1. Tuyển Mod quản lý diễn đàn. Các thành viên xem chi tiết tại đây

Chặng đường Đỏ từ Stalingrad - hồi ức của Mansur Abdulin

Chủ đề trong 'Kỹ thuật quân sự nước ngoài' bởi danngoc, 22/09/2007.

  1. 1 người đang xem box này (Thành viên: 0, Khách: 1)
  1. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Trong trươ?ng hợp cu?a tôi thi? có thêm một điê?u khác, nó ám a?nh tôi suốt đơ?i: một ca?m giác vê? lương tâm rất mạnh (hoặc tôi có thê? nói la? ốm yếu không nhi??). Tôi ca?m thấy hối hận vi? mi?nh đaf sống sót trên ?oHo?n Đa?o tư? thâ?n? trên sông Dnieper, trong khi hâ?u hết đô?ng đội đaf hi sinh. Va? một điê?u khác. Bă?ng trực giác tôi biết du? trong tương lai có ra sao, bất cứ ai ma? tôi gặp, tôi sef không bao giơ? ti?m được nhưfng ngươ?i bạn thân thiết như nhưfng ngươ?i tôi đaf có nơi chiến trươ?ng, dưới lư?a đạn.
    Nhiê?u năm sau chiến tranh, tôi lái một chiếc xe đi cu?ng với vợ, vội vaf đến nơi na?o đó. Ơ? một chôf hoang vắng, chúng tôi thấy một con bo? vư?a mới đe?. Con nghé co?n ướt đâfm va? mắt không có hô?n. Tự nhiên chúng tôi lái xe quay lại một nông trại gia súc va? báo việc đó. Hoá ra con bo? đaf bị lạc va? mọi ngươ?i ca?m ơn chúng tôi rất nô?ng nhiệt. Một ngươ?i ba?o: ?oCác bạn thấy đô?ng chí đây lái một chiếc Zaporozhets [loại xe hơi re? nhất sa?n xuất bơ?i nga?nh ô tô Soviet -ND]. Chắc chắn đô?ng chí la? một cựu chiến binh tiê?n tuyến. Nếu bác ấy có một chiếc Lada [một nhafn hiệu đắt hơn-ND] thi? ắt bác chă?ng ngại chạy 25km vi? va?i con bo??. Tôi ca?m thấy rất tự ha?o (đặc biệt khi có vợ tôi hiện diện) ră?ng sau chư?ng ấy năm, nhân dân vâfn đánh giá cao cựu chiến binh chúng tôi.
    Quan điê?m na?y được chứng minh. Như tôi thấy, nhưfng ai tư?ng ơ? chiến trươ?ng cố gi?n giưf một phâ?m giá đặc biệt na?o đó trong cuộc đơ?i co?n lại. Đó la? một kha? năng đê? hiê?u nhưfng gi? ngươ?i khác câ?n, đê? giúp ngươ?i khác bơ?i một ca?m giác ti?nh anh em.
    Không biết sao tôi lại thấy ră?ng nhưfng ngươ?i may mắn nhất trong chúng tôi la? nhưfng ai phục vụ cho đến cuối cuộc chiến, cho đến tận nga?y chiến thắng. Không pha?i la? nhưfng ngươ?i đaf bị rơi lại giưfa chư?ng trong các trạm phâfu, bệnh viện?
    Trước lúc rơ?i viện, tôi xin một vé ta?u đi Moscow. Ơ? thu? đô, nhưfng vufng nước mu?a tháng Tư lo?ng bofng khắp nơi., nhưng mu?a xuân cu?a tôi thi? vâfn đang chơ? tôi quay vê? nha?. Tôi bô? đến ga Kazan đê? kịp giơ? chuyến tau Tashkent. Nhưng chuyến đó bị huy? nên tôi đi chuyến khác. Bơ?i thế nên đích đến cu?a tôi lúc đó lại la? Kuibyshev. Tôi đến được tha?nh phố Volga hơn 24 giơ? một tý. Sân ga thật đông đúc. Có rất nhiê?u tre? em, tất ca? chúng trông đói ăn. Tôi mơ? ba lô ra, bọn tre? u?a đến quanh tôi như một đa?n bô? câu. Các cháu đê?u gâ?y go?, chi? co?n da va? xương. Nhưfng đôi mắt to. Tôi ngạc nhiên khi thấy rất nhiê?u cháu kiên nhâfn chơ? đê? được chia phâ?n. Va? thê? la? tôi lên ta?u Tashkent với cái túi rôfng ma? không có lấy một phiếu thực phâ?m na?o, va? nếu không có nhưfng ha?nh khách khác chia cho tôi nhưfng phâ?n ăn đạm bạc cu?a họ thi? chắc 3 nga?y trong chuyến ha?nh tri?nh na?y pha?i khó khăn nhiê?u.
    Tại Tashkent, tôi lại lên ta?u lâ?n nưfa đê? đến thị trấn Chirchik, sau đó tôi dự kiến sef vâfy xe đi nhơ? đến la?ng Brichmulla, bên bơ? thượng nguô?n sông Chatkal, cạnh nhưfng ngọn đô?i. Gia đi?nh tôi đaf chuyê?n đến đây tư? Altai trước chiến tranh không lâu. Cha tôi ba?o chúng tôi ră?ng ông muốn đưa chúng tôi vê? đây bơ?i ông muốn ?ocho chúng tôi ăn táo va? nho?. Nơi na?y nă?m cạnh một mo? quặng thạch tín. Co?n ngược do?ng lên, trên núi la? mo? Sardagon, nơi khai thác quặng vonfram. Tôi rơ?i gia đi?nh sống ơ? vu?ng đó. Bây giơ?, mẹ va? hai em trai đang đợi tôi, đứa bé nhất mới vư?a lên năm. Tôi có thê? hi?nh dung ra nó vui thế na?o: anh ca? vê? tư? chiến trươ?ng! Va? nó sef kê? thế na?o với bọn tre? khác trên đươ?ng bă?ng tiếng Nga, tiếng Uzbek, tiếng Tartar va? tiếng Tadzhik ră?ng anh Mansur cu?a nó la? một anh hu?ng, ră?ng anh Mansur ?ođaf giết ha?ng trăm hoặc ha?ng nga?n tên phát xít?
    Tôi leo lên một chiếc xe ta?i, vốn đaf nhô?i đâ?y phụ nưf Uzbek va? Tadzhik. Họ nhươ?ng cho tôi một chôf gâ?n cabin. Tôi nhi?n nhưfng bạn đô?ng ha?nh, họ ngắm lại tôi. Nhưfng ngươ?i phụ nưf to? mo? muốn biết vê? tôi, tôi đi vê? đâu va? gia đi?nh na?o đaf có ngươ?i con, ngươ?i anh trơ? vê? tư? chiến tranh. ?oVê? Brichmulla? tôi hét lên cái tư? yêu dấu cu?a mi?nh va? bắt đâ?u nói chuyện bă?ng tiếng Uzbek va? tiếng Tartar. Nhưfng cặp mắt đen cu?a họ mơ? bư?ng với sự kinh ngạc. ?oÔ? ! Đó chính la? cậu Mansur!?. Va? rô?i nhưfng phụ nưf Uzbek, Tartar đó lách chách nói như chim ác la?, nhớ lại ră?ng tôi, Nikolai Koniayev, Victor Karpov va? Ivan Vanshin, 4 ngươ?i đaf tự nguyện ra trận hai năm vê? trước. Sau một hô?i nói bất tận, cuối cu?ng một cô gái cufng cho tôi biết la? Nikolai Koniayev co?n đang trong ky? phép, chính tướng Cherniakhovski đaf cho cậu ta một tháng phép va? mang theo một va?i chi? thị đặc biệt, va? ră?ng hiện giơ? Nikolai đang co?n ơ? nha? tại Brichmulla. Tôi vui vô cu?ng khi nghe tin đó, thật quá tốt đê? tin ră?ng sự thật. Có thê? chăng sau hai năm bôn ba dặm trươ?ng, số phận lại cho chúng tôi gặp nhau? Nhưng không!
    Chiếc xe ta?i chạy nhanh vê? phía trước, la?m bốc lên đă?ng sau một đám mây bụi mịt mu?ng. Chúng tôi đaf vượt qua Khodzhikent, rô?i Charvak. Giơ? đang chạy qua một vu?ng đất mơf ma?ng. Ơ? đă?ng kia, thấp bên dưới, la? con nước cu?a do?ng Chatkal đang réo sôi. Rô?i tôi thấy một chiếc xe ta?i chạy nhanh theo hướng ngược lại. Nó cufng le?n đâ?y phụ nưf trong các bộ áo váy ma?u sáng va? giưfa họ, tôi đê? ý thấy một dáng ngươ?i trong quân phục mu?a he?. Chúa ơi, đó chính la? Nikolai! Hai chiếc xe vượt qua nhau, tôi chi? có một giây đê? hét lên: ?oNikolai! Mi?nh, Mansur ne?? cậu ta cufng nhận ra tôi va? hét lên thứ gi? đó. Nhưfng chiếc xe ta?i nhanh chóng đưa chúng tôi theo hai hướng khác nhau: tôi vê? Brichmulla, co?n Nikolai quay lại chiến trươ?ng. Du? ră?ng chúng tôi không thê? nhi?n thấy nhau bơ?i bụi tung mu?, nhưng vâfn vâfy nhau một lúc lâu. Cậu ấy với muf lươfi trai trong tay, co?n tôi la? muf trận.
    Tôi không bao giơ? được gặp lại cậu. Tháng 5 năm 1944, khi tôi đaf la?m việc lại trong mo?, gia đi?nh Koniayev nhận được giấy báo tư? ră?ng Nikolai đaf hi sinh. Tuy nhiên, tôi sef ti?m thấy ơ? gia đi?nh ngươ?i bạn na?y, một cô gái va? la? duy nhất, định mệnh cu?a mi?nh: Nadezhda cu?a tôi. Nhưng đây la? một câu chuyện khác.
    Trong khi đó, tôi đến tri?nh diện tại pho?ng đăng ký quân sự Bostandykski quen thuộc, nơi gâ?n hai năm trước tôi đaf đấm xuống ba?n, yêu câ?u được ra trận. Dươ?ng như giơ? đây tôi cufng ngô?i va?o đúng chiếc ghế đó. Va? cufng chính thiếu tá Galkin ấy đối diện với tôi. Anh im lặng nhi?n tôi với ve? to? mo? ghê gớm một lúc, rô?i sau cu?ng ba?o: ?oĐược rô?i, có việc gi?!?.
    Hết chương 12
    @bác maseo: em co?n 03 trang cu?a phâ?n kết nưfa la? xong tác phâ?m na?y, bác giúp em post các phâ?n phụ lục va?o sau cho nó hoa?n chi?nh. Ca?m ơn bác nhiê?u nhiê?u!
  2. Nakata

    Nakata Thành viên rất tích cực

    Tham gia ngày:
    19/04/2001
    Bài viết:
    1.030
    Đã được thích:
    1
    Các link ảnh chết hết rồi các bác ơi, làm thế nào để xem lại ảnh bây giờ. Các bác đừng up ảnh qua photobucket nhé, vì nó chỉ có thời hạn ngắn thôi
  3. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Phâ?n kết
    Rất nhanh sau đó, không câ?n nghi? ngơi, tôi vui ve? quay lại mo? va? nhận lại phiếu bánh mi?. Cuộc sống rất khó khăn va? luôn thiếu thực phâ?m. Nên tôi quyết định quay lại vê? vu?ng Siberi. Tôi không có ba? con hay bạn be? co?n lại ơ? đó, nhưng tôi chắc la? tôi có thê? sống được, du? chi? bă?ng khoai tây, nấm va? qua? hạch.
    Tôi đến thị trấn Kansk tuộc vu?ng Krasnoyarsk va? đê? nghị cán bộ Đa?ng ơ? địa phương gư?i tôi la?m việc ?oca?ng xa trong rư?ng ca?ng tốt?. Anh ta vui ve? cho tôi một công việc trong mo? Tarakstroi, nơi đó họ bắt đâ?u khai thác gâ?n đây loại monazite, một khoáng chất hiếm, có chứa đến 20 phâ?n trăm chất phóng xạ Thori.
    La? một cựu chiến binh chiến trươ?ng, va? la? một đa?ng viên, tôi lấy nhưfng giấy giới thiệu câ?n thiết tư? đa?ng bộ địa phương va? nhanh chóng đến mo?. Cạnh nhưfng thứ khác, công việc mới cu?a tôi la? chi? đạo khoan va? nô? phá đá. ?oĐê? giưf cho quâ?n kho?i tụt? như cách nói trong nhưfng nga?y đó, họ cấp cho tôi 50kg khoai tây va? một thu?ng nấm ngâm. Va? cufng ti?m cho tôi một pho?ng nho? trong trại.
    Tôi pha?i thực hiện nhiê?u ca nô?. Đó la? một công việc nguy hiê?m. Mọi ngươ?i pha?i được ca?nh báo va? ca?nh giác luôn. Rô?i một lâ?n, lúc nga?y la?m việc gâ?n kết thúc, tôi có nhiệm vụ đi xuống một hâ?m lo? có triê?n vọng bă?ng một thu?ng ga?u. Vấn đê? la? có một trong số 20 lôf nô? có vấn đê? vê? thiết bị nô?. Tôi nhanh chóng ti?m ra nó. Trông ra thi? có một vụ nô? lân cận đaf cắt mất một phâ?n mạch an toa?n. Một cách tự động, tôi châm ngo?i đê? đốt phâ?n co?n lại. Nhưng ngay tức khắc, tôi nhận ra la? mi?nh quên ra hiệu cho anh em bên trên kéo tôi lên! Tôi giật mạnh dây nối va?o co? búa tín hiệu trên mặt đất, nhưng nó bị đứt ơ? đâu đó khúc giưfa va? rớt va?o chân tôi: tín hiệu đaf không được báo! Bê? ngang hố nô? chi? da?i chư?ng 5m. Vụ nô? chắc chắn sef giết tươi tôi! Chi? nếu tôi có đu? thơ?i gian leo lên chư?ng 3 mét trên hố nô? thi? tôi có thê? sống sót! Tôi quyết định du?ng một sợi cáp 8mm đang treo đó đê? vượt qua 3 mét, nhưng tay tôi cứ trơn tuột. Giá ma? có một sợi thư?ng! Trong khi đó, đoạn dây cháy chậm cháy với mức 1cm một giây va? khoa?ng cách đến kíp nô? chi? co?n chư?ng 30 hoặc 40 cm!
    ?oÔi chúa ơi? tôi nghif ?omi?nh đaf sống sót qua chiến tranh, nhưng giơ? lại bị chết ơ? đây, tại nha?, Siberi? Tôi gâ?n như không thơ? được bơ?i la?n khói da?y, ngột ngạt cu?a bột dâfn hoa? va? nhựa đươ?ng. Đột nhiên, chiếc thu?ng ga?u ma? tôi đang đứng, được kéo lên. Suy nghif đâ?u tiên cu?a tôi la?: ?oSao chậm thế??. Nhưng khoa?ng cách đến hố nô? xa thêm va? tôi hi vọng sống sót sau vụ nô?. Chiếc ga?u vâfn đi lên, co?n tôi thi? nguyê?n ru?a mi?nh đaf lafng trí, mắt tôi ứa lệ vui mư?ng. Khi chi? co?n chư?ng 1,5m đến miệng hâ?m, tôi nghe một tiếng nô?. Sóng xung kích phóng tôi ra kho?i hâ?m lo? như một viên đạn cối ra kho?i no?ng!
    Khi tôi có ca?m giác trơ? lại, tôi ho?i anh em ?" họ trông co?n kinh khu?ng hơn tôi ?" ?oTại sao cách cậu biết đươ?ng ma? kéo thu?ng nhi??? ?oBọn tôi nghif la? nghe anh hét Vira-a-ah nên chạy tới va? bắt đâ?u kéo lên?? Tôi nhớ hoa?n toa?n rof la? tôi không hê? la ?oVirah? khi ơ? dưới đó, 20m dưới mặt đất. Bơ?i tôi biết la? nhưfng ngươ?i thợ mo? khác, đang ngô?i trong lê?u chứa dụng cụ, dựng lên đê? tránh cái lạnh âm 30 độ, không thê? nghe được.
    Sáng hôm sau, tôi ba?o một đô?ng nghiệp, đang bóc đá trong hâ?m, ga?o ?~virah? to hết cơf. Cậu ta hét đến kha?n giọng, nhưng tôi, ngô?i cạnh lê?u hoặc bên trong, không nghe được chút gi?! Ca? nhưfng thợ mo? khác cufng vậy ?.
    Lúc đó, mo? tôi la?m việc được điê?u ha?nh bơ?i NKVD [tiê?n thân cu?a KGB]. Nhưfng ngươ?i phạm tội la?m công tác đa?o mo?. La? qua?n đốc, tôi không có rắc rối gi? với họ. Rô?i một lâ?n, khi nga?y la?m việc mới bắt đâ?u, va?i ngươ?i thợ mo? ba?o tôi ră?ng tôi đang nguy hiê?m tính mạng. Mạng tôi hi?nh như vư?a bị ?omất? khi chơi ba?i [bọn tội phạm chơi đặt bă?ng mạng sống cu?a một ai, ngươ?i thua pha?i la?m sát nhân]. Giơ? thi? không an toa?n cho tôi va?o khu la?m việc. Tôi thấy vư?a sợ vư?a bực bội ?oMi?nh la?m gi? với chúng nhi??? Va? rô?i tôi có một lựa chọn đê? thực hiện: hoặc la? tôi tránh không ra khu vực bọn tội phạm la?m việc, điê?u na?y thực sự có nghifa la? mất việc; hoặc tiếp tục như thươ?ng, không đê? ý tới nhưfng đe doạ va? che dấu nôfi sợ. Tôi biết bọn tội phạm thích ?ovui? với nhưfng ông ?osếp? tự do; cố đe doạ họ bă?ng nhưfng nôfi sợ khác nhau bao gô?m ca? cái thứ ba?i ?othua cuộc? na?y. Tuy vậy, chúng tôi không thê? nói ra lúc na?o chúng đu?a va? lúc na?o chúng nguy hiê?m. La? cựu chiến binh, điê?u tôi sợ hơn tất ca? la? tha?nh mục tiêu chế nhạo hoặc ai đó có thê? xem tôi la? một thứ he?n nhát. Tôi mơ?i thượng syf Kozlov, trươ?ng đội ba?o vệ an ninh NKVD đến văn pho?ng va? cho anh biết ră?ng bọn tội phạm đe doạ tôi, gia?i thích cho anh ră?ng tôi pha?i tiếp tục công việc va? giám sát chúng la?m. Tôi yêu câ?u anh thông báo cho đội cu?a mi?nh, vuf trang bă?ng SMG, luôn nhi?n thấy tôi trong tâ?m mắt khi tôi ơ? giưfa đám tội phạm.
    Một giơ? sau, tôi bận rộn kiê?m tra công việc cu?a chúng. Mọi ngươ?i bọn chúng, chư?ng 24 tuô?i,  đê?u có một cái cuốc chim, một chiếc búa tạ, một chiếc xa? beng hoặc một cái ri?u. Tôi đê? ý nhi?n thấy các vệ binh ơ? mọi góc, săfn sa?ng bắn bất ky? giây na?o tư? bốn phía. Khi tôi đi ra kho?i khu đó, lưng tôi đâfm mô? hôi, nhưng tôi vâfn co?n sống. Vư?a khi tôi ngô?i trong văn pho?ng, thi? nghe tiếng ke?ng kêu, đó la? tín hiệu báo động. Tôi vọt ra va? thấy một tên tội phạm đang ti?m cách trốn. Đó la? tên chịu trách nhiệm giết tôi. Tôi chạy đến sau một vệ binh đang định nha? đạn hạ hắn. Tôi ngư?ng anh lại va? nhanh chóng ba?o anh đưa súng. Tôi ngắm thấp xuống. Một tiếng nô? ngắn va? hắn ngaf xuống đất. Anh em chạy tới chôf hắn va? tôi giúp buộc garô trên đâ?u gối hắn. Chúng tôi ca?m ơn nhau vi? đaf cứu mạng nhau.
  4. TieuNgocLang

    TieuNgocLang Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    29/12/2002
    Bài viết:
    897
    Đã được thích:
    0
    Sau 18 năm la?m việc trong điê?u kiện như vậy, một căn bệnh tim đaf buộc tôi rơ?i vị trí giám đốc một mo? quặng va? khu chế biến. Năm 1963, tôi tra?i qua một ca mô? tim va? sau đó cho đến tận nga?y nghi? hưu, tôi có va?i công việc toa?n la? việc nhẹ. Thật đáng ngạc nhiên la? với vết thương nghiêm trọng va? mô? tim, môfi cái la?m tôi bị vô hiệu một phâ?n cơ thê?, thi? tôi lại sống đê? mư?ng nga?y sinh nhật thứ 81 cu?a mi?nh. Trong khi nhưfng ngươ?i tôi quen hoặc đô?ng nghiệp có sức khoe? tốt hơn thi? đaf chết.
    Năm 1946 tôi cưới em gái cu?a ngươ?i bạn thân Nikolai Koniyaev, ngươ?i cu?ng tôi ti?nh nguyện ra trận va? đaf hi sinh trong chiến đấu. Chúng tôi có 03 ngươ?i con, chúng giơ? cufng tha?nh ông tha?nh ba? ca? rô?i. Cu?ng với Nadezhda tôi có năm cháu nội ngoại va? 5 cháu cố.
    Nhi?n lại cuộc đơ?i mi?nh, phâ?n lớn trong đó la? ca?nh bâ?n ha?n, đói kém va? chiến tranh, tôi không hối tiếc gi?. Tuy nhiên, du? nhưfng khó khăn va? mất mát, tôi có thê? nói la? tôi đaf la?m tro?n bô?n phận cu?a mi?nh. Số mệnh đaf định ră?ng tôi sống sót trong chiến tranh, khi rất rất nhiê?u đô?ng đội va? bạn be? thơ?i niên thiếu đaf hi sinh trên chiến trươ?ng. Ky? niệm vê? họ luôn trong tim tôi va? trong quyê?n sách na?y, bạn đang có trước mặt.
    @anh em: Tác phâ?m "Chặng đươ?ng đo? tư? Stalingrad" đến đây la? kết thúc. Ca?m ơn tất ca? các anh em đaf quan tâm theo dofi topic na?y. Ca?m ơn lafo Đâ?n Ngốc đaf cung cấp sách va? ca?m ơn các anh em khác (như maseo, huyphuc, vá-xi?-líp v.v.... va? các tha?nh viên khác) đaf hôf trợ hiệu chi?nh dịch thuật. Hẹn gặp lại trong tác phâ?m kế tiếp:  Stalingrad cu?a Anthony Beevor, khơ?i đăng va?o tuâ?n sau [​IMG].
  5. hatakekakashivn87

    hatakekakashivn87 Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    01/04/2006
    Bài viết:
    788
    Đã được thích:
    0
  6. vinhvinh

    vinhvinh Thành viên mới

    Tham gia ngày:
    06/09/2003
    Bài viết:
    957
    Đã được thích:
    2
    Cảm ơn bạn Tieu Ngoc Lang đã hoàn thành cuốn này. Truyện quá hay, đây có thể coi là phép màu trong chiến tranh. Cụ Mansur đã quá may mắn , thế mới biết một người sống từ đầu cuộc chiến cho đến cuối cuộc chiến phải cần có một phép màu nhiệm. Mong tiếp tục đọc các bản dịch mới của bạn.
  7. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    PHỤ LỤC 1. SƯ ĐOÀN 293 BỘ BINH
    Ko giống như những chiến binh thời cổ, phần lớn binh lính 2 phe trong các cuộc Đại chiến thế giới vào trận mà chỉ được bảo vệ bởi quân phục và áo khoác vải. Tuy nhiên điều đó ko có nghĩa là khi hành quân hoặc trên mặt trận họ ko phải mang theo nhiều kg kim loại. Thay vì những bộ áo giáp, giờ đây họ phải mang những vũ khí cộng đồng, 1 số trong đó thậm chí phải tháo rời để vận chuyển. 1 ví dụ được biết đến nhiều nhất trong các loại vũ khí kiểu này là súng máy hạng nặng. Những người lính phải mang cái giá kềnh càng cùng bản thân khẩu súng, thường còn kèm thêm 1 túi nước làm mát nòng súng to tướng nữa. Ko tính trọng lượng nước, 1 khẩu súng máy Maxim chưa lắp đạn nặng 20.3kg, đây là vũ khí cơ bản của Hồng quân. Thế nhưng nói đến những chuyên gia cử tạ thực sự phải kể đến các chi đội súng cối cấp tiểu đoàn.
    Giống như xe tăng, súng cối hiện đại xuất hiện lần đầu trong Đại chiến thế giới lần thứ nhất. Súng cối được sáng tạo bởi 1 người có liên hệ ko nhiều với công việc nhà binh, Wilfred Stokes, giám đốc điều hành 1 công ty sản xuất bơm, van và các thiết bị dẫn khí. Đầu tiên đạn cho cối chỉ là những quả lựu đạn thông thường chưa có hình dáng khí động học. Tuy nhiên trong thời gian giữa 2 cuộc đại chiến, súng cối đã có bước phát triển lớn. Đạn được gắn cánh đuôi, được làm thành hình giọt nước và đặc biệt là có thêm kíp nổ. Chúng trở thành vũ khí bộ binh quan trọng trong WW2.
    Trong giai đoạn 1942 - 1943 Hồng quân sử dụng 3 kiểu súng cối chủ yếu là cối cấp đại đội, cấp tiểu đoàn và cấp trung đoàn. Loại cuối cùng (cối 120mm cấp trung đoàn) là 1 vũ khí có hiệu quả cao khiến cho quân Đức đến năm 43 cũng copy lại. Thậm chí khi đã tách thành từng phần loại súng này vẫn quá nặng để mang vác bằng tay, vì vậy người ta phải gắn thêm bánh xe vào để có thể kéo bằng xe hoặc ngựa. Cối cấp đại đội (50mm) là loại nhẹ nhất, chỉ có 14kg. Tuy nhiên loại cối này ko hiệu quả lắm, đạn của nó chỉ nặng 922g và mang được có 90g thuốc nổ. Giữa 2 loại trên, kết hợp giữa đạn mạnh và khả năng vận chuyển bằng mang vác là cối cấp tiểu đoàn (82mm), loại vũ khí mà Mansur Abdulin là pháo thủ số 2. Đây là loại cối được sản xuất tại Liên Xô theo mẫu súng cối của Stoke (81mm) thu được trong cuộc xung đột biên giới với Trung Quốc năm 1929. Đạn của nó nặng 3.31kg với 400g thuốc nổ, khi nổ sẽ tạo ra 400 - 600 mảnh đạn có khả năng sát thương trong vòng 6m. Loại cối này đặc biệt hiệu quả khi bộ binh đang tấn công mà bất ngờ gặp phải hỏa điểm súng máy. Súng máy đã chứng minh hiệu quả to lớn của nó nên mỗi tiểu đội bộ binh đều có 1 súng máy hạng nhẹ (các đơn vị xe tăng và bộ binh cơ giới Đức có tới 2 khẩu mỗi tiểu đội). Mỗi khẩu súng máy như vậy có thể chặn đứng cuộc tấn công của cả 1 đại đội thậm chí 1 tiểu đoàn nhưng nếu có 1 khẩu cối 82mm gần đó có thể dễ dàng làm chúng câm họng. Khi tấn công các vị trí phòng ngự súng cối cũng có thể dùng để pháo kích quân địch núp dưới hầm hố hoặc sau công sự, nơi ko thể bắn được bằng súng máy.
    Tuy nhẹ hơn pháo nhưng trọng lượng của súng cối vẫn là vấn đề thực sự cho những người lính phải mang vác chúng. Cối 82mm Soviet Model 1937 trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu nặng 56kg và khi phải di chuyển sẽ được chia làm 3 phần: nòng, đế và giá súng. Phần thứ nhất nặng 19kg, phần thứ hai 22kg và phần thứ ba 20kg. Ngoài các bộ phận của bản thân khẩu cối, các pháo thủ còn phải mang thêm đạn, mỗi thùng đạn 3 viên nặng 12kg. Cũng phải luôn nhớ rằng đó là những phần phải mang thêm ngoài số trang bị tiêu chuẩn của 1 người lính: tư trang, đồ ăn, mặt nạ phòng độc, súng cá nhân và đạn. Trong băng giá mùa đông hoặc cái nóng mùa hè những người lính cối thường phải mang vác nặng hành quân hàng tá km mỗi ngày. Chúng ta nên nhớ rằng phần lớn binh sĩ cả 2 bên Đức và Soviet ko nằm trong các đơn vị tăng hay cơ giới mà là những bộ binh và phải di chuyển bằng chân. 1 trong các đơn vị bộ binh như thế là Sư đoàn Bộ binh 293, nơi Abdullin phục vụ.
    Lịch sử Sư 293 Bộ binh bắt đầu vào năm 1941, tại thị trấn Sumy, trận đánh đầu tiên của nó diễn ra tại Ukraine trong những ngày bất hạnh tháng 9/1941 khi Kiev bị những cỗ xe tăng của Guderian tấn công. Tập đoàn quân 40 với Sư 293 trong đội hình đã thất bại trong cố gắng ngăn cản bước tiến của đoàn thiết giáp Nazi, may mắn thay Sư đoàn đã ko rơi vào bẫy là 1 cái túi lớn do các mũi tấn công của quân Đức tạo ra. Thoát khỏi vòng vây, Sư đoàn rút lui về nơi phát tích của mình là Sumy và đến tháng 11 thì chuyển tới khu vực Kursk, vượt qua vùng Prokhorovka mà ko gặp trở ngại gì, đây chính là nơi vào năm 1943 sẽ diễn ra những trận đấu tăng ác liệt.
    Mùa đông 1941 - 1942 Sư đoàn chia ra đóng gần Kursk và trên thực tế ko tham gia vào các cuộc phản công lớn của quân đội Soviet gần Leningrad, Moscow và Kharkov. Mùa xuân năm 1942 Sư đoàn được phối thuộc vào Tập đoàn quân 21 và chiến đấu trong đội hình Tập đoàn quân gần 1 năm, được nhận danh hiệu Cận vệ. Trong trận thảm bại khi mặt trận Kharkov vỡ tháng 5/1942, Sư đoàn bảo vệ 1 đoạn chiến tuyến tương đối yên tĩnh. Ngày 30/6 quân Đức tiến hành Chiến dịch Blau nhằm mục tiêu chiếm Caucasus và sông Volga. Tập đoàn quân 21 bước vào những trận đánh ác liệt, kết quả là toàn bộ đội hình Tập đoàn quân gồm 4 sư đoàn bị bao vây. Tuy nhiên thật kỳ diệu là Sư 293 đã thoát được và 1 lần nữa ko bị tiêu diệt. Tập đoàn quân sau đó cũng vượt được sông Đông rồi tiếp tục rút về phía đông, sau đó được chuyển cho Phương diện quân Stalingrad đưa về hậu tuyến để phục hồi và bổ sung quân số. Sư đoàn được tái tổ chức tại Buzuluk, 1 đầu mối đường sắt lớn ở Nam Ural.
    Tình trạng Sư đoàn như thế nào trước khi bị ném vào 1 trong những chiến dịch quyết định của WW2, Trận Stalingrad? Trong 3 tháng rời xa mặt trận, Sư 293 đã được bổ sung đầy đủ nhân lực gồm tân binh, hạ sĩ quan và sĩ quan. Vào ngày 24/10/1942 khi quá trình tái tổ chức hoàn tất, Sư đoàn đã có quân số 10420 người so với quân số chuẩn của 1 Sư đoàn là 10868. Thành phần dân tộc của các binh sĩ phản ánh sự đa dạng sắc tộc trong Liên bang Soviet. Người Nga chiếm gần 1 nửa (4523 người), các dân tộc Slav (Nga, Ukraine và Byelorusia) có tổng cộng 5748 người. Ngoài ra còn có 269 người Do Thái, 3 người từ các nước cộng hòa vùng Baltic và 1 người Chesnia. Còn lại là người đến từ vùng Trung Á, phần lớn trong số đó là người Kazakh với 2280 người. Chỉ có 1/3 binh lính và sĩ quan dưới 25 tuổi. Nhóm tuổi lớn nhất - chiếm hơn 1 nửa quân số - có tuổi đời từ 25 đến 40. Ảnh hưởng của các Đảng viên ko lớn như mọi người vẫn nghĩ, chỉ có 2/3 sĩ quan Sư 293 là Đảng viên hoặc Đoàn viên Komsomol, tỷ lệ này ở binh sĩ là dưới 20%.
    Vào thời điểm năm 1942, trang bị của 1 sư đoàn Hồng quân khác nhiều so với 1 sư đoàn Đức. Trước đó vào tháng 7/1941, 1 sư đoàn bộ binh Soviet còn được trang bị nhẹ hơn vì như vậy dễ quản lý hơn. Mỗi sư đoàn có 1 trung đoàn pháo trong đội hình với 12 lựu pháo hạng nhẹ 122mm và 20 pháo 76.2mm cấp sư đoàn. Để so sánh, 1 sư đoàn bộ binh Đức có tới 36 lựu pháo hạng nhẹ 105mm và 12 lựu pháo hạng nặng 150mm. Sự khác biệt này được giải thích bởi thực tế là 1 trong các nguyên tắc cơ bản của chiến lược quân sự Soviet là tập trung pháo hạng nặng (từ 152mm trở lên) dưới quyền điều động của chỉ huy cấp cao nhất, nhờ đó có thể sử dụng chúng cho những đòn đánh quyết định. Để chống lại xe tăng đối phương Sư đoàn cũng có trong đội hình Tiểu đoàn chống tăng 331 trang bị 12 pháo chống tăng 45mm và 36 súng trường chống tăng 14.5mm. Thông thường việc di chuyển pháo được tiến hành bằng ngựa nhưng số ngựa luôn luôn thiếu. Số lượng chính thức cần có là 1800 con nhưng trong thực tế Sư đoàn chỉ có được 1016 con. Ngoài ra Sư đoàn còn có gần 100 xe ô tô.
    Lực lượng chiến đấu chính của 1 sư đoàn bộ binh Soviet là 3 trung đoàn bộ binh, Mansur Abdullin đã bước vào trận chiến từ 1 trong các trung đoàn như vậy. Vào ngày 10/11/1942, theo hồ sơ Trung đoàn 1034 Bộ binh của ông có 2130 người, ít hơn 1 chút so với quân số chuẩn là 2532 người. Trung đoàn có những vũ khí sau: 1655 súng trường, 222 PPSh (loại tiểu liên do Shpagin thiết kế, đạn 7.62mm, băng đạn tròn 71 viên), 52 súng máy hạng nhẹ, 20 súng máy hạng nặng Maxim (đạn 7.62mm), 2 súng máy phòng ko 12.7mm, 54 súng trường chống tăng 14.5mm, 4 pháo cấp trung đoàn 76.2mm, 6 pháo chống tăng 45mm, 6 súng phun lửa chống tăng, 6 cối cấp trung đoàn 120mm, 27 cối cấp đại đội 50mm và 27 cối cấp tiểu đoàn 82mm. Abdulin thuộc 1 trong các kíp pháo thủ của loại vũ khí cuối cùng kể trên. Vào thời điểm tham chiến trung đoàn đã thực sự có được đầy đủ sức mạnh.
    Sư 293 Bộ binh đã có những cuộc chạm trán đầu tiên với quân địch vào đầu tháng 11/1942. Trận đánh kịch tính nhất diễn ra vào ngày 14/11 khi toàn bộ đội hình Sư đoàn được lệnh tham chiến. M. Abdulin đã mô tả lại sự khủng khiếp và ác liệt của trận đánh ngày hôm đó nhưng chúng tôi cho rằng đó chỉ là ấn tượng của 1 người lính trẻ còn chưa có kinh nghiệm chiến trường. Theo báo cáo của Sư đoàn, thương vong của Trung đoàn 1034 trong ngày 14/11 như sau: số chết tại chỗ hoặc sau khi bị thương là 8 sĩ quan, 27 hạ sĩ quan, 71 binh lính; số bị thương hoặc bị sức ép là 15 sĩ quan, 39 hạ sĩ quan và 223 binh lính. Tổng thương vong, cả chết lẫn bị thương, của trung đoàn chiếm khoảng 20% quân số theo danh sách ban đầu. Toàn Sư đoàn mất 1183 người trong khoảng từ 10 - 20/11, vào ngày 10/11 danh sách quân số là 9274 người, đến ngày 20/11 là 8069 người.
    Theo kế hoạch hành động của chỉ huy cấp cao, Sư đoàn nằm trong lực lượng dự bị của Tập đoàn quân 21 được giao 1 nhiệm vụ ko ai thèm muốn là tạo 1 mấu lồi đâm sâu vào quân Đức trong vòng vây và sau đó là ngăn quân Đức phá vỡ nó. Sau những trận đánh ác liệt với đối phương là những chiến binh kỳ cựu của các Sư đoàn Xe tăng 14 và 16 Đức, lực lượng của Sư 293 teo lại dần nhưng họ ko được tăng cường. Ngày 1/12/1942, theo hồ sơ Sư đoàn còn 6113 người; đến 10/12 còn 4142 người; ngày 20/12 sau khi được bổ sung khoảng 500 người quân số Sư đoàn là 3797 người. Khoảng 2/3 sĩ quan và binh lính Sư đoàn đã chết hoặc bị thương, nhiều nhất là trong khoảng thời gian từ 1 - 10/12 khi quân Đức cố gắng chọc thủng vòng vây. Tập đoàn quân 21 dàn quân ở phía tây vòng vây nằm trên tuyến đường vượt thoát ngắn nhất đã phải hứng chịu đòn đánh mạnh nhất. Trong 10 ngày đó Sư 293 Bộ binh mất, cả chết lẫn bị thương, khoảng 1/3 quân số (2102 người): 60 sĩ quan, 140 hạ sĩ quan và 315 binh lính chết; 8 hạ sĩ quan và 39 binh lính mất tích; số còn lại bị thương.
    Tại khu vực Stalingrad các chỉ huy Soviet đã lần đầu tiên thành công trong cố gắng tổ chức bao vây quy mô lớn lực lượng địch. Tập đoàn quân 21 nói chung và Sư 293 nói riêng đã góp phần quan trọng trong chiến dịch khi đẩy lùi các đơn vị cơ giới Đức. Những hành động anh hùng của Sư đoàn đã được những người có trách nhiệm đánh giá xứng đáng: sau trận Stalingrad Sư đoàn được nhận danh hiệu Cận vệ, tức là gia nhập vào lực lượng ưu tú của quân đội Soviet. Các đơn vị Cận vệ Nga có hệ thống số thứ tự riêng, vì vậy Sư đoàn đổi tên thành Sư đoàn Bộ binh Cận vệ 66. Các đơn vị của nó cũng đổi tên: Trung đoàn 1034 của Abdulin trở thành Trung đoàn 193 Cận vệ. Ngay vẻ bề ngoài 1 lính Cận vệ đã khác với các đơn vị thường với huy hiệu tương tự như 1 chiếc huân chương đính trên đồng phục. Những dấu hiệu tương tự cũng được sơn lên trang thiết bị của họ. Theo cách này những người lính chứng tỏ mình là tinh hoa của Hồng quân. Thiết thực hơn, trở thành Cận vệ có nghĩa là được nhận được những trang bị tốt hơn và có thêm quân số cũng như vũ khí. Thí dụ 1 trung đoàn pháo của sư bộ binh Cận vệ có 24 pháo 76.2mm so với thông thường là 20. Quân số tiêu chuẩn của 1 trung đoàn bộ binh Cận vệ là 2713 người, trang bị 1006 súng trường, 788 súng trường tự động và 344 tiểu liên.
    Trong thời gian chiến dịch tạm ngừng vào mùa xuân và đầu hè 1943, khi cả 2 bên ko tiến hành những cuộc tấn công quy mô lớn nào mà chỉ chuẩn bị cho những trận chiến quyết định sắp tới, Sư 293 được tái tổ chức. Ngày 10/7/1943, khi Trung đoàn 193 Cận vệ của Abdulin đụng độ với đối phương, Trung đoàn đã được bổ sung đủ người và trang bị. Chỉ có 1 ngoại lệ là súng trường tự động: thay vì 788 khẩu trung đoàn chỉ có 295 khẩu. Súng trường tự động khó sản xuất và là 1 vũ khí đắt đỏ trong khi Liên Xô còn đang thiếu nhiều thứ cho 1 cuộc chiến tranh tổng lực. Để thay thế cho nó người ta cấp thêm tiểu liên PPSh, thay vì 344 khẩu như tiêu chuẩn Trung đoàn 193 Cận vệ được cấp tới 680 khẩu. Trung đoàn cũng có 161 súng máy hạng nhẹ và 53 súng máy hạng nặng. Vũ khí chính của của bộ binh 2 phe trong các cuộc thế chiến, súng trường, cũng thiếu, chỉ có 610 khẩu so với 1006 khẩu theo yêu cầu, còn ít hơn cả tiểu liên. Việc thiếu súng trường này có nguyên nhân trực tiếp từ việc thiếu binh lính. Trong khi số sĩ quan của Trung đoàn vượt quá số cần thiết thì số hạ sĩ quan chỉ có 701 người so với yêu cầu là 770, số binh lính là 1321 người thay vì tiêu chuẩn là 1748.
    Pháo binh trung đoàn thì vẫn như cũ: 4 pháo 76.2mm cấp trung đoàn, 12 pháo 45mm, 8 cối hạng nặng 120mm, 27 cối 82mm và 18 cối 50mm. Tuy nhiên, chúng tôi ko thể tượng tượng rằng lên cấp Cận vệ có nghĩa là trung đoàn lập tức được chuyển sang dùng xe tải Studebaker. Ngựa vẫn được giữ lại để vận chuyển như trước, Trung đoàn có 6 xe ngựa kéo và 234 con ngựa (so với số tiêu chuẩn là 363). Ô tô thường được dùng để kéo cối 120mm. Các vũ khí nặng khác như pháo 45mm và 76.2mm được kéo bởi 4 con ngựa mỗi khẩu, 2 loại cối cỡ nhỏ hơn được các pháo thủ của chúng mang vác.
  8. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320

    Vào thời điểm bắt đầu trận đánh tại vòng cung Kursk, Sư 66 Cận vệ là 1 bộ phận của Tập đoàn quân 5 thuộc Phương diện quân Steppe, lực lượng dự bị cỡ lớn trong chiến dịch quan trọng này. Vào lúc này Hồng quân đã quay trở lại biên chế quân đoàn, cấp tổ chức đã bị bãi bỏ vào năm 1941: 1 quân đoàn - chẳng hạn như Quân đoàn 32 Bộ binh Cận vệ - là cấp giữa sư đoàn và tập đoàn quân trong các mắt xích tổ chức chỉ huy.
    Trong giai đoạn phòng ngự của trận Kursk Quân đoàn 32 Bộ binh Cận vệ triển khai tại 1 đoạn chiến tuyến tương đối yên tĩnh đối diện với điểm tiếp giáp giữa 2 Quân đoàn Thiết giáp SS là 48 và 2. Cuối cùng đến khi Sư 66 Bộ binh Cận vệ tham chiến thì các chỉ huy quân Đức đã thay đổi kế hoạch đánh thẳng vào Kursk theo tuyến đường ngắn nhất, tức là qua Oboyan, thay vào đó là chuyển sang tập trung đánh vào 2 cánh, trước hết là đánh vào Prokhorovka. Kết quả là thương vong của Sư 66 Cận vệ phòng thủ Oboyan ko quá nặng. Ngày 10/7 có 8744 sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính trong danh sách Sư đoàn, đến 20/7 còn 6931 người. Số tăng cường trong giai đoạn này ko nhiều: 62 người trở lại sau thời gian trị thương tại bệnh viện, 17 người (trong đó có 10 sĩ quan) được thiên chuyển đến từ Quân đoàn và Tập đoàn quân nhưng cũng có 4 sĩ quan chuyển lên cấp Tập đoàn quân và vì nhiều lỗi khác nhau 2 sĩ quan, 2 hạ sĩ quan và 5 binh lính bị tống vào tiểu đoàn trừng giới. Thương vong cả chết, bị thương và mất tích của Sư đoàn tổng cộng là 1879 người.
    Tiếp sau giai đoạn phòng ngự là chiến dịch phản công của Trận đánh Vòng cung Kursk, chiến dịch này đã dẫn tới việc giải phóng vùng tả ngạn Ukraine, tức là vùng đất của Liên bang Soviet nằm trên bờ trái sông Dnieper. Sau 1 cuộc tiến quân đến kiệt sức vượt qua 350km, nhiều lần đụng độ ác liệt với những đơn vị Đức tuy đã bị hao hụt nhưng vẫn còn sức chiến đấu, Tập đoàn quân 5 Cận vệ đã đến được sông Dnieper. Sư 66 Bộ binh Cận vệ mặc dù thiệt hại nặng nề sau 10 tuần lễ đánh nhau liên tục nhưng vẫn còn sức chiến đấu, tuy nhiên các binh sĩ đã rất kiệt sức. Chỉ còn chưa đầy 4000 người trong số gần 7000 người trước trận Kursk còn sống sót tới được bờ sông.
    Trận đánh vượt sông Dnieper, 1 trong những con sông lớn nhất Châu Âu, là 1 chiến dịch rất khó khăn. Bờ tây cao và dốc, vì vậy từ đó dễ dàng quan sát mọi chuyển động bên phía bờ đông. Tuy nhiên, quân Nga đã chiếm giữ được tới 2 tá đầu cầu, ko phải tất cả các đầu cầu đó sau này đều được sử dụng. Trong tất cả các Tập đoàn quân của Phương diện quân Ukraine 2 (tên mới của Phương diện quân Steppe sau khi đến được sông Dnieper), chỉ có Tập đoàn quân 37 thiết lập được 1 đầu cầu có khả năng mở rộng sau đó. Các đầu cầu ở gần Kremenchug do các Tập đoàn quân 4, 5 Cận vệ và Tập đoàn quân 52 của Phương diện quân tạo ra ko có triển vọng. Thiệt hại của Sư 66 Bộ binh Cận vệ trong trận đánh vượt sông Dnieper ko quá cao nhưng cũng là đáng kể nếu so sánh với tổng quân số Sư đoàn lúc đó. Ngày 29/9/1943 quân số Sư đoàn là 3965 người, đến ngày 19/10 là 4160, quân số tăng thêm là do trong khoảng thời gian 20 ngày đó lực lượng tăng cường gồm tổng cộng 1041 người đã tới. Cũng trong khoảng thời gian đó thiệt hại, cả chết và bị thương, là 821 người. Trong 3 tuần chiến đấu đó riêng Trung đoàn 193 Bộ binh Cận vệ có 3 sĩ quan, 5 hạ sĩ quan và 30 lính chết; số bị thương là 18 sĩ quan, 40 hạ sĩ quan và 220 lính; 2 sĩ quan và 4 lính cũng được liệt vào danh sách "mất tích". Trong lúc đó, đầu cầu qua sông Dnieper đã được mở rộng và đạt chiều sâu tới 90km. Đánh giá kết quả, chúng tôi phải nhắc lại rằng lực lượng Soviet, bao gồm cả Tập đoàn quân mà Sư 66 Cận vệ nằm trong đội hình, thường phải đối mặt với các quân đoàn xe tăng Đức. Đầu cầu này đã đóng vai trò quyết định trong mùa đông năm 1944 khi 1 trong 2 mũi tấn công nhằm bao vây quân Đức gần Korsun - Shevchenkovski đã xuất phát từ đây.
    Trong giai đoạn quyết định của trận vượt sông Dnieper, ngày 9/10/1943 Sư đoàn chỉ có 3756 người thay vì quân số tiêu chuẩn là 10596 người. Quân số Trung đoàn 193 Bộ binh thì chỉ còn 609 thay vì 2713 người theo quy định. Thực tế là trung đoàn đã biến thành 1 tiểu đoàn với 1 nửa quân số là sĩ quan và hạ sĩ quan: trong tổng số 609 người còn lại, 141 người là sĩ quan, 172 người là hạ sĩ quan và chỉ có 296 lính. Loại vũ khí chiếm số lượng vượt trội trong các đơn vị "toàn sĩ quan và hạ sĩ quan" này là SMG. Có tất cả 240 súng trường, 259 PPSh, 26 súng trường tự động, 7 súng máy hạng nhẹ và 4 súng máy hạng nặng. Pháo binh gồm có 4 pháo 76.2mm cấp trung đoàn, 4 pháo 45mm, 7 cối 120mm và 3 cối 82mm. Như chúng ta thấy, pháo binh tham chiến ở vị trí ngay sau bộ binh nên cũng mất 1 số lượng đáng kể khí tài. Cũng may là theo các ghi chép trung đoàn pháo của sư đoàn vẫn còn gần như nguyên vẹn. Vào ngày 9/10/1943 nó được trang bị 11 lựu pháo 122mm và 17 pháo 76.2mm. Để so sánh, tại Kursk vào ngày 10/7 trung đoàn pháo có 12 lựu pháo và 24 pháo. Số lượng pháo thủ còn khả năng phục vụ cũng tốt hơn các trung đoàn bộ binh nhiều. Nếu 1 trung đoàn bộ binh chỉ còn 20% quân số còn chiến đấu được thì trung đoàn pháo còn tới 65%. Các đơn vị vẫn còn phải dựa nhiều vào ngựa: có tới 703 con ngựa cùng với 7 xe con, 114 xe tải và 4 xe đặc chủng (xe thông tin). Trong số đó Trung đoàn 193 Bộ binh Cận vệ có 202 ngựa và 8 xe tải.
    Sư đoàn Bộ binh Cận vệ 66 là 1 đơn vị Hồng quân điển hình trong giai đoạn giữa 1943 và 1945. Các sư đoàn Soviet thường xuyên thiếu quân số đến mức tuyệt vọng, trong khi đó số lượng vũ khí nặng lại rất gần với trang bị tiêu chuẩn. Nếu khảo sát 1 sư đoàn điển hình vào năm 1943, ta có thể thấy đội hình của nó bị cô đặc lại chỉ còn 1/3 so với mức tiêu chuẩn, số sĩ quan và hạ sĩ quan chiếm tỷ lệ lớn, được trang bị 1 số lượng lớn vũ khí tự động và được yểm trợ bởi 1 quả đấm pháo binh mạnh. Phần lớn các hạ sĩ quan trưởng thành từ những người lính kiên cường và tháo vát, vì vậy 1 trung sĩ cũng có thể rất thường xuyên làm những việc như 1 người lính thường. Sư đoàn giành thắng lợi ko phải bằng cách xua những đợt sóng người vô tận về phía trước để dìm quân địch trong máu của chính mình mà bằng những hành động đầy kinh nghiệm của những sĩ quan và hạ sĩ quan được chuẩn bị tốt với sự yểm trợ đáng tin cậy của pháo binh. Theo cách đó Sư đoàn tiến về phía trước cùng các đơn vị khác của Quân đoàn 5 Cận vệ. Tốc độ tiến quân của họ là khá cao nếu tính đến việc họ phải di chuyển bằng chân, tấn công các đô thị lớn như Poltava và Kremenchug, vượt các con sông như Vorskla và Psel. Trong vòng 28 ngày của tháng 9 Quân đoàn 5 Cận vệ đã vượt gần 200km, lội qua những dòng sông và đẩy lùi những đợt phản công bất tận của xe tăng và bộ binh Đức.
    Các sư đoàn bộ binh chiếm 80% số lượng các sư đoàn Hồng quân. Tuy vậy trong giai đoạn cuối chiến tranh, khi quân đội Soviet tung ra hàng loạt cuộc tấn công nhằm mục tiêu tối hậu là tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, danh tiếng của lực lượng bộ binh bị lu mờ trước các đơn vị thiết giáp. Các sư đoàn bộ binh dù vậy vẫn là nền tảng cho thành công của các quân đoàn và tập đoàn quân xe tăng. Nhiệm vụ của họ là tiêu diệt những "cái túi" quân địch đã bị các đơn vị thiết giáp Soviet bao vây. Tác giả cuốn hồi ký này đã trải qua 1 quãng đường khổng lồ để trở thành 1 bộ binh tiền tuyến kỳ cựu, trải dài từ sông Volga đến miền đất bên dòng Dnieper. Trong nhiều trường hợp tiểu đoàn của ông đã phải đối mặt với sức mạnh ghê gớm của lực lượng thiết giáp Đức. Đó là 1 bước ngoặt mà 1 người lính bộ binh phải trải qua: chặn đứng các đơn vị xe tăng địch để các quân đoàn và tập đoàn quân xe tăng Soviet thọc sườn quân Đức, bao vây từng đơn vị lớn của chúng. Những trạn ác chiến dẫn tới thương vong cao, thực tế Sư đoàn đã thay hoàn toàn quân số nhiều lần. Tuy nhiên, số lượng thương vong đôi khi khác với những lời kể của Abdulin. Những chương hấp dẫn nhất của cuốn hồi ký này là những sự kiện khủng khiếp hằn sâu trong tâm trí tác giả trong quá trình tham chiến, gây cho ông ấn tượng về thương vong nặng nề trong suốt quá trình phục vụ trong quân ngũ. Tác giả cũng có vẻ phóng đại số lượng và tần suất được tăng cường. Tuy nhiên, đó chỉ là những thiếu sót nhỏ ko thể tránh trong trí nhớ mỗi người, ko làm giảm ý nghĩa cuốn hồi ký này, 1 lời chứng vô giá của 1 người lính bình thường đã gần như hàng ngày đối mặt với cái chết nơi tiền tuyến và đã sống sót qua những trận chiến lớn nhất của Đại chiến Thế giới lần thứ 2.
  9. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320

    PHỤ LỤC 2. STALINGRAD, KURSK VÀ DNIEPER
    Stalingrad và Kursk là những thành phố được nhiều người biết đến cả ở bên ngoài nước Nga. Chúng liên quan đến 2 trận đánh được xem là bước ngoặt của Đại chiến Thế giới lần thứ 2. Tên của chúng vang động mạnh trong trái tim cả người Nga và người Đức, củng cố niềm tin vào chiến thắng cho người Nga và gióng lên hồi chuông báo động cùng cảm giác bất an vào tương lai cho người Đức.
    Binh lính Đức xuất hiện gần Stalingrad bởi sự thay đổi cơ bản trong các kế hoạch của Hitler. Nếu trong năm 1941 mục tiêu chính của hắn là thủ đô Soviet thì mục tiêu của chiến dịch mùa hè năm 1942 là dầu của Caucasus và tuyến vận chuyển chính của nước Nga: sông Volga. Stalingrad nối với miền nam Nga bằng nhiều con đường và nó là mục tiêu tự nhiên cho bất kỳ đội quân nào muốn tiến đến biển Caspian. Nó cũng là con đường thuận lợi nhất để tới sông Volga. 1 phần khác là thành phố cũng là 1 trung tâm công nghiệp quan trọng sản xuất trang thiết bị cho Hồng quân. Nhà máy Máy kéo Stalingrad là nhà máy duy nhất trong cả nước được lắp đặt dây chuyền sản xuất xe tăng T34 ngay từ trước chiến tranh và chưa từng phải trải qua giai đoạn di tản hỗn loạn. Trong thành phố còn có 1 nhà máy sản xuất pháo, 1 trong những nhà máy lâu đời nhất nước Nga. Dưới chế độ Soviet nhà máy được đổi tên là "Chiến Luỹ", sản xuất các loại pháo cỡ nòng tới 203 - 280mm. 1 lý do nữa ngoài tầm quan trọng về kinh tế và chiến lược là đánh vào Stalingrad sẽ mang ý nghĩa biểu tượng quan trọng. Thành phố được đặt tên để vinh danh người đứng đầu Liên bang Soviet, việc chiếm được nó sẽ gây hiệu ứng tâm lý mạnh, làm nản lòng hàng triệu công dân Soviet. Stalin sẽ phải mất mặt nếu rút quân khỏi thành phố mang tên ông. Stalingrad là nơi ông đã từng chiến đấu trong Nội chiến Nga, "Người bảo vệ Tsaritsin" (tên thành phố trước năm 1919) là 1 trong những huyền thoại của chế độ mới: các bộ phim, bài viết và sách vở kể về nó, tất cả đều nhằm mục đích ca ngợi vai trò của "Lãnh tụ".
    Dù sao, quân đội Soviet cũng ko thể bảo vệ thành phố khỏi sự chết chóc và tàn phá. Vào lúc máy bay Đức bắt đầu đánh bom Stalingrad và những tiếng súng đầu tiên của trận chiến đường phố vang lên, nhân dân vẫn chưa được sơ tán. Các nhà máy vẫn tiếp tục sản xuất máy móc thiết bị cho đến khi chiến trận lan tới tận phân xưởng. Những chiếc T34 cuối cùng xung trận chỉ ít phút sau khi được các công nhân Nhà máy Máy kéo lắp ráp xong. Quân tiếp viện cho lực lượng bảo vệ thành phố phải vượt qua con sông lớn nhất Châu Âu trên những chiếc sà lan và thuyền, dưới làn đạn pháo và những cuộc ko kích của quân thù, lao vào trận chiến ngay khi vào đến bờ.
    Trong khi chiến sự ác liệt bùng nổ khắp trong và xung quanh Stalingrad, các chỉ huy Soviet đã lập kế hoạch tổ chức 1 chiến dịch bao vây các đơn vị của Tập đoàn quân 6 và Tập đoàn quân Xe tăng 4 Đức khi chúng đang bị mắc trong các trận chiến đường phố. Mũi tiến công của địch hướng về phía sông Volga bị kéo căng trên 1 khoảng cách khổng lồ lên tới 800km. Thiếu các sư đoàn quân Đức buộc các chỉ huy phát xít phải dùng các tập đoàn quân Romania và Italy để bảo vệ các cánh, những đơn vị này thiếu kinh nghiệm và kém huấn luyện hơn quân Đức rất nhiều. Việc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng các đơn vị thiết giáp thọc sâu để cắt đứt và bao vây quân địch trong và xung quanh Stalingrad. Các chỉ huy Soviet dự định thử sức với quân Đức, sử dụng 1 chiến thuật vốn là hòn đá tảng trong tư tưởng quân sự Đức. Trên các bình nguyên sông Don và Volga, người Nga cố gắng tái hiện trận Cannae lịch sử: vận động với mục tiêu quyết định là bao vây quân địch, tên thường được biết đến của chiến thuật này là Blitzkrieg. Cho đến trước đó chỉ có quân Nga là nạn nhân của "chiến thuật Cannae" này (Cannae là nơi diễn ra chiến thắng của Hannibal trước quân La Mã đông gấp nhiều lần năm 216 trước Công nguyên, 1 trận đánh bao vây điển hình, dùng 1 khối quân chống lại quân địch bị chia cắt), kết cục là hàng loạt những cái túi gần các thành phố và thị trấn như Minsk, Kiev, Viazma, Briansk và Kharkov. Chiến dịch được thực hiện bởi lực lượng của 3 Phương diện quân: Tây Nam, Don và Stalingrad. Vào thời điểm trước chiến dịch các Phương diện quân này bao gồm: 71 sư bộ binh, 15 lữ đoàn bộ binh, 3 lữ đoàn bộ binh cơ giới, 8 sư kỵ binh được biên chế thành 3 quân đoàn kỵ binh, 4 quân đoàn xe tăng, 14 lữ đoàn tăng và 4 trung đoàn tăng. 1808 máy bay lãnh trách nhiệm yểm trợ đường ko (chỉ có 1349 chiếc trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu). Dù vậy, ko ai có thể nói rằng quân Nga vượt trội đối phương. Hồng quân chỉ hơn quân địch 1,2 lần về người, 1,3 lần về xe tăng và 1,3 lần về máy bay, chỉ có pháo binh là mạnh hơn gần 2 lần. A.M.Vasiliyevski, 1 trong những chỉ huy xuất sắc nhất của quân đội Soviet, đã lập kế hoạch cho toàn bộ chiến dịch. Kế hoạch của ông là các quân đoàn tăng sẽ hội quân gần thị trấn Kalach trên sông Don. Kỵ binh, loại quân tương đương với bộ binh cơ giới Đức, sẽ tấn công nhiều mũi thọc sâu để thiết lập những cụm vây vành ngoài đẩy 2 tập đoàn quân địch trong vòng vây càng xa nhau càng tốt. Cuối cùng các sư đoàn bộ binh thiết lập chiến tuyến đối mặt với quân địch đã bị vây trong cái túi, nhờ đó quân Đức sẽ ko thể chọc thủng vòng vây trở về với lực lượng chính của chúng. Đó cũng là mục tiêu của Tập đoàn quân 21 có tiểu đoàn của M.G.Abdulin trong đội hình.
  10. maseo

    maseo GDQP - KTQSNN Moderator

    Tham gia ngày:
    22/12/2004
    Bài viết:
    3.125
    Đã được thích:
    320
    Chiến dịch mở màn ngày 19/11 bằng 1 trận pháo phủ đầu dài 80 phút và phát triển thuận lợi. Ngay ngày 23/11 Quân đoàn 4 Cơ giới của Phương diện quân Stalingrad đã hội quân được với các quân đoàn tăng số 4 và số 26 của Phương diện quân Tây Nam, gần 330.000 quân địch đã bị vây trong cái túi. Nỗ lực tiếp vận bằng đường ko và sau đó là phá vây kết hợp với 1 cuộc tấn công từ bên ngoài của quân Đức thất bại. Ngày 2/2/1943, Thống chế Von Paulus của Tập đoàn quân 6 buộc phải ra hàng, 91.000 binh sĩ dưới quyền ông ta trở thành tù binh. Thảm bại tại Stalingrad đã làm sụp đổ kế hoạch tấn công Caucasus, với nhiều người, nó là biểu hiện rõ ràng cho thấy người Đức đang thất bại. Tuy nhiên, quân đội Đức vẫn duy trì được khả năng mở các cuộc tấn công mạnh mẽ. Bước tiến của quân đội Soviet trong chiến dịch đông xuân 1942 - 1943 đã phải dừng lại gần Kharkov bởi 1 cuộc phản công của Quân đoàn 2 SS Thiết giáp - đơn vị vừa mới tham chiến. Sau đó mặt trận yên ắng 1 thời gian.
    Sau thất bại Stalingrad, Bộ chỉ huy tối cao Đức quyết định báo thù bằng cách mở 1 chiến dịch quy mô lớn bao vây lực lượng Soviet tại mấu lồi Kursk, mấu lồi này xuất hiện do kết quả của cuộc tiến công thắng lợi trong mùa đông 1943. Theo kế hoạch các quân đoàn xe tăng của Cụm Tập đoàn quân Trung tâm và Cụm Tập đoàn quân Nam sẽ vòng qua mấu lồi từ phía bắc và phía nam để cắt 1 lực lượng lớn quân Nga thuộc các Phương diện quân Voronezh và Trung tâm. Chiến dịch mang bí danh "Citadel". Tuy nhiên, vào lúc đó quân Đức cũng đã bắt đầu hết hơi sau 2 năm ko ngừng đánh nhau ác liệt trên Mặt trận phía Đông. Tập đoàn quân 9 của Walter Model phụ trách mũi tấn công từ phía bắc mấu lồi là 1 đơn vị đã rất kiệt sức. Lực lượng của viên Thống chế này đã phòng thủ thành công mấu lồi Rzhev trên con đường tiến thẳng đến Moscow trong suốt 1 năm, đẩy lùi nhiều cuộc tấn công ồ ạt của quân Soviet. Tháng 5/1943, Model đã thuyết phục được Hitler lùi chiến dịch đến tháng 7 để có thời gian tăng cường đầy đủ sức mạnh cho các sư đoàn của ông ta. 1 lý do nữa khiến cuộc tấn công bắt đầu chậm lại là để chờ các loại xe tăng mới đến nơi: tăng nặng Tiger và tăng hạng trung Panther, chiến dịch sắp tới chính là cuộc thử lửa đầu tiên của chúng.
    Các chỉ huy Soviet có được những thông tin tình báo khá chính xác về kế hoạch của người Đức, rút kinh nghiệm từ trận đánh Kharkov ko thành trước đó, đã quyết định đương đầu với quân Đức trên 1 trận địa đã được chuẩn bị sẵn, bào mòn dần các đơn vị thiết giáp Đức và sau đó phản công. Trong vài tháng mặt trận Xô - Đức trở nên yên tĩnh, chỉ đôi khi bị phá vỡ bởi những đụng độ lẻ tẻ mang tính trinh sát, chỉ có ko quân 2 bên là hoạt động mạnh để phá hoại các tuyến vận tải và thông tin của đối phương. Ở cả 2 phía của mấu lồi, các lãnh đạo Soviet chuẩn bị 1 tuyến phòng ngự gồm nhiều lớp, bố trí có chiều sâu và lập những đơn vị dự bị lớn để chống đỡ bất kỳ mũi thọc sâu bất ngờ nào. Ko đủ thông tin về hướng tấn công chính xác của mũi tấn công từ phía nam mấu lồi nên tại khu vực thuộc trách nhiệm của Phương diện quân Voronezh này, việc phòng thủ phải bố trí dàn trải với 3 Tập đoàn quân: 40, 6 Cận vệ và 7 Cận vệ. Đó là do thực tế địa hình phía nam Kursk rất bằng phẳng, 67% chiến tuyến tức khoảng 164km rất phù hợp cho các cuộc tiến công của tăng - thiết giáp. Cuối cùng 1 khu vực mà 1 trong 3 tập đoàn quân đó bố trí, Tập đoàn quân 6 Cận vệ, đã nhận đòn đánh chính của Tập đoàn quân Xe tăng 4 Đức do tướng Hoth chỉ huy. Cùng lúc đó, 1 phần của Tập đoàn quân 7 Cận vệ cũng phải chống lại lực lượng bổ trợ của Cụm Tập đoàn quân "Kempf". Tập đoàn quân 40, đơn vị mạnh nhất, thì lại ko hề bị tấn công.
    Chiến dịch Citadel mở màn vào chiều ngày 4/7 khi quân Đức chiếm 1 loạt vị trí có lợi ở phía nam vòng cung, từ đó chúng có thể dùng pháo bắn thẳng vào các vị trí Hồng quân. Sáng 5/7, cuộc tấn công dữ dội bằng xe tăng được ko quân yểm trợ ồ ạt bắt đầu đánh vào các vị trí của Phương diện quân Trung tâm và Phương diện quân Voronezh. Do lực lượng của Phương diện quân Voronezh bố trí ko dày đặc lắm nên tuyến phòng ngự tại khu vực của Sư 6 Cận vệ bị chọc thủng và Ban Chỉ huy Phương diện quân buộc phải tung lực lượng dự bị của mình vào trận: Tập đoàn quân Xe tăng 1 và 1 số đơn vị của Tập đoàn quân 40. Ngay sau đó mũi thọc sâu của các Quân đoàn Thiết giáp 48 và 2 SS Đức đã buộc các tướng lĩnh Soviet phải sử dụng lực lượng dự bị chiến lược của họ: Tập đoàn quân 5 Cận vệ và Tập đoàn quân Xe tăng 5 Cận vệ, tất cả khoảng 100.000 người. Họ được lệnh chặn bước tiến của Quân đoàn Thiết giáp 2 SS tại khu vực Prokhorovka và Oboyan. Tại Prokhorovka, Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 5 phản công vào Sư 1 Thiết giáp SS "Grenadier Leibstandarte Adolf Hitler" dẫn tới 1 trận đấu tăng ác liệt chưa từng thấy. Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 5 đã đánh vào điểm tiếp giáp giữa Quân đoàn 2 Thiết giáp SS và Quân đoàn 48 Thiết giáp. Gần bờ sông Psel, cánh trái của Tập đoàn quân ko có lực lượng thiết giáp nào đã đụng độ với Sư đoàn SS "Totenkopf" có 13 xe tăng Tiger. Cánh phải của Tập đoàn quân Cận vệ 5 thuộc khu vực trách nhiệm của Quân đoàn 32 Bộ binh Cận vệ thì may mắn hơn. Các đơn vị của Quân đoàn này đã cùng với 1 số chiến xa của Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 1 phản công vào Quân đoàn Thiết giáp 48 Đức khi chúng đã mất hầu hết số tăng Tiger và Panther. Đó là lúc Sư 66 Bộ binh Cận vệ, đơn vị trực thuộc Quân đoàn 32, của M.G.Abdulin tham chiến.
    Việc các lực lượng dự bị rất mạnh tham chiến đồng thời với việc Chiến dịch sông Mius bắt đầu ở phía nam Mặt trận Phía Đông và quân Đồng minh đổ bộ vào Italy đã buộc lãnh đạo Đức dừng chiến dịch Citadel. Lực lượng tấn công chính của Tập đoàn quân 4 Xe tăng - Quân đoàn Thiết giáp 2 SS - di chuyển đến sông Mius; Sư đoàn "Đại Đức" thiện chiến được phái đến vòng cung Oriol để giải cứu lực lượng của Model. Tuy nhiên, các tướng lĩnh Đức đã ko thể ngăn chặn các chiến dịch tấn công được tổ chức đồng loạt của Hồng quân. Đầu tháng 8, được tăng cường sau những trận đánh phòng thủ đẫm máu, Phương diện quân Voronezh trở lại tham chiến, dẫn đầu là Tập đoàn quân Cận vệ 5. Cuộc chiến để tới được Belgorod - Kharkov từ tháng 5/1942 đến mùa đông năm 1943 đã khiến quân Nga phải trả giá rất đắt nhưng cuối cùng cũng thành công. Chiếm được Kharkov, Hồng quân đã có thể bắt đầu giải phóng vùng Tả ngạn Ukraine tương đối dễ dàng.
    Cuối tháng 9/1943, quân đội Soviet tiến tới bờ sông Dnieper. Đó là 1 trong những con sông lớn nhất Châu Âu với chiều rộng lên tới 4km. Bờ phải, tức bờ tây, dốc và cao tạo thành 1 chướng ngại vật ghê gớm cho quân Nga đồng thời ngăn họ quan sát các vị trí phòng thủ của quân Đức. 1 yếu tố có thể giúp những người lính tiến lên là sự hiện diện của nhiều hòn đảo nhỏ đủ hình thù giữa dòng cho họ cơ hội vượt sông thành 2 giai đoạn. Các chỉ huy Soviet quyết định thử tung 1 số lượng lớn các trận đánh vượt sông ngay trong quá trình hành tiến, dùng bất cứ phương tiện gì có thể để chiếm lấy càng nhiều đầu cầu càng tốt. Kế hoạch này có lợi điểm là chỉ huy quân Đức sẽ bị mất phương hướng, ko thể xác định vị trí nào cuối cùng sẽ được sử dụng làm bàn đạp cho 1 cuộc tiến công quan trọng. Nó cũng tạo cơ hội tìm ra điểm yếu nhất trên tuyến phòng ngự Đức và quân Nga có thể đợi đến sát nút để tung 1 lực lượng lớn vào đó. Cũng có những lý do thô thiển hơn để quân Nga lựa chọn chiến lược kỳ cục này: chúng ta nên nhớ là các đơn vị Hồng quân, phần lớn là các trung đoàn bộ binh hành quân bằng chân, đã tiến thẳng đến Dnieper với tốc độ rất cao. Ví dụ các đơn vị của Phương diện quân Steppe đã vượt trung bình 9km/ngày, đó quả là 1 cuộc hành quân hết tốc lực, những chiến binh đi qua những đường sá, cầu cống bị tàn phá và việc tiếp phẩm cho họ là cực kỳ khó khăn. Các trang thiết bị của công binh cũng bị rớt lại phía sau, đặc biệt là phà tự hành cỡ lớn. Tình trạng thường xuyên diễn ra trong toàn quân là: sẵn sàng đánh vượt sông mà chỉ có 3 chiếc phà, ko đủ làm 1 chiếc cầu phao bình thường mà chỉ có thể làm 1 đoạn cầu.
    Ngày 30/9/1943, quân đội Soviet đã chiếm được 23 đầu cầu qua sông Dnieper và 2 qua phụ lưu của nó là sông Pripiat. Tại khu vực của Phương diện quân Steppe nơi có Sư 66 Cận vệ của Abdulin, 1 đầu cầu có khả năng phát triển cao đã được Tập đoàn quân 37 thiết lập phía nam Kremenchug. Đến 10/10 nó đã được mở rộng ra 35km và sâu 6 - 12km. Việc tiếp vận được tiến hành qua 2 cầu phao và 4 chiếc xà lan. Các đầu cầu do các tập đoàn quân khác tạo ra được quyết định bỏ, các lực lượng chính di chuyển tới đầu cầu nam Kremenchug, do đó Tập đoàn quân Cận vệ 5 trong đó có Sư 66 Bộ binh Cận vệ đã vượt sang bờ phải và tham gia vào trận đánh mở rộng đầu cầu. Từ đầu cầu này, 1 chiến dịch được trông đợi sẽ bắt đầu vào mùa đông 1944. Như vậy nỗ lực của người Đức dự định ngăn chặn những người lính Soviet bằng chướng ngại vật là con sông ghê gớm này đã ko thành công.

Chia sẻ trang này