994. tr. 146.
    (2) Như trên, tr. 139.
    (3) Thanh Tâm Tuyền (1994) " Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn" , Tạp chí Thơ (California) số 1, Mùa thu 1994, tr, 73-75.
    (4) Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Ca Dao, Saigon. tr, 102-3.
    (5) Thơ Bùi Giáng, Việt Thường xuất bản tại Montreal, 1990 và Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21 xuất bản tại CA, 1994. (6) Trong bài " Bao giờ" và " Bài thơ của tháng giêng" in trong tập Liên, đêm mặt trời tìm thấy, nxb Sáng Tạo, Saigon, 1964.
    (7) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, Sống Mới in lại tại hải ngoại, không ghi năm, tr. 223-4.
    (8) Dẫn theo Steiner,G. (1967) Language and Silence, Faber & Faber, London, tr. 72.
    (9) Bùi Giáng (1970) Mùa thu trong thi ca, sđd. tr. 17.
    (10) Xem Phạm Xuân Ðài, " Kẻ cuồng sĩ trong vườn cây" lời tựa tập Thơ Bùi Giáng, Thế Kỷ 21, 1994, tr. 15-26.
    (11) Mai Thảo (1994), bài đã dẫn, tr. 141.
    (12) Fiedler, L. (1975) " Cross the Border - Close the Gap: Postmodernism" in trong tập American Literature since 1900 do Cunliffe chủ biên, Sphere Books, London, 1975, tr. 344-366.
    (13) Sontag, S. (1966), Against Interpretation and Other Essays, Delta, New York.
    (14) Tác phẩm chính của Saussure, Cours de linguistique générale, in tại Paris năm 1916, sau đó, được dịch ra nhiều thứ tiếng và tái bản rất nhiều lần; một thời gian dài, ít nhất cho đến đầu thập niên 70, được xem như một tác phẩm kinh điển trong ngành ngôn ngữ học trên khắp thế giới. Về Saussure, có thể xem quyển sách giới thiệu rất hàm súc của Jonathan Culler, Saussure, Fontana/Collins, 1976.
    (15) Về lịch sử thuật ngữ " chủ nghĩa hậu hiện đại" , có thể xem: Bertens.H.(1986), " The Postmodern Weltanschauung and Its Relation with Modernism: An Introductory Survey" in trong Approaching Postmodernism do Fokkema, D & Bertens, H. biên tập, John Bengamins xuất bản tại Amsterdam, 1986, tr. 9-51; Best, S & Kellner, D. (1991), Postmodern Theory, Macmillan, Hampshire, tr. 1-33. Về chủ nghĩa hậu hiện đại trong lãnh vực văn học, có thể xem: Hassan, (1982), The Dismenberment of Orpheus: toward a Postmodern Literature, Oxford University Press, NY.; Hassan, I. (1987), The Postmodern Turn: Essays in Postmodern Theory and Culture, Columbus; Spanos, W. (biên tập) (1979),Martin Heidegger and the Questions of Literature: toward a Postmodern Literary Hermeneutics, Indiana University Press, Bloongton; Connor, S. (1989), Postmodernist Culture: an Introduction to Theories of the Contemporary, Basil Blackwell, Oxford, đặc biệt chương 4, " Postmodernism and Literature" , tr. 103-131; McHale, B. (1986), " The Semantic and Syntatic Organisation of Postmodernist Texts" in trong tập Approaching Postmodernism, sđd, tr. 81-98; và Jameson, F. (1988), " Postmodernism and Consumer Society" in trong Postmodernism and its Discontents: Theories & Practices, Kaplan E.A. biên tập, Verso, London, tr. 13-29.
    (16) Mazzaro, J. (1980), Postmodern American Poetry, University of Illinois Press, Urbana.
    (17) Gray, M. E. (1992), Postmodern Proust, University of Pennsylvania Press, Philadelphia.

