1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

CHANCE (Savatage ) - Cơ hội sinh tử hay là bản trường ca về một chiến công thầm lặng .

Chủ đề trong 'Nhạc Rock' bởi Orion-the-HunteR, 07/07/2002.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. Orion-the-HunteR

    Orion-the-HunteR Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    05/07/2002
    Bài viết:
    279
    Đã được thích:
    0
    CHANCE (Savatage ) - Cơ hội sinh tử hay là bản trường ca về một chiến công thầm lặng .

    Nếu như hỏi bất kỳ người nào trong số chúng ta rằng ca khúc nào của Savatage gây ấn tượng nhất thì có lẽ nhiều người sẽ chọn "Chance". Với giai điệu mạnh mẽ, lôi cuốn và lối hoà âm phức tạp, "Chance" nổi lên như một đỉnh cao trong "Handful of Rain" - một album có quá nhiều ca khúc xuất sắc của Savatage . Nó cũng đánh dấu một bước chuyển hướng quan trọng trong phong cách của ban nhạc với việc sử dụng lối hát đối âm (counter-point) gồm nhiều bè khác nhau đan xen, đối chọi trong cùng một đoạn của bài hát (thường là bridge hoặc chorus)... Nhưng hãy để những yếu tố đó sang một bên, chúng ta hãy tìm hiểu ca khúc này như một câu chuyện có thật, ca ngợi chiến công thầm lặng của một con người dũng cảm đã dám đương đầu với mọi thử thách,để mang lại hy vọng sống cho hàng ngàn con người khác mà số phận của họ chỉ mành treo chuông ...
    Ca khúc mở đầu bằng tiếng đàn phím chậm rãi và giọng hát trăn trở, tái hiện trước mắt chúng ta hình ảnh của một người đàn ông đơn độc đang đứng trước một quyết định sinh tử : nên làm theo chỉ thị của thượng cấp hay nên làm theo sự mách bảo của con tim ?

    He was standing all alone
    Trying to find the words to say
    When every prayer he ever prayed was gone
    And the dreams he's never owned
    Are still safely tucked away
    Until tomorrow he just
    Carries on...Carries on...

    (Ông đứng đó hoàn toàn cô độc
    Cố gắng tìm ra ngôn từ để nói
    Khi mà những lời cầu nguyện đã hết cả
    Những giấc mơ ông chưa từng thấy
    Vẫn còn được giấu kín
    Cho tới ngày mai, như không có gì xảy ra...)


    Chỉ có một điều mà người đàn ông đó biết rõ là : trước hay sau gì ông cũng phải chọn lựa giải pháp đúng đắn nhất . Hiện thực tàn khốc hiển hiện trước mắt không cho phép ông do dự thoái lui vì trong tay ông là sinh mệnh của hàng ngàn con người khốn khổ khác, đang bị đe doạ bởi một thế lực tàn bạo : Đức quốc xã .

    See the Devil in the streets at night
    See him running in the pouring rain
    See him grinning 'neath a twisted light
    I'll be back again
    See the people standing in a row
    See them nodding like a field of grain
    No one sees the sickle though
    Coming across the plain

    (Hãy nhìn lũ quỷ trên đường phố trong đêm
    Chạy rầm rập dưới cơn mưa nặng hạt
    Cười nhăn nhở dưới ánh sáng chói loà
    Ta sẽ quay trở lại !
    Hãy nhìn những con người đứng thành hàng dài
    Đầu cúi gập như lúa mì nặng hạt
    Không ai nhìn thấy lưỡi liềm
    Đang phạt qua cánh đồng)


    Nhịp độ của ca khúc trở nên dồn dập, dữ dội gần như khốc liệt với sự tham gia của tất cả các loại nhạc cụ, tạo nên âm thanh của một giàn nhạc giao hưởng, tái hiện lại khung cảnh kinh hoàng của những năm tháng ấy : tiếng giày bốt phát xít gõ rầm rập trên đường như tiếng đinh đóng nắp quan tài, những tên phát xít bủa vây khắp nơi lùng bắt những người Do Thái, lùa họ vào những khu tập trung, những nạn nhân của chúng với ngôi sao David gắn trên ngực sắp thành hàng, tuyệt vọng và bất lực.

    ....

    Tháng 9/1939, phát xít Đức xâm chiếm Ba Lan mở màn cho cuộc chiến tranh bi thảm nhất trong lịch sử nhân loại. Những người Do Thái trở thành nạn nhân cho chính sách diệt chủng của Hitler, họ bị truy lùng bắt bớ, dồn vào các toa tàu chật ních, đưa đến những trại tập trung ở biên giới Đức - Áo. Những người Do Thái trên khắp châu Âu tìm cách bỏ trốn đến các nước chưa bị chiến tranh đụng chạm tới, trong đó có nước Cộng hoà Lithuania ở ven biển Baltic...
    Sáng sớm ngày 27/7/1940, nhà ngoại giao Nhật Bản Sempo Sugihara bị đánh thức bởi tiếng la hét vọng vào từ bên ngoài toà Lãnh sự Nhật ở Kaunas, Lithuania. Ông nhìn qua cửa sổ và ngạc nhiên trước cảnh tượng một đám đông hỗn loạn hàng trăm con người đang nhốn nháo như chờ mong điều gì đó quan trọng . Người chủ nhà thông báo cho ông đó là những người tị nạn Do Thái và tất cả những gì họ cần là một tấm visa để đến một nước thứ ba . Vào thời điểm đó, không một toà lãnh sự nào ở Lithuania chịu cấp visa cho họ vì chẳng nước nào muốn chứa chấp người tị nạn Do Thái. Hoàn cảnh của Sugihara cũng thật trớ trêu vì nước Nhật quê hương ông cũng sắp trở thành đồng minh của phát xít Đức... Ông đánh điện về Bộ ngoại giao ở Tokyo để mong được sự cho phép của thượng cấp nhưng đáp lại chỉ là một sự phúc đáp lạnh lùng "không được cấp hộ chiếu cho những người không có nơi đến định trước". Ông cố gắng thuyết phục phía Tokyo nhưng chỉ vô ích, câu trả lời vẫn như vậy . Sugihara hiểu rằng ông chỉ còn một cách lựa chọn : phải tuân theo lệnh của chính phủ Nhật để rồi nhìn hàng ngàn con người khốn khổ bị sát hại dã man, hoặc nghe theo lương tâm để rồi phải chấp nhận những hậu quả khôn lường. Sugihara nói với vợ "Tôi phải làm điều gì đó"...

    And this he knows if nothing more
    That waiting in the dark like destiny
    Are those who kissed the dogs of war
    And there is no tomorrow
    No tomorrow!
    Take a chance ! Take a chance !
    ...
    See the Devil, he is so intense
    See the Devil go and change his name
    What's the going price of innocence
    It can't be the same
    Is it dark when the moon is down
    Is it dark with a single flame
    If there's glass falling all around
    I am not to blame

    (Ông hiểu rằng không còn ai khác
    Những ai đang chờ đợi trong bóng tối như là định mệnh
    Đó là những con người khốn khổ của chiến tranh
    Không bao giờ còn thấy ngày mai!
    Hãy đón nhận cơ hội này!
    Dẫu biết rằng bọn xấu xa thật lớn mạnh
    Thay hình đổi dạng dễ như không
    Cái giá của sự bàng quan sẽ như thế nào?
    Không bao giờ như nhau!
    Phải chăng đêm đến khi mà vầng trăng lặn ?
    Phải chăng đêm đến cùng ngọn lửa cô quạnh ?
    Nếu như mọi sự quanh đây có đổ vỡ
    Đừng đổ lỗi cho tôi ... )


    Sugihara là một con người luôn làm theo sự mách bảo của lương tâm. Thời niên thiếu, cha ông muốn ông trở thành bác sỹ nhưng ông lại theo đuổi ước mơ nghiên cứu văn học và làm việc ở nước ngoài . Do đó trong kỳ thi vào trường Y ông đã bỏ giấy trắng để có thể theo học chuyên ngành tiếng Anh tại ĐH Waseda, Tokyo. Cơ hội đến với Sugihara khi ông đọc được một thông báo tuyển người của Bộ ngoại giao, ông vượt qua kỳ thi sát hạch rồi tốt nghiệp hạng xuất sắc . Sugihara được điều đến làm đại sứ của Nhật tại Mãn Châu, Trung Quốc. Bất mãn với sự đối xử tàn bạo của người Nhật với dân địa phương, ông bỏ về nước, cho đến năm 1939 mới đến Lithuania làm việc tại lãnh sự quán Nhật ở đây, ông là tổng lãnh sự và cũng là nhân viên duy nhất... Ông phải làm gì để cứu vớt những con người khốn khổ đó đây ? Sugihara đã thức trắng đêm để tìm cách cứu những người tị nạn.

    ...

    Người đàn ông ngồi trầm tư một mình trong căn phòng tranh tối tranh sáng. Bên ngoài cửa sổ đêm đen đang dần tan biến, âm thanh những tiếng cầu xin của đám người tị nạn vẫn ám ảnh ông, bám riết lấy tâm trí ông, thúc giục ông đưa ra một lựa chọn sinh tử, thời gian không còn nhiều nữa. Bỗng chốc ông phải đối mặt với tất cả : Tương lai, sự nghiệp, lương tâm, tinh thần trách nhiệm đối với Tổ quốc ...Thật vô cùng khó khăn !
    Lắng xuống đi một lúc với tiếng guitar luyến láy những nốt ngân dài đem lại người nghe sự tĩnh lặng bao trùm trước khi bùng lên cơn bão, ca khúc bước vào phần hát đối âm và đây cũng là một cuộc độc thoại, tự vấn lương tâm dữ dội của Nhà ngoại giao.

    Burn the night away
    Pictures at an exhibition
    Played as he stood his trance
    Staring at his inhibitions
    All the time believing
    That it now came down to nothing but this chance

    (...Đêm đen tan biến dần
    Những cảnh tượng phơi bày trước mắt
    Ông ta đứng đó như bị thôi miên
    Đối diện với sự ức chế của bản thân
    Mà vẫn luôn phải tin tưởng
    Không còn gì nữa ngoài một cơ hội này...)


    Một giọng nói khác vang lên đầy chất vấn :

    I fear you
    Your silence
    Your blindless
    See what you want to see
    In darkness
    One kindness
    One moment
    Tell me what you believe ?

    (...Ta e sợ ngươi
    Sự im lặng của ngươi,
    Sự mù quáng của ngươi.
    Hãy xem ngươi muốn thấy gì !
    Trong bóng đêm.
    Chỉ có một sự thân ái,
    Một giây phút thôi.
    Hãy nói đi ngươi tin vào cái gì ?...)


    Người đàn ông cố gắng tự tìm ra câu trả lời cho mình :

    I believe in nothing
    Never really had to
    In regards to your life
    Rumors that are not true
    Who's defending evil
    Surely never I
    Who would be the witness
    Should you chance to die

    (...Tôi chẳng tin điều gì,
    chưa bao giờ thực sự có.
    Đối với cuộc đời ngươi
    Những lời dèm pha đều là giả dối !
    Ai là người đang chống lại lũ xấu xa?
    Chắc chắn không bao giờ là tôi.
    Ai sẽ làm nhân chứng
    Cho cơ hội được chết của ngươi ?)


    Bất lực, ông cầu cứu sự giúp đỡ của Chúa :

    Father can you hear me
    This is not how was meant to be
    I am safe and so are you
    As for the others destiny
    I believe that situations
    All depend on circumstance
    Look away!

    (...Hỡi cha tôn kính, Người có nghe con chăng ?
    Đừng để mọi thứ diễn ra như vậy
    Con và cha đều đang yên ổn
    Đừng thờ ơ với định mệnh của kẻ khác !
    Tôi tin rằng tất cả mọi vị thế
    Đều do hoàn cảnh xui khiến mà ra
    Hãy quay đi !...)


    Tiếng hát đối âm với sáu bè xen lẫn vừa hỗ trợ, vừa đối lập nhau đẩy tâm trí người nghe quay cuồng trong giai điệu của bài hát cũng như cuộc tự vấn lương tâm đầy khó khăn của nhân vật chính, nhưng cuối cùng tất cả các bè đều hợp nhất trong câu :

    All the time believing
    That it now came down to nothing but this chance
    Chance !...Chance!...Chance!


    Lương tâm đã chiến thắng sự vị kỷ, người đàn ông nhận ra rằng phải nắm lấy cơ hội sinh tử này, vì nó sẽ đem lại sự sống cho nhiều con người tuyệt vọng đang chờ giúp đỡ . Sau này khi được hỏi về quyết định của mình, ông nói : " Mọi người đang tuyệt vọng, trong khi tôi có thể giúp họ. Tại sao tôi không làm nhỉ ? ".

    ...

    Sau một đêm không ngủ và cân nhắc kỹ lưỡng, ông đã đưa ra quyết định cuối cùng của mình. Ông nói với vợ, bà Yukiko: "Có lẽ tôi sẽ làm theo ý của tôi, sự nghiệp của tôi sẽ kết thúc nhưng nếu tôi làm ngược lại tức là tôi đã trái ý trời ". Ông thông báo ý định của mình cho tất cả đám người Do Thái tị nạn : ông sẽ cung cấp cho họ những tấm visa đến vùng Caracao - thuộc địa của Hà Lan trên vùng biển Caribê, vùng đất này không cần phải có visa nhập cư mà chỉ cần có visa thông hành .
    Ngày 1/8/1940, Sugihara bắt tay vào công việc, ông làm việc cả ngày lẫn đêm, quên ăn quên ngủ nhưng vẫn không hết việc. Mẫu visa chính thức đã cạn sạch, ông chuyển sang viết tay. Đến tuần lễ thứ ba của tháng 8, phía Tokyo yêu cầu Sugihara ngừng ngay việc cấp visa vì số người Do Thái từ châu Âu đến cảng Kobe và Yokohama quá đông đã gây nên tình trạng hỗn loạn . Ông vẫn phớt lờ và tiếp tục làm việc như điên. Cho đến cuối tháng 8, quân đội Liên Xô chiếm Lithuania, đóng cửa lãnh sự quán Nhật và yêu cầu Sugihara phải chuyển ngay đến Berlin, nhưng người Do Thái thì vẫn tiếp tục đổ về đây . Đêm cuối cùng ở Lithuania, Sugihara bám trụ tại một khách sạn gần toà lãnh sự để làm nốt công việc cấp visa. Sáng hôm sau, cho dù đã ngồi trên tàu hoả, ông vẫn cắm cúi viết nốt những tấm visa cuối cùng và quăng chúng qua cửa sổ cho những người Do Thái ...
    ... Sugihara với nỗ lực phi thường đã cứu sống gần 6.000 người Do Thái trong thời gian đó, mặc dù chính việc này đã làm ông bị cách chức vào năm 1946 . Trong những người đã được ông cứu thoát có nhiều người sau này đã giữ chức vụ quan trọng trong Nhà nước Israel, trong đó có Zorach Warhaftig, người đã soạn ra Tuyên ngôn độc lập cho nước này. Ông đã qua đời năm 1986, chiến công thầm lặng của ông chưa bao giờ được đưa vào những bộ phim ( như "Schindler's List" của đạo diễn Steven Spielberg dã đoạt nhiều giải Oscar năm 1993); nhưng nó sẽ còn được ghi nhớ mãi mãi bởi nhân loại tiến bộ . Đối với người Do Thái, Sempo Sugihara - cái tên đó đồng nghĩa với "đặc sứ của Thượng Đế".
    Các bạn có thể tìm thấy bài viết về Sugihara trên tạp chí Reader's Digest tháng 2/1994, vì vậy hoàn toàn có cơ sở khi nói rằng : bài viết này là sự tôn vinh của Savatage đối với ông, một anh hùng bình dị, một con người đã lấy việc đem lại sự sống cho người khác làm tôn chỉ hành động cho mình.


    And if the band you're in starts playing different tunes,
    I'll see you on the Darkside of the Moon...



    Được Orion-the-HunteR sửa chữa / chuyển vào 07/07/2002 ngày 16:54

    Được kissme sửa chữa / chuyển vào 09/07/2002 ngày 00:01
  2. kissme

    kissme Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    28/12/2000
    Bài viết:
    4.119
    Đã được thích:
    0
    Chuyển vào đây cho mọi người cùng đọc

    I am gonna kill you and cut you in pieces and than eat them all !

  3. Metal85

    Metal85 Thành viên quen thuộc Đang bị khóa

    Tham gia ngày:
    26/06/2002
    Bài viết:
    118
    Đã được thích:
    0
    Bài này hay lắm.Chân thành vote bác 5 sao
    Kijuto
  4. tienlong

    tienlong Thành viên quen thuộc

    Tham gia ngày:
    19/01/2002
    Bài viết:
    573
    Đã được thích:
    0
    cái lão orion_amored nay` yưởng biến luôn rùi mà ??:) he...he`.....viết đọc cũng đã thật !! rockcafe bi dis rùi ! lão PHONG bây giờ mới biết, vậy là bị down 1 tuần nữa rùi! hit
    rockfanzone!!!click here
    www.rockzone.2ya.com
  5. Diem_Xua

    Diem_Xua Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    09/07/2002
    Bài viết:
    6
    Đã được thích:
    0
    Là một fan của Tage nên những gì ông anh cảm nhận âu cũng là cảm nhận của tôi và của tất cả các fan Tage , nhưng để viết lên được những thông điệp mà Tage chuyển tải thì không phải ai cũng làm được !
    Cảm ơn Orion-> ! hy vọng sẽ còn những bài viết hay hơn thế này nữa .
    alexander the great

Chia sẻ trang này