    Lovetolive[/size=18]
  10. Julian

    Julian Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    25/11/2002
    Bài viết:
    1.565
    Đã được thích:
    0
    Nguyễn Tất Nhiên

    Ông tên thật là Nguyễn Hoàng Hải, sinh ngày 30-5-1952 tại xã Bình Trước, quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa. Sau 5-1975 sống tại Hoa Kỳ. Mất ngày 3-8-1992 tại California. Lúc còn trẻ ông còn có biệt danh là Hải Khùng.
    Theo lời nhà thơ Thái Thụy Vy (người cùng quê với ông) "hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang mà anh ưa mặc cái manteau mua ở khu Dân sinh, mồ hôi nhễ nhại, ưa đạp xe đạp đi cua cô em Bắc Kỳ nho nhỏ tên Duyên; anh nhỏ hơn tôi đúng một con giáp, tuổi Thìn; anh thường làm thơ in ronéo đi phát không cho nữ sinh, họ đều quăng vào thùng rác, đến lúc Vĩnh Phúc và Nguyễn Xuân Hoàng dạy trường Ngô Quyền gửi đăng ở tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, được Phạm Duy và Nguyễn Đức Quang phổ các bản "Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá", "Trúc đào", "Vì tôi là linh mục"," Em hiền như ma soeur", "Kià cô em Bắc kỳ nho nhỏ","Hai năm tình lận đận" thì nữ sinh ùn ùn kiếm mua thơ anh; Nguyễn Tất Nhiên sau lấy Minh Thủy, xóm Cây Me, chú út tôi là Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam lấy chị thứ ba là Minh Vân ....
    ... Lúc Nguyễn Tất Nhiên quyên sinh trước cửa chùa Việt Nam, California, anh chưa được trông thấy tác phẩm "Minh Khúc" của anh ra đời. Quyễn thơ nầy đang bị tranh chấp giữa Minh Thủy và gia đình Nguyễn Ngọc (cha của Nguyễn Tất Nhiên) chưa ngã ngũ"
    Tác phẩm đã in:
    nàng thơ trong mắt (1966, cùng với Đinh Thiên Phương)
    dấu mưa qua đất (1968, cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình)
    thiên Tai (Thơ, 1970)
    thơ Nguyễn Tất Nhiên (Thơ góp nhặt từ 1969-1980, nhà xuất bản Nam Á - Paris in lần đầu tiên)
    những năm tình lận đận ( tập nhạc 1977-1984, nhà xuất bản Tiếng Hoài Nam)
    chuông mơ (Thơ từ năm 1972-1987, nhà xuất bản Văn Nghệ - California)

    Cứ Ngỡ Như Là Mới Nhớ Thôi

    (Westminster, CA. ngày 04.07.87)
    tâm hồn tôi có một dòng sông
    chảy qua nhà cô bạn chung trường
    chiều sông dâng sóng miên man gió
    bay tóc bay hồn tôi thanh tân...
    tâm hồn tôi có một bờ sông
    bên cạnh nhà cô bạn chung trường
    chiều miên man gió sông dâng sóng
    dâng tuổi dâng tình tôi mênh mông...
    tâm hồn tôi thức trắng đêm dài
    em bay áo trắng nắng ươm mây
    chiều êm nắng rủ nhau đi ngủ
    trên tóc ai lành ru ngủ vai ...
    tâm hồn tôi có quẩn quanh tôi
    có một sông quanh khúc quẩn đời
    có một bàn tay ôm cặp, gói
    cả mộng mơ kia, luyến tiếc này ...
    tâm hồn tôi có tuổi thơ tôi
    có một bâng khuâng thức trắng đời
    đời cứ rủ nhau đi ngủ cả
    tôi thức cho buồn ngỡ ... mới thôi ...
    (Chuông Mơ)

    Lovetolive[/size=18]
    Được julian sửa chữa / chuyển vào 18:46 ngày 22/07/2003

Chia sẻ trang